Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sống Với Sách
Mỗi cuốn sách đều chứa đựng một phần thông tin. Sách là bản văn hữu ích theo nhiều cách khác nhau. Không chỉ gần gũi, thân quen với con người, sách còn là phẩm vật thông dụng nhất trong những đồ vật ở nhà và cũng là tài sản quý giá nhất được lưu giữ trong ngôi nhà của chúng ta. Tuy nhiên, sống với sách phải là cả một nghệ thuật. Do vậy, điều cần nhất là làm sao phối hợp nhịp nhàng giữa sách với chức năng của ngôi nhà chúng ta. Cuốn Sống với sách của tác giả Alan Powers do Trần Hoàng Dung biên dịch đã tìm tòi và khám phá những phương cách khác nhau để sách không những được lưu trữ một cách hợp lý mà còn đóng vai trò hoàn hảo trong việc tạo cá tính cho ngôi nhà hay căn hộ của chúng ta. Cuốn sách dày 144 trang, khổ 14,5x20,5cm do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành. svois.jpg "Sống với sách" gồm nhiều chuyên mục. Mỗi chuyên mục hướng dẫn cho bạn đọc cách phân chia các phòng và cách sắp xếp sách ở thư viện gia đình, văn phòng, tại nhà, phòng khách, phòng ngủ, phòng tắm, bếp... Sự ra đời của sách có 2 thời điểm tách biệt nhau: thứ nhất, sách được làm hoàn toàn bằng tay do những người chuyên sao chép lại; thứ hai, cách 1.500 năm sau, sách được in ấn theo phát minh của Johann Gutenberg tại Đức. Sau đó, nhờ kỹ thuật in ấn phát triển nên việc in sách được dễ dàng và được phổ biến rộng rãi hơn. Sách không phải là nguồn thông tin vô hồn mà là tạo tác văn hóa có ý nghĩa muôn màu muôn vẻ được tích lũy theo thời gian. Nhà học giả Walter Benjamin đã hiểu ý nghĩa tượng trưng của cuốn sách như thế nào và giá trị không tùy thuộc vào sự tiện dụng của nó. Đối với ông, việc mượn được một cuốn sách trong thư viện có tiếng không bằng có trong tay bản sách đó. Do vậy, ông có cái cảm giác vui sướng vì sục sạo tìm mua được cuốn sách vừa ý nhất và đặc biệt đó là việc "cứu" được cuốn sách, trả tự do lại cho cuốn sách. Theo ông, tất cả các cuốn sách được hoàn toàn tự do một khi đã nằm trên kệ sách. Mỗi cuốn sách đều có giá trị nhân bản, đó là được đóng góp vào niềm vui của người được sở hữu nó. Sách xứng đáng có vai trò thích đáng và cho chúng ta thêm nhiều niềm vui, sự yêu thích khi mình được tự tay sắp xếp, lưu giữ chúng một cách có ý thức và thích hợp. Có rất nhiều cách thức kết hợp giữa nhà cửa và sách và ngược lại, tùy thuộc vào đặc tính của ngôi nhà, cá tính của người chủ và thể loại sách. Thư viện gia đình thường có chức năng phụ là phòng học, khởi đầu nó là nơi sinh hoạt thân hữu, rồi trở thành phòng đọc sách cũng là nơi các thành viên trong gia đình tụ họp sinh hoạt mỗi khi rảnh rỗi.  Tùy theo điều kiện từng nhà, thư viện gia đình có thể đơn giản chỉ là tận dụng khoảng không dưới mái, tận dụng ánh sáng tự nhiên, cũng có thể là một phòng khách rộng lớn. Tác giả cuốn sách đã cho chúng ta thấy cái nhìn tổng thể về việc thiết kế một thư viện gia đình, từ cách bày trí kệ sách, bàn ghế đến bày trí sách theo phong cách hiện đại. Thiết kế phòng đọc sách đẹp hay không đẹp dựa trên các kệ sách hay tủ sách mà tùy thuộc vào chất lượng ánh sáng. Đọc sách không chỉ là một hoạt động của trí óc mà còn là một hoạt động của cả cơ thể nên ánh sáng