Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xibiri

XIBIRI Tác giả: Ghêorghi Markốp (Georgy Mokeyevich Markov) Quyển sách này không nói về chiến tranh mà nói về cuộc trốn chạy của một tù nhân chính trị bị đày đi Xibiri. Ivan, là một sinh viên, là cháu của một nhà bác học người Nga chuyên nghiên cứu về khoáng sản, địa chất, đặc biệt là vùng Xibiri. Anh bị bắt vì tham gia đấu tranh chống lại Nga Hoàng.Đồng đội đã tổ chức cho anh vượt ngục thông qua sự giúp đỡ của người dân địa phương. Sau khi trốn thoát, anh có nhiệm vụ sang Thụy Điển để giúp ông bác của anh lưu giữ những tài liệu về vùng đất Xibiri mà bọn Tư bản nước ngoài rất thèm muốn và rắp tâm đoạt lấy. Cái thu hút của tác phẩm không năm ở những cảnh rượt đuổi, chạy trốn mà trong tác phẩm này, Ghêorghi Markốp đã miêu tả thiên nhiên và con người ở Xibiri, cách họ chống chọi với khắc nghiệt của thời tiết, cách họ săn thú, đánh bắt cá, cách ngủ đêm, sưởi ấm trên tuyết. Ngoài ra, tính chính trị trong tác phẩm là rất rõ ràng nhưng dễ chịu, dễ tiếp nhận, ngay cả tình yêu giữa Ivan và Ca-chi-a cũng rất nhẹ nhàng nhưng đầy bất ngờ. Một tác phẩm đáng đọc dành do những ai thích phiêu lưu và thích thiên thiên. *** TIỂU THUYẾT HAI TẬP Nhà xuất bản Cầu vồng Mátxcơva 1984 In theo bản dịch của Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội Người dịch: Chu Nga và Thúy Toàn Người hiệu đính: Trần Phú Thuyết Георгий Марков СИБИРЬ На вьетнамском языке © “Известия”, 1976 © Bản dịch tiếng Việt, Nhà xuất bản Cầu vồng, 1984 In tại Liên Xô​ Ghêorghi Markốp (sinh năm: 1911) - nhà văn Liên Xô trứ danh, nhà hoạt động xã hội, Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa: (1974), người đoạt giải thưởng Lênin (1976), tác giả các tiểu thuyết nổi tiếng về Xibiri: “Gia đình Strôgốp”, “Muối của đất”, “Cha và con”. Xibiri là quê hương của nhà văn thời thơ ấu và tuổi thanh xuân. Cùng với cha đẻ, một người chuyên đi săn gấu, ông đã đi dọc ngang khắp rừng taiga và các sông lớn nhất ở Xibiri. “Môi rường thợ săn, lao động kiếm kế sinh nhai, trại của những người đi săn và đống lửa trong rừng taiga là trường học mở đầu của đời tôi”,- Markốp kể như vậy. Tất cả mọi tác phẩm của nhà văn bắt nguồn từ đấy. Tiểu thuyết “Xibiri” (1969 - 1973) của ông cũng đâm rễ ăn sâu vào đây. Mở ra trước mắt người đọc tiểu thuyết này là những bức tranh cuộc sống hào phóng của Xibiri đầu thế kỷ XX: những cánh rừng taiga và thảo nguyên mênh mông, những con sông hùng vĩ; những đầm lầy chứa khí đốt mà ngay cả những lúc băng giá dữ tợn cũng không đóng băng; những ao hồ đầy cá, nhiều thành phố và làng mạc. Cũng như ở khắp nước Nga, tư tưởng cách mạng đã bùng lên tại đây, ngày càng tăng thêm ý chí và khả năng sẵn sàng lật đổ chế độ chuyên quyền, đem mọi tài nguyên của vùng này phục vụ nhân dân. Chủ đề lịch sử cách mạng trong tác phẩm là dựa trên các sự kiện và số phận của những con người cụ thể. “Tất cả những gì đã xảy ra, - Ghêorghi Markốp viết, - đều đan quyện chặt chẽ với hư cấu cả trên cơ sở sự kiện của cốt chuyện, cả về tính cách của các nhân vật”. *** Êpiphan Crivôrucốp, chủ nhân ông đầu tiên ở làng Gôlêsikhinô, đang tổ chức đám cưới cho đứa con trai của y là Nhikipho. Dạo ấy là vào khoảng giữa tháng mười. Gió lạnh từ sông Ôbi từng cơn từng cơn thổi về, cuốn theo những bông tuyết làm mù mịt cả không trung. Trên bãi cát đã óng ánh một lớp băng, trên cánh đồng, trong tầm mắt của ta, những đám cỏ và những thửa ruộng vừa gặt cũng ánh lên qua màng băng mỏng. Mùa đông đang phóng tới, chỉ có những cánh rừng bá hương vây quanh làng Gôlêsikhinô cây mọc sát vào nhau là kìm bớt được phần nào cuộc tấn công ào ạt ấy. Bầu trời trắng