Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Gái Người Anh

Madeline Hart là ngôi sao đang lên trong đảng cầm quyền ở Đảo quốc Anh: xinh đẹp, thông minh, đã vượt lên tuổi thơ khốn khó để có được chỗ đứng trong xã hội. Tuy nhiên Madeline đang mang một bí mật đen tối: cô là nhân tình của Thủ tướng Jonathan Lancaster. Biết chuyện, những kẻ bắt cóc cô quyết tâm buộc nhà lãnh đạo Anh phải trả giá đắt cho tội lỗi của mình. Lo sợ vụ bê bối sẽ làm tiêu tan sự nghiệp, Lancaster muốn giải quyết vấn đề này một cách âm thầm thay vì giao phó cho cảnh sát. Đúng là một nước bài đầy rủi ro, không chỉ đối với Thủ tướng mà còn cho những ai dấn thân vào nhiệm vụ này. Bảy ngày – Một cô gái – Không có cơ hội thứ hai. Gabriel Allon – sát thủ bậc thầy, nhà phục chế nghệ thuật trứ danh và là điệp viên kỳ cựu của Israel, không còn lạ lẫm gì với các nhiệm vụ hiểm nguy hay rắc rối chính trị – chấp nhận đương đầu với thử thách. Trong từng tiếng tích tắc của đồng hồ, Gabriel không ngừng tìm cách giải cứu Madeline. Nhiệm vụ đã đưa ông đi từ thế giới ngầm tội ác của Marseilles đến vùng thung lũng biệt lập của Provence, đến các hành lang sang trọng nhưng đã lu mờ của chốn quyền lực London – và cuối cùng, là đến nơi tột cùng kinh hoảng – Moscow, thành phố của bạo lực và gián điệp, nơi có cả một danh sách dài những kẻ muốn Gabriel phải chết. *** LÀNG PIANA, ĐẢO CORSE BỌN CHÚNG ĐẾN tìm cô cuối tháng Tám trên đảo Corse*. Thời gian chính xác sẽ không bao giờ xác định: dù đã cố hết sức, bất cứ người bạn nào ở chung nhà với cô cũng chỉ biết là thời điểm nào đó từ lúc mặt trời lặn đến giữa trưa ngày hôm sau. Mặt trời lặn là lúc họ nhìn thấy cô lần cuối, đang phóng nhanh trên chiếc xe máy scooter* màu đỏ ra khỏi lối vào biệt thự, một chiếc váy bằng vải bông mỏng tang phấp phới trên cặp đùi rám nắng. Đến giữa trưa là lúc họ nhận thấy giường cô trống không, chẳng có gì ngoài một cuốn tiểu thuyết bìa giấy rẻ tiền đang đọc dở dang thơm mùi dầu dừa và thoang thoảng mùi rượu rum. Hai mươi bốn giờ nữa trôi qua rồi họ mới quyết định đi gọi hiến binh* Pháp tới. Đã có một mùa hè như thế, và Madeline là một cô nàng như thế. Họ đã tới đảo Corse nửa tháng trước, bốn cô nàng xinh đẹp và hai anh chàng đứng đắn, tất cả đều là công chức mẫn cán của chính phủ Vương quốc Anh, hoặc là đảng viên đảng cầm quyền dạo ấy. Họ có một chiếc xe hơi đơn sơ, một chiếc hatchback hiệu Renault của cơ quan vừa đủ lớn để sắp xếp cho năm người ngồi không được thoải mái, và một chiếc scooter màu đỏ là độc quyền của riêng Madeline mà cô vốn cứ cưỡi nó rồi phóng đi bạt mạng gần như là tự sát. Biệt thự màu đất son của họ tọa lạc ở rìa phía Tây ngôi làng trên một mỏm đá nhìn ra biển cả. Nó ngăn nắp gọn gàng và vững chắc, một kiểu cơ ngơi mà các nhân viên môi giới bất động sản vẫn luôn mô tả là “quyến rũ”. Còn có một hồ bơi và một khu vườn có tường rào đấy những bụi hoa hương thảo và những cây mát tít; và trong hàng giờ đồng hồ đổ bộ lên đảo, họ đắm mình trong một tình trạng bán khỏa thân cháy nắng thật sung sướng, điều mà các du khách Anh luôn khát khao mong mỏi, bất kể chuyến lữ hành đưa họ đến đâu. Mặc dù Madeline trẻ nhất trong nhóm, nhưng lại là người chỉ huy không chính thức của họ, một gánh nặng mà cô chấp nhận chẳng hề phản đối. Chính Madeline đã lo thuê biệt thự, và Madeline đã sắp xếp các bữa ăn trưa kéo dài, các bữa ăn tối muộn màng và chuyến đi một ngày vào nội địa hoang dã của đảo Corse, lúc nào cô cũng dẫn đầu dọc theo con đường đầy bất trắc trên chiếc scooter của cô. Không chỉ một lần cô bực bội vì phải dừng xe tham khảo bản đồ. Kiến thức thuộc hàng bách khoa toàn thư của cô về hòn đảo này trên các phương diện địa lý, lịch sử, văn hóa và ẩm thực được tích lũy trong suốt quá trình nghiên cứu và chuẩn bị kỳ công trong những tuần lễ trước ngày lên đường. Dường như Madeline chẳng hề phó mặc cho may rủi bất cứ việc gì. Nhưng rồi hiếm khi cô làm những việc đã chuẩn bị kỹ. Cô đã đến làm tại trụ sở của đảng tại tòa phức hợp Millbank hai năm trước, sau khi tốt nghiệp Đại học Edinburgh với tấm bằng cử nhân kinh tế và các chính sách xã hội. Mặc dù cô thụ hưởng một nền giáo dục hạng hai - hầu hết đồng nghiệp của cô đều được đào tạo từ các trường công dành cho giới thượng lưu và Oxbridge - cô thăng tiến nhanh chóng qua một loạt chức vụ ở văn phòng trước khi được thăng chức Giám đốc Bộ phận Hỗ trợ cộng đồng. Công việc của cô, như cô thường mô tả, là sục sạo tìm kiếm phiếu bầu trong các tầng lớp người dân Đảo quốc Anh chưa từng làm gì để ủng hộ đảng, cương lĩnh hay các ứng cử viên của đảng. Tất cả đều đồng ý chức vụ đó chẳng qua chỉ là một trạm dừng chân trên hành trình tiến tới những công việc tốt hơn. Tương lai của Madeline thật sáng chói - “rực sáng như mặt trời,” theo lời của Pauline, cô gái từng theo dõi sự thăng tiến của đồng nghiệp trẻ hơn mình với không ít ghen tỵ. Theo lời đồn đại lan truyền, Madeline đã được một nhân vật cao cấp trong đảng bảo bọc che chở. Ai đó thân cận với Thủ tướng. Thậm chí có lẽ chính Thủ tướng. Với ngoại hình ăn ảnh truyền hình, khả năng lập luận sắc bén và tiềm năng vô hạn, Madeline đang được chuẩn bị để ngồi vào một ghế an toàn trong Nghị viện và một bộ của riêng cô. Chỉ là vấn đề thời gian. Hay là người ta đã nói như vậy. Điều càng kỳ quặc hơn nữa là đã hai mươi bảy tuổi mà Madeline Hart, vẫn chưa bị tình cảm lãng mạn ràng buộc. Khi được yêu cầu giải thích về đời sống tình