tự nhiên sẽ làm cho phòng đọc sách có một không gian tuyệt hảo. Để mở rộng khoảng không, kệ sách còn được dùng làm vách ngăn giữa thư viện và các chỗ sinh hoạt khác. Đặc biệt, đồ đạc trong phòng không nên có màu tối. Trong một căn nhà, thật khó có thể nói rõ sự khác biệt giữa một văn phòng làm việc với một phòng đọc sách. Theo tác giả, phòng đọc sách là nơi người ta thực hiện các hoạt động như đọc, viết, vẽ cho dù có được xem là nơi thư giãn hay làm việc chuyên môn hay không. Còn văn phòng là một nơi để làm việc. Sự khác biệt rất tinh tế dựa vào sự hiện diện của máy vi tính, máy điện thoại... Sự phân định rõ ràng giữa thư viện gia đình và văn phòng phần lớn là vì lợi ích của người sử dụng, nhằm kích thích, phát triển tâm trạng làm việc nghiêm túc, tránh những ảnh hưởng khác có thể làm mất tập trung tư tưởng. Với bất cứ văn phòng nào, sách bao giờ cũng đóng một vai trò quan trọng, một ngôn ngữ đầy phong thái được tập hợp từ sự đa dạng của nhiều yếu tố. Do vậy, sự hiện diện của những cuốn sách cũng hàm ý là có những kệ sách. Đối với văn phòng thì hệ thống kệ rời rất thuận lợi: nhanh chóng lắp đặt, sắp xếp lại các kệ... Sách cũng minh hoạ những công cụ bình thường dùng để tiết kiệm khoảng trống nhằm dành chỗ cho sách ở những nơi linh tinh như cầu thang, hành lang, lối đi lại. Trong một căn nhà có người ham đọc sách đương nhiên không có nơi nào là không thể chứa sách được. Nhưng không có nghĩa là bất cứ phòng nào, hay lối đi nào cũng đều có thể làm thư viện. Sách xuất hiện theo nhiều lối khác nhau và góp phần vào bất cứ khoảng không nào nếu như được thiết kế một cách có ý thức. Một trong những cách sống với sách trong nhà, có tính sáng tạo và hữu ích nhất là phối hợp sách với các đồ vật khác.   Sách dùng như vật trang trí và là phương tiện tạo bầu không khí sáng tạo, nhưng quan trọng hơn, có lẽ là sách có khả năng ảnh hưởng đến cấu trúc của khoảng không chung quanh chúng. Do vậy, trưng bày sách ở nơi sinh hoạt là điều mà bất cứ nhà thiết kế nào cũng phải hết sức quan tâm. Nhà thiết kế giỏi sẽ sắp xếp để tạo ra cảm giác rộng thoáng và bao bọc cùng lúc bằng cách điều chỉnh kích thước và ánh sáng trong khoảng không, thu hẹp các cạnh hoặc hạ thấp khoảng không phía trên, hoặc cả hai. Nếu việc xếp sách làm biến đổi bề mặt bức tường, cần xem việc đó đang đóng vai trò gì, một lần nữa cho thấy rằng xử lý theo cách tổng quát là tốt nhất. Sách trong phòng ăn là người bạn tốt. Nó tạo một hậu cảnh giảm âm, đó là điều quan trọng trong nội thất hiện đại. Sách cũng hữu ích trong việc giải quyết những quan điểm về một sự kiện hoặc tìm những đoạn trích dẫn giữa bữa ăn, hoặc để giải trí khi ăn không có bè bạn, người thân. Một nhà bếp thiết thực thì cũng cần có một kệ sách, trong đó đa số là loại sách dạy nấu ăn, những tài liệu, công thức nấu ăn cắt từ báo chí. Kệ sách có thể đặt ở trên hay dưới mặt chỗ nấu nướng miễn là thoải mái và dễ sử dụng. Người tỉ mỉ thì có thể bố trí cả một chỗ đọc. Đây là cách sắp xếp thân mật, không theo quy ước, cho ta cách hiệu quả để đến với sách. Sách trong nhà bếp cần đặt xa chỗ làm thức ăn bề bộn. Sách làm tăng thêm vẻ thân mật và nhiều khi tựa đề và gáy sách có thể kích thích ăn ngon