Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phù Sinh Lục Ký

Nhà văn hàng đầu Trung Quốc – Phùng Ký Tài khi được hỏi: “Nếu phải ở trên một hòn đảo cách biệt được chăm lo đầy đủ, nhưng chỉ được mang theo một cuốn tản văn yêu thích, thì ông sẽ mang theo cuốn sách nào? Vì sao?”, Phùng Ký Tài đã không ngần ngại trả lời ngay rằng: “Cuốn sách ấy là Phù sinh lục ký, vì nó có thể đọc đi đọc lại, giống như thơ vậy, đọc lên thấy thích thú và gợi cho mình nhiều suy nghĩ khác nhau”. Sách giáo khoa của Trung Quốc còn trích một số đoạn trong Phù sinh lục ký để làm chuẩn mực về cổ văn cho học sinh trung học. Nhiều tác giả Trung Quốc xem Phù sinh lục ký như một điển phạm khi viết văn. Phù sinh lục ký là tác phẩm kinh điển của Trung Quốc được in đi in lại cả trăm lần ở Đại Lục, được dịch ra mấy chục thứ tiếng trên toàn thế giới, riêng tiếng Anh có đến vài bản dịch, nhưng đây là lần đầu tiên được dịch giả Châu Hải Đường dịch ra tiếng Việt. *** Người ta ngày nay có bao nỗi lo toan bủa vây, thế nên nhiều khi mình chẳng còn nhớ lần cuối cùng tri kỉ đàm đạo nhân tình thế thái là khi nào, cũng quên luôn cả lạc thú tiêu dao tự tại của tao nhân mặc khách đời xưa. Trong số các văn nhân Trung Hoa kinh điển, Thẩm Phục là một cái tên lạ lẫm đối với độc giả Việt Nam, nhưng những tác phẩm của ông được coi là mẫu mực cho cổ văn Trung Hoa cũng như được giảng dạy phổ biến trong các trường học. Phù sinh lục kí là tác phẩm giá trị nhất của Thẩm Phục, gồm những bài ký giàu chất thơ, trong những lời văn uyển chuyển đầy tình ý, ta nghe nhịp nhàng như có phách nhạc phụ họa. Ông đã ghi chép lại những chuyện đời thường một cách đầy say mê, hào sảng nhưng cũng không kém phần nho nhã. Trong từng trang sách, hình ảnh vợ cắm một bình cúc, chồng pha một ấm trà, thưởng ngoạn cảnh đẹp nhân gian với nhau rõ mồn một và rất sinh động. Duyên cầm sắt đâu chỉ là sống bên nhau, còn là sự hòa hợp đồng điệu về tâm hồn, phu thê ăn ý tấu lên khúc nhạc thú vui khuê phòng. Một trích đoạn trong Phù sinh lục kí để thấy rõ tình cảm vợ chồng: Tôi từng nói: “Tiếc rằng nàng là phận gái, chứ nếu có thể hoá nữ thành nam, rồi chúng ta cùng đi thăm danh sơn, tìm thắng tích, ngao du thiên hạ, chẳng cũng thích lắm ư?” Vân nói: “Việc ấy có gì khó, đợi đến khi thiếp bạc mái đầu rồi, tuy chẳng thể xa chơi Ngũ Nhạc, nhưng những chỗ gần đây như Hổ Phụ, Linh Nham, nam đến Tây Hồ, bắc đến Bình Sơn, thảy đều có thể cùng chàng tới chơi được.” Tôi nói: “E là khi nàng đầu bạc thì một bước đi cũng khó.” Vân nói: “Kiếp này chẳng thể, thì hẹn kiếp sau.” Tôi nói: “Kiếp sau nàng nên là con trai, còn ta là gái theo nàng.” Đọc Phù sinh lục kí, độc giả sẽ bắt gặp nhiều điển tích, điển cố cổ của văn học Trung Hoa. Nó vừa thể hiện vốn kiến thức uyên thâm của tác giả, vừa thể hiện được sự uyên bác cùng tình cảm trân quý với những giá trị tinh hoa từ ngàn đời của tác giả. Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ tròn khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gầy nên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. – Ngân Nga Hoàng Nhân, “Phù sinh lục ký” – Một tác phẩm đặc sắc của văn học Trung Quốc vừa được Châu Hải Đường dịch xong, và sắp được xuất bản – song vẫn có nhiều bạn băn khoăn về nội dung và nhầm lẫn với cuốn “Phù sinh lục ký” (Có lẽ lấy lại từ cảm hứng của tác phẩm cổ điển nói trên) của một tác giả trẻ đương đại, vì vậy dịch giả xin có đôi lời thưa thêm về tác phẩm này để các bạn có thêm thông tin. Xin trân trọng cám ơn. “Phù sinh lục ký” là một tiểu thuyết tản văn, thể tự truyện đặc sắc của nhà văn đời Thanh – Thẩm Phục. Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc ở Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất (Theo các nghiên cứu, có thuyết cho ông mất vào năm 1832) . Đáng tiếc rằng, do tác giả của nó không có danh vị cao trong xã hội, kinh tế lại khốn quẫn, nên tác phẩm đã không được ấn hành ngay khi ông sinh tiền, mà chỉ có bản chép tay lưu truyền ở đời. Cho đến năm Quang Tự thứ 3 (1877), tức là gần 50 năm sau khi ông qua đời, Độc Ngộ am chủ nhân – Dương Dẫn Truyền, người Ngô Huyện, Giang Tô, tìm thấy một cuốn sách viết tay nhan đề “Phù Sinh Lục Ký” ở một tiệm sách nhỏ trong thành Tô Châu, tuy sách đã nát, nhưng có thể đọc thấy tài tình rất mực của tác giả. Sau khi được nhà thơ, học giả nổi tiếng Vương Thao gửi thêm cho xem sáu bài thơ tuyệt cú, ghi là “Đề Phù Sinh Lục Ký” của Quản Thụ Thuyên (Di Ngạc) người Dương Hồ, Dương Dẫn Truyền đã đem cuốn sách in chung vào bộ “Độc Ngộ am tùng sao” của tòa soạn “Thân Báo”, và một bộ kỳ thư ấy đã lần đầu tiên được xuất hiện ở đời. Năm Quang Tự thứ 32 (1906), Hoàng Nhân tiên sinh khi dạy ở đại học Đông Ngô – Tô Châu đã cho đăng “Phù Sinh Lục Ký” trên tạp chí “Nhạn Lai Hồng”. Cuối đời Quang Tự, Vương Văn Nhu lại cho in trong “Thuyết khố”. Năm 1923, Du Bình Bá căn cứ vào văn bản trên “Độc Ngộ am tùng sao”, Tạp chí “Nhạn Lai Hồng”, hiệu điểm in lại tác phẩm, do Khai Minh Thư Cục phát hành. Năm 1935, Lâm Ngữ Đường tiên sinh đã