ái khô khan của mình, cô thường tuyên bố vì quá bận rộn nên không thể cặp đôi với đàn ông. Fiona, một người đẹp tóc đen hơi ác mồm ác miệng ở Văn phòng Nội Các, thấy lời giải thích đó thật đáng ngờ. Hơn nữa về điểm này, cô tin rằng Madeline vẫn hay lừa dối - tính hay lừa dối là một trong những tính cách mà Fiona cho là dễ chấp nhận nhất, vì vậy cô mới ưa thích các quan điểm chính trị của đảng. Để chứng minh lập luận của mình, cô thường chỉ ra rằng Madeline, trong khi vẫn nói huyên thuyên về hầu như mọi đề tài có thể nghĩ ra, lại đề phòng thủ thế một cách bất thường khi đề cập tới cuộc sống riêng tư. Đúng thế, Fiona nói, nó sẵn lòng tung ra những chuyện vặt vãnh vô hại thỉnh thoảng xảy ra trong thời thơ ấu không yên lành của mình - ngôi nhà hội đồng*buồn thảm ở Essex, ông bố mà khuôn mặt nó hoàn toàn không thể nào nhớ lại, người anh nghiện rượu cả đời chưa bao giờ làm việc một ngày nào - nhưng mọi chuyện khác nó vẫn giấu kín sau một con hào sâu và những bức tường bằng đá. “Có thể Madeline của chúng ta từng là sát thủ trên tình trường hoặc là gái hạng sang,” Fiona nói, “và bọn mình chả có đứa nào khôn hơn nó.” Nhưng Alison, một nhân viên cấp dưới ở Bộ Nội vụ đã có nhiều đổ vỡ, từng có một lập luận khác. “Con cừu non đáng thương đang yêu,” cô tuyên bố vào một buổi chiều khi ngắm Madeline như một nữ thần hiện lên từ biển cả trong một cái vũng nhỏ xíu bên dưới biệt thự. “Rắc rối là người đàn ông có liên quan không đáp lại ân tình ấy.” “Sao lại không nhỉ?” Fiona hỏi một cách đờ đẫn từ bên dưới cái vành mũ che nắng to tướng. “Có lẽ hắn ở một vị thế không thích hợp.” “Có vợ rồi ư?” “Lẽ đương nhiên là thế.” “Đồ khốn nạn.” “Cô chưa bao giờ sao?” “Từng có quan hệ với đàn ông có vợ ư?” “Phải.” “Chỉ có hai lần thôi. Nhưng tôi đang dự tính làm tiếp tập ba đấy.” “Cô sắp bị hỏa thiêu dưới địa ngục, Fi ạ.” “Tôi thực sự mong như thế đấy.” Chính là lúc đó, vào buổi chiều ngày thứ bảy, và dựa trên chứng cứ mong manh nhất, ba cô gái và hai chàng trai đang lưu trú với Madeline Hart trong biệt thự được thuê ở ven làng Piana đã tự đảm nhiệm việc tìm cho cô ấy một bạn tình. Pauline nói không phải chỉ là bất cứ tình nhân nào. Chàng ta phải phù hợp về tuổi tác, có ngoại hình đẹp và xuất thân thật tốt, tài chính và sức khỏe tâm thần phải ổn định, không có chuyện xấu xa nào phải giấu giếm và không có ả đàn bà nào khác trên giường chàng ta. Fiona vốn giàu kinh nghiệm nhất khi đề cập đến vấn đề của con tim, tuyên bố đấy là một sứ mệnh bất khả. “Hắn không tồn tại,” cô giải thích với nỗi chán chường mệt mỏi của một người đàn bà từng bỏ nhiều thời gian đi tìm tình nhân. “Còn nếu hắn tồn tại thì hoặc là đã có vợ, hoặc quá say mê công việc đến nỗi chả có thời gian trong ngày dành cho Madeline đáng thương.” Mặc cho những nghi ngại của mình, Fiona vẫn cứ đâm đầu vào thách thức, chẳng vì lý do nào khác ngoài việc thêm vào một chút mưu đồ cho kỳ nghỉ hè. May mắn là cô ta không hề thiếu các mục tiêu tiềm tàng, vì dường như một nửa dân số vùng Đông Nam nước Anh đã rời bỏ hòn đảo ẩm thấp của họ để đến với ánh nắng trên đảo Corse. Có một đoàn các nhà tài phiệt ở Khu Trung tâm thành phố London đã thuê một khu vực sang trọng ở đầu phía Bắc của Vịnh Porto. Và một đám họa sĩ đang sống như dân Gypsy trong một thị trấn trên đồi ở Castagniccia. Một đoàn làm phim tiếp tục lưu trú trên bãi biển Campomoro. Và một phái đoàn các chính khách đối lập đang mưu toan trở lại nắm lấy quyền lực trong một biệt thự trên đỉnh các mỏm đá ở thị trấn Bonifacio. Dùng danh nghĩa của Văn phòng Nội Các, Fiona đã nhanh chóng sắp xếp một loạt các cuộc gặp gỡ xã giao ngẫu hứng. Và trong mỗi dịp như thế - dù là một bữa tiệc tối, một cuộc đi bộ đường trường trên vùng rừng núi hoặc một buổi chiều say sưa túy lúy trên bãi biển - cô đều gài bẫy một anh chàng hiện diện đủ tư cách nhất và xếp đặt chàng ta bên cạnh Madeline. Tuy nhiên chả có ai vượt qua nổi cửa ải của cô nàng, ngay cả anh chàng diễn viên trẻ tuổi vừa mới hoàn thành thắng lợi cuộc đua vào vị trí dẫn đầu làng âm nhạc của khu Tây London với những bài hát được ưa thích nhất mùa hè này. “Rõ là cô ấy cho rằng việc này không hay,” Fiona thừa nhận khi họ quay đầu xe trở về biệt thự vào một đêm muộn nọ, với Madeline dẫn đường xuyên qua bóng tối trên chiếc scooter màu đỏ của cô. “Cô đoán xem anh ta là ai?” Alison hỏi. “Chả biết,” Fiona đáp, kéo dài ra với vẻ ghen tỵ. “Nhưng hắn ta chắc hẳn là ai đấy hoàn toàn đặc biệt.” Chính vào thời điểm này, khi chỉ còn khoảng chưa đấy một tuần trước khi họ trở về London như dự định, Madeline bắt đầu dành khá nhiều thời gian cho riêng mình. Mỗi buổi sáng cô ra khỏi biệt thự rất sớm, thường trước khi những người khác thức giấc, và trở về lúc đã xế chiều. Khi được hỏi đã đi những nơi nào, rõ là cô chỉ đáp mập mờ, và vào bữa ăn tối cô thường buồn rầu hay lo lắng. Alison lẽ tự nhiên đã lo sợ điều tệ hại nhất, rằng tình nhân của Madeline, dù là ai cũng vậy thôi, đã gửi tới cô ấy lời nhắn rằng sự quan tâm của cô là điều không cần thiết nữa. Nhưng ngày hôm sau, lúc trở về biệt thự sau một chuyến tham quan mua sắm, Fiona và Pauline vui vẻ tuyên bố rằng Alison đã nhầm. Dường như tình nhân của Madeline đã đến đảo Corse. Và Fiona còn có hình ảnh làm bằng chứng. Chuyện họ trông thấy đã xảy đến lúc hai giờ mười phút trong nhà hàng Les Palmiers, trên Bến cảng Adolphe Landry ở thị trấn Calvi. Madeline ngồi ở một cái bàn kê dọc theo mép