và khi ngồi ăn thấy vui. Đồ đạc khác trong bếp thì có thể dấu trong tủ chạn nhưng sách thì cần để chỗ dễ thấy. Điều đó chắc chắn sẽ giúp ngăn ngừa cảm giác quá sạch sẽ và hiệu quả từ cuộc sống đầy áp lực và tính cách cá nhân khỏi len vào phòng. Ai đó đã có bộ sưu tập sách để ở nhiều nơi khác nhau trong nhà sẽ thấy phòng ngủ và phòng tắm cũng là nơi tốt để mở rộng thư viện gia đình. Sách trong phòng ngủ thật sự làm người ta thoải mái, nhất là đối với những người không thể nào đi ngủ mà không có ít nhất vài ba cuốn sách bên cạnh. Sách trong phòng ngủ nên nằm trong tầm tay, có thể trải dài ở dưới hay trên đầu giường, hoặc phía lối ra vào. Phần cuối sách nói về cách giữ gìn và bảo quản sách cùng những gợi ý về kỹ thuật hữu dụng để lên kế hoạch thiết kế kệ sách. Tác giả cuốn sách đã đưa ra những gợi ý nhỏ mang tính nguyên tắc tổng quát về sự cần thiết phải chăm sóc, bảo quản sách. Nước là kẻ thù số một của sách. Đối với những cuốn sách bị ướt, cần dùng giấy thấm xen kẽ các trang sách cho sách khô từ từ. Côn trùng là một vấn đề gây nguy hại cho sách. Trong hơn 100 trang sách, có đến hơn 100 bức ảnh minh họa sinh động về các cách bài trí, sắp xếp một thư viện gia đình cho phù hợp, một kệ sách đơn giản mà thuận tiện. "Sống với sách" hay cũng là sống cùng sách tưởng đơn giản mà lại là cả một nghệ thuật, đòi hỏi những người yêu sách phải dụng công thiết kế, sắp đặt để sách trở thành một thành viên trong gia đình, gần gũi và rất hữu ích. Hy vọng với cuốn sách này, bạn đọc sẽ có một khái niệm để tự mình thiết kế thật đẹp những nơi lưu trữ sách, tận dụng những khoảng trống mà mình vô tình đã bỏ sót, và nhất là tạo được phong cách độc đáo cho tổ ấm gia đình của mình. Mời các bạn đón đọc Sống Với Sách của tác giả Alan Powers.
Bí Quyết Của Thành Công
Trong cuộc sống, ai cũng mong muốn có được thành công. Chúng ta học tập, rèn luyện và làm việc để thực hiện ước mong đó. Và hẳn chúng ta đã từng bao lần suy nghĩ, trăn trở để lựa chọn hướng đi và nghĩ về giá trị đích thực của thành công. Cũng như hạnh phúc, luôn có những mục tiêu riêng của thành công trong từng giai đoạn cuộc sống. Dù muốn dù không, mỗi người chúng ta đều đi tìm và mong muốn đạt được thành công phù hợp với mình nhất. Và một số người thì thành công, một số khác thì không. Thành công không phải là một may mắn hay là một số phận như một số người lầm tưởng - mà thành công là sự cố gắng của cả một quá trình. Và con đường đến thành công không hề dễ dàng, chúng ta phải vượt qua rất nhiều khó khăn thử thách để có thể đến đích. Nhưng như thế nào mới được gọi là thành công? Chúng ta phải làm gì, suy nghĩ như thế nào để tiến gần thành công hơn? Tưởng chừng khó có thể tìm được một công thức chung của sự thành công cho tất cả mọi người.Nhưng nhà nghiên cứu tâm lý David Niven qua những cuộc nghiên cứu khoa học và xã hội học nhiều năm liền với những người thành công trên khắp thế giới đã tìm ra những nguyên tắc, những bí quyết thật đơn giản của sự thành công. Và ông đã tổng hợp thành tác phẩm nổi tiếng "Bí Quyết củaThành Công". Với những trải nghiệm quý báu và chân lý đơn giản, thực tế nhất, cuốn sách đã mang lại cho độc giả một cái nhìn mới mẻ, thú vị về những