dịch tác phẩm ra tiếng Anh, đăng nhiều kỳ trên nguyệt san “Thiên hạ” và “Tây phong”. Từ đó “Phù Sinh Lục Ký” bèn nổi danh khắp thiên hạ. Nội dung “Phù sinh lục ký” gồm có sáu “ký”, trong đó Thẩm Phục đã viết lại tự truyện của cuộc đời mình, nhưng không theo dòng thời gian biên niên như những cuốn tự truyện thường thấy, mà theo một cách khác: Theo mạch cảm xúc của cuộc sống. Sáu thiên ký ấy là: “Vui Khuê phòng”, “Thú nhàn tình”, “Sầu Trắc trở”, “Thú lãng du”, “Trải Trung Sơn”, và “Nhàn dưỡng sinh”. Trong đó, nổi bật lên là những ghi chép về tình cảm và cuộc sống của ông và người vợ – Trần Vân, với đầy đủ mọi sắc thái hỉ – nộ – ai – lạc, qua đó, có thể thấy tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gầy lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một trình độ nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân. Kể từ lần đầu tiên ấn hành cho đến nay, “Phù sinh lục ký” đã được xuất bản hơn 120 lần ở Trung Quốc. Quyển 2 – “Thú nhàn tình” của tác phẩm còn được trích một đoạn dùng trong sách Ngữ văn cho học sinh phổ thông Trung Quốc như là một khuôn mẫu về cổ văn. Đồng thời, tác phẩm được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Anh, Đức, Pháp, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Mã Lai … và xuất bản ở nhiều nước. Ở Việt Nam, thực ra cái tên “Phù Sinh Lục Ký” đã xuất hiện trong tác phẩm “Sống Đẹp” của Lâm Ngữ Đường – do Nguyễn Hiến Lê dịch. Tuy nhiên, có thể nói đây là lần đầu tiên tác phẩm được dịch và giới thiệu một cách đầy đủ ở Việt Nam. Có thể nói, “Phù sinh lục ký” là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Từ sau khi tác phẩm được phát hiện đến nay, đã giành được sự chú ý của vô số những nhà văn hóa nổi tiếng trong và ngoài Trung Quốc. Đã có rất nhiều những lời nhận xét khen ngợi tác phẩm của nhiều danh nhân văn hóa cổ kim, như Lỗ Tấn, Du Bình Bá, Lâm Ngữ Đường, Phùng Ký Tài … nhưng có lẽ, tốt hơn hết là chúng ta hãy tự mình đọc, thưởng thức, và cảm nhận bằng chính cảm xúc của mình, qua ấn bản Phù Sinh Lục Ký lần đầu tại Việt Nam này. – Châu Hải Đường *** Lời giới thiệu Cách đây ít năm, tôi tình cờ đọc một bài trả lời phỏng vấn trên báo của nhà văn nổi tiếng Trung Quốc - Phùng Ký Tài về công việc sáng tác tản văn, trong đó có một đoạn hỏi đáp khiến tôi chú ý; khi phóng viên hỏi: “Nếu phải ở trên một hòn đảo cách biệt được chăm lo đầy đủ, nhưng chỉ được mang theo một cuốn tản văn yêu thích, thì ông sẽ mang theo cuốn sách nào? Vì sao?” Phùng Ký Tài đã không ngần ngại trả lời ngay rằng: “Cuốn sách ấy là Phù sinh lục ký, vì nó có thể đọc đi đọc lại, giống như thơ vậy, đọc lên thấy thích thú và gợi cho mình nhiều suy nghĩ khác nhau.” Câu trả lời ấy của Phùng Ký Tài khiến tôi rất tò mò về cuốn Phù sinh lục ký mà ông nhắc đến, đồng thời, cũng thấy một cảm giác rất quen thuộc, tựa hồ mình đã được nghe về cuốn sách đó ở đâu rồi. Sau khi lục soát lại trí nhớ của mình, tôi mới à lên một tiếng: Hóa ra tôi đã từng được nghe đến tên cuốn sách, và được đọc một vài phiến đoạn của nó qua cuốn Sống đẹp của Lâm Ngữ Đường, được Nguyễn Hiến Lê dịch. Trong tôi chợt dấy lên một mong muốn tìm hiểu trọn vẹn tác phẩm mà Lâm Ngữ Đường Phùng Ký Tài đều đánh giá cao, thậm chí dẫn dụng trong tác phẩm của mình này, cũng như về tác giả của nó. Phù sinh lục ký là một tiểu thuyết tản văn, thể tự truyện đặc sắc của nhà văn đời Thanh - Thẩm Phục. Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất. Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gây lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một bình diện nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân. Tiếc rằng, do tác giả của cuốn sách không có danh vị cao trong xã hội, gia cảnh lại khốn quẫn, nên tác phẩm đã không được ấn hành ngay thời ông còn sinh tiền, mà chỉ có bản chép tay lưu truyền ở đời. Đến năm Quang Tự thứ ba (1877), khi Dương Dẫn Truyền lần đầu tiên ấn hành tác phẩm, thì “sáu ký đã mất hai”, khiến cho bản Phù sinh lục ký truyền thế giống như bức tượng thần Vệ Nữ bị mất cánh tay, chỉ còn lại bốn ký đầu mà thôi. Tuy nhiên, văn chương của Phù sinh lục ký đã lập tức khiến văn đàn sửng sốt và hâm mộ, đến nỗi không lâu sau đó, trên thị trường đã xuất hiện một bản được gọi là Túc bản Phù sinh lục ký (Phù sinh lục ký bản đầy đủ), bổ sung thêm quyền kỷ thứ 5: Trải Trung Sơn, và thứ 6: Nhàn dưỡng sinh. Song, qua khảo chứng của rất nhiều học giả, thì đều có một nhận định chung rằng: hai quyển ký bổ sung ấy đều là ngụy tác. Có thể nói, trong lịch sử văn học Trung Quốc, các tác phẩm, hoặc một phần tác phẩm nguy tác là không ít, song một tác phẩm xuất hiện muộn, ngay trong đời Thanh mà có những phần được ngụy tác, cũng là hiếm có và phải vô cùng đặc biệt. Lâm Ngữ Đường, trong lời tựa bản dịch tiếng Anh cuốn Phù sinh lục ký năm 1936, có nói: “Tôi đoán chừng rằng, trong các tầng thư gia đình ở Tô Châu, hay các tiệm sách cũ, nhất định sẽ có một bản toàn vẹn, nếu có may mắn ấy, thì có thể chúng ta sẽ phát hiện được.” Đến nay, tuy chưa ai phát