bến tàu, đầu hơi quay về phía biển như thể không biết đến người đàn ông ngồi ở ghế đối diện. Cặp kính đen to lớn giấu kín đôi mắt. Một cái mũ rơm rộng vành thắt nơ con bướm màu đen thật khéo phủ bóng mát xuống khuôn mặt hoàn mỹ của cô. Pauline đã cố tiến sát lại gần cái bàn đó, nhưng Fiona cảm thấy có chuyện riêng tư căng thẳng trong khung cảnh ấy nên đã đề nghị một cuộc rút lui vội vã thay vào đó. Cô đã tạm dừng một thời gian vừa đủ để lén chụp thật nhanh tấm ảnh đầu tiên nhằm buộc tội bằng chiếc điện thoại di động của cô. Madeline có vẻ chẳng biết gì về vụ xâm phạm đời tư này, nhưng người đàn ông thì không. Ngay giây phút Fiona bấm nút chụp hình, đầu anh ta quay ngoắt đi, như thể cảnh giác bởi một bản năng động vật nào đó khi hình ảnh của mình bị bắt giữ trong một thiết bị điện tử. Sau khi tạm lánh sang một quán bia ngoài trời gần đó, Fiona và Pauline xem xét kỹ người đàn ông trong ảnh chụp. Mái tóc màu vàng khói, phất phơ trong gió và đầy nam tính. Nó xõa xuống trước trán, chỉnh lại một khuôn mặt góc cạnh bị chi phối bởi một cái miệng nhỏ trông có vẻ khá tàn bạo. Trang phục tựa như người miền biển: quần dài trắng, một cái áo sơ mi bằng vài oxford sọc xanh, một đồng hồ đeo tay to của thợ lặn, một đôi giày vải đế bằng phẳng không để lại dấu vết nào trên boong tàu. Hắn ta là hạng đàn ông kiểu ấy đấy, họ quả quyết. Một người đàn ông không bao giờ để lại dấu vết. Họ đoán hắn là thần dân Vương quốc Anh, mặc dù vẫn có thể là người Đức hay Bắc Âu, hoặc có lẽ như Pauline nghĩ, là hậu duệ của quý tộc Ba Lan. Tiền tài rõ ràng chẳng phải là vấn đề, minh chứng bởi chai rượu champagne đắt tiền đang đọng những giọt sương trong cái xô đá bằng bạc neo chặt vào cạnh bàn. Tài sản do hắn kiếm được chứ chẳng phải nhờ thừa kế, họ quả quyết, và không hoàn toàn trong sạch. Hắn là một con bạc. Có tài khoản ngân hàng ở Thụy Sĩ. Hắn thường du hành đến những nơi nguy hiểm. Chủ yếu là người biết suy xét cẩn trọng. Các công việc của hắn cũng giống như đôi giày vải đi trên tàu bè chẳng để lại một dấu vết nào. Nhưng chính hình ảnh của Madeline khiến họ bận tâm suy nghĩ nhiều nhất. Cô ấy chẳng còn là cô gái họ từng quen biết từ lúc còn ở London, hay thậm chí cô gái hai tuần qua từng ở chung trong một biệt thự. Dường như cô nàng đã xử sự theo một cách hoàn toàn khác hẳn. Một nữ diễn viên trong một cuốn phim khác. Người phụ nữ khác. Giờ đây, Fiona và Pauline đang suy đoán trên điện thoại di động như một cặp nữ sinh trung học, hai người tự viết lời thoại rồi thêm thắt phần xương thịt vào để dựng nên các nhân vật. Trong phiên bản câu chuyện này của họ, vụ việc đã bắt đầu một cách vô tội vạ với cuộc gặp gỡ tình cờ trong một cửa hàng dành riêng cho giới thượng lưu ở Phố New Bond. Cuộc tán tỉnh đã kéo dài, việc đạt mục đích mỹ mãn được hoạch định thật chu đáo. Nhưng đoạn kết của truyện tạm thời họ không nắm bắt được, vì trong đời sống thực nó vẫn chưa được viết ra. Cả hai cô đều đồng ý kết cục sẽ bi thảm. “Đấy là cách những truyện như thế này vẫn luôn kết thúc,” Fiona nói từ kinh nghiệm bản thân. “Con gái gặp con trai. Con gái phải lòng con trai. Con gái bị tổn thương và làm hết sức mình để hủy hoại con trai.” Fiona nhanh tay chụp thêm hai tấm hình của Madeline và tình nhân chiều hôm đó. Một tấm cho thấy họ đang dạo bước dọc theo bến cảng dưới bầu trời rực nắng, những khớp ngón tay len lén chạm vào nhau. Tấm hình thứ nhì chụp cành họ chia tay chẳng có một nụ hôn nào. Người đàn ông sau đó leo xuống một cái xuồng nhỏ hiệu Zodiac và bơi ra bến cảng. Madeline lên chiếc scooter màu đỏ của mình và nổ máy trở về biệt thự. Lúc về tới nơi cô không còn sở hữu cái mũ rộng vành thắt nơ con bướm màu đen thật khéo. Đêm hôm ấy khi điểm lại những sự việc vào buổi chiều của mình, cô chẳng hề đề cập đến một chuyến viếng thăm thị trấn Calvi, hoặc một bữa tiệc trưa với một người đàn ông có vẻ sung túc ở nhà hàng Les Palmiers. Fiona nghĩ đó là một màn trình diễn khá ấn tượng. “Madeline của chúng ta là một đứa nói dối tài giỏi phi thường,” cô nói với Pauline. “Có lẽ tương lai của nó xán lạn như người ta bảo. Ai biết được chứ? Thậm chí một ngày nào đấy nó có thể làm Thủ tướng ấy chứ.” Đêm hôm ấy bốn cô nàng xinh đẹp và hai anh chàng đứng đắn dự định ăn tối ở thị trấn Porto gần đó. Madeline đặt chỗ trước bằng thứ tiếng Pháp của các nữ sinh trung học và thậm chí còn bắt chủ nhà hàng giữ lại bàn tuyệt vời nhất của ông ta, đặt trên sân thượng có thể nhìn thấy toàn cảnh con đường đầy sỏi đá vòng quanh vịnh. Họ cứ tưởng sẽ tới nhà hàng theo như dự định của đoàn, nhưng trước bảy giờ một chút, Madeline lại thông báo sẽ đến thị trấn Calvi để uống rượu với một người bạn cũ từ thành phố Edinburgh tới. “Tôi sẽ gặp các bạn ở nhà hàng,” cô ngoái đầu lại la lớn rồi phóng nhanh ra khỏi lối vào biệt thự. “Trời đất ơi, cố gắng để đến đúng giờ là điều không thể.” Rồi sau đó cô đi mất. Chẳng ai nghĩ là kỳ quái khi cô không thể xuất hiện để dùng bữa đêm hôm đó. Họ cũng chẳng hề hốt hoảng khi thức giấc và thấy giường cô trống không. Đã có một mùa hè như thế, và Madeline là một cô nàng như thế.   Mời các bạn đón đọc Cô Gái Người Anh của tác giả Daniel Silva & Hoài Ngọc (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bữa Cơm Ngày Mai Chúng Ta Cùng Chờ Đợi