bí mật đơn giản nhưng thật sâu sắc của sự thành công, những lời khuyên chân tình, khơi dậy niềm tin vào bản thân, hy vọng vào tương lai và khích lệ ý chí cho một sự khởi đầu tươi sáng. Bạn đọc khắp nơi đã chuyền tay nhau cuốn sách này, mua tặng nhau như một món quà chúc nhau may mắn. David Niven đã chỉ ra trong một phần của cuốn sách rằng: "Thành công của một đời người không phụ thuộc vào những mục đích mà bạn đã đạt được.Bạn sẽ cảm thấy thành công thực sự khi đã làm việc hết mình, sống trọn vẹn với niềm tin và tình yêu cuộc sống". Vâng! Đôi lúc ý nghĩa của thành công giản dị vậy thôi. *** “Khi đối mặt với một thử thách, hãy tìm cách vượt qua nó chứ không phải tìm lối thoát”. - David L, Weathertford “Nếu tôi có thể ước mơ cho mình một cuộc sống không gặp trở ngại nào thì hấp dẫn thật đấy, nhưng tôi sẽ khước từ vì khi ấy tôi sẽ không học được điều gì từ cuộc sống nữa”. - Allyson Jones “Bằng niềm tin và cảm hứng, bạn có thể đặt chân trên bất cứ con đường nào mà bạn đã chọn”. - Dr. Suess “Cuộc sống không bao giờ là bế tắc thực sự nếu con người dám rời bỏ những lối mòn và dũng cảm tìm ra những giá trị mới”. - Khuyết danh “Điều quan trọng không phải là vị trí ta đang đứng - mà ở hướng ta đang đi”. - Khuyết danh “Cảnh khổ, sự thất bại là một nấc thang cho bậc anh tài, một kho tàng cho người thông minh và là một vực thẳm cho kẻ yếu hèn”. - Balzac *** Khám phá Bí quyết của Thành Công Trong cuộc sống, ai cũng mong muốn có được thành công. Chúng ta học tập, rèn luyện và làm việc để thực hiện ước mong đó. Và hẳn chúng ta đã từng bao lần suy nghĩ, trăn trở để lựa chọn hướng đi và nghĩ về giá trị đích thực của thành công. Cũng như hạnh phúc, luôn có những mục tiêu riêng của thành công trong từng giai đoạn cuộc sống. Dù muốn dù không, mỗi người chúng ta đều đi tìm và mong muốn đạt được thành công phù hợp với mình nhất. Và một số người thì thành công, một số khác thì không. Thành công không phải là một may mắn hay là một số phận như một số người lầm tưởng - mà thành công là sự cố gắng của cả một quá trình. Và con đường đến thành công không hề dễ dàng, chúng ta phải vượt qua rất nhiều khó khăn thử thách để có thể đến đích. Nhưng như thế nào mới được gọi là thành công? Chúng ta phải làm gì, suy nghĩ như thế nào để tiến gần thành công hơn? Tưởng chừng khó có thể tìm được một công thức chung của sự thành công cho tất cả mọi người.Nhưng nhà nghiên cứu tâm lý David Niven qua những cuộc nghiên cứu khoa học và xã hội học nhiều năm liền với những người thành công trên khắp thế giới đã tìm ra những nguyên tắc, những bí quyết thật đơn giản của sự thành công. Và ông đã tổng hợp thành tác phẩm nổi tiếng "Bí Quyết củaThành Công". Với những trải nghiệm quý báu và chân lý đơn giản, thực tế nhất, cuốn sách đã mang lại cho độc giả một cái nhìn mới mẻ, thú vị về những bí mật đơn giản nhưng thật sâu sắc của sự thành công, những lời khuyên chân tình, khơi dậy niềm tin vào bản thân, hy vọng vào tương lai và khích lệ ý chí cho một sự khởi đầu tươi sáng. Bạn đọc khắp nơi đã chuyền tay nhau cuốn sách này, mua tặng nhau như một món quà chúc nhau may mắn. David Niven đã chỉ ra trong một phần của cuốn sách rằng: "Thành công của một