hiện được một bản toàn vẹn như Lâm Ngữ Đường nói (không tính bản ngụy tác), nhưng cũng rất may mắn, vào năm 2005, nhà sưu tập Bành Lệnh, đã sưu tầm được một cuốn sách viết tay có nhan đề là Ký sự châu của Tiền Vịnh - học giả, nhà thư pháp nổi tiếng đời Thanh, người sống cùng thời với Thẩm Tam Bạch, trong đó đã tìm thấy có những đoạn ghi chép của Tiền Vịnh về Phù sinh lục ký, đặc biệt là thiên: Sách phong Lưu Cầu quốc ký lược,((1) Lưu Cầu: tức quần đảo Ryukyu, thuộc tỉnh Okinawa, cực nam của Nhật Bản ngày nay.) đã được rất nhiều học giả nhận định là sao lục từ quyển thứ 5 - Trải Trung Sơn (hay còn gọi Hải quốc ký) của Thẩm Tam Bạch. Tuy những phần Tiền Vịnh sao lục chưa đầy đủ quyển kỷ thứ 5 - Trải Trung Sơn - đã thất truyền của Thẩm Tam Bạch, nhưng cũng cho chúng ta thấy phần nào trong nguyên tác của ông. Kể từ lần đầu tiên ấn hành cho đến nay, Phù sinh lục ký đã được xuất hơn 120 lần ở Trung Quốc. Quyển 2 – Thú nhàn tình của tác phẩm còn được trích một đoạn dùng trong sách Ngữ văn cho học sinh phổ thông Trung Quốc như là một khuôn mẫu về cổ văn. Đồng thời, tác phẩm được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Anh, Đức, Pháp, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Mã Lai... và ở nhiều nước khác. Tuy nhiên cho đến nay, tác phẩm vẫn chưa từng được dịch và giới thiệu một cách đầy đủ ở Việt Nam. Trong lần xuất bản đầu tiên này, chúng tôi lựa chọn cách giới thiệu tác phẩm tới các bạn độc giả như là một “Túc bản” với phần chính đầy đủ sáu quyển ký, để độc giả có thể hình dung được diện mạo chung của tác phẩm, dẫu rằng hai quyển sau được cho là ngụy tác. Ngoài ra, chúng tôi có dịch bổ sung thiên Sách phong Lưu Cầu quốc ký lược từ Ký sự châu của Tiền Vịnh, cùng một số lời tựa, lời đề bạt của sách trong phần Phụ lục để độc giả tiện tham khảo. Văn chương Phù sinh lục ký cô đọng, súc tích, giàu chất thơ, dịch giả tuy đã cố gắng, nhưng cũng chưa thể truyền đạt hết được cái hay cái đẹp của tác phẩm, rất mong các bậc cao minh bác nhà lượng tình cảm thông (chỉ giáo giúp thêm ý kiến để tác phẩm có thể hoàn thiện hơn nữa. Tháng đầu thu, Mậu Tuất, 2018 Dịch giả *** Về tác giả Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc ở Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất. Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gây lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một bình diện nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân.     Mời các bạn đón đọc Phù Sinh Lục Ký của tác giả Thẩm Phục.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bốn Năm Phấn Hồng - Dịch Phấn Hàn
Bốn năm phấn hồng, mặt trái của một hồi ức đẹp Những nhân cách tha hoá, những tâm hồn mục ruỗng dưới áp lực của hư danh và tiền bạc. “Bốn năm phấn hồng” là những cuộc chiến khắc nghiệt của các nữ sinh chống lại những thử thách của hoàn cảnh: đơn độc, thiếu thốn, bị ức hiếp, bị thôi miên bởi đồng tiền và dục vọng. Càng nếm trải cuộc sống, họ càng chua chát nhận ra tính thị trường hoá của nó… Di Phấn Hàn, Tô Tiêu, La Nghệ Lâm, Trịnh Thuấn Ngôn, Trương Hàm Yên, Trần Thuỷ, Diệp Ly, Lưu Sa Sa, mỗi cô gái một tính cách, một tâm tư, một lối sống, họ là những đại diện của thế hệ sinh viên mới.Khác nhau về quê hương, hoàn cảnh gia đình nhưng họ đã cùng nếm trải những áp lực của cuộc sống xa nhà trong bốn năm kí túc xá. “Bốn năm phấn hồng” là những cuộc chiến khắc nghiệt của các nữ sinh chống lại những thử thách của hoàn cảnh: đơn độc, thiếu thốn, bị ức hiếp, bị thôi miên bởi đồng tiền và dục vọng. Càng nếm trải cuộc sống, họ càng chua chát nhận ra tính thị trường hoá của nó: hàng hoá gia sư, hàng hoá bạn trai, hàng hoá sắc đẹp, hàng hoá tình yêu,…ai trong số các thiếu nữ chưa từng bị lừa trong các cuộc mua bán trá hình này: Trần Thuỷ bị lừa mất sự trong trắng, Lưu Sa Sa sa lầy bán dâm và tự sát, Diệp Ly ăn cắp và bị đuổi học, Tô Tiêu cặp bồ có thai phải đi phá,…. Vấp ngã và đau đớn, và khóc nhưng vẫn phải sống. Bởi cái chết của Lưu Sa Sa lơ lửng trên đầu họ như một lời cảnh cáo cho những kẻ muốn bỏ dở cuộc chơi. Cuốn sách giống như một sự lộn trái đời sống đại học. 439 trang giấy đầy rẫy những toan tính xảo quyệt hay khờ dại. Tô Tiêu hết xoay xở để trở thành tâm điểm thu hút sự tán tỉnh của các chàng trai đến tính toán bồ bịch với đại gia giầu có; La Nghệ Lâm dã tâm như Tư Mã Chiêu, lúc thường thì khinh người, bắt nạt mọi người trong phòng kí túc xá nhưng khi tranh cử lớp trưởng thi xả thân hầu hạ, xu nịnh người khác, sau này lại yêu gã bí thư đoàn trường vừa xấu người xấu tính để dễ thăng tiến chính trị; ngay cả một cô gái không tầm thường như Trịnh Thuấn Ngôn cũng từng đặt điều với người yêu để bôi nhọ Tô Tiêu,….