đục và những đám mây đen lững lờ trôi trên làng xóm bất cứ lúc nào cũng có thể rắc tuyết xuống phủ kín khắp mọi nơi. Họ hàng đông con nhiều cháu nhà Crivôrucốp làm náo động cả một vùng. Suốt ngày đêm trong ngôi nhà của Êpiphan không ngớt tiếng hát và tiếng phong cầm đệm, tiếng chân dậm của đám người nhảy múa, tiếng hò hét, đùa rỡn của bọn bạn thằng Nhikipho. Những người làm thuê cho nhà Crivôrucốp, người phi ngựa kẻ chạy bộ, tỏa đi khắp nơi lo kiếm nào cá tươi từ sông Ôbi, nào chim đa đa và gà lôi từ rừng taiga, nào những hộp mật và hộp nhựa bạch dương từ cánh rừng trên khu đất vỡ hoang của nhà Crivôrucốp đưa về làm món ăn cho bữa tiệc cưới. Những con chó làng Gôlêsikhinô hoảng sợ trước sự náo động bao trùm khắp làng xóm ấy, đã sủa lên ầm ĩ, liên hồi, sủa đến đứt cả hơi. Vào ngày thứ ba, khi đám cưới đang ở độ náo nhiệt nhất, thì một chiếc thuyền chở viên cảnh sát trưởng của vùng Parabên và năm người vệ binh ghé vào bờ sông, phía làng Gôlêsikhinô. Viên cảnh sát trưởng đẩy cửa xông vào nhà Crivôrucốp và hét lớn, át cả tiếng ầm ĩ làm rung động nhà cửa: - Tôi ra lệnh, tất cả phải im ngay!.. Một tên tội phạm quốc gia quan trọng vào bậc nhất giam ở Narưm vừa trốn khỏi nhà tù! Lệnh xuống là phải tìm bắt cho bằng được tên này, bắt sống hay giết chết đem xác về cũng được! Ai bắt được y sẽ được trọng thưởng! Tất cả hãy lập tức mặc ấm vào - cả đàn ông lẫn đàn bà - không phân biệt! Đám người trong nhà Crivôrucốp đứng ngẩn ra một lúc. Từ lúc cha sinh mẹ đẻ họ chưa từng chứng kiến một sự kiện nào tương tự: hãy dẹp đồ nhắm với rượu lại mà ba chân bốn cẳng chạy đuổi theo một tên tù vừa trốn khỏi nhà giam, chẳng ma nào biết hắn là ai, cứ như thể mình không còn phải là con người nữa mà, lạy trời, là một thứ ngựa cái chết tiệt nào vậy. Mấy cậu thanh niên vừa định phản đối, nhưng viên cảnh sát trưởng đã len được vào tận chỗ Êpiphan ngồi dưới chân bức tượng thánh và thầm thì vào tai y, cái tai sứt đeo khuyên, một điều gì đó. Và người ta nghe tiếng ông chủ nhà quát lớn: - Các bạn trẻ, cấm không ai được nói gì! Vị đại diện cho đức vua đã ra lệnh! Có nghĩa là - hãy gác lại cuộc chơi! Tất cả những người có mặt tại đây hãy ra sân, rồi vào rừng, quãng bờ sông ấy! Tên tù thế nào cũng còn đang loanh quanh ở đấy, nó chưa thể trốn đi đâu được! - Thật là khủng khiếp quá chừng! Ngày xưa người ta săn đuổi thú rừng, bây giờ thì người ta lại bắt đầu săn đuổi cả con người nữa, - sau ba ngày, lần đầu tiên cô dâu dám mạnh dạn cất lời. Nhưng những lời cô nói bị chìm đi trong tiếng hét hò ầm ầm căng thẳng. Tưởng như chỉ thêm một giây lát nữa - thì những bức tường bằng gỗ thông, rất chắc chắn của ngôi nhà hai tầng nhà Crivôrucốp sẽ bật tung ra vì không chịu đựng nổi sự ầm ĩ ấy. - Này Nhikipho, Nhikipho đâu! - ông chủ của ngôi nhà gào tên gọi đứa con trai. - Con hãy rót rượu ra mời các ngài đại diện cho đức vua đi. Rượu vào, mắt sẽ tinh hơn, Nhikipho làm theo lệnh bố. Viên cảnh sát trưởng và đội vệ binh vừa đứng vừa uống rượu và dùng thức nhắm, mỗi người vớ lấy những thứ gần mình nhất: người miếng thịt hươu, kẻ chiếc bánh bột rán với khúc cá chiên, có người lại vớ được chú gà đồng rán tẩm kem chua. Nửa giờ sau, cái đám người hỗn độn ấy, vừa hò hét vừa la lối, chạy tản ra khắp bờ sông. Có nhiều người trong số đàn ông mang theo rìu, xiên, xẻng, thuổng, còn bọn bạn bè thân cận của thằng Nhikipho cũng như bản thân nó thì lại mang theo súng. Ở nhà Crivôrucốp thì các loại vũ khí ấy thiếu gì: nào súng hai cò, nào súng một nòng, súng đạn ria, súng tự chế nòng rèn để giết những loại thú lớn. Các bà líu ríu chạy theo đám đàn ông; những tay say nhất và những đứa hỗn hào nhất thì vừa