“Nếu như có thể mở lòng, điều đó thật tốt biết bao Những cũng có những điều có lẽ đừng bao giờ nên biết.” Câu chuyện tình đắng cay ngọt ngào trong bảy năm giữa Ryota Hayama và Koharu Uemura từ ngày đầu tiên hẹn hò cho đến ngày họ kết hôn. Đều là học sinh trung học nhưng tính cách hai người hoàn toàn trái ngược nhau. Nếu Ryota là chàng trai trầm tính, gần như thờ ơ với mọi thứ xung quanh thì Koharu lại là cô gái thẳng thắn và tràn đầy năng lượng. Kể từ ngày hợp sức trong thử thách nhảy bao gạo, họ bắt đầu quen nhau. Họ hẹn hò ở quán ăn nhanh, nhận ra đã phải lòng đối phương ở một quán ăn gia đình và hẹn ước tình yêu bên bàn ăn với những bữa cơm bình dị mà ấm cúng. “Bữa cơm ngày mai chúng ta cùng chờ đợi là một bức tranh đẹp, một khúc nhạc êm êm vào buổi chiều nắng nhạt có những cánh hoa anh đào chao lượn trong tiếng nói cười. Ở đó chứa đựng những thanh âm trong trẻo của tuổi thanh xuân có ngập ngừng, có ngốc nghếch, tràn đầy mơ tưởng đan xen với đau buồn, cả ích kỷ lẫn thấu hiểu cùng hòa quyện để trưởng thành. Thật may vì đến cuối cùng chẳng điều gì lỡ dở, chẳng có ai lỗi hẹn với định mệnh của đời mình. Tôi đã nghĩ khi bộ phim khép lại rằng, yêu có thể mặn nồng, rạo rực nhưng yêu luôn là chốc lát, thương mới là cả một đời, là thứ có thể khiến hai người xa lạ thậm chí đối lập nhau vai kề vai đến cuối bến đỗ hạnh phúc – điểm cuối của tình yêu.” (Trích cảm nhận của độc giả @isissapphiremoon về cuốn sách ấn tượng này) *** Xuất bản lần đầu vào năm 2012 và tạo nên một cơn dư chấn lớn trong cộng đồng độc giả Nhật Bản bởi sự trong trẻo, ngây thơ và thuần khiết của mối tình đầu, Bữa cơm ngày mai chúng ta cùng chờ đợi xứng đáng được vinh danh là ấn phẩm xuất sắc nhất dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên. Ngày 7/1/2017 – cuốn sách được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên với sự tham gia diễn xuất của hai ngôi sao được giới trẻ yêu mến là Yuto Nakajima và Yuko Araki. *** Ngày tháng lặng lẽ trôi đi, ngờ như tôi đã có thể quên chuyện cũ. Vậy mà mỗi khi định khích lệ bản thân rằng mình đã ổn, thì những ngày tháng đó liền sống lại thật rõ nét trong tôi. Chia ly là điều không thể tránh khỏi trong cuộc đời. Điều đó đã được nhắc tới ra rả trong các bài hát, các bộ phim điện ảnh và phim truyền hình, không cần nói thêm tôi cũng hiểu. Nhưng việc chấp nhận một sự chia ly trái với mong muốn quả là một điều quá sức với tôi. Trên bầu trời xanh trong vắt nổi lên một cụm mây trắng yếu ớt. Trong lớp học đang tổ chức buổi họp quyết định việc tham gia các môn thi đấu trong ngày hội thể thao của trường. Những cuộc tranh chấp trong hòa bình xem ai sẽ tham gia môn nào trong các môn ném bóng vào rổ, kéo co, chạy tiếp sức v.v… mỗi lúc một mở rộng hơn. Tiếng oẳn tù tì, tiếng tranh giành, tiếng cười vang rộn. Lớp học ồn ào như chợ vỡ. Lúc này đây, đâu đó trên thế giới này đang có người chìm vào đau khổ. Nhưng ngày hội thể thao sẽ chẳng vì việc đó mà bị hủy bỏ. Dù có xảy ra chuyện gì, cuộc sống thường nhật ngu ngốc này vẫn cứ tiếp diễn thôi. “Này cậu.” Một giọng nói trong trẻo vang lên trên đầu tôi khi tôi đang mơ màng ngắm nhìn khung cảnh ngoài cửa sổ. “Xin lỗi đã chen ngang khi cậu đang thẩn thơ suy nghĩ như vậy…” Tôi ngẩng đầu lên thì thấy Uemura đang đứng trước mặt mình. “… Nhưng cậu có thể xác nhận giúp tớ điều này được không?” “Ừ, gì vậy?” “Vì cậu không có ý kiến gì nên đã được xếp vào nhóm nhảy bao gạo, không vấn đề gì chứ?” “Nhảy bao gạo ư?” Cụm từ thường ngày chẳng nghe thấy bao giờ khiến tôi ngơ ngác hỏi lại. “Năm ngoái cũng tổ chức phần thi này rồi, cậu không nhớ à? Trong môn thi ‘chạy tiếp sức kỳ diệu’ ấy. Phần chạy thứ ba sẽ là nhảy bao gạo.” Hội thể thao năm ngoái tôi tham gia môn ném bóng vào rổ, lúc đó tôi chơi rất chiếu lệ, chẳng buồn để mắt đến các môn khác. Vốn những cái tên như “chạy tiếp sức kỳ diệu” hay “nhảy bao gạo”, nghe thôi đã thấy ngớ ngẩn rồi. “Chỉ cần chui vào bao tải gạo, nhảy về phía trước năm mươi mét rồi trao tín gậy cho người chạy tiếp theo là được. Những môn khác đã chọn đủ các bạn tham gia rồi. Cậu đồng ý nhé?” Phải chui vào bao tải gạo và nhảy những năm mươi mét sao? Mệt chết mất. Thực lòng tôi thích những môn được hòa lẫn vào mọi người để không ai chú ý đến mình, như trò kéo co hoặc ném bóng vào rổ hơn. Nhưng hình như tôi chẳng còn cơ hội đòi hỏi nữa. Tôi lặng lẽ gật đầu. “Ok, vậy chốt rồi nha.” Uemura nói, rồi viết thêm tên tôi xuống dưới dòng chữ “nhảy bao gạo” trên bảng. Cho tới ngày hội thể thao, tiết Thể dục được dùng làm giờ luyện tập cho ngày thi. Môn chạy hay nhảy dây mới đáng luyện tập, còn trò nhảy bao gạo giống như trò chơi của con nít, có tập cũng chẳng để làm gì. Hơn nữa, nhiều bạn tham gia trò “chạy tiếp sức kỳ diệu” cũng đồng thời tham gia các trò khác, nên việc luyện tập cho trò này bị đẩy ra sau. Tôi bèn đi tìm một nơi râm mát trong góc sân tập, ngồi đó đợi tới lượt mình. Chuyện xảy ra đúng vào mùa thu ba năm trước. Mùa hè năm đó cũng giống mọi năm, mọi người đều ầm ĩ kêu nóng, trời đã sang thu nhưng vẫn chưa thoát khỏi cái nóng mùa hè, nóng hệt như bây giờ vậy. Lúc đó tôi học lớp chín, đang dốc sức luyện tập cho ngày hội thể thao cuối cùng của cấp hai. Khi ấy tôi là trưởng nhóm, phải tham gia vào mọi trận thi đấu ở mọi môn thi, tôi đà chạy cần mẫn hơn bất kỳ ai khác. Sự cố gắng của tôi rất có thế sẽ cứu nguy cho cả đội. Tôi đã thực sự ấp ủ trong lòng niềm hy vọng ngây thơ ấy. Rằng nếu tôi cố gắng, mọi chuyện sẽ chuyển biến theo hướng tốt hơn để đền đáp những cố gắng đó. Vì tôi không làm được gì khác, nên tôi muốn gắng hết sức để làm