Đồng thời, dường như không ở đâu những thói tật kinh niên của nữ sinh được miêu tả trần trụi và đầy ám ảnh như trong “Bốn năm phấn hồng”: từ thói “buôn dưa”, thói tỵ nạnh đến bệnh hình thức. Sức mạnh sát phạt của miệng lưỡi con gái hiện lên qua cái lưỡi chua ngoa cay nghiệt của La Nghệ Lâm, qua cái lưỡi “nói ngọt lọt đến xương” lẳng lơ của Tô Tiêu đến cái mồm nói như máy khâu của Trần Thuỷ. La Nghệ Lâm từ bêu rếu Diệp Ly chuyện bữa ăn chỉ có củ cái trắng đến tàn tệ chửi mắng cô bạn chuyện vệ sinh hàng ngày, Trần Thuỷ và bạn bè lục trộm tủ quần áo của Tô Tiêu để thẩm định nhãn mác quần áo, Tô Tiêu lẳng lơ buôn điện thoại cả nửa giờ đồng hồ với người yêu bạn cùng phòng. Di Phấn Hàn đã gọi miệng lưỡi con gái là “biển nước bọt”, ngập ngụa những lời bịa đặt nhảm nhí. Độc giả sẽ cảm nhận một cách rõ ràng cái không khí nghẹt thở của môi trường “âm thịnh dương suy”- giống như của nhà giam tội phạm bị tình nghi, bởi mọi hành vi của con người sẽ bị săm soi, mọi sơ hở sẽ được khai thác triệt để để làm phong phú thêm nội dung những bài buôn dưa hùng hồn như những bản cáo trạng. Thông qua những ám ảnh triền miên và khủng khiếp của Di Phấn Hàn, chúng ta rùng mình trước sức băng hoại của cái chất độc ngay trong lòng cuộc sống và trong lòng những người thiếu nữ còn trong trắng như cánh bướm non. Họ không lo sợ thiếu tiền bằng việc bị nhìn như những kẻ không có tiền, họ thà bị kẻ mạnh ức hiếp còn hơn mạo hiểm chống đỡ, nhưng lại sẵn sàng ức hiếp kẻ yếu hơn mình một cách tàn nhẫn, .... Giới trẻ đã sống vô tâm và độc ác như thế. Vụ tự sát kinh hoàng của Lưu Sa Sa, việc Diệp Ly trở thành kẻ ăn cắp không phải do số phận mà là do bị đầu độc đến chết về thể xác và linh hồn. Không phải nữ sinh không cảm thấy sự “vỡ vụn”, “ tàn tạ” của tâm hồn. Di Phấn Hàn, Tô Tiêu, Trần Thuỷ, Diệp Ly, Trịnh Thuấn Ngôn,... đã khóc, đã để tang cho mỗi vết thương không lành đó. Cuốn sách tràn ngập những lời sám hối tuyệt vọng và cay đắng, những sự nức nở của lương tâm:“Chúng tôi đều không phải là người xấu, chúng tôi cũng không có mâu thuẫn gì to tát, chúng tôi không muốn dồn ai đó vào chỗ chết. Nhưng chúng tôi cũng lại là những kẻ ích kỉ và ngu xuẩn. Đó là những mâu thuẫn không thể cứu chữa, không thể điều chỉnh”. Tuy nhiên, thế giới của cuốn sách không chỉ toàn một màu u ám lạnh lẽo. Giống như trong câu chuyện ngụ ngôn mà địa ngục là nơi quỷ sa tăng cất giữ nhứng báu vật của sự sống, cuộc sống đại học càng khan hiếm tình người càng khát khao tình yêu, càng nghèo nàn tiền bạc càng dạt dào mơ ước. Ngay từ đầu cuốn tiểu thuyêt đã quay cuồng trong những cuộc săn đón điện thoại của bạn trai trong phòng kí túc xá. Những hồi chuông diết dóng đó là sự báo trước những cuộc săn lùng tình yêu sẽ nổ ra không ngớt suốt “Bốn năm phấn hồng”. Bạn sẽ tìm thấy trong hàng chục cuộc tinh chớp nhoáng của cô nữ sinh xinh đẹp Tô Tiêu một sự thực lớn hơn sự sa xút về phẩm hạnh, đó là sự đáng thương của nỗi cô đơn tuyệt vọng của con người. Tình yêu với thiếu nữ không chỉ là sự tất yếu của dục vọng mà chính là sự khát khao tìm hồn đồng điệu, tìm sự chở che. Đẹp hơn nữa, cuốn tiểu thuyết viết về tuổi xuân thiếu nữ là độ hoa tình yêu sẽ nở mê đắm. Bởi còn gì mê đắm hơn là khi quyện hoà sự trong trắng và bồng bột, là những con tim lần đầu đập loạn nhịp luôn vội vàng muồn cắn trái tình yêu. Trần Thuỷ say đắm một chàng không quen biết trên mạng, Trịnh Thuấn Ngôn bác học lại yêu khờ dại một tay chơi “Võ lâm truyền kì” đến độ quyên ăn quên ngủ, còn Di Phấn Hàn đã yêu tuyệt vọng một người có vợ,…Đó là những thứ tình yêu dại dột mà khiến người ta mê mẩn vì sự trong trắng tuyệt mỹ của chúng ngay giữa cuộc đời đã bị đồng tiền làm cho nhem nhuốc. “Bốn năm phấn hồng” giống như cuốn nhật kí của một sinh viên đại học. Lối viết dung dị mà tinh tế, sắc sảo mà hài hước của Dịch Phấn Hàn thật dễ đi vào lòng người. Bạn đọc sẽ cảm thấy như đang được nghe lại câu chuyện vê chính cuộc đời mình một cách cực kì hấp dẫn, bất ngờ và thậm chí gây sốc. Dù bạn đã, đang hay chưa từng trải qua cuộc sống đại học như vậy, bạn sẽ không ít lần cảm thấy giật mình về chính mình. Năm 2000, mang theo sự nuối tiếc của kỳ thi đại học, tôi bước vào đại học ở Vũ Hán, một trường đại học trọng điểm. Trong cái thành phố hội tụ rất nhiều trường đại học này, trường của tôi tuy là trường điểm nhưng lại có tiếng tăm chẳng ra sao. Điều này cũng có thể liên quan đến việc trường có quá nhiều nữ sinh. Nơi nào có nhiều con gái, nơi đó có nhiều chuyện thị phi, cho dù họ là những phụ nữ lớn tuổi đã kết hôn hay là những thiếu nữ mới đôi mươi. Bốn năm nay, tôi chưa hề hoà nhập vào cuộc sống ở trường học, chưa hề hoà nhập vào đám nữ sinh trong trường, mặc dù tôi rất gần họ, gần tới mức như không có tí ti khoảng cách nào, gần tới mức mỗi ngày đều cùng ăn, cùng ở, cùng uống, cùng ngủ. Tôi cảm thấy mình giống như một kẻ nhìn bờ đối diện, quan sát cái gọi là cuộc sống sinh viên bình yên đẹp đẽ. Tôi là kẻ ngông cuồng tới mức cảm thấy từ trước tới nay trong trường này, tôi chưa hề có đối thủ. Tôi cho rằng mình luôn đúng, cho đến khi sắp tốt nghiệp mới phát hiện ra rằng mình đã sai. Tôi cho rằng mình là người trong sáng, cho tới khi nhìn lại mới phát hiện ra rằng thời gian bốn năm đã biến tôi thành một người giống như hầu hết những người ở đây, cuối cùng cũng rơi vào vũng bùn nhơ. Tôi cho rằng mình