Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xin Cạch Đàn Ông - Katarzyna Grochola

Judyta là một biên tập viên tại một tòa soạn báo, chuyên trả lời bạn đọc về những thắc mắc trong đời sống cá nhân, gia đình. Oái oăm thay, chính cô lại bị chồng bỏ và đang sống trong tâm trạng đau khổ, tức giận khi thấy chồng cũ hạnh phúc bên người đàn bà khác. Sau khi li dị, cô mua một miếng đất và xây nhà cách thủ đô Warzsawa chừng 30 cây số. Một cuộc sống mới bắt đầu, chỉ có cô con gái Tosia bên cạnh Judyta. Với tâm trạng chán chường, buồn bực, Judyta kể lại cuộc đời vợ chồng 10 năm như thể một lời than thở não nề. Không có gì to tát, đơn giản là chuyện chẳng đâu vào đâu đã khiến hai vợ chồng cố chấp, và rồi dẫn đến ghét nhau. Ngày nào cũng nhàm tẻ như ngày nào. Một đống quy tắc chẳng bao giờ thay đổi, không hút thuốc trên giường, không ăn uống trên giường, không đọc sách trên giường, không đốt lò sưởi trong phòng ngủ… Tất cả vì sức khoẻ. Câu chuyện mà dường như nhà ai cũng có, dưới dạng này hay dạng khác, đang đe dọa mọi cuộc hôn nhân, khi không ai chịu thông cảm cho ai. Đầy thất vọng trước cuộc đời, nhưng Judyta không chịu gục ngã, bi lụy. Cô vẫn tự mình xây nhà, nuôi con, cho con đi học đàng hoàng. Cô cũng cố gắng làm tốt công việc của mình ở tòa soạn, trả lời thắc mắc của mọi người từ nuôi dạy con cái, đến làm đẹp, nữ công gia chánh, thậm chí cả giải quyết mâu thuẫn vợ chồng. Cô vẫn có người bạn thân Ula luôn chia sẻ vui buồn. Và hơn hết, nói xin cạch đàn ông, nhưng một giấc mơ về người đàn ông toàn diện vẫn luôn ấp ủ trong lòng cô. Mọi cố gắng của cô rồi cũng được đền đáp, khi Adam xuất hiện. Một người đàn ông đáng để cô yêu, và cô cố gắng nghĩ thực ra cũng chẳng vi phạm vào lời tuyên bố Xin cạch đàn ông, bởi vì Adam chẳng giống những người đàn ông khác.  *** Nhận định   “Xin cạch đàn ông! đã thành công khi đưa vào nền văn học Ba Lan hình ảnh người phụ nữ ‘không ngừng biến đổi’, kể từ cuối năm 1989. Đây không phải là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Grochola, song chắc chắn là cuốn tiểu thuyết rất được mến mộ.” - Zofia Beszczynska, Nowe Ksiazki “Cuốn sách về người phụ nữ hiện đại, viết cho các bạn đọc nữ hiện đại.” - Rzeczpospolita “Cuốn sách khôi hài, nồng thắm, cuốn hút, khiến ta đọc liền một mạch.” - Zwierciadlo “Tôi nghĩ tất cả chị em phụ nữ chúng ta đều giống nhau. Trong lòng mỗi người chúng ta chôn chặt những niềm thương và nỗi nhớ mà chúng ta không thích nói ra. Kể cả niềm thương và nỗi nhớ về mối tình lãng mạn vĩ đại và chàng hoàng tử cưỡi ngựa trắng. Tôi là một người có niềm thương và nỗi nhớ như vậy.”  - Katarzyna Grochola *** Xin cạch đàn ông! Nghe câu này chắc giới mày râu rủ nhau ngất xỉu. Thế mà Judyta đã tuyên bố xanh rờn như vậy đó. Mà đâu chỉ có vậy. Người đàn bà này còn chua thêm một câu nghe rởn cả tóc gáy: Tất cả đàn ông đều cùng một giuộc. Cô Judyta là ai mà dám bạo mồm tuyên bố như vậy? Xin thưa: Cô Judyta là nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết bạn đang cầm trên tay. Judyta 37 tuổi, bị chồng bỏ. Chồng cô, Tomasz, đi theo một người đàn bà khác có tên là Jola. Judyta là biên tập viên của một tờ tạp chí phụ nữ, phụ trách chuyên mục trả lời thư bạn đọc. Sau khi chồng bỏ, Judyta mua đất, làm nhà tại một làng quê cách Warszawa chừng ba mươi cây số. Ngôi nhà mới xây đã trở thành tổ ấm cho hai mẹ con Judyta và Tosia. Cô bắt đầu cuộc sống mới. Trong tiểu thuyết Xin cạch đàn ông! nữ nhà văn Katarzyna Grochola đã đề cập một vấn đề xã hội cực kỳ quan trọng - vấn