đời người không phụ thuộc vào những mục đích mà bạn đã đạt được.Bạn sẽ cảm thấy thành công thực sự khi đã làm việc hết mình, sống trọn vẹn với niềm tin và tình yêu cuộc sống". Vâng! Đôi lúc ý nghĩa của thành công giản dị vậy thôi. Tiến sĩ David Niven, một nhà tâm lý học, nhà xã hội học và là giáo sư giảng dạy các môn khoa học này ở các trường đại học trên khắp nước Mỹ. Tên tuổi của ông không chỉ được biết đến trong giới khoa học, với những công trình nghiên cứu chuyên sâu, mà còn được đông đảo bạn đọc trên khắp thế giới biết đến qua những cuốn sách về kinh nghiệm và tư duy sống. Những cuốn sách của ông được xếp vào hạng bán chạy nhất, nó vượt không gian nước Mỹ, được dịch ra nhiều thứ tiếng và đến với công chúng khắp năm châu. Trong số những tác phẩm nổi tiếng của ông, phải kể đến những cuốn sách đặc biệt như "Bí mật của hạnh phúc" - với những khám phá mới và thực tế về hạnh phúc cuộc sống đang được bạn đọc Việt Nam yêu thích - và tiếp theo là tác phẩm "Bí quyết của thành công" đang có trên tay bạn. "Bí quyết của thành công" không hề là những gì xa lạ và khó thực hiện - và cũng không có vẻ bí ẩn như một "bí kíp võ công", đòi hỏi phải rèn luyện công phu trong nhiều năm mới có được. Cuốn sách cũng không đưa ra những điều cao siêu, đặt ra những mục đích lớn lao vượt khỏi khả năng để thôi thúc chúng ta phải hướng đến những mục tiêu xa vời đó để làm nên một cuộc đời thành công. Đó đơn giản là những thái độ sống, những suy nghĩ tích cực, những điều khuyên thực tế bình dị mà bạn có thể áp dụng ngay vào lúc này - bất kể hoa ân cảnh và tình trạng đang có của bạn. Chẳng hạn như: "Hãy xác định mục tiêu cụ thể", "Muốn thành công một việc lớn, trước tiên hãy làm tốt một việc nhỏ", "Hãy làm việc, học hỏi bằng sự say mê của mình", "Tìm kiếm cơ hội trong mọi hoàn cảnh", "Hãy có ước mơ và dám thực hiện", "Biết vui đùa và hài hước", "Biết chia sẻ, quan tâm đến người khác".Chúng ta thường nôn nóng đạt được mục tiêu nên dễ phạm sai lầm, chưa kể là tự đánh mất một phần giá trị tinh thần rất lớn, đó là sự cảm nhận về chính mình và sự thanh thản, hoặc dễ gục ngã, buông xuôi trước những khó khăn, thử thách. Có bí quyết khuyên chúng ta "Hãy lựa chọn thái độ đúng","Sự việc xảy ra không quan trọng bằng cách nhìn của bạn", "Hãy học từ những thất bại", "Hãy làm sống dậy hy vọng và ước mơ trong bạn", "Luôn tự tin và lạc quan"như những lời chia sẻ thật chân thành, rất lạc quan và đầy tình người. Đây không chỉ là nghiên cứu của một tác giả tâm huyết, mà còn là sự đúc kết, trải nghiệm từ rất nhiều số phận, rất nhiều cuộc đời.Trong nguyên bản tiếng Anh có những phần chưa phù hợp với người Việt Nam, nên chúng tôi đã chuyển đổi và bổ sung những trải nghiệm thích hợp trong cuộc sống chúng ta hiện nay. Hãy chiêm nghiệm 100 bí quyết thành công của David Niven, chúng ta sẽ thấy những trang sách của ông quý giá biết ngần nào. Mong rằng cuốn sách ý nghĩa này sẽ là người bạn đồng hành với bạn trong mọi thời điểm của hành trình cuộc sống, trong những lúc đối đầu với khó khăn, thất bại hay vượt qua thử thách để tìm được sự thành công và hạnh phúc cuộc sống. - First News Mời các bạn đón đọc Bí Quyết Của Thành Công của tác giả David Niven.