những việc ở ngay trước mắt mình. Giờ ngẫm lại, sự cố gắng của tôi hóa ra hoàn toàn vô nghĩa. Chẳng có điều gì trên thế giới này tốt lên nhờ hành động của tôi cả. “Xin lỗi vì chen ngang lúc cậu đang suy nghĩ vẩn vơ, nhưng chúng ta bắt đầu được chưa?” Ngẩng đầu lên, tôi thấy Uemura đang đứng đó với bao tải gạo trên tay. “À, ừ.” “Mình đi tập nào.” Tôi đứng lên nhìn xung quanh, có mấy đứa đang xỏ chân vào bao gạo tập nhảy, mấy đứa khác thì cột hai chân vào nhau theo kiếu hai người ba chân rồi nhảy dây. Có vẻ phần luyện tập cho trò “chạy tiếp sức kỳ diệu” đã bắt đầu. “Nào, cậu vào đây.” Uemura nói sau khi khéo léo chui nửa người vào bao. “Hả?” “Hả gì nữa, hai người cùng vào chung đó.” Uemura nói như thể chuyện hiển nhiên, nhưng tôi vẫn nhìn vào phía trong chiếc bao. “Cùng chui vào cái bao này á?” “Ừ. Cậu với tớ là cặp nam nữ duy nhất tham gia lần này.” Hẳn là cặp nam nữ duy nhất rồi. Bao tải gạo tuy to nhưng nếu chui vào thì co thể hai người sẽ dính sát vào nhau. Đương nhiên tôi không thể thoải mái khi chui vào đây cùng một cô gái nào đó được. “Tại sao hai chúng ta lại thành một cặp?” “Tại sao ư? Là vì tính cách của cậu rất u ám đó.” “U ám ư…?” “Thế nên không ai muốn ghép đôi với cậu cả. Người thì kêu nhảy với cậu sẽ bị tinh thần u ám của cậu ảnh hưởng, người thì kêu rất có thể hôm hội thể thao cậu nghỉ mất, nên mãi không chọn được bạn nào chịu ghép cặp với cậu. Vì tớ là ủy viên ban thể thao nên mới đành ghép cặp với cậu đấy.” Sau khi tuôn ra một tràng những sự thật tàn nhẫn đó, Uemura chợt ngẫm ra và nghiêng đầu hỏi: “Ôi, xin lỗi nhé, tớ không làm cậu tổn thương đấy chứ?” “À không sao. Tớ quen bị ghét rồi.” “Thế à? Kể cũng phải. Vì Hayama bị ghét suốt từ hồi lớp mười tới giờ mà.” Hả? Có chuyện đó à? Tôi muốn hỏi lại như vậy, nhưng may mắn giữ được vẻ thản nhiên, chỉ nói: “Xin lỗi nhé, làm phiền đến cậu rồi.” “Không sao, đừng để tâm. Nào, cậu nhanh vào đây đi.” Uemura nhích về phía trước chiếc bao, thúc giục tôi chui vào đứng phía sau. Tôi - một kẻ u ám và hình như luôn bị ghét từ trước tới giờ - chui vào chiếc bao tải, cố để cơ thể mình không chạm vào cô bạn Uemura - người đã miễn cưỡng ghép đôi với tôi trong phần thi này. Nhưng dù thế nào thì đó cũng là bên trong chiếc bao tải. Cơ thể chúng tôi sẽ cọ sát vào nhau, dù chúng tôi không muốn. “Chúng ta sẽ nhảy như thế này về tới đích. Cự ly phải nhảy là năm mươi mét, nhưng hôm nay là ngày tập đầu tiên, mình đặt mục tiêu mười mét thôi nhé.” Uemura đang giải thích về một môn thi đấu kỳ cục, nhưng tôi chẳng biết nói gì khác ngoài gật gù “Ừ, tớ hiểu rồi.” “Vậy bắt đầu nhé.” Nghe hiệu lệnh của Uemura, tôi cũng thử nhảy để tiến về phía trước, nhưng chiếc bao chỉ khẽ nhúc nhích rồi chệch sang một bên khiến chúng tôi mất thăng bằng chứ chẳng tiến lên được centimét nào. “Ừm, phải nhảy đồng thời thì mới tiến về phía trước được, nếu không, không những giậm chân tại chỗ mà còn bị ngã nữa, nên cậu phải bắt nhịp với tớ đấy.” Uemura nói, giọng xen lẫn tiếng thở dài. “Ừ.” “Nào, hai, ba!” Tôi nhảy theo lời ra hiệu của Uemura, nhưng bao gạo vẫn không tiến về phía trước. Bởi nó quá chật khiến tôi không nhúc nhích nổi. Mái đầu của Uemura cũng ở phía trước, ngay dưới cằm tôi, thật vướng víu, khiến ngay cả việc nhìn thẳng phía trước với tôi cũng thật khó khăn. “Cậu nhảy dài hơn chút đi. Nếu cơ thể không nhảy bổng lên thì bao gạo không tiến về phía trước được đâu.” “Ừ, tớ biết rồi.” Tôi thực muốn nói “Là lỗi của tớ chắc?”, nhưng vì chưa từng chui vào bao gạo hay bao rác để chơi trò này bao giờ nên tôi ngoan ngoãn nghe theo. “Thế thử lại lần nữa nhé. Hai, ba nào!” Uemura hô “hai, ba”, “hai, ba” mấy lần để thông báo thời điểm nhảy cho tôi biết. Tôi bèn bật nhảy theo tiếng hô đó. Dần dần chúng tôi không còn bị loạng choạng mất thăng bằng nữa, nhưng chẳng nhảy về phía trước được bao nhiêu. Các đôi nhảy bao gạo khác tuy vẫn trêu cười nhau nhưng cũng đã nhảy được về phía trước kha khá rồi. “Hayama này, chúng ta phải nhảy về phía trước, nên nếu cậu chỉ nhảy vống lên thì không được đâu. Phải nhớ nhảy về phía trước ấy.” Uemura ngoảnh đầu lại than phiền. “Tớ vẫn đang cố gắng mà.” “Vậy thử lại nhé. Nhớ nhảy về phía trước đấy. Hai, ba nào!” Ở trường học thi thoảng lại thản nhiên tổ chức mấy trò kỳ cục thế này. Các trò trong môn “chạy tiếp sức kỳ diệu” như nhảy dây hai người ba chân, hay cõng nhau đi qua ván thăng bằng đều chẳng cần thiết trong đời sống thực. Ngoài trò nhảy bao gạo, còn nhiều trò có các cặp chơi nam nữ, nhưng nghĩ sao vẫn thấy kỳ cục. Nếu tổ chức mấy trò này trong ngày hội văn nghệ ở các công ty, chắc chắn sẽ bị kiện vì quấy rối tình dục cho xem. “Các bạn nghỉ giải lao mười phút rồi chuyển sang tập kéo co và chạy tiếp sức theo nhóm. Nhớ uống nước đầy đủ đấy nhé.” Có tiếng thông báo tiết luyện tập kết thúc, tôi liền lập tức ra khỏi bao gạo. Cái nóng và sự vô lý của phần thi này khiến tôi chóng cả mặt. “Hả, đã hết giờ rồi à? Tụi mình còn chưa làm được tí nào.” Vừa càm ràm, Uemura vừa bước ra khỏi bao, nhìn thẳng vào mắt tôi. “Hayama này, không có giờ nghỉ cho cậu đâu đấy.” “Hả?” “Có thể cậu nghĩ mấy trò này thật ngớ ngẩn vô nghĩa, nhưng nếu cậu nghỉ thì sẽ chỉ còn mình tớ, không thể tập luyện được.” “Tớ hiểu mà.” Dù rất khổ sở nhưng tôi vẫn phải chui vào bao tải gạo tập nhảy. Cuộc sống thật là khắc nghiệt. Mời các bạn đón đọc Bữa Cơm Ngày Mai Chúng Ta Cùng Chờ Đợi của tác giả Maiko Seo & Vương Hải Yến (dịch).