đề hạnh phúc gia đình, được cấu thành chủ yếu bởi quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa bố mẹ và con cái. Đặc biệt tác giả đã dám đối mặt với một vấn đề nổi cộm, bức xúc hiện nay - vấn đề ly dị, mà ở Ba Lan (và có lẽ không chỉ ở Ba Lan) đã lên tới con số mười phần trăm, một con số thật đáng lo ngại. Có thể nói, mỗi vụ ly dị là một trận cuồng phong phá tan ngôi nhà hạnh phúc. Nguyên do ly dị thì muôn màu muôn vẻ, nhưng thường là tại anh tại ả, tại cả đôi bên. Có điều đáng tiếc, lắm khi những luồng gió hợp thành trận cuồng phong nói trên chỉ là những chuyện vặt vãnh thường ngày, chẳng đâu vào đâu, do cố chấp, do thiếu cảm thông, không biết nhường nhịn, không biết mình biết ta trong cuộc sống vợ chồng. Chúng ta hãy nghe cô Judyta nói: “Tại sao tôi lại vớ phải một ông chồng thích ngủ trong phòng lạnh? Cấm hút thuốc trên giường? Cả đọc sách nữa? Tại sao ánh đèn lại làm phiền anh ta?” “Cuộc sống vợ chồng của tôi chủ yếu bao gồm: không hút thuốc trên giường, không ăn trên giường, không uống trên giường, không đốt lò sưởi trong phòng ngủ, vì như vậy khỏe người. Những chuyện chúng tôi đã không làm nhiều hơn cả những chuyện đã làm. Tôi chẳng nên lấy làm lạ đến thế khi cuộc sống vợ chồng của tôi có kết cục như vậy.” Tiểu thuyết Xin cạch đàn ông! chứng tỏ nghị lực của một người phụ nữ bị chồng ruồng bỏ. Chồng ruồng bỏ, đau khổ thật đấy, khốn khó thật đấy, nhưng không phải vì thế mà đời nát tan, trái lại một cuộc sống mới bắt đầu. Song để vượt lên chính mình, để có cuộc sống mới, người phụ nữ phải “đổ mồ hôi, sôi nước mắt”, phải tự mình cáng đáng hết thảy mọi việc, kể cả việc xây nhà, vốn là công việc nặng nhọc của đàn ông. Sau mỗi lần thất bại “quả bom nghị lực” của Judyta lại bùng nổ, đem tới cho cô sức mạnh mới. Cô không sợ thất bại, vẫn không từ bỏ giấc mơ hoàng tử cưỡi ngựa trắng sẽ có ngày xuất hiện trước cửa nhà mình. Tại sao không? Con người ta ai cũng có quyền mơ ước, bởi chính ước mơ cho ta thêm nghị lực, làm cho đời đẹp hơn và thi vị hơn. Nhưng điều quan trọng là phải biết nắm lấy vận mệnh của mình và dám đương đầu với thử thách, cam go. Judyta đã dám làm như vậy và cô đã được đền đáp. Cô xây được nhà mới, lo được cho con gái học hành tử tế, cô thành công trong công tác với tư cách là một biên tập viên, thậm chí còn được khen thưởng, và cô lại làm đẹp, lại yêu... Judyta đã không “cạch đàn ông”, cô “nói dzậy mà không phải dzậy”. Cuộc tình với Hieronim đầy rủi ro, nhưng cuộc tình với Adam thì lại như là trời cho. Lần này xác suất vận may rơi trúng vào cô. Adam là một nhân vật khá thú vị. Một người đàn ông kỹ tính và rất “chịu chơi” trong tình yêu, người đã biến giấc mơ về “chàng hoàng tử cưỡi ngựa trắng” của Judyta thành hiện thực. Chính Adam đã khiến Judyta ngỡ ngàng và cũng chính người đàn ông này đã khiến Judyta phải tự bao biện: Anh ta khác tất cả mọi đàn ông cơ mà. Cuộc tình của Judyta và Adam là cuộc tình “rổ rá cạp lại”, nhưng vẫn lãng mạn, nhiều nhung nhớ, lắm đợi chờ và có cả giận hờn, tựa mối tình đầu... Cái cách tác giả xây dựng nhân vật Xanh Lơ thật là vô tiền khoáng hậu. Một người vợ bị chồng bỏ đi tư vấn cho một người chồng bị vợ bỏ. Những cuộc tranh luận giữa hai người lắm khi gay cấn, căng thẳng, nhưng những vấn đề họ đề cập lại rất tinh tế và lý thú. Xanh Lơ là ai vậy? Một ẩn số mãi tới cuối sách bạn đọc mới có được câu trả lời. Trong cuộc sống, chúng ta ai cũng cần có bạn bè, và không thể sống thiếu bạn bè. Nhưng tình bạn như tình bạn của Ula với Judyta thì có lẽ ai cũng thèm