khua những chiếc thuổng, những que quấy cám vừa gào tướng lên những lời tục tĩu. Một tốp chừng hai chục người đàn ông lực lưỡng theo viên cảnh sát trưởng xuống thuyền, bơi sang bờ bên kia của con sông nhánh. Trong số đó có cả thằng Nhikipho và bọn bạn du đãng của nó. Mọi người đều cảm thấy rằng: nếu như tên tù còn chưa kịp đi khỏi nơi này thì hắn không thể có chỗ nào lẩn trốn tốt hơn là cánh rừng gần bờ sông phía bên kia. Trong cánh rừng rậm rạp và gai góc ấy chẳng chỉ con người mà ngay cả đến ngựa cũng có thể tìm được nơi ẩn náu. Còn ở bờ sông phía bên này, giáp làng, thì đất đai trơ trụi, trâu bò và các loại gia súc vẫn thường được thả rong trên cánh đồng cỏ, ở đây người qua kẻ lại luôn luôn: kẻ ra đồng cỏ, người đi lễ ở nhà thờ Parabên, có người lại mang nào hạt dẻ, nào lông thú và cả những con thú mà họ săn được đến nhà kho của tên lái buôn Grêbênsicốp ở bến sông. Lát sau, những người đàn ông vừa bơi thuyền sang bờ bên kia đã sắp thành một hàng dài và mất hút vào cánh rừng. Bờ bên này cũng được tổ chức chu đáo: đi dọc theo sát mép bờ sông là hai tên vệ binh, ngay bên cạnh chúng là các gã đàn ông và xa một chút nữa là cánh đàn bà. Họ đi một cách trật tự như vậy được khoảng chừng một vecxta[1] không hơn. Sau đó thì hàng ngũ dần dần xộc xệch, nhiều người bắt đầu chậm bước. Bởi sau mấy ngày tiệc rượu lu bù thì không dễ gì mà sai khiến nổi đôi chân của chính bản thân mình. Một số ông già bà lão hơi sức cũng chẳng được là bao. Cuộc săn đuổi tên tù vượt ngục đối với họ rõ ràng là một việc làm quá sức. Bọn con gái mới lấy chồng cũng không hứng thú gì với cái việc phải lội vào đám bùn lầy khi chân họ đang đi những đôi giầy đẹp đẽ, những đôi giày mà họ chỉ xỏ chân vào cả thẩy một vài lần: trong ngày lễ cưới, khi đến nhà thờ vào ngày lễ Thánh và đôi khi đi chơi bời thăm thú bạn bè. Nhưng những tên vệ binh, nhất là chính bản thân Êpiphan Crivôrucốp, thì lại luôn luôn thúc dục mọi người, chốc chốc lại ý ới gọi với sang hàng người dàn ngang ở bờ bên kia, trong cánh rừng. - Này! Này! - bờ phía bên kia gọi vọng sang. - Có đây! Chúng tôi vẫn đang lùng sục, đang lùng sục đây! - Êpiphan lớn tiếng trả lời thay tất cả. Làng xóm, với những chiếc ống khói lò sưởi, với mùi vị của sự no nê, với tiếng bò rống, tiếng chó sủa, đã không còn trông thấy nữa. «Này! Này» - tiếng gọi từ bờ phía bên kia vọng lại mỗi lúc một thưa dần và một khó nghe hơn. Mà ngay cả Êpiphan, mặc dầu lão vẫn tiếp tục đi, cũng đáp lại những lời trao đổi ấy mỗi lúc một ít hứng thú hơn: chắc là lão đã khản cổ rồi. Một tên vệ binh bị sát toạc chân, ngồi bệt xuống mép bờ sông và từ từ cởi vải bọc chân. Thái độ ấy chứng tỏ anh ta không phải là kẻ hăng hái cho lắm với phận sự của mình. Cánh đàn bà lập tức nhận ra ngay thái độ uể oải ấy, và họ cũng không ngu ngốc gì, nên cũng đứng lại theo, giả bộ như mình cũng có việc cần thiết phải dừng chân: để thắt lại giải khăn vuông, để sắn váy, để buộc lại dây giày. Hàng người đi men theo bờ sông đã thưa thớt hẳn, chỉ còn độ mươi người. Đi sát mép bờ sông nhất là Êpiphan cùng với tên vệ binh thứ hai, đi xa mép bờ sông nhất là Pôlia - người vợ vừa cưới của Nhikipho, cô con dâu mới của nhà Êpiphan. Pôlia bước đi, vẻ rất thích thú. Ba ngày liền ngồi sau chiếc bàn chất đầy những đồ ăn thức uống, tiếng ồn ào và sự tấp nập đã làm cho cô vô cùng mệt mỏi. Những đêm đầu tiên của cuộc sống vợ chồng lại càng mệt hơn. Ở đây, giữa mênh mông trời đất, cô cảm thấy mình dễ chịu làm sao! Gió lạnh thổi như quất vào mặt làm nguội đi cái hơi nóng đang rừng rực bốc lên đầy mặt cô, xua tan cơn mệt mỏi, làm cho cô thấy sảng khoái trong người. Pôlia cứ muốn đi xa mãi, xa mãi