Trí Nhớ Suy Tàn
Nhân vật của Trí nhớ suy tàn mơ hồ hơn rất nhiều sau từ "em", đó là chỗ mạnh của Nguyễn Bình Phương. Chẳng ai biết cô "em" sắp hai mươi sáu tuổi ấy tên là gì, làm việc ở cơ quan, nhưng cơ quan nào, công việc gì cũng chẳng rõ... Mối quan hệ giữa "em" với Tuấn và Vũ cũng mờ nhạt hơn mối quan hệ của "vous" với Henriette và Cécile... Chính sắc thái mù mờ có dụng ý kỹ thuật ấy - không loại trừ do "trí nhớ suy tàn" - tạo nên sức cuốn hút đông đảo bạn đọc nhập thân vào với "em". Thiếu gì những độc giả tiểu thuyết là các cô gái trạc tuổi như "em", có công ăn việc làm ở một cơ quan nào đó, có đủ loại bạn học ngày xưa, bạn bè hiện nay, có những chuyện linh tinh đời thường như "em", có những mối tình vui buồn, với những băn khoăn day dứt như "em"...Một truyện tiểu thuyết tình cảm Việt Nam đặc sắc của Nguyễn Bình Phương,(GS.Phùng Văn Tửu) *** Đây là tiểu thuyết thứ hai của Nguyễn Bình Phương đến với bạn đọc Pháp ngữ, sau cuốn “Thoạt kỳ thủy”. NXB Riveneuve, Pháp xuất bản cuốn Trí nhớ suy tàn cuối tháng 1 vừa qua. Tác phẩm do Emmanuel Poisson chuyển ngữ với tên Un autre ciel (Một bầu trời khác). Riveneuve giới thiệu cuốn tiểu thuyết là một trong những tác phẩm đặc trưng nhất của tác giả, người tiên phong của thế hệ viết văn mới. Đây là tác phẩm thứ hai của Nguyễn Bình Phương được xuất bản tại Pháp, sau Thoạt kỳ thủy (do Danh Thành dịch) năm 2014. Trí nhớ suy tàn là tiểu thuyết thứ năm, tác phẩm dung lượng ngắn nhất trong 9 tiểu thuyết đã xuất bản của Nguyễn Bình Phương. Tác phẩm ra mắt năm 2000 bởi NXB Thanh Niên, được tái bản bởi NXB Văn học (2006) và NXB Tổng Hợp (2013). Trí nhớ suy tàn được coi là tiểu thuyết đặc sắc của Nguyễn Bình Phương. GS Phùng Văn Tửu đánh giá về tác phẩm: “Nhân vật của Trí nhớ suy tàn mơ hồ hơn rất nhiều sau từ 'em', đó là chỗ mạnh của Nguyễn Bình Phương. Chẳng ai biết cô 'em' sắp hai mươi sáu tuổi ấy tên là gì, làm việc ở cơ quan, nhưng cơ quan nào, công việc gì cũng chẳng rõ...” Theo GS Phùng Văn Tửu, chính sắc thái mù mờ có dụng ý kỹ thuật ấy - không loại trừ do "trí nhớ suy tàn" - tạo nên sức cuốn hút đông đảo bạn đọc nhập thân vào với “em”. “Thiếu gì những độc giả tiểu thuyết là các cô gái trạc tuổi như ‘em’, có công ăn việc làm ở một cơ quan nào đó, có đủ loại bạn học ngày xưa, bạn bè hiện nay, có những chuyện linh tinh đời thường như 'em', có những mối tình vui buồn, với những băn khoăn day dứt như ‘em’”, Phùng Văn Tửu viết. PGS.TS Phùng Gia Thế đánh giá Trí nhớ suy tàn là những trang viết giàu chất thơ nhất của Nguyễn Bình Phương, thể hiện sinh động những vùng “hiện thực mờ”, vùng khuất lấp và cả sự thánh thiện trong cõi sâu thẳm mịt mù của con người. Nhà văn Nguyễn Bình Phương là một trong những cây bút cách tân hàng đầu của văn học Việt Nam hiện nay. 9 tiểu thuyết của ông đã được xuất bản gồm: Bả giời, Vào cõi, Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kỳ thuỷ, Ngồi, Mình và họ, Kể xong rồi đi. Ông còn là tác giả của các tập thơ: Lam chướng, Khách của trần gian, Xa thân, Từ chết sang trời biếc, Thơ Nguyễn Bình Phương, Buổi câu hờ hững, Xa xăm gõ cửa. Nguyễn Bình Phương đang là Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội - một tạp chí văn chương hàng đầu hiện nay. Dịch giả Emmanuel Poisson là Giáo sư Lịch sử Việt Nam tại Đại học Paris Diderot. Ông còn là nhà nghiên cứu, với công trình Quan và Lại ở miền Bắc Việt Nam. Bên cạnh đó, ông đã chuyển ngữ các tác phẩm của Phong Điệp, Nguyễn Việt Hà và một số tác giả Việt sang tiếng Pháp. *** Nguyễn Bình Phương, nguyên quán Hà Nội, sinh tại Thành phố Thái Nguyên. Tốt nghiệp trường Viết văn Nguyễn Du khóa IV. Từng đóng quân và làm báo tại biên giới phía Bắc, từng làm biên kịch tại Đoàn Kịch nói Quân đội, làm biên tập tại Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hiện công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Mời các bạn đón đọc Trí Nhớ Suy Tàn của tác giả Nguyễn Bình Phương.