muốn. Một tình bạn cao cả, vô tư, trong sáng, và chính nhờ tình bạn này mà Judyta thêm tự tin vượt qua cơn sóng gió của cuộc đời, cảm thấy mình không bị cô đơn. Thông qua nhân vật Ula và một vài nhân vật khác nữa trong tác phẩm, phải chăng tác giả muốn chứng minh một điều rằng, gì thì gì, trên đời này lúc nào cũng không thiếu những người tốt. Đó là cái rất cần cho cuộc sống của chúng ta. Katarzyna Grochola nhiều lần đề cập vấn đề giáo dục con cái, quan hệ giữa bố mẹ và con cái ở các lứa tuổi khác nhau. Bố mẹ xử lý ra sao khi con cái bướng bỉnh, cãi nhau, đánh nhau, không biết nhường nhịn, không thật thà, bỏ học, yêu đương, xăm mình, đòi hỏi vô lý...? Bố mẹ xử lý ra sao khi con mình không đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông? Những gì tác giả viết trong tác phẩm này cho thấy, bố mẹ phải hiểu kỹ con mình, rèn tính tự lập cho con cái. Hãy để con cái được “sở hữu” chính mình, được tự chịu trách nhiệm với những việc mình làm và tự chịu hậu quả. Không nên bao biện, cái gì cũng làm thay con, tưởng là thương con, nhưng không phải vậy. Nói cho cùng, bố mẹ phải đổi mới chính mình, phải mạnh dạn thay đổi quan hệ giữa mình và con cái, thay đổi tư duy giáo dục và yêu thương con cái, phải có kỹ năng làm cha, làm mẹ, thậm chí phải học làm cha, làm mẹ. Bức thư của Judyta tư vấn cho người cha có con gái bị trượt kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học khiến chúng ta, các bậc cha mẹ, phải suy nghĩ: “Tuy vậy, có những chuyện cần phải cân nhắc, để tiện cho cuộc sống của mình và không gây khó cho cuộc sống của con... Anh hãy để cháu sống cuộc sống của mình! Không đỗ tốt nghiệp chưa phải là ngày tận thế đâu. Nhưng ngày tận thế có thể lại là ý muốn kiểm soát sinh hoạt và hành vi của cô con gái đã lớn. Ý muốn bảo bọc tất cả mọi thứ trong cuộc sống và điều khiển hành vi của con, như thể nó vẫn còn là một cô bé năm tuổi. Theo tâm lý học và kinh nghiệm thực tế, con cái chỉ chịu ảnh hưởng của bố mẹ cho đến khi chúng khoảng mười lăm tuổi. Sau đó ta chỉ có thể hỗ trợ và yêu thương con, cho phép chúng sai lầm và trả giá cho những sai lầm đó. … Anh có thể giúp con mình bằng cách thay đổi chính mình và thay đổi quan hệ cha con. Vì tình yêu không xuất hiện được trong vòng kiểm soát. Con gái của anh đang trưởng thành - thất bại đầu tiên đã ở phía sau nó. Phải làm gì sau thất bại đó, hãy để cho cháu lựa chọn.” Các bức thư trả lời bạn đọc của biên tập viên Judyta thật là đa dạng, bao gồm những vấn đề “thượng vàng hạ cám” của cuộc sống thường ngày, nhiều câu hỏi của bạn đọc rất thực tế, tế nhị, lắm khi hóc búa, nêu lên những vấn đề bức xúc của cuộc sống đương đại, song cũng lắm câu hỏi rất hồn nhiên, thậm chí ngây thơ và buồn cười, nhưng cũng rất đời: Làm thế nào để vú to thêm, để nó nhỏ đi, da dầu nên bôi loại kem gì, trên ba mươi tuổi nên đắp loại mặt nạ nào. Phải làm gì khi con gái hư và khi bị chồng phản bội. Tìm việc làm ra sao và làm sao để không bị coi thường. Kêu cứu ai khi chồng nát rượu. Ăn vận thế nào khi có thân hình tròn xoay như quả táo. Giấu đôi chân ngắn ngủn cách nào? Phải làm gì để chồng không bỏ đi với người đàn bà khác? Xin cạch đàn ông! để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm về cuộc sống vợ chồng, cuộc sống gia đình. Bức thông điệp mà cuốn sách muốn gửi đến chúng ta là: Hạnh phúc luôn luôn nằm trong tầm tay của chúng ta, có điều chúng ta phải biết nắm bắt và khi đã nắm bắt được thì đừng để nó tuột khỏi tay mình. Người ta so sánh tiểu thuyết Xin cạch đàn ông! với Nhật ký tiểu