chỉ để không bao giờ còn phải quay trở lại cái ngôi nhà của nhà Crivôrucốp ngột ngạt, nặng mùi mồ hôi, mùi thuốc lá, mùi của đám người say khướt, mùi rượu mạnh làm cho trí não u mê. Nhưng kìa, dưới chân cô bắt đầu hiện ra những mô đất mọc đầy lau sậy, và trước mặt cô, sau những bụi cây, ánh lên khúc sông cụt chạy vòng theo hình móng ngựa. Có lẽ cuộc săn đuổi sẽ kết thúc ở chỗ này thôi. Chắc ít ai lại còn muốn đi vòng hoặc lội qua cái khúc sông lầy bẩn ấy. Êpiphan đầu cúi xuống lặng lẽ theo sau tên vệ binh, còn mấy mụ đàn bà thì túm tụm lại bàn bạc điều gì rất sôi nổi. Ánh nước như tăng thêm sức lực cho Pôlia. Cô lướt nhanh từ bụi cây này sang bụi cây khác, mong sao chóng tới nơi long lanh kia để vớt nước lên mà rửa mặt. Gần đến bờ sông, cô lao vào chỗ này, rồi lại lao sang chỗ khác, nhưng chỗ nào cũng gặp phải bùn lầy, không sao qua được. Quãng bờ sông cách cô khoảng chừng trăm bước bỗng cao vượt hẳn lên, dốc đứng như vực. Mép bờ sát mặt nước của đoạn sông này luôn luôn được ngọn sóng chồm lên gội rửa nên rắn lại và bên trên được phủ một lớp cát đỏ khá dày. Pôlia bước vội, cô cho rằng con đường nhỏ cỏ mọc xanh um kia nhất định sẽ dẫn tới lối xuống sông. Và quả là như vậy. Con đường nhỏ chạy ngoằn ngoèo uốn theo những gốc dương đen to sụ khoảng chừng ba trăm bước thì bắt đầu lao xuống dốc. Khi chỉ còn chừng ba bước nữa thì tới mặt nước Pôlia bỗng nhìn thấy một người ngồi trong chiếc thuyền nhỏ đậu nép sát vào thành vực, dưới vòm lá um tùm của cây thùy liễu. Cô gái giật nẩy mình vì hoảng sợ, cô không biết nên xử sự thế nào: hô hoán lên cho mọi người bổ tới hay bỏ chạy cho nhanh. Mời các bạn đón đọc Xibiri của tác giả Georgy Mokeyevich Markov (Ghêorghi Markốp).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đẹp Là Một Nỗi Đau
Một phụ nữ, chết đã hai mươi mốt năm, sống lại. Hoàn toàn bằng xương bằng thịt, trở lại cõi đời từ dưới nấm mồ. Ở thế giới nào khác, đây có thể là chuyện hoang đường, quỷ dị, nhưng trong thế giới của Đẹp là một nỗi đau thì không. Và, đến cả cái đẹp truyền kiếp của những phụ nữ trong gia đình Dewi Ayu dường như cũng vừa hoang đường quỷ dị vừa bình thường, hợp lẽ. Qua bao biến động và thăng trầm lịch sử của Indonesia, từ thời thuộc địa Hà Lan cho tới Thế chiến thứ hai với sự hiện diện bạo tàn của phát xít Nhật, rồi thời độc lập với cuộc xung đột một mất một còn giữa thế lực tư bản đang lên và những người cộng sản trung kiên, những người đàn bà đó, dẫu có làm gì, dẫu được xã hội gọi là gì, vẫn luôn là họ, những phụ nữ đẹp cả bên ngoài lẫn bên trong, để rồi đều được số phận đáp lại bằng một cách mà họ không chờ đợi. Nếu sắc đẹp là một trong những đặc tính vĩnh hằng của gia tộc này và có lẽ của cả Halimunda, quê nhà họ, thì nỗi đau cũng là một đặc tính vĩnh hằng. Đẹp là một nỗi đau, tiểu thuyết đầu tay của Eka Kurniawan, viết khi tác giả chưa đầy ba mươi tuổi, là một tác phẩm đẹp, đau, thực sự khó quên. *** Sau khi lau chùi vũ khí, sửa chữa mũ mãng, đặt cho ngựa và cho mình một cái biệt hiệu khá oai, chàng thấy còn một việc nữa là phải tìm một tình nương, vì một trang hiệp sĩ giang hồ không có người yêu ví như cây không lá không quả, như xác không hồn. - Miguel de Cervantes, Don Quijote *** Một buổi chiều cuối tuần tháng Ba, Dewi Ayu bước ra khỏi ngôi mộ của bà sau khi đã chết hai mươi mốt năm. Một thằng bé chăn cừu, bừng tỉnh sau giấc ngủ ngày dưới gốc cây đại, đã tè cả ra quần và hét toáng lên, rồi cùng với bốn con cừu chạy tán loạn giữa những tấm bia mộ bằng gỗ như thể người ta vừa ném một con hổ vào giữa chúng. Mọi chuyện bắt đầu từ tiếng động phát ra từ ngôi mộ cũ có tấm bia không tên ngập trong cỏ dại cao