50 Mô Hình Kinh Điển Cho Tư Duy Chiến Lược
Khi suy nghĩ của chúng ta trở nên hỗn loạn, chúng ta thường phát triển những hệ thống để thiết lập lại trật tự, để thấu hiểu hay ít nhất là bao quát được toàn bộ sự việc. Mô hình giúp giảm bớt sự phức tạp, bằng cách che đi phần lớn những thứ xung quanh và chỉ tập trung vào cái cốt yếu. Cuốn sách này được viết cho tất cả những ai thường xuyên phải đối mặt với những câu hỏi: Tôi phải quyết định vấn đề này như thế nào? Tôi nên khích lệ chính bản thân và đội ngũ của tôi như thế nào? Tôi có thể thay đổi sự việc này bằng cách nào? Thậm chí cả những câu hỏi như: Bạn bè tôi nói gì về tôi? Tôi có sống trong hiện tại không? Tôi muốn gì?... Trong 50 chương ngắn gọn, những kết nối phức tạp nhất trong cuộc sống của chúng ta được minh họa một cách đơn giản, những tình huống rối rắm được đơn giản hóa tối đa và được phân tích đầy khách quan. Đây là một cuốn sách bài tập. Bạn có thể áp dụng nguyên xi, bổ sung, gạch bỏ hay tiếp tục phát triển các mô hình. Một cuốn sách có tính ứng dụng cao với mọi tình huống trong cuộc sống và không thể thiếu với bất cứ ai muốn đưa ra quyết định. *** HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG Tại sao bạn phải đọc cuốn sách này? Cuốn sách được viết cho tất cả những ai làm việc với con người. Dù bạn là giáo viên mầm non hay giảng viên đại học, phi công hay nhà quản lý cấp cao: bạn thường xuyên phải đối mặt với những câu hỏi này: Tôi phải quyết định như thế nào? Tôi nên khích lệ chính bản thân và đội ngũ của tôi như thế nào? Tôi có thể thay đổi sự việc bằng cách nào? Tôi phải nâng cao hiệu quả làm việc như thế nào? Và có cả những câu hỏi như: Bạn bè tôi nói những gì về tôi? Tôi có sống trong hiện tại không? Tôi muốn gì? Bạn tìm thấy những gì trong cuốn sách này? 50 mô hình tốt nhất – nổi tiếng và cả chưa nổi tiếng – sẽ giúp bạn trả lời những câu hỏi đó. Bạn đừng trông chờ có được câu trả lời ngay lập tức, mà hãy chuẩn bị để được thử thách. Bạn sẽ nhận được những lời khuyên để suy ngẫm. Ngoài ra, bạn sẽ có thêm kiến thức để chia sẻ/tự tin nói trong bữa ăn tối cùng bạn bè và đồng nghiệp: Thiên Nga Đen là gì? Cái Đuôi Dài là gì? Và Nguyên lý Pareto là như thế nào? Tại sao chúng ta thường hay quên đi mọi thứ? Tôi nên ứng xử như thế nào trong những tình huống xung đột? Bạn ứng dụng cuốn sách này ra sao? Đây là một cuốn sách bài tập. Bạn có thể áp dụng nguyên xi, bổ sung, gạch bỏ hay tiếp tục phát triển các mô hình. Dù bạn phải trình bày một phương án nào đó hay tiến hành cuộc họp tổng kết cuối năm, dù bạn phải đưa ra một quyết định quan trọng hay đối mặt với một cuộc tranh luận không hồi kết, dù bạn muốn kiểm nghiệm ý tưởng kinh doanh của bạn hay muốn thấu hiểu bản thân mình hơn, thì cuốn sách này chính là lời hướng dẫn cho bạn. Và bạn chính là câu trả lời. Mô hình là gì? Các mô hình trong cuốn sách này đáp ứng những tiêu chuẩn sau: 1. Đơn giản hóa. Chúng không bao gồm tất cả các khía cạnh của hiện thực, mà chỉ những phần có liên quan. 2. Thực dụng. Chúng hướng tới sự hữu dụng. 3. Tóm tắt. Chúng là những tóm tắt giản lược của các mối liên hệ phức tạp. 4. Trực quan. Chúng giải thích bằng hình ảnh những thứ khó có thể diễn tả bằng từ ngữ. 5. Thiết lập trật tự. Chúng thiết lập nên cấu trúc và tạo các ngăn kéo. 6. Là các phương pháp. Chúng không đưa ra câu trả lời, mà đặt câu hỏi. Chỉ khi người đọc áp dụng những mô hình đó, tức là bổ sung và thông qua đó là làm việc, thì những câu trả lời mới hình thành. Về các mô hình này, chúng tôi còn cung cấp cho bạn một danh sách nguồn gốc hình ảnh, một bản phụ lục tài liệu tham khảo rõ ràng và các liên kết đến các trang mạng. Những mô hình nào không có chỉ dẫn nguồn gốc thì là những phát triển riêng của chúng tôi. Tại sao người ta cần những mô hình này? Khi suy nghĩ của chúng ta trở nên hỗn loạn, chúng ta