thư Jones của Fielding Helen, người ta coi Judyta là tiểu thư Jones của Ba Lan. Judyta cũng là người phụ nữ thời nay ở Ba Lan - dám nghĩ, dám làm, dám mạo hiểm, không sợ thất bại. Với giọng văn khá độc đáo, giàu tính hài hước, với những triết lý sống thú vị, với những nhân vật đầy tính cách, câu chuyện mà Judyta kể cho chúng ta có sức cuốn hút mạnh mẽ từ đầu đến cuối. Trả lời câu hỏi: “Trong nhân vật Judyta có bao nhiêu phần trăm là Katarzyna Grochola?” cô nói: “Nhiều, rất nhiều là đằng khác, chỉ có điều Judyta 37 tuổi”. Như ta biết, cũng giống như nhân vật Judyta của mình, Grochola đã ly dị chồng, tự mua đất làm nhà ở ngoại ô Warszawa, nuôi dạy con gái, và vui thú với các vật nuôi trong nhà... Ngay sau khi ấn hành, tiểu thuyết Xin cạch đàn ông! đã được bạn đọc toàn Ba Lan háo hức tìm đọc, 200 nghìn bản đã đến tay bạn đọc trong một thời gian ngắn và từ đó đến nay cuốn tiểu thuyết vẫn liên tục được tái bản nhiều lần với số lượng bản in rất lớn. Năm 2001 tiểu thuyết Xin cạch đàn ông! đã được tặng giải thưởng “AS” EMPiK-u dành cho cuốn sách best-seller số một trong năm ở Ba Lan. Tác phẩm văn học này đã được dịch sang nhiều thứ tiếng nước ngoài như Nga, Đức, Litva, Bungari, Hunggari, Séc, Italia v.v... Năm 2004, tiểu thuyết Xin cạch đàn ông! được dựng thành phim do Ryszard Zatorski đạo diễn, nữ diễn viên điện ảnh Danuta Stenka đã thể hiện vai Judyta rất thành công. Sau Hoang thai của Dorota Terakowska, tôi vô cùng hạnh phúc lại có cơ hội được tặng bạn đọc Việt Nam một tác phẩm nữa của nền văn học đương đại Ba Lan, lần này là cuốn tiểu thuyết của nữ nhà văn nổi tiếng Ba Lan, Katarzyna Grochola. Mong được lượng thứ đối với những khiếm khuyết không tránh khỏi, và hy vọng bạn đọc sẽ hài lòng và có nhiều ấn tượng đẹp sau khi thưởng thức tác phẩm dịch này. LÊ BÁ THỰ Hà Nội, mùa thu 2007 Mời các bạn đón đọc Xin Cạch Đàn Ông của tác giả Katarzyna Grochola.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tên Anh Chưa Có Trong Danh Sách - Boris Vasilyev
Sau khi ra đời, Tên anh chưa có trong danh sách đã được độc giả đón nhận nồng nhiệt như tiểu thuyết ngắn trước đó của Vasilyev là Và nơi đây bình minh yên tĩnh. Năm 1975 tiểu thuyết đã được Nhà hát Lenkom Moskva chuyển thể thành vở kịch cùng tên của đạo diễn sân khấu Mark Zakharov, vai Pluzhnikov được giao cho diễn viên nổi tiếng Aleksandr Abdulov. Vở kịch này khi công diễn cũng đã đạt được thành công lớn. Nếu như Và nơi đây bình minh yên tĩnh được Điện ảnh Liên Xô chuyển thể từ ngay thập niên 1970 thì phải đợi tới năm 1995 Tên anh chưa có trong danh sách mới được chuyển thể thành phim điện ảnh với tựa đề Tôi, người lính Nga (Я — русский солдат). Đây là một bộ phim Nga của đạo diễn Andrew Malyukov với kịch bản chuyển thể do Yelena Paradiva chấp bút. Tác phẩm được Đức Thuần và Xuân Du dịch ra tiếng Việt, Nhà xuất bản Cầu Vồng in chung với Và nơi đây bình minh yên tĩnh năm 1985. Ngoài ra tại Việt Nam, tác phẩm cũng được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân in năm 1980 và tái bản năm 2001. Tên anh chưa có trong danh sách (tiếng Nga: В списках не значился) là một tiểu thuyết Liên Xô của nhà văn Boris Vasilyev được xuất bản lần đầu năm 1974. Lấy bối cảnh Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại của Liên Xô, tác phẩm nói về số phận của một người lính Hồng quân phải chiến đấu cô độc giữa pháo đài Brest nằm sâu trong hậu phương của Đức Quốc xã. Cùng với Và nơi đây bình minh yên tĩnh, đây được coi là tiểu thuyết ngắn xuất sắc nhất của Boris Vasilyev