tới gối nhưng ai cũng biết đó là mộ của bà Dewi Ayu. Bà qua đời ở tuổi năm mươi hai và sống lại sau khi chết hai mươi mốt năm, và từ thời điểm đó trở đi không ai biết làm thế nào để tính chính xác tuổi của bà. Nghe thằng bé chăn cừu kể lại chuyện xảy ra, người trong xóm liền đổ tới chỗ ngôi mộ. Cuốn lại mép xà rông, bế theo con cái, ôm khư khư cán chổi, lấm bùn ngoài ruộng, họ tụ tập sau mấy bụi anh đào, rặng dầu mè và trong các vườn chuối gần đó. Không ai dám lại gần, họ chỉ lắng nghe tiếng ầm ào phát ra từ ngôi mộ cũ như thể đang túm tụm quanh người bán thuốc rong chào hàng ngoài chợ mỗi sáng thứ Hai. Tất thảy đám đông đều thích thú với cảnh tượng đáng sợ này, không hề bận tâm rằng giả như họ chỉ có một mình thì một nỗi kinh hoàng như thế chắc hẳn đã khiến họ chết khiếp rồi. Họ thậm chí còn chờ đợi một điều kỳ lạ nào đó, chứ không phải mỗi ngôi mộ cũ ồn ào, bởi người đàn bà nằm dưới ba thước đất đó từng là gái điếm cho người Nhật trong chiến tranh và đức kyai cũng luôn nói rằng, những người có tội lỗi ô nhục chắc chắn sẽ bị trừng phạt dưới mồ. Chính bởi thế mà âm thanh ồn ào đó dứt khoát là tiếng roi quất của một thiên thần đang đày đọa, nhưng họ dần dà thấy chán và hy vọng có điều kỳ diệu nho nhỏ nào khác nữa. Nhưng khi điều đó xảy ra, nó đến theo cách kỳ khôi nhất. Ngôi mộ rung lắc và rạn nứt, mặt đất bùng nổ tựa như bung ra từ sâu bên dưới, gây ra cơn địa chấn nhỏ và một cơn dông khiến cỏ giả và bia mộ bay ràn rạt, bên dưới làn mưa bụi đất như cả một tấm màn dày đó, xuất hiện hình dáng một người đàn bà lớn tuổi đứng dậy trông bực bội và cứng nhắc, thân thể vẫn bọc trong vải liệm như thể bà mới được chôn đêm trước thôi. Lúc này mọi người đều hoảng loạn chạy tứ tán, thậm chí còn hỗn loạn hơn cả bầy cừu, tiếng la hét của họ dội vang vào những dãy đồi ở phía xa. Một người đàn bà quẳng đứa bé con mình vào bụi cây còn bố nó trốn biệt sau thân cây chuối. Hai người đàn ông lao xuống mương, một số người lăn ra bất tỉnh bên đường trong khi một số người khác nữa chạy một mạch không ngừng mười lăm cây số. Chứng kiến tất cả những điều này, bà Dewi Ayu chỉ ho vài tiếng rồi hắng giọng, khoan khoái thấy mình đang giữa bãi tha ma. Bà cũng gỡ bớt nút thắt cao nhất của tấm lót bộ vải liệm, rồi nới lỏng bớt hai nút thấp nhất để hai chân có thể bước đi. Mái tóc bà đã dài ra một cách kỳ lạ, thế nên khi bà giũ tóc ra khỏi tấm vải hoa quấn quanh, nó xõa ra bồng bềnh trong gió chiều, quét lên mặt đất và óng ánh như lớp địa y đen dưới lòng sông. Tuy đã có nếp nhăn nhưng gương mặt bà vẫn trắng sáng, đôi mắt vẫn linh hoạt chăm chú nhìn đám người đứng xem đang bỏ chạy khỏi chỗ nấp phía sau bờ bụi, một nửa số họ chạy đi, số còn lại sắp ngất xỉu. Bà phàn nàn, không phải riêng với người nào, rằng người ta thật ác độc khi đã chôn sống bà. Điều đầu tiên bà nghĩ tới là đứa con nhỏ của bà, tất nhiên bây giờ nó không còn là đứa trẻ nữa rồi. Hai mươi mốt năm trước, bà đã chết mười hai ngày sau khi sinh hạ một bé gái hình hài gớm ghiếc, nó xấu tới mức bà đỡ khi đó còn không chắc nó có thực sự là một đứa trẻ không nữa, vì cái lỗ nơi nó chui ra và cái lỗ để thải phân chỉ cách nhau có hai xăng ti mét thôi. Nhưng rồi đứa trẻ này oằn mình vặn vẹo và mỉm cười, rốt cuộc thì bà đỡ cũng tin rằng nó thực sự là người chứ không phải phân và nói với mẹ nó, bấy giờ đang nằm mệt lử trên giường và không có vẻ gì khao khát được nhìn thấy con mình, rằng đứa bé đã chào đời, khỏe mạnh và có vẻ dễ gần. “Là con gái phải không?” Dewi Ayu hỏi. “Phải,” bà đỡ đáp, “giống như ba đứa trẻ ra đời trước nó vậy.” “Bốn đứa con gái, đứa nào cũng đẹp,” Dewi Ayu nói với giọng bực bội. “Lẽ ra tôi nên tự