Mùa Xuân Đen
Mùa Xuân Đen là một cuốn sách gồm mười truyện ngắn của nhà văn người Mỹ Henry Miller, được xuất bản năm 1936 bởi Obelisk Press ở Paris, Pháp. Black Spring là cuốn sách xuất bản thứ hai của Miller, sau Tropic of Cancer và trước Tropic of Capricorn. Cuốn sách được viết vào năm 1932-33 khi Miller đang sống ở Clichy, một vùng ngoại ô phía Tây Bắc của Paris. Giống như Tropic of Cancer, cuốn sách dành riêng cho Anaïs Nin. Black Spring được nhà xuất bản Obelisk Press ở Paris xuất bản vào năm 1936 nhưng không được xuất bản ở Hoa Kỳ cho đến năm 1963 do luật tục tĩu. Khi ấn bản “Black Cat” của Grove Press được phát hành, một số câu chuyện không bị coi là tục tĩu đã được xuất bản trong các tập khác của Miller như The Cosmological Eye, do New Directions xuất bản. Một số câu chuyện khác đã được xuất bản trên tạp chí New Directions hàng năm, New Directions trong Văn xuôi và Thơ. Miller, giống như các nhà phê bình của mình, có quan điểm cao về cuốn sách. Trong một bản ghi âm năm 1949, Miller nói: "Trong mười năm tôi sống ở Paris, chắc hẳn tôi đã viết được bảy hoặc tám cuốn sách. Cuốn này, Mùa xuân đen, tôi thích nhất trong tất cả những gì tôi viết trong khoảng thời gian đó. Đó là một giai đoạn tuyệt vời của cuộc đời tôi. Những năm 1932 và 33, sống bên ngoài Paris ở thị trấn Clichy, nơi tôi viết cuốn sách, tôi nghĩ là những năm tuyệt vời nhất trong cả cuộc đời tôi." Tập truyện gồm có:  Quê nhà yêu dấu Mùa xuân đen Chiều cuối tuần Tiệm thợ may Hắn Vào đời sống đêm Bọn hề Sa mạc người *** Henry Valentine Miller (26 tháng 12 năm 1891 - ngày 7 tháng 6 năm 1980) là một nhà văn người Mỹ, đã chuyển tới Paris khi ông phát triển đến đỉnh cao nhất của sự nghiệp. Ông được biết đến với việc phá vỡ các hình thức văn học hiện có và phát triển một thể loại mới của tiểu thuyết bán tự truyện trong đó ông pha trộn các nghiên cứu nhân vật, phê bình xã hội, phản ánh triết học, ngôn ngữ tả chân, tình dục, chủ nghĩa siêu thực, và chủ nghĩa thần bí. Tác phẩm kinh điển của ông về thể loại này là Tropic of Cancer, Black Spring, Tropic of Capricorn và bộ ba truyện The Rosy Crucifixion, với nội dung dựa vào kinh nghiệm sống của ông tại New York và Paris (tất cả đều bị cấm ở Hoa Kỳ cho đến năm 1961). Ông cũng đã viết hồi ký du lịch, phê bình văn học, và vẽ tranh màu nước. Miller được sinh ra tại nhà của gia đình ông, 450 East 85th Street, trong vùng Yorkville của Manhattan, thành phố New York. Ông là con trai của hai vợ chồng người Đức theo giáo hội Luther, Louise Marie (Neiting) và thợ may Heinrich Miller. Khi còn là một đứa trẻ, ông sống 9 năm tại 662 Đại lộ Driggs ở Williamsburg, Brooklyn, được biết đến tại thời điểm đó (và thường xuyên được nhắc đến trong các tác phẩm của ông) là Phường 14. Năm 1900, gia đình ông chuyển đến 1063 Decatur Street ở khu vực Bushwick của Brooklyn. Sau khi học xong tiểu học, mặc dù gia đình ông vẫn ở Bushwick, Miller theo học trường trung học Eastern District ở Williamsburg. Khi còn trẻ, ông đã hoạt động cho Đảng Xã hội chủ nghĩa Mỹ ("thần tượng kỳ quặc" của ông là nhà hoạt động xã hội đen Hubert Harrison). Miller theo học trường Cao đẳng Thành phố New York trong một học kỳ. Tác phẩm: Mùa Xuân Đen Thời Của Những Kẻ Giết Người Thế Giới Tính Dục ... Mời các bạn đón đọc Mùa Xuân Đen của tác giả Henry Miller.
Những Khẩu Pháo Ở Navarone
Ở thế kỷ 21 nước Mỹ tốt hay xấu, mạnh hay yếu, là siêu cường quốc duy nhất hay đang trên đà tan rã? Hậu Đế Chế, là cuốn tiểu luận của tác giả Emmanuel Todd – người viết cuốn Sự sụp đổ cuối cùng nổi tiếng năm 1976, trong đó dự đoán chính xác sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết. Tác giả cho rằng thế giới ngày nay có 2 cách nhìn về nước Mỹ. Cách thứ nhất là: Xấu xa, áp bức, phát xít, giả dối vàkhông đóng góp vào hòa bình của nhân loại. Cách thứ hai: Cho Mỹ là siêu cường duy nhất đang thống trị toàn cầu. Theo tác giả, cả 2 cách nhìn này đều cực đoan, thiên lệnh… Với con mắt chính trị sắc bén, tác giả khẳng định chính chiến lược tự cho mình là cường quốc duy nhất đã biến Mỹ thành trở ngại và mối đe dọa với nền hòa bình nhân loại. … *** Les Canons De Navarone Năm 1944, trong quần đảo Hy Lạp, một cuộc chiến đấu không khoan nhượng diễn ra giữa toán biệt động Anh và đội quân trú phòng tiền phương của Phát xít Đức . Ở Navarone, quân đội Đức đã thiết lập một pháo đài thép vô cùng kiên cố để kiểm soát sự lưu thông trên eo biển trọng yếu. Một toán biệt động Anh đã được thành lập với sứ mạng : đổ bộ lên một điểm của hòn đảo nổi tiếng bất khả xâm nhập và vô hiệu hóa hai khẩu đại bác ở Navarone. Nhóm ít người này dấn thân vào một cuộc chiến ác liệt. Họ chiến đấu đến tận cùng sức lực ... CHƯƠNG MỘT CHỦ NHẬT 1g – 9g Que diêm được quẹt mạnh vào vách rỉ sét của căn nhà có mái tôn lượn sóng, kêu soẹt và bật cháy, ánh sáng lập lòe trong im lặng và bóng tối của màn đêm. Mallory đưa mắt nhìn theo ánh lửa đang được châm vào điếu thuốc nhô ra dưới hàm râu tua tủa như bàn chải đánh răng của viên thiếu tướng, rọi sáng luôn khuôn mặt bất động của một người đàn ông đứng cách đó vài phân, với tia nhìn đăm đăm, cuốn hút vào câu chuyện. Ánh lửa tắt ngúm, que diêm bị chà đạp trên cát của sân bay. - Tôi nghe thấy họ, thiếu tướng khẽ nói. Tôi nghe họ đang tới. Trong năm phút nữa, không lâu hơn. Tối nay, trời im gió, họ sẽ hạ cánh trên đường bay số 2. Chúng ta hãy tới chờ họ trong phòng họp báo. Ông ngưng nói, ném về phía Mallory một cái nhìn hóm hỉnh và có vẻ mỉm cười. Nhưng giọng ông không được chút gì vui: - Này chàng trai, hãy chế ngự nóng nảy. Chỉ thời gian ngắn nữa thôi, anh sẽ nhận tất cả những câu trả lời đang mong đợi, và tôi e rằng còn hơi sớm đấy. Bất ngờ, viên thiếu tướng bước ra, về hướng dãy nhà to lớn lù lù ở đường chân trời đen nhạt. Mallory nhún vai, đi theo