nói về Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Đêm ngày 21, rạng sáng ngày 22 tháng 6 năm 1941, quân đội Đức Quốc xã bất ngờ nổ súng mở đầu cho Chiến dịch Barbarossa tấn công Liên Xô. Cùng ngày 21 tháng 6 định mệnh, anh lính trẻ Nikolai Pluzhnikov được điều tới Pháo đài Brest, tiền đồn của Hồng quân nằm ở biên giới Đức-Xô. Pluzhnikov chưa kịp tìm tới đơn vị của mình để đăng ký thì toàn pháo đài đã bị dội pháo phủ đầu ác liệt và sau đó bộ binh Đức Quốc xã bắt đầu tràn ngập Brest. Tuy cố gắng chống đỡ nhưng trong cảnh bị tấn công chớp nhoáng, Hồng quân không thể đáp trả lại một lực lượng đông đảo với hỏa lực vượt trội của quân Đức, đồng đội của Pluzhnikov lần lượt ngã xuống, còn bản thân anh lính trẻ phải ẩn nấp trong hệ thống hầm hào của pháo đài để tiếp tục duy trì cuộc kháng cự. Ngày tháng dần qua, những người Nga cuối cùng trong pháo đài lần lượt ngã xuống hoặc bị bắt, Pluzhnikov rơi vào trạng thái hoàn toàn cô độc, vừa cố gắng cầm cự để sống sót, vừa phải căng mọi giác quan để đối phó với quân Đức. Sau chín tháng kháng cự, khi mà chiến tuyến đã tiến sâu vào trung tâm nước Nga, Pluzhnikov, người lính duy nhất còn lại của Hồng quân ở Brest, cuối cùng cũng bị bắt. Khi các sĩ quan Đức Quốc xã hỏi anh về tên tuổi, cấp bậc, chức vụ, Nikolai Pluzhnikov chỉ trả lời rằng: “Tôi, người lính Nga” và qua đời. Thành phố Brest sau này đã được chính phủ Liên Xô phong tặng danh hiệu Thành phố Anh hùng. *** Pháo đài Brét đứng sừng sững trên biên giới miền cực Tây của Liên Xô. Từ Mátxcơva đến đây không xa lắm, đi tàu hoả không đến một ngày đêm. Không riêng gì khách du lịch và tất cả những người khi ra nước ngoài hoặc trên đường về nước đều đến thăm pháo đài này. Ở đây người ta không nói to: những ngày tháng của năm một nghìn chín trăm bốn mốt vô cùng vang động và những tảng đá ở đây đã ghi nhớ rất nhiều. Những người hướng dẫn điềm tĩnh đưa những tốp người qua những nơi chiến địa, người ta có thể chui xuống dãy hầm ngầm của trung đoàn 333, sờ tay vào những viên gạch bị súng phun lửa làm cho cháy sém, đi qua cổng Têretxpôn và cổng Khôlmxki, hoặc đứng lặng lẽ trước ngôi nhà thờ cũ. Đừng vội vã. Hãy nhớ lại tất cả. Hãy cúi đầu mặc niệm. Trong nhà bảo tàng pháo đài người ta cho bạn thấy những khẩu súng có lần đã nhả đạn và những đôi giày nhà binh được buộc vội vã trong buổi sáng ngày 22 tháng 6. Bạn sẽ được cho xem những vật dụng cá nhân của những chiến sĩ bảo vệ pháo đài, và sẽ được kể cho nghe chuyện những chiến sĩ ấy đã phát điên như thế nào vì khát nước trong khi phải dành toàn bộ số nước cho trẻ em và súng máy. Bạn sẽ được đứng bên cạnh lá cờ, lá cờ duy nhất vừa mới được tìm thấy dưới căn hầm, bây giờ người ta vẫn tiếp tục tìm các lá cờ vì pháo đài không đầu hàng và bọn Đức không lấy được lá cờ chiến đấu nào. Pháo đài không gục ngã. Pháo đài chỉ đổ máu thôi. Những nhà viết sử không thích những truyền thuyết nhưng chắc bạn sẽ được nghe kể về một chiến sĩ vô danh bảo vệ pháo đài, người mà bọn Đức chỉ có thể bắt được vào tháng thứ mười của cuộc chiến tranh. Tháng thứ mười, vào tháng 4 năm 1942. Người chiến sĩ đó đã chiến đấu gần một năm. Một năm chiến đấu không biết tin tức, không có đồng đội bên cạnh, không được giao mệnh lệnh, không có hậu phương, không được cung cấp, không được tiếp ứng và không nhận được lá thư nào của gia đình. Thời gian đã không cho ta biết tên và chức vụ của anh, nhưng chúng ta biết rõ: anh là người lính Nga. ... Mời các bạn đón đọc Tên Anh Chưa Có Trong Danh Sách của tác giả Boris Vasilyev.