thường phát triển những hệ thống để thiết lập lại trật tự, để thấu hiểu hay ít nhất là bao quát được toàn bộ sự việc. Mô hình giúp làm giảm bớt sự phức tạp, bằng cách che đi phần lớn những thứ xung quanh và chỉ tập trung vào cái cốt yếu. Các nhà phê bình thường thích chỉ ra rằng mô hình không phản ánh hiện thực. Điều đó đúng. Nhưng thật sai lầm khi quả quyết rằng mô hình khiến cho chúng ta suy nghĩ theo hướng đã bị tiêu chuẩn hóa. Mô hình không phải là cái có sẵn và phải suy nghĩ theo nó, chúng là kết quả của suy nghĩ chủ động. Bạn có thể đọc cuốn sách này theo kiểu Mỹ hay kiểu châu Âu. Người Mỹ thiên về cách ứng xử thử và sai: họ làm một điều gì đó, nếu thất bại họ học hỏi từ đó, tìm hiểu lý thuyết và làm lại. Ai thích lối làm việc này thì hãy bắt đầu đọc phần “Tôi cải thiện bản thân như thế nào”. Người châu Âu có khuynh hướng đọc lý thuyết trước rồi mới làm. Sau đó, họ phân tích, cải thiện và lặp lại thử nghiệm. Ai thích phương pháp này hãy bắt đầu với phần “Tôi hiểu bản thân mình tốt hơn như thế nào”. MỖI MÔ HÌNH CHỈ TỐT NHƯ NGƯỜI SỬ DỤNG NÓ. *** MA TRẬN EISENHOWER Bạn học cách làm việc hiệu quả hơn như thế nào "Những quyết định cấp bách nhất hiếm khi là quyết định quan trọng nhất”, cựu Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower đã nói như vậy. Ông được coi là bậc thầy trong việc quản lý thời gian; ông có khả năng làm mọi việc vào đúng thời điểm. Với phương pháp Eisenhower, bạn cần học cách phân biệt giữa quan trọng và cấp bách. Bất cứ nhiệm vụ nào rơi xuống bàn làm việc của bạn: hãy xếp nó vào mô hình Eisenhower, rồi mới quyết định cần phải làm gì vào lúc nào. Thường thì chúng ta chỉ chăm chăm tập trung vào vùng “khẩn cấp và quan trọng”, vào những việc cần phải thực hiện ngay lập tức. Bạn hãy tự hỏi: khi nào thì mình sẽ thực hiện những việc quan trọng nhưng không khẩn cấp? Khi nào thì mình dành thời gian để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng trước khi chúng trở nên khẩn cấp? Nằm trong vùng này là các quyết định chiến lược lâu dài. Tỷ phú Warren Buffett có một phương pháp khác để phân chia thời gian của bạn tốt hơn: Bạn hãy lập danh sách tất cả những việc bạn muốn làm vào ngày hôm nay. Bạn hãy bắt đầu với nhiệm vụ ở trên cùng, và chỉ tiếp tục các nhiệm vụ phía dưới khi bạn đã làm xong công việc đó. Gạch bỏ những nhiệm vụ đã hoàn thành. MUỘN CÒN HƠN KHÔNG. NHƯNG KHÔNG BAO GIỜ MUỘN THÌ TỐT HƠN. *** PHÂN TÍCH SWOT Bạn tìm ra giải pháp thích hợp như thế nào? Với phân tích SWOT, người ta cố gắng ước lượng điểm mạnh (Strengths), điểm yếu (Weaknesses), cơ hội (Opportunities) và nguy cơ (Threats) của một dự án. Mô hình bắt nguồn từ một nghiên cứu của Đại học Stanford trong những năm 1960 khi tiến hành khảo sát các doanh nghiệp thành công nhất của Hoa Kỳ. Kết quả là: sự khác biệt giữa những gì các doanh nghiệp lập kế hoạch và những gì họ thật sự thực hiện là 35%. Vấn đề không nằm ở năng lực của các nhân viên, mà do đưa ra mục tiêu không rõ ràng. Nhiều nhân viên không biết rõ mục đích những việc họ đang làm. Từ kết quả của nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát triển mô hình SWOT, để giúp những người tham gia dự án hiểu về nó rõ ràng hơn. Khi áp dụng, không nên chỉ hoàn thành phân tích SWOT một cách cứng nhắc, mà nên xem xét lại nó: Chúng ta có thể nhấn mạnh những điểm mạnh của chúng ta như thế nào và bù đắp (hay che đậy) những điểm yếu của chúng ta ra sao? Làm sao để tối đa hóa những cơ hội của chúng ta? Làm sao để bảo vệ mình trước những nguy cơ? Điều thú vị của phương pháp phân tích SWOT là nó có tính linh hoạt: nó có thể áp dụng cho những quyết định trong kinh doanh cũng như cho việc cá nhân. TÔI CÓ MỘT GIẢI PHÁP, NHƯNG NÓ KHÔNG PHÙ HỢP VỚI VẤN ĐỀ.  Mời các bạn đón đọc 50 Mô Hình Kinh Điển Cho Tư Duy Chiến Lược của tác giả Mikael Krogerus & Roman Tschappeler.