ông nhưng không bước chậm hơn, cùng với người thứ ba của nhóm, một nhân vật béo lùn đi núng nính nhưng rất gọn. Mallory nghĩ thầm Jensen hẳn phải khổ luyện mới có được dáng đi kiểu thủy quân như thế. Ông ta ở ba mươi năm trong nghề mà, nhưng đó chưa phải là vấn đề. Với chức vụ trưởng phòng 3 đặc trách những "Điệp vụ phá hoại" (S.O.E) 1 ở Caire 2 , hải quân đại tá James Jensen đã xuất sắc thành công và được tưởng thưởng Huân chương Công vụ Đặc biệt của Hải quân Hoàng gia. Đa mưu, giỏi nghi binh, tài bắt chước, hóa trang như thật, đều là "nghề" của chàng. Đã từng "quậy" ở các xứ phương Đông, từ Alexandrette 3 đến Alexandrie 4 , chinh phục sự nể nang của những người thợ ở các xưởng đóng tàu, cỡi lạc đà còn thành thạo hơn bọn cướp biển sa mạc, thân thể chằng chịt những vết thẹo không ai sánh kịp kể cả bọn ăn mày ghẻ lở ở các chợ trời phương Đông. Vậy mà tối nay, Jensen chỉ là một sĩ quan hải quân giản dị với vẻ mặt không vui. Bộ quân phục hoàn toàn trắng toát từ chóp mũ xuống tới đôi giày. Chỉ có lon đại tá óng ánh trên hai cầu vai và trên vành nón. Bước chân họ nhịp đều trên cát và sau đó nện vang rền trên xi-măng của đường ra phi đạo. Hai người đi sau hầu như mất hút bóng thiếu tướng. Mallory chợt quay sang Jensen. - Thưa Đại tá, như vậy có nghĩa gì? Tại sao mọi việc lại bí mật? Tại sao tôi phải có mặt ở đây? Lạy Chúa tốt lành! Mới hôm nào đây người ta "bốc" tôi ra khỏi đảo Crète 5 và chỉ báo trước có tám tiếng. Họ nói tôi được đi phép một tháng, và bây giờ thì… có mặt ở đây! - Rồi sao nữa? Jensen hỏi. - Còn sao nữa! Chẳng có nghỉ phép gì ráo trọi! Mallory nói bằng vẻ cay đắng. Không có lấy một đêm được ngủ. Chỉ có những giờ và những giờ trong văn phòng sở chỉ huy để trả lời hàng đống câu hỏi ngu xuẩn về leo núi Alpes 6 phía nam. Kế đó, họ lôi tôi ra khỏi giường ngủ với lệnh đi gặp Đại tá. Sau đó là những giờ xuyên qua sa mạc quỉ quái trong chiếc xe do một người Xcốt-len điên khùng vừa lái vừa hát những bài nồng nặc mùi rượu và đã hỏi tôi hàng trăm câu hỏi còn ngu xuẩn hơn nữa! - Hắn là một trong những nhân viên ưu tú nhất của tôi cải trang đấy. Theo tôi, đó là cuộc hành trình thú vị! - Một trong những… Mallory ấp úng không nói hết câu, lo lắng khi nghĩ tới những điều đã nói với viên đại úy già người Xcốt-len có râu mép lái xe. - Tôi… tôi xin Đại tá tha lỗi. Tôi thật không ngờ… - Dĩ nhiên, anh không được biết gì cả, Jensen ngắt lời. Tôi chỉ muốn trắc nghiệm xem anh có xứng đáng là người được chỉ định công tác này hay không. Trước khi "bốc" anh ra khỏi đảo Crète, tôi đã chắc rằng anh đủ khả năng, và qua thử thách vừa rồi, tôi lại càng thấy mình có lý. Nhưng tôi không hiểu anh nghĩ sao mà lại tin rằng được đi phép. Người ta thường hiểu sai ý tốt của cơ quan "Điệp vụ phá hoại" (S.O.E) nhưng dù sao cơ quan chúng tôi cũng không điên khùng đến nỗi trưng dụng nguyên một chiếc phi cơ cho các sĩ quan thuộc cấp nghỉ phép một tháng ở thủ đô của Ai Cập. - Tôi cũng chưa hiểu ý Đại tá… - Hãy kiên nhẫn, chàng trai, kiên nhẫn theo lời khuyên vừa rồi của ngài Thiếu tướng đáng kính của chúng ta. Thời gian bất tận. Chờ đợi và mãi mãi chờ đợi, đó là cuộc sống ở phương Đông. - Tổng cộng chỉ ngủ được có bốn giờ trong ba ngày như vậy còn chưa đủ sao? Mallory lầm bầm rủa thầm… A! Họ tới rồi! Cả hai chớp mắt liên hồi trước ánh sáng chói lóa của những đèn chiếu sáng phi đạo cho máy bay hạ cánh. Không đầy một phút, chiếc phóng pháo cơ dừng lại nặng nhọc, vụng về ngay gần họ. Thân máy bay màu xám và cánh bom lỗ chỗ những vết đạn kể cả đạn đại bác, một đầu cánh bị rách rời và động cơ ngoài bên trái ngưng hoạt động, dầu rỉ ra. Tấm kính của phòng lái thủng bể khoảng mười hai lỗ. Jensen chăm chú nhìn khá lâu những lỗ thủng và những vết thương chi chít của chiếc máy bay oanh tạc bị hư hại nặng, kế đó ông lắc đầu và quay mặt đi. - Đại úy Mallory, ông dịu dàng nói, anh than phiền chỉ được ngủ bốn tiếng, bây giờ tôi bắt đầu thấy anh là kẻ may mắn đã được ngủ trong thời buổi này. ° ° ° Gian phòng họp báo ít tiện nghi và thiếu thoáng khí được chiếu sáng bởi hai bóng đèn cực mạnh, Đồ đạc chỉ gồm vài tấm bản đồ sờn rách treo tường, khoảng gần hai chục cái ghế cũ mòn và một cái bàn bằng gỗ trắng. Viên thiếu tướng ngồi ở giữa đại tá Jensen và đại úy Mallory. Cửa phòng mở và những phi công đầu tiên bước vào, chớp mắt dưới ánh sáng cao độ. Dẫn đầu đoàn là một viên phi công tóc đen, vóc người to lớn, tay trái ôm nón và bộ đồ bay. Hàng chữ "Australie" 7 màu trắng nổi bật phía trên phù hiệu bên vai bộ kaki và trên hai nắp túi ở ngực. Anh chàng nhíu lông mày, im lặng ngồi xuống không cần xin phép, trước mặt ba vị sĩ quan, móc ra bao thuốc lá và quẹt diêm. Mallory lén nhìn thiếu tướng, nhưng ông có vẻ chịu đựng, giọng nói cũng thế. - Giới thiệu với các ông: đây là Thiếu tá không quân Bill Torrance. Và thiếu tướng nói thêm tuy hơi thừa: - Torrance là người Úc. Mallory có cảm tưởng ông hy vọng giải thích đôi điều về thái độ của thiếu tá Torrance… - Torrance đã chỉ huy một phi đội tấn công Navarone. Này Bill, các ông đây là hải quân đại tá Jensen, thuộc Hải quân Hoàng gia, và đại úy Mallory thuộc Viễn đoàn Xung kích Sa mạc 8] đều đặc biệt chú tâm đến Navarone. Thế nào Bill? Tối nay "làm ăn " ra sao? Mallory thầm nghĩ: "Navaron! Thì ra vì mày mà ta hiện diện ở đây" Anh chàng khá rõ về Navarone hay đúng hơn đã nghe nói đến như tất cả những ai từng phục vụ miền đông Địa Trung Hải. Nó là một pháo đài thép bất khả xâm phạm, ở ngoài khơi bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ, được bảo vệ kiên cố, theo ước lượng, bởi một đơn vị quân trú phòng hỗn hợp Đức và Ý, được xây dựng trên một hòn đảo của biển Egée 8 nơi đó quân Đồng minh hoàn toàn không tấn công nổi. Mời các bạn đón đọc Những Khẩu Pháo Ở Navarone của tác giả Alistair MacLean.