Sa Đọa - Albert Camus
Xin ngài cho tôi được hân hạnh hầu việc ngài, chẳng may có phiền ngài không? Chỉ lo ngài không sao tỏ cho tên người ngợm khả kính làm chủ tế vận mạng tửu điếm này hiểu được ý mình. Bởi chưng y chỉ thông độc có tiếng Hòa-lan thôi. Trừ phi tôi được phép biện hộ hầu ngài, y không tài nào đoán được ngài muốn gọi rượu đỗ tùng[1]. Nhưng kìa, dám mong y cũng đà gạn hiểu; y gật đầu, chứng tỏ rằng y đà chiều nể lòng tôi. Y đi lấy rượu kia rồi, vâng, ngài cứ trông mà xem, y vội vã trong một dáng điệu thung dung điều độ. Ngài quả có diễm phước, không bị y gầm gừ trong họng. Không ưng hầu rượu ai, chỉ mỗi một tiếng gầm gừ trong họng y là đủ: chẳng mạng nào còn dám hó hé. Được làm vương làm tướng khí sắc của mình, quả là thứ đặc thù của loài vật hùng mạnh. Nhưng, dám xin ngài cho tôi được cáo từ, rất mực hân hạnh được hầu giúp ngài. Muôn vàn đội ơn ngài, thật tình giá dụ cầm bằng không phiền rộn ngài thì hẳn là tôi xin nhận. Ngài tốt bụng quá. Vậy xin ngài cho phép tôi được đặt ly rượu này cạnh sát ly ngài. Ngài nói chí lý, cái lối lặng thinh im ỉm của y quả là inh ỏi chối tai. Chẳng khác nào bầu khí im lìm trong những khu rừng nguyên thủy, ứ đầy âm thanh cho tới độ tràn bờ. Tôi nhiều khi cũng lấy làm ngạc nhiên nhận thấy ông bạn tẩm ngẩm tầm ngầm của chúng ta kia cứ một mực không chịu làm thân với các thứ ngôn ngữ văn minh. Dẫu sao, cái nghề của y cũng bắt y phải chiêu đãi dân thủy thủ đủ hết mọi quốc tịch trong tửu điếm ở Amsterdam này[2], mà chẳng hiểu tại sao y lại gọi nó là Mexico-City[3] nữa. Với những công việc phải làm loại đó, e rằng dốt ngoại ngữ như y, ngài không nghĩ là cũng khí bất tiện sao? Ngài cứ hãy mường tượng tình cảnh con người Cro-Magnon[4] trú ngụ ở tháp Babel[5] mà xem! Ít nữa thì y cũng lạ nước lạ người mà lòng dạ không yên. Mà không, tên này chẳng hề cảm thấy lẻ loi cô lập, vẫn cứ phớt tỉnh như không và bản sắc chẳng bị lung lay rạn nứt chút nào. Trong số câu rất hiếm, nghe được từ cửa miệng y thốt ra, có một câu dõng dạc bảo rằng là lấy, hay không lấy thì thôi. Nhưng mà lấy, hay không lấy vật gì kia chớ? Ắt hẳn là chính ông bạn của chúng ta. Tôi phải thú nhận cùng ngài một điều, tôi vốn dễ bị mê hoặc bởi loại người lòng dạ thẳng tuột như vậy. Khi đã có suy luận ít nhiều về con người, vì nghề nghiệp hay vì chí hướng, có lúc người ta bỗng dưng nhớ đến loài linh trưởng[6]. Loài này, riêng nó, không hề có thâm ý sau lưng. *** Albert Camus sinh ngày 7 tháng 11 năm 1913 tại Mondovi, một làng ở Constantinois, gần Bône, Algérie. Cha ông, Lucien Camus, một công nhân sản xuất rượu nho vùng Mondovi cho một thương gia thành phố Alger. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Lucien Camus bị động viên vào tháng 9 năm 1914, bị thương trong trận chiến Marne và chết tại bệnh viện quân y Saint-Brieuc ngày 17 tháng 10 năm 1914. Về cha mình, Abert chỉ biết qua một bức ảnh duy nhất còn để lại. Albert đến Paris làm biên tập cho tờ Paris-Soir. Năm 1942, ông phát hành cuốn tiểu thuyết L'Étranger (Người xa lạ) và tiểu luận Le Mythe de Sisyphe (Huyền thoại Sisyphe), trong đó ông đã trình bày những tư tưởng triết học của mình. Sisyphe là một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp bị trừng phạt phải lăn một hòn đá lớn lên núi dốc, khi đến đỉnh hòn đá lại rơi trở xuống chân dốc, cứ thế Sisyphe tiếp tục lăn lên rồi rơi xuống theo một chu kỳ vĩnh cửu. Theo hệ sự phân loại của riêng Albert, các tác phẩm đó thuộc "thời kỳ phi lý" (cycle de l'absurde), cùng với các vở kịch Le Malentendu (Ngộ nhận, 1944) và Caligula (1945). Năm 1943, ông làm việc cho nhà xuất bản Gallimard rồi làm chủ biên tập báo Combat, cũng trong năm này ông gặp và làm quen với Jean-Paul Sartre. Những tác phẩm tiếp theo của Camus thuộc "thời kỳ nổi loạn" (cycle de la révolte), trong đó nổi tiếng hơn cả phải kể đến La Peste (Dịch hạch, 1947), kế đến L'État de siège (1948), Les Justes (1949) và L'Homme révolté (Người nổi loạn, 1951). Trong quyển tiểu luận triết học Người nổi loạn, ông đã trình bày tất cả các hình thức nổi loạn (siêu hình, chính trị và nghệ thuật...) qua mọi thời đại. Ông miêu tả con người cảm nhận sâu sắc sự phi lý của cuộc sống, luôn muốn nổi dậy, chống lại nỗi khốn khổ của kiếp người, nhưng cuối cùng vẫn không có lối thoát, mọi cố gắng đều hoàn toàn vô ích. Tình bạn giữa Albert Camus và Jean-Paul Sartre rạn nứt vào năm 1952, sau khi trên tạp chí Les Temps modernes của Sartre, Henri Jeanson đã chê trách sự nổi loạn của Camus là "có suy tính". Năm 1956, tại Alger, Albert công bố "Appel pour la trêve civile". Cũng trong năm đó, cuốn La Chute, tác phẩm quan trọng cuối cùng của Albert Camus được xuất bản. Ngày 4 tháng 1 năm 1960, tại Petit-Villeblevin vùng Yonne, Albert Camus mất trong một tai nạn giao thông. Trên chiếc xe Facel Véga khi đó còn có một người bạn của ông Michel Gallimard và người cháu Gaston. Albert Camus được chôn cất ở Lourmarin, vùng Vaucluse, nơi ông đã mua một căn nhà trước đó. Mời các bạn đón đọc Sa Đọa của tác giả Albert Camus.
Những Ngọn Cờ Trên Tháp - Anton Makarenko
Những ngọn cờ trên tháp là một cuốn tiểu thuyết tâm lý giáo dục của nhà văn Anton Makarenko, ra đời năm 1938. Trong tác phẩm "Bài ca sư phạm" vấn đề hấp dẫn tôi là miêu tả con người trong tập thể thế nào, miêu tả sự đấu tranh với bản thân của con người thế nào, cuộc đấu tranh đó gay gắt nhiều hay ít. Trong tác phẩm "Những ngọn cờ trên tháp", tôi đặt cho mình mục đích hoàn toàn khác. Tôi muốn miêu tả chính tập thể tuyệt vời mà tôi được vinh dự làm việc ở đó, miêu tả các phong trào nội bộ của nó, số phận của nó, môi trường xung quanh nó. *** Anton Semyonovich Makarenko (tiếng Nga: Анто́н Семёнович Мака́ренко , Tiếng Ukraina: Анто́н Семе́нович Макаре́нко , 13 tháng 1 năm 1888 - 1 tháng 4 năm 1939) là một nhà giáo dục, nhân viên xã hội và nhà văn Liên Xô, nhà lý luận giáo dục có ảnh hưởng nhất ở Liên Xô, người đã thúc đẩy các ý tưởng và nguyên tắc dân chủ trong lý thuyết và thực hành giáo dục. Là một trong những người sáng lập sư phạm Liên Xô, ông đã xây dựng lý thuyết và phương pháp giáo dục trong các tập thể trẻ tự quản và đưa khái niệm lao động sản xuất vào hệ thống giáo dục. Makarenko thường được