mở một nhà chứa mới phải. Nói cho tôi biết con bé này đẹp thế nào đi?” Đứa trẻ được cuốn chặt trong lớp tã bắt đầu oằn mình khóc trong vòng tay bà đỡ. Một người đàn bà đi ra đi vào căn phòng, vơ đống quần áo bẩn dính đầy máu mang đi, vứt bỏ nhau thai và suốt một hồi bà mụ không trả lời vì bà không sao có thể nói đứa trẻ trông giống đống phân đen sì này là xinh đẹp được. Cố tình phớt lờ câu hỏi, bà nói, “Cô đã lớn tuổi rồi, nên tôi e cô không đủ sữa nuôi con đâu.” “Đúng vậy, tôi đã bị ba đứa trước vắt kiệt rồi.” “Và hàng trăm thằng đàn ông nữa.” “Một trăm bảy mươi hai thằng. Người già nhất đã chín mươi, đứa nhỏ nhất mới mười hai, một tuần sau lễ cắt bao quy đầu của nó. Tôi nhớ tất cả bọn họ.” Mời bạn đón đọc Đẹp Là Một Nỗi Đau của tác giả Eka Kurniawan & Nguyễn Thái Hà (dịch )& Dương Kim Thoa (dịch).
Vẫn Có Một Người Đợi Em Nơi Cuối Con Đường
⊹⊱ Phong, anh là ngọn gió mát lạnh thênh thang giữa đất trời trông trói buộc, thế nhưng không biết tự lúc nào, anh đã là ngọn gió ấm áp bên đời em, sưởi ấm con tim em, chỉ riêng em mà thôi. ⊰⊹ ⊹⊱ Có thể một khoảng khắc nào đó trong cuộc đời, anh sẽ không thể bên cạnh em nữa, nhưng em vẫn cứ vẫn tin bước tiếp nhé, vì anh sẽ luôn chờ em ở phía cuối con đường. Dù có khó khăn, giông bão gì, anh vẫn đợi em, đợi em vượt qua nỗi buồn, đợi em vui vẻ nắm lấy tay anh đi hết những quãng đường còn lại. ⊰⊹ ⊹⊱ Anh là ngọn gió, là ánh mặt trời, là tia hy vọng trong cuộc đời em. Vì vậy anh chỉ được thuộc về em, chỉ của một mình em thôi đấy! ⊰⊹ *** 7h30' sáng Sân bay Tân Sơn Nhất Một người con gái nhỏ nhắn, phong cách ăn mặc hơi bụi bặm với chiếc nón lưỡi trai che khuất một phần gương mặt hoàn mĩ đang kéo vali bước ra hòa vào dòng người tấp nập. Đứng lặng trước cửa sân bay, cô dõi mắt xuống đường phố ngoài kia. Sài Gòn lại mưa nữa rồi, sau 10 năm, Sài Gòn vẫn đón chào người con gái bé nhỏ này bằng một cơn mưa. Ừ thì cô thích mưa, rất thích nhưng giờ đây, ở tại nơi này, nó lại làm cô nhớ đến những ngày đã từng hạnh phúc trong quá khứ. 10 năm, rất dài mà cũng rất ngắn, những kỉ niệm đẹp đó tưởng chừng như mới xảy ra ngày hôm qua. Cuộc đời này vùi dập cô, đưa cô từ bất hạnh này đến bất hạnh khác. 10 năm qua có được bao nhiêu ngày cô sống trong hạnh phúc thực sự? Có chăng thì cũng chỉ là những nụ cười giả tạo, những giọt nước mắt lặng lẽ rơi trong đêm. Cô không có bất kì một người bạn nào cho đến năm 11 tuổi, mọi người xung quanh đều nhìn cô bằng ánh mắt khinh bỉ, những đứa trẻ cùng trang lứa ai cũng mắng cô là “Đồ mồ côi“. Ừ thì cô mồ côi. Ha, mồ côi nhưng vẫn còn ba - người đàn ông đáng khinh nhất trên đời này. Một chiếc xe sang trọng đỗ xuống trước mặt cô, người lái xe cung kính cúi đầu, cô đưa hành lí cho ông ta rồi lấy một cây dù, bảo ông ta về trước còn mình thì lặng lẽ bước đi ngắm nhìn đường phố Sài Gòn. Sài Gòn thay đổi nhiều quá, ồn ào hơn, tấp nập hơn nhưng cũng buồn hơn... Trời mưa nên rất ít người đi lại trên vỉa hè, cô rảo bước thật chậm, ngắm nhìn dòng người tấp nập vội vã trong cơn mưa. Những con người ngoài kia, chắc ai ai cũng có những hoài bão, những ước mơ cho riêng mình, không như cô, sống chỉ vì một người - một tia hy vọng nhỏ nhoi trong cuộc đời tối tăm lạnh lẽo của cô, một người mà cả đời này có thể cô sẽ không bao giờ gặp lại. Mưa ngày một lớn, tiếng mưa rơi phát ra âm thanh lộp bộp trên chiếc dù của cô, nghe thật vui tai. Đường phố vắng người hơn, thỉnh thoảng mới có một vài chiếc xe lướt nhanh qua. Quả thực bây giờ, cô rất muốn vứt chiếc dù này qua một bên, để cơn mưa lạnh buốt xối thẳng vào người cô.   Mời các bạn đón đọc Vẫn Có Một Người Đợi Em Nơi Cuối Con Đường của tác giả Sky Angels.