là người thuần khiết, cho tới khi viết ra những dòng này mới biết, mình không khác gì so với những nữ sinh khác, chẳng qua là tự cảm thấy mình tài giỏi hơn một chút. Bốn năm trước, chúng tôi đều từng là gái trinh, hoặc đều thuần khiết thánh thiện như gái trinh, chúng tôi bước vào tháp ngà với tấm thân trong sáng. Chúng tôi là những thiên thần không có đôi cánh. Bốn năm sau, chúng tôi rời nơi này, mang theo một vài thứ, để lại một vài thứ, có được vài thứ, thứ mất đi là nhiều hơn cả. Bốn năm qua đi, nhan sắc tuổi diễm lệ của tuổi xuân cũng đi qua, nhiều lắm cũng chỉ có thể giữ lại được con tim thục nữ. Đây là một cuốn tiểu thuyết về nữ sinh đại học. Nữ sinh viết tiểu thuyết của nữ sinh. Tôi là một nữ sinh thông minh. Tôi tự tin rằng khả năng "nhìn trộm" và khả năng cảm nhận của mình có thể khiến tất cả những nam sinh hay nữ sinh, đàn ông hay phụ nữ có hứng thú với nữ sinh đại học đều cảm thấy hài lòng. Cũng có thể, tôi tự cho rằng mình viết rất thấu đáo, nhưng chẳng qua chỉ là "ếch ngồi đáy giếng" mà thôi. Tất cả các nhân vật chính đều là nữ sinh, tất cả những nhân vật có danh tính đều là nữ sinh. Những câu chuyện giữa nữ sinh với nữ sinh, giữa nữ sinh và đàn ông là những câu chuyện không bao giờ nói hết. *** Dịch Phấn Hàn là tên của một nữ nhà văn trẻ đang nổi trên văn đàn Trung Quốc. Tác phẩm của Dịch Phấn Hàn thường lấy đề tài từ cuộc sống và nhất là từ đời sống tình cảm của những người trẻ trong xã hội hiện đại. Năm 2008, cuốn tiểu thuyết có cái tên khá ấn tượng Cô đơn vào đời của Dịch Phấn Hàn sau khi cuốn hút được bạn đọc Trung Quốc đã được dịch giả Minh Thảo dịch ra tiếng Việt và NXB Văn học ấn hành. *** Sau khi từ toà báo về tôi đã chuyển nhà đến đơn vị thực tập ở Hàn Khẩu. Trong thời gian thực tập của năm thứ tư, tôi và bạn trai bắt đầu sống chung. Đối với tôi việc này còn quan trọng hơn việc thực tập rất nhiều. Nguyên nhân của việc sống chung là đơn vị thực tập của tôi ở Hàn Khẩu mà trường học của tôi lại ở Vũ Xương. Để thuận tiện hơn chúng tôi đã sống chung. Tôi và bạn trai tôi quen nhau thế nào không phải là điều quan trọng. Quan trọng là tôi và anh ấy yêu nhau, và đã về sống với nhau. Không biết sau này tôi có còn yêu anh ấy không nhưng giờ đây tất cả tình yêu của tôi đều dành cho anh ấy, cho cuộc sống chung này, vì thế chúng tôi không phải giấu giếm nhau gì nữa. Lời hứa về "chuyện ấy" là một cam kết rất quan trọng, cách nhìn của tôi từ trước đến giờ vẫn vậy. Trong trường học người ta cho phép được yêu nhau, nhưng sống với nhau thì cấm tuyệt đối. Cho đến tận ngày sống chung, tôi vẫn không ý thức được rõ ràng mình đang làm gì. Anh ấy nói: "Em yêu, chúng ta sống cùng nhau nhé, để mỗi ngày không phải đi đi về về hai lần nữa, mệt lắm". Tôi đồng ý mà gần như không suy nghĩ gì cả. Cách nghĩ của tôi rất đơn giản. Sống với nhau không có nghĩa là buộc phải có chuyện đó. Tôi suy nghĩ ngây thơ như vậy đấy. Điều này cũng đã cho thấy, rõ ràng quan niệm về tình yêu của tôi còn quá non nớt. Tôi khát khao được trở thành người trưởng thành nhưng cũng sợ trách nhiệm mà một người trưởng thành phải gánh vác. Ban đầu chúng tôi tìm được một căn nhà, ở đó phải thuê chung với người khác. Có hai phòng, phòng còn lại cũng là một đôi. Buổi sáng hôm chúng tôi đi xem phòng, ra mở cửa cho chúng tôi là một cô gái vẫn còn mặc nguyên áo ngủ, đầu tóc bù xù. Khi cô ấy đưa tay lên buộc tóc tôi đã kịp nhìn thấy "cỏ" dưới cánh tay cô ấy đen sì như cả tháng nay chưa được dọn dẹp. Còn người bạn trai để nguyên bộ dạng mình trần đi ra. Trong phút chốc, tôi bỗng thấy sợ. Ý thức được rằng cuộc sống chung sẽ xoá bỏ mọi rào cản giữa tôi và người tôi yêu, nếu cuộc sống ấy biến một người con gái thành một bà già lôi thôi, luộm thuộm, ăn mòn tất cả sự kín đáo dịu dàng của người con gái, tôi sẽ tình nguyện sống độc thân. Trong tôi một nỗi sợ hãi chưa bao giờ có về hai từ "sống thử" đã hình thành. Thực ra chẳng qua là chưa hiểu rõ về tình yêu. Thực ra, chẳng qua là đã ước mong quá cao vời về tình yêu và cuộc sống. Nữ sinh. Một nữ sinh còn chưa rời khỏi ghế nhà trường. Một nữ sinh với những khát vọng cao xa về tình yêu, cuộc sống. Sống thử sẽ biến tình yêu thành gần giống với những thói thường ngày, hiện thực đã làm tan vỡ giấc mộng tình yêu chưa kịp dứt. Tôi không thể chấp nhận một ngày nào đó sau khi sống chung, tôi cũng xuất hiện trước mặt người lạ với bộ dạng đầu tóc rối bù, mặt mày nhem nhuốc, vẫn còn mặc nguyên áo ngủ. Tôi cũng không thể chấp nhận một ngày nào đó sống chung tôi mặc áo sát nách, để lộ nguyên vùng "cỏ" dưới cánh tay chưa dọn sạch cho cả thiên hạ nhìn thấy... Trong trường học, có bao nhiêu nữ sinh ôm ấp niềm mong mỏi về một cuộc sống yêu thương tươi đẹp, nên đã lựa chọn sống chung vói người mình yêu, rồi lại từ tổ ấm đã từng chung sống đó ra đi mang theo tình yêu vỡ vụn. Tôi tin rằng những nữ sinh này sẽ thay đổi không chỉ quan niệm về tình yêu, mà cả những điều nhỏ nhặt nhất khi làm con gái. ... Mời các bạn đón đọc Bốn Năm Phấn Hồng của tác giả Dịch Phấn Hàn.