Sống Theo Phương Thức 80/20
Ở quyển sách này, tác giả của nguyên lý 80/20 tập trung chỉ cách để thành công trong cuộc sống cũng như trong sự nghiệp. Theo ông, chìa khóa của sự thành công là tập trung vào chỉ vài thứ thật sự quan trọng, vài phương pháp mang lại cho chúng ta điều chúng ta muốn, và hành động dựa vào đó, bỏ đi những thứ vặt vãnh làm ngăn cản cuộc sống. Phương cách 80/20 cho bạn thấy cách áp dụng những ý tưởng của 80% vào 20% tốt nhất của bạn để thành công về tài chính, mối quan hệ, có cuộc sống tốt đẹp và giản dị, và sẽ giúp bạn phát triển kế hoạch hành động cá nhân để thay đổi cuộc sống. *** Để thành công hơn bạn phải làm việc nhiều hơn? Làm nhiều thì được nhiều làm ít thì được ít? Bạn luôn có suy nghĩ như vậy nên tự ép bản thân mình phải siêng năng hơn nữa để thành công và cuối cùng là chúng ta luôn stress với công việc mỗi ngày. Nhưng thực tế thì lại không phải như vậy, “để thành công hơn, hạnh phúc hơn bạn phải trở lên lười biếng hơn”. Những gì có trong cuốn sách “Sống Theo Phương Thức 80/20” của tác giả Richard Koch sau đây có thể thay đổi được suy nghĩ của bạn.   Nguyên lý 80/20 là gì? Năm 1906, nhà kinh tế học người Ý tên là Vilfredo Pareto đã phát hiện ra một điều khá thú vị rằng 20% vỏ đậu chứa tới 80% hạt đậu, 20% dân số Italia sở hữu 80% diện tích đất đai của nước này. Và ông tạm gọi nguyên lý này là 80/20. Cho đến nay nhiều nhà phân tích đã tìm ra rất nhiều dẫn chứng cho thấy rằng nguyên lý 80/20 cũng đúng cho hầu hết các hiện tượng trong cuộc sống. Ví dụ 20% những người lãnh đạo tạo ra 80% kết quả 20% khách hàng đem đến 80% lợi nhuận của công ty 20% nhà khoa học tạo ra 80% phát mình vĩ đại 20% người giàu nhất sở hữu 80% của cải của toàn nhân loại 20% từ vựng cốt lõi chiếm tới 80% trong giao tiếp hàng ngày Đối với mỗi cá nhân điều này cũng hoàn toàn đúng. Đó là “20% nỗ lực tạo ra 80% kết quả” nghĩa là số ít những nỗ lực của chúng ta tạo ra phần lớn kết quả và phần lớn những nỗ lực của chúng ta là vô ích. Ý tưởng lớn: Nhiều hơn từ ít hơn Bạn có thể đạt được nhiều hơn từ việc làm ít hơn bằng cách: Tập trung vào những việc quan trọng nhất và bỏ đi những việc không quan trọng Tìm ra cách nhanh nhất để đạt được mục tiêu Làm những việc đúng với sở trường và đam mê của mình Áp dụng phương pháp này trong công việc và trong cuộc sống Bước 1: Tìm mục tiêu và đích đến quan trọng nhất mà bạn muốn đạt được Bước 2: Tìm cách nhanh nhất để đạt được mục tiêu Bước 3: Hành động => Thành công xuất phát từ tư duy và hành động theo tư duy đó Mời các bạn đón đọc Sống Theo Phương Thức 80/20 của tác giả Richard Koch.