Tây Thu Tiểu Công Chúa
Để tôi kể bạn nghe, câu chuyện về cô bé Tây Thu già trước tuổi, con gái nhà bác bán đậu phụ cuối chợ. Cô bé lên cấp ba thì được chuyển vào ngôi trường mới, học cùng với con trai nhà bác bán kim cương đá quý. Đây là một bộ truyện TEEN đích thực, chỉ thích hợp với teen thôi vì nó là một câu chuyện học đường, không quá cao trào, kịch tính, chỉ là vài chuyện linh tinh của một cô bé con, trường lớp bạn bè xung quanh cô. Mình viết bộ này vì mấy bộ kia làm mình stress và ám ảnh kinh khủng nên phải viết cái gì nhẹ nhàng tươi mới cho tâm trạng phấn chấn lên một chút. Là một câu chuyện ONGOING và viết theo cảm xúc và cho nên không có thời gian ra chap cụ thể, có thể ba ngày, một tuần, cũng có lúc bế tắc thì cả tháng. Các bạn cân nhắc trước khi nhảy hố. P/S: Lan Rua’s Story ~ Porcupine & Duck Family. *** Review Ý Văn: Tôi đọc "Tây thu tiểu công chúa" cũng không phải là mới đây và phải nói là tôi đã khá ấn tượng với câu chuyện của Lan Rùa. Chuyện bình thường về một cô bé con bác bán đậu hũ và cậu con trai của đại gia kim cương. Cũng thuộc kiểu mô-tip lọ lem - hoàng tử nhưng bù lại ở đây, Lan Rùa cho tôi một góc truyện mà theo tôi thấy thì nó... mới mẻ hơn. Tây Thu là một cô bé nhà nghèo, nung nấu cho riêng mình một giấc mơ du học. Ngay từ những chương đầu, có thể thấy được sự quyết tâm của Tây Thu lớn đến thế nào. Và dù có chuyện gì xảy ra, Tây Thu cũng nhất định cố gắng cho bằng được. Còn Khôi, là con một đại gia nổi tiếng, là người mà mọi cô nàng trong trường ao ước được ngắm nhìn. Thế nhưng Khôi mắc một chứng bệnh khiến cậu không thể giao tiếp bình thường với mọi người. Cậu chủ động tách biệt ra với lớp, lầm lì và ít nói. Cũng như những gì bọn mình dự đoán được thì Thu là người khiến Khôi chủ động nói chuyện nhiều hơn. Rồi từ đó một tình yêu màu hường thời cấp ba được tô đậm. Văn phòng của Lan Rùa trong tác phẩm này rất hài hước, nhiều đoạn đọc khiến tôi cười ngất. Lắm lúc mà Khôi ghen tuông hờn giận thật sự tuy mình nhìn vào thấy "có thế thôi" nhưng cái sự trong cuộc thì chao ôi, chẳng ai ngờ. Ngoài cặp chính ra còn có cặp Chi - Hưng, cặp đôi chật vật lắm mới đến được với nhau. Bởi ban đầu Chi thích Khôi, và Hưng thì mặc cho điều đó cứ mải mê theo đuổi Chi. Ngoài các tuyến nhân vật trên còn có thêm nhiều những nhân vật khác nữa, đóng góp không nhỏ cho tác phẩm này. Đặc biệt phải kể đến ba mẹ Thu, mẹ Khôi và dì của Khôi. Mặc dù bây giờ đọc lại tuy tôi vẫn thấy tan chảy với tình yêu đẹp đẽ của đôi trẻ nhưng có chút gì đó khiến tôi cảm thấy thật mơ hồ, nội dung có phần hơi trẻ con và không ấn tượng mấy. Dẫu vậy tôi vẫn dành 4/5 sao cho chính những cảm xúc ngày đầu của tôi. Còn bây giờ, 3/5 sao là những gì tôi nhận thấy. Có lẽ... góc nhìn tôi bây giờ khác với tôi ngày xưa. *** Cảnh báo: Đây là một bộ truyện TEEN đích thực, chỉ thích hợp với teen thôi, truyện học đường. Chào các cậu! Hôm nay là sinh nhật lần thứ 14 của tớ. Ba mẹ tặng cho tớ một quyển sổ xinh xắn lắm, dùng để viết nhật kí. Cả đời tớ chưa bao giờ được dùng một quyển sổ đẹp đến vậy, nghe nói trị giá của quyển sổ này tương đương với hai mươi tư bìa đậu. Tớ trước giờ chưa bao giờ viết nhật kí cả, chẳng biết viết gì luôn. Xem nào, nên giới thiệu họ tên trước nhỉ, tớ tên Thu, nhưng vì nhà tớ bán đậu phụ ở cuối chợ nên bạn bè bà con cô bác thường gọi là Tây Thu, so sánh với Tây Thi ấy mà. Khổ nỗi Tây Thi đẹp nghiêng nước nghiêng thành, còn Tây Thu tớ đây, đi đến đâu cũng được nghe người ta khen, con này xấu quá, xấu lạ. -“Thu, đi giao hàng con.” Ba tớ gọi rồi, tạm bỏ bút. Thực ra thì tớ cũng không nghĩ mình xấu tới mức đấy đâu, có chăng chỉ là da đen nhẻm thôi. Biện minh chút xíu nha, da tớ thuở bé trắng lắm đấy, mà tội đi ship tào phớ nhiều nên bị cháy nắng. Ngày xưa nhà tớ chỉ bán hàng ở cuối chợ thôi, nhưng từ ngày tớ lên lớp 7, một lần tình cờ chơi facebook thấy hay hay, liều mình lập page Tây Thu Đậu Phụ, xong chuyển cả qua bán online nữa. Lúc nào tớ rảnh đều phụ ba đi giao hàng, toàn đi bằng xe đạp thôi, đến hơi bị chậm ý, nhưng khách họ hay thương trẻ con lém, không mắng mỏ gì cả. Mẹ tớ về sau làm thêm cả mấy món ăn vặt như nem chua, cóc dầm, xoài dầm, ốc xào…bán chạy không kém gì tào phớ cả, tuy nhiên nghề chính vẫn là làm đậu. Mời các bạn đón đọc Tây Thu Tiểu Công Chúa của tác giả Lan Rùa.
Khách Sạn
Khách Sạn (Hotel) là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Arthur Hailey bên cạnh nhiều vở kịch nổi tiếng được trình diễn khắp nơi trên thế giới và nhiều kịch bản phim rất thành công. *** Peter McDermott nghĩ: nếu anh có quyền thì anh đã tống cổ gã nhân viên an ninh khách sạn đi từ lâu rồi. Nhưng anh không có quyền, cho nên bây giờ, một lần nữa, gã cựu cảnh sát viên phục phịch đó lại mất tích đúng vào lúc người ta rất cần đến hắn. McDermott nghiêng người, tấm thân đồ sộ của anh cao đến sáu bộ rưỡi ( [1] ). Anh lắc lắc nhẹ chiếc điện thoại trên bàn, vẻ bồn chồn. - Mười lăm việc xẩy ra cùng một lúc. - Anh nói với cô gái đứng bên cửa sổ văn phòng rộng. - Thế mà chẳng ai tìm ra được hắn ở đâu. Christine Francis liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Vài phút nữa là đúng mười một giờ khuya: - Anh thử tìm ở quán rượu đường Baron xem sao. Peter McDermott gật đầu: - Nhân viên điện thoại đang kiểm tra những nơi Ogylvie thường lui tới. - Anh mở ngăn kéo bàn, lấy bao thuốc lá ra mời Christine. Cô tiến lên phía trước nhận một điếu thuốc. McDermott châm thuốc cho cô rồi châm cho mình. Anh nhìn cô rít thuốc. Christine Francis đã rời căn phòng làm việc nhỏ của mình trong cụm phòng hành chính của khách sạn St Gregory trước đây vài phút. Cô đã làm việc khuya và sắp trở về nhà thì ánh đèn dưới cánh cửa của trợ lý tổng giám đốc khách sạn đã khiến cô phải bước vào. - Anh chàng Ogylvie của chúng ta có luật lệ riêng đấy - Christine nói - Tình hình này thường hay xẩy ra theo lệnh của ông chủ mà. McDermott nói rất ngắn vào điện thoại, rồi lại chờ đợi. - Cô nói đúng. - Anh thừa nhận - Đã có lần tôi tìm cách tổ chức lại đội thám tử của khách sạn ta, và tôi đã thất bại. Cô gái đáp nhỏ nhẹ: - Tôi không được biết việc đó. Anh nhìn cô vẻ chế nhạo: - Thế mà tôi cứ tưởng việc gì cô cũng biết. Thực ra, thường thì cô biết hết mọi chuyện. Là một trợ lý riêng của ông Warren Trent, chủ một khách sạn lớn nhất ở New Orleans có tính tình hay cáu bẳn, khó đoán trước, Christine thông tỏ những bí mật bên trong của khách sạn cũng như những hoạt động hàng ngày của nó. ... *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Khách Sạn của tác giả Arthur Hailey.