Bí Mật Một Gia Tài - Eugenie Marlitt
E. Marlitt là bút hiệu của Eugenie John (1825 - 1887), một tiểu thuyết gia nổi tiếng người Đức. Eugenie John sinh tại Arnstadt. Cha bà là một hoạ sĩ vẽ chân dung. Sự bảo trợ của bà là công chúa của Schwarzburg Sondershausen, người đã nhận nuôi bà vào năm 1841 và gửi bà đến Vienna để học nhạc trong ba năm nhờ vào giọng nói tốt của bà. Eugenie John trở nên điếc, và trở lại Sondershausen, sống 11 năm tại tòa án với tư cách là thư kí viên. Các đồng nghiệp của bà đã bị hấp dẫn bởi phong viết văn của bà, và khuyến khích Eugenie John sáng tác tiểu thuyết. Vì mục đích này, bà trở lại Arnstadt vào năm 1863, và bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách một nhà văn. • Tác phẩm Die zwölf Apostel (1865): Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Eugenie John, nó xuất hiện ở Leipzig Gartenlaube. Goldelse (1866): Cuốn tiểu thuyết này đánh dấu sự nổi tiếng của Eugenie John, độc giả của nó bị thu hút bởi những miêu tả về hình ảnh và thơ mộng về cuộc đời Đức. Blaubart (1866); Das Geheimnis der alten Mamsell (1868 - Bí Mật Một Gia Tài); Thüringer Erzählungen (1869), Reichsgräfin Gisela (1870); Heideprinzeßchen (1872); Die zweite Frau (1874) *** Sáng hôm ấy, ở khắp các góc phố trong thành phố X. đều dán những tờ quảng cáo đỏ báo tin nhà ảo thuật trứ danh Ooclôpxki đã đến cùng các tiết mục kỳ diệu của anh. Một thiếu phụ đến từng nhà bán vé. Nàng rất đẹp. Bộ tóc vàng hung lộng lẫy, dáng dấp kiều diễm và quý phái, nhưng bộ mặt dịu dàng của nàng xanh, nhợt nhạt như xác chết - người ta thường nói thế và những lúc hiếm hoi nàng ngước cặp lông mi vàng óng lên, đôi mắt xám sẫm chất chứa vẻ êm dịu và gần như thê thảm làm xúc động lòng người. Nàng vào cả nhà ông Hêluy, ngôi nhà sang trọng nhất ở phố chợ. — Thưa bà, - Hăngri, người đầy tớ ở tầng dưới gọi, - vợ người làm ảo thật đến. — Chị ta muốn gì? - một giọng đàn bà nghiêm khắc hỏi. — Chồng chị ấy biểu diễn ngày mai, chị ấy muốn mời bà mua một vé vào xem. — Chúng ta là những tín đồ lương thiện, và cũng không có tiền để tiêu cho những trò hề ấy. Đuổi họ đi, Hăngri. Người đầy tớ đóng cửa phòng lại. Bác gãi tai, nét mặt bối rối, vì người biểu diễn chắc đã nghe thấy hết. Nàng đứng sững sờ trước mặt bác một lúc: mặt nàng thoáng đỏ lên và một tiếng thở dài nặng nề từ trong ngực thốt ra… Ngay lúc ấy, một cánh cửa nhỏ trổ trên cửa lớn hé ra, có tiếng đàn ông khẽ hỏi mua một vé, vé đưa ra, một đồng hai êquy nhẹ đưa vào tay thiếu phụ trước khi nàng kịp ngước mắt lên, cánh cửa nhỏ đã đóng lại. Tấm rèm xanh rủ những nếp mờ che sau cửa kính. Hăngri mở cửa và mỉm cười vui vẻ, người đàn bà đi ra với những bước chân ngập ngừng để tiếp tục con đường chông gai của mình. Hôm sau, phòng khánh tiết ở thị sảnh chật ních người xem. Hăngri lọt vào giữa đám đông, phải chen chúc mới thoát ra được để đến gần chủ. Ông ngồi cạnh một người bạn là bác sĩ Buêơm trên khán đài, giữa những người có địa vị trong tỉnh. Người xem tuôn đến cũng dễ hiểu. Chương trình hứa hẹn những tiết mục tuyệt diệu và tiết mục cuối cùng được viết như sau: “Bà Ooclôpxki sẽ xuất hiện trong vai Vankiri[1]. Sáu người lính sẽ nổ súng vào bà, bằng một nhát kiếm, bà sẽ chém đứt ngang sáu viên đạn đang bay”. Dân chúng ở X. đến đây chủ yếu để nhìn thấy điều phi thường này. Người đàn bà trẻ và đẹp đã làm cho mọi người chú ý, ai nấy muốn thấy nét mặt của nàng sẽ như thế nào khi các nòng súng chĩa vào nàng… Nhà ảo thuật cũng thu hút được sự chú ý của công chúng bằng các trò nhanh tay. Anh là người mà các bà thường gọi là một nhân vật lý thú. Người vừa phải, mềm mại dong dỏng cao, anh có nét mặt đều đặn, tóc đen, hai mắt đầy tình cảm, cử chỉ lịch sự và cách nói tiếng Đức nhấn mạnh giọng càng làm cho anh thêm hấp dẫn. Nhưng mọi giá trị ấy đều bị quên ngay khi sáu người bồng súng do một viên đội chỉ huy bước vào. Cử tọa bỗng náo nhiệt. Có thể nói đây là tiếng ầm ĩ của các ngọn sóng vỗ vào đá. Rồi tiếp đến là sự lặng lẽ đột ngột như lo sợ. Người Ba Lan tiến đến gần một cái bàn và đóng thuốc súng vào vỏ đạn trước mặt công chúng. Anh lấy búa nện lên từng viên đạn, để tiếng động ấy làm cho khán giả đang hồi hộp tin rằng đấy là những viên đạn thật. Rồi anh đưa cho mỗi người lính một viên và bảo họ nạp đạn. Nhà ảo thuật giơ chuông lắc. Một người đàn bà từ sau bức màn rộng bước ra. Nàng thong thả tiến lên dọc theo sân khấu và đến đứng trước mặt những người lính. Sự xuất hiện thật tuyệt diệu! Một chiếc mộc che trên cánh tay trái, tay phải nàng cầm kiếm. Chiếc áo dài trắng rủ thành nhiều nếp rộng xuống tận chân; chung quanh hông buộc các vảy bạc. Và tấm thân tuyệt đẹp được bảo vệ bằng chiếc áo giáp lóng lánh. Nhưng trang phục rực rỡ ấy so làm sao được với ánh vàng lóng lánh của bộ tóc tuôn như sóng từ chiếc mũ sắt xuống tận gần gấu áo dài. Khuôn mặt xanh xao và buồn rầu hướng về phía các họng súng gây chết chóc. Không một sợi lông mi rung động. Không thấy một xao động nào ở bộ áo bồng bềnh, nàng đứng đấy như một pho tượng đá. Tiếng hô cuối cùng vang lên trong gian phòng lặng lẽ, sáu tiếng súng nổ cùng một loạt… thanh kiếm chém vào không khí rít lên, và những nửa viên đạn rụng xuống sàn. ... Mời các bạn đón đọc Bí Mật Một Gia Tài của tác giả Eugenie Marlitt.
Axya
Truyện dài của Turgenev, kể về một mối tình thoảng qua giữa một cô gái Nga mới lớn sôi nổi, chưa biết yêu là gì và một anh chàng Nga tại Đức. Mối tình trong vài ngày kết thúc bằng việc cô gái tỏ tình, chàng trai không chắc chắn nên từ chối, khiến anh em cô gái bỏ đi. Chàng trai hối hận tìm kiếm nhưng không bao giờ gặp lại cô gái. *** Ngày ấy tôi mới hăm nhăm, - ông N.N mở đầu câu chuyện như vậy hẳn các bạn cũng thấy, chuyện xảy ra cách đây đã lâu. Thu xếp xong công việc, tôi bỏ ra nước ngoài ngay, nhưng không phải để “du học” như người ta thường nói thời bấy giờ, mà chỉ vì tôi muốn chu du trong thiên hạ, quan sát thế gian của các thánh thần. Tôi còn trẻ, sức lực dồi dào, và trong lòng lúc nào tôi cũng thấy vui: sản nghiệp còn nguyên vẹn và trong đầu chưa kịp gợn một chút lo âu, tóm lại là tôi đã sống những ngày hoàn toàn tự do thoải mái, muốn làm gì thì làm, những tháng năm xuân sắc nhất của con người. Thuở ấy nào tôi có nghĩ được rằng con người ta đâu có phải là thảo mộc, và tuổi xuân không thể nào cứ xanh tươi mãi. Tuổi thanh xuân cứ tiêu đi những chiếc bánh dát vàng nhưng lại tưởng đó chẳng qua cũng chỉ là thứ bánh ăn thường ngày, đã mấy ai nghĩ được rằng sẽ có lúc một mẩu bánh cũng phải ngửa tay xin. Nhưng thôi lý giải làm gì chuyện ấy. Tôi đi ngao du không hề có chương trình và cũng chẳng nhằm một mục đích gì hết. Thích đâu thì dừng lại đấy để rồi lại bỏ đi ngay, vì tôi luôn luôn cảm thấy một niềm khao khát được thấy những gương mặt mới lạ chính là diện mạo con người. Tôi chỉ lưu tâm quan sát con người, tôi căm ghét những di tích bất hủ đầy vẻ hiếu kỳ, những bộ sưu tập hiếm hoi quý giá, chỉ riêng bộ dạng của người dẫn đường[1] cũng đã gây cho tôi cảm giác buồn bực. Tôi suýt phát điên lên ở “Nhà bảo tàng xanh”[2] tại thành phố Đresđen. Thiên nhiên gây cho tôi những cảm xúc cực kỳ mạnh, nhưng tôi không yêu cái gọi là vẻ đẹp của nó, không yêu những ngọn núi hùng vĩ, những thác ghềnh. Tôi không yêu để nó khỏi ràng buộc, quấy rầy tôi. Thế nhưng con người, những con người sống động: từ lời ăn tiếng nói, dáng điệu cho đến tiếng cười, đó mới chính là cái tôi không thể nào bỏ qua. Ở giữa đám đông bao giờ tôi cũng cảm thấy thanh thản và vô cùng thích thú, tôi vui vẻ đi theo thiên hạ, hò hét theo người ta, nhưng trong lúc đó tôi lại khoái trá đứng xem đám người kia la hét. Tôi rất thích quan sát con người… cũng không phải quan sát mà là nghiên cứu con người với cặp mắt tò mò đầy vẻ háo hức và không biết chán. Nhưng tôi lại nói lạc đề rồi. Như vậy là cách đây hai mươi năm tôi đã sống trong một thị trấn nhỏ ở Đức, thị trấn Z nằm ở tả ngạn sông Ranh. Tôi đã cố náu mình ở một nơi hẻo lánh và hiu quạnh, một quả phụ vừa gieo cho tôi một vết thương lòng, tôi quen biết bà ta ở nhà nghỉ có suối nước khoáng. Đó là một thiếu phụ rất duyên dáng và thông minh, bà ta tỏ ra kiêu sa với tất cả mọi người nhưng với tôi một con người lầm lẫn thì lúc đầu bà ta thậm chí còn khích lệ tôi, nhưng sau đó lại hắt hủi tôi một cách tàn nhẫn, khi đã thí tôi vì một viên trung úy người Baviê. Thực ra vết thương ấy của tôi cũng không lấy gì làm ghê gớm lắm, nhưng tôi thấy cũng nên có một thời náu mình trong cô đơn và buồn rầu - cái mà tuổi trẻ không say mê! - và thế là tôi đã trú ngụ tại thị trấn Z. Tôi thích thị trấn này vì cái địa thế của nó ở chân hai quả đồi cao, vì trong thị trấn có những bức tường cũ nát và nhiều ngọn tháp, có những cây bồ đề cổ thụ, có chiếc cầu dốc bắc qua dòng suối chảy ra sông Ranh, nhưng cái chính là ở đây có thứ rượu vang ngon tuyệt trần. Chiều chiều, khi trời vừa tắt nắng (đó là vào khoảng tháng sáu) những cô gái Đức tóc vàng hoe nom thật xinh xắn đi dạo trên các đường phố nhỏ hẹp, mỗi khi gặp người nước ngoài các cô cất tiếng chào: “Guten Abend?”[3] với cái giọng nghe thật dễ thương, - và cho đến lúc vầng trăng đã ló ra sau những mái nhà nóc nhọn trên những căn nhà kiểu cổ, và những viên đá nhỏ trên mặt đường lát đá đã hiện lên rõ mồn một dưới ánh trăng im lìm, vậy mà một số cô vẫn chưa muốn về. Vào những lúc ấy tôi thích đi lang thang trong thành phố. Từ trên khoảng trời trong, vầng trăng dường như đang chăm chú ngó nhìn xuống thành phố: và hình như phố xá cũng cảm thấy rõ cái nhìn ấy nên đã tỏ ra ân cần và nhũn nhặn tắm mình trong ánh trăng - cái ánh sáng mịn màng tĩnh mịch nhưng đồng thời cũng khơi gợi lên trong lòng người một nỗi xốn xang êm dịu. Con gà trống trên cái tháp chuông cao vút kiểu gô-tích sáng óng ánh trong ánh trăng vàng nhàn nhạt, cả những gợn sóng lăn tăn trên mặt con suối đen bóng cũng lấp lánh trôi đi trong ánh trăng vàng, những ngọn nến nhỏ xíu (người Đức vốn tằn tiện!) sáng lờ mờ với cái vẻ khiêm nhường trong các ô cửa sổ hẹp dưới những mái nhà lợp ngói grifen. Những cây nho mọc sau hàng tường dậu xây bằng đá hộc chìa ra những sợi tay leo cong queo nom thật bí ẩn. Bên cái giếng nước cổ xưa, một vật gì lao đi trong bóng tối qua bãi đất hình tam giác, đột nhiên vang lên một hồi còi uể oải của người gác đêm, con chó hiền lành gầm gừ mấy tiếng nửa vời, và khí trời mát dịu cứ mơn man trên da mát, bồ đề tỏa hương thơm ngào ngạt đến nỗi lồng ngực ta bất giác cứ thở hít mãi mỗi lúc một sâu hơn, và tiếng: “Gretkhen”[4] - nửa như ca thán, nửa như nghi vấn cứ thế buột ra khỏi miệng ta. Thị trấn Z nằm cách sông Ranh hai véctơ. Tôi thường ra ngắm dòng sông hùng vĩ, và ngồi hàng mấy giờ liền trên chiếc ghế đá dưới gốc cây tần bì to lớn đứng trơ trọi trên bờ sông, lòng dạ bồi hồi mơ tưởng tới người quả phụ nham hiểm kia. Dưới tán lá cây tần bì, bức tượng Đức mẹ nhỏ nhắn rầu rĩ nhìn ra với nét mặt nom giống như mặt trẻ con và trái tim đỏ tươi trên lồng ngực bị nhiều nhát gươm đâm thủng. Bờ bên kia là thị trấn L, không to hơn thị trấn tôi đang ở là bao. Một chiều tôi đang ngồi trên chiếc ghế đá yêu thích của tôi và ngắm cảnh: hết nhìn ra lòng sông, lại ngước nhìn lên bầu trời hoặc ngắm những vườn nho. Trước mặt tôi mấy em bé tóc ngắn đang leo trèo trên mạn một con thuyền đã bị kéo lên cạn và nằm phơi cái bụng quét hắc ín lên trời. Những chiếc thuyền nhỏ lững lờ trôi theo những cánh buồm không đầy gió, những làn sóng xanh lướt qua, hơi cồn lên và chạy lao xao bên mạn thuyền. Bỗng nhiên có tiếng nhạc từ xa vọng lại, tôi chăm chú lắng nghe. Bên thành phố L người ta đang chơi một điệu nhạc vanxơ: tiếng côntrơ-baxơ ậm ừ trầm mặc, tiếng viôlông réo rắt mơ hồ, tiếng flutơ nghe lềnh lảng thướt tha. - Người ta làm gì mà cử nhạc thế, hả cụ? - tôi hỏi ông già mặc áo gi-lê nhung, mang tất xanh và đi đôi giày có khóa sắt, lúc ấy vừa mới đến gần chỗ tôi. - Đó là cánh sinh viên từ B về dự hội Commerxơ - ông già thong thả chuyển cái tẩu thuốc từ mép này sang mép kia rồi mới trả lời tôi. “Hay là mình sang ngó thử xem cái hội Commerxơ ấy là cái gì - tôi nhủ thầm, - hơn nữa mình cũng chưa đặt chân lên thị trấn L lần nào”. Tôi tìm người lái đò và sang sông. ... Mời các bạn đón đọc Axya của tác giả Ivan Turgenev.
Viên Ngọc Trai - John Steinbeck
Viên Ngọc Trai, có bản dịch khác với tựa Viên Trân Châu, là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng của John Steinbeck. Vì bài học có giá trị nhân văn của nó, nó đã được dùng để giảng dạy trong trường trung học cơ sở ở một số nơi trong Hoa Kỳ. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền trong dân gian, “Viên ngọc trai” cũng đề cập đến hai vấn đề muôn thuở: Thiện và ác – Bóng tối và ánh sáng. Phàm đã mang kiếp con người, có lẽ ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Ranh giới giữa thiện và ác rất mong manh, nó nằm trong bản chất nội tại của con người, lệch 1 chút về phía ánh sáng sẽ là “người”, nghiêng nhiều về phía bóng tối sẽ trở thành “con”. Từ đó, con người nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại theo quan niệm chung của nhân loài. Và hiển nhiên là không có điều gì có thể thay đổi được định luật này cả. “Viên ngọc trai” – một câu chuyện ngụ ngôn đầy ý nghĩa, tuy có phần trừu tượng nhưng John Steinbeck đã xây dựng một tiểu thuyết với kỹ năng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu, không chỉ hoàn thiện về ý nghĩa biểu tượng mà còn sắc bén với những chi tiết rõ nét, như được quay qua một ống kính máy ảnh. Viên Ngọc Trai có một bài học đạo đức cao bao gồm một cuộc sống của một người nông dân bình thường đã có một chút lòng tham đã đem lại điều đau khổ, thậm chí còn nghèo khổ và mất mát nhiều hơn trước khi anh có Viên Ngọc Trai. Cuốn tiểu thuyết đã cho chúng ta cái nhìn qua nhân vật thầy tu, đã tham gia vô sự đàn áp dân chúng. Cuốn truyện con nhắn cho chúng ta về sự ác bức và sự phân biệt chủng tộc qua đời sống của một thường dân. Viên Ngọc Trai, chỉ là một thứ nằm trong lòng bàn tay đã có thể mang tới cái chết và hủy diệt của một gia đình hiền hòa được mọi người yêu mến. Kino chỉ nhìn thấy một tương lai giàu có mà Viên Ngọc Trai sẽ mang lại, tuy nó mang lại sự thịnh vượng có hạn nhưng nhiều người tin rằng nó có năng lực tột cùng. *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Trong thị trấn ấy người ta vẫn kể lại câu chuyện về một viên ngọc trai thật quái đản - về xuất sứ như thế nào nó được tìm thấy cũng như lý do tại sao nó lại bị mất đi. Người ta kể về Kino, một người đàn ông sống bằng nghề thuyền chài, cùng với vợ của anh là chị Juanna. Đứa con nhỏ bé của họ là Coyotio. Câu chuyện được kể đi kể lại nhiều lần, cuối cùng đã bén rễ, ăn sâu vào tâm trí của những con người sinh sống nơi đây. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền lại từ ký ức của con người khác, câu chuyện này nhắc đến hai điều: Thiện và Ác. Bóng đêm và ánh sáng. Cái tốt và sự Quỷ quyệt. Phàm đã mang kiếp con người, ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Khó mà có chuyện anh bạn sẽ là người ba phải. Anh bạn nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại. Tất nhiên là không có điều gì thay đổi được định luật này cả. Nếu câu chuyện về viên ngọc trai sắp đuợc kể ra dưới đây, như là một chứng tích hay là một câu truyện ngụ ngôn, hy vọng bạn có thể sẽ sẽ rút ra được cho mình một bài học ý nghĩa riêng biệt. Bạn sẽ thấy mình là một nhân vật của câu chuyện. Tóm lại như thế này, trong một làng chài bình dị ấy, người ta kể rằng... Mời các bạn đón đọc Viên Ngọc Trai của tác giả John Steinbeck.