coi là một trong những nhà giáo dục vĩ đại của thế giới, và sách của ông đã được xuất bản ở nhiều nước. Sau cuộc Cách mạng Nga, ông đã thành lập các trại trẻ mồ côi tự hỗ trợ cho trẻ em lang thang - bao gồm cả tội phạm vị thành niên - bị bỏ rơi mồ côi do Nội chiến Nga. Trong số các cơ sở này có Thuộc địa Gorky và sau đó là xã lao động Dzerzhinsky ở Kharkov, nơi sản xuất máy ảnh của Fed. Makarenko đã viết một vài cuốn sách, trong đó Bài thơ sư phạm (еееееее ее), một câu chuyện hư cấu về Thuộc địa Gorky, đặc biệt phổ biến ở Liên Xô. Năm 1955, một bộ phim có tựa đề tiếng Anh Road to Life đã được sản xuất. *** Chuyện này bắt đầu vào thời kỳ cuối kế hoạch năm năm lần thứ nhất. Mùa đông chỉ còn để lại những lớp băng mỏng đang lần tránh ánh mặt trời dưới mọi thứ rác rưởi: những cọng rơm, những váng bùn và những lớp phân khô. Lớp đá cuội đã mòn trải ngoài sân ga đang được sưởi ấm dưới ánh nắng, lớp đất bám quanh các viên đá cuội cũng đang khô dần và mỗi lần có bánh xe đi qua đã thấy tung lên những làn bụi mới. Giữa quảng trường là một mảnh vườn hoang. Mùa hè các bụi cây trong vườn này cũng đâm chồi nảy lá, nhưng giờ đây, cũng như toàn cảnh thiên nhiên, khu vườn trông thật bẩn thỉu, những cành cây trơ trụi run rẩy, tựa hồ như bây giờ không phải mùa xuân, mà đang là mùa thu vậy. Từ quảng trường vào thị trấn có một con đường lát đá. Thị trấn nhỏ bé, nó tình cờ được ghi tên trên bản đồ địa lý. Có lẽ nhiều người không biết tên thị trấn này, nếu họ không phải chuyển tàu ở cái ga phụ mang tên thị trấn. Trên quảng trường có vài hàng quán. Phía bên là bưu điện, ngoài cửa có tấm biển màu vàng chóe. Cạnh đó có hai con ngựa gầy nhom đang rầu rĩ, chúng bị thắng vào một cỗ xe song mã chở khách đã rệu rã. Người đi lại trên quảng trường thưa thớt, phần lớn chỉ là những nhân viên đường sắt, tay xách đèn chai, những cuộn dây thừng và những chiếc va-li bằng gỗ dán. Khách chờ tàu là mấy bác nông dân, đang ngồi dưới đất cạnh tường nhà ga để sưởi nắng. Cách mấy người này một quãng là chú bé Va-ni-a Gan-tsen-cô trạc mười hai tuổi đang ngồi thu lu một mình. Chú buồn bã ngồi bên cạnh cái kệ để chân đánh giày của mình, hấp háy mắt dưới ánh nắng. Cái kệ của chú rất đơn giản, làm bằng mấy mảnh gỗ ghép lại, nhìn qua cũng biết là Va-ni-a tự tay làm lấy. Còn đồ lề của chú cũng chẳng có bao nhiêu. ... Mời các bạn đón đọc Những Ngọn Cờ Trên Tháp của tác giả Anton Makarenko.
Những Cậu Bé Hỏa Tiễn - Homer Hickam
Nỗ lực biến ước mơ thành hiện thực. Một câu chuyện cảm động và đầy cuốn hút về tuổi trẻ dám mơ ước và nỗ lực để biến giấc mơ thành hiện thực. Cậu bé Homer Hickam sinh ra tại Coalwood - một vùng mỏ nghèo hẻo lánh của miền Tây Virginia, Mỹ. Tương lai của đa số trẻ em Coalwood là trở thành thợ mỏ; Homer với sức học trung bình và không có một năng khiếu đặc biệt nào, cũng sẽ khó lòng thoát khỏi vùng đất ấy. Nhưng một ngày kia, khi được chứng kiến vệ tinh Sputnik của Nga bay ngang bầu trời, cậu bé 14 tuổi bỗng bùng lên niềm khao khát chế tạo tên lửa để khám phá vũ trụ. Homer tập hợp nhóm bạn thân lại để chế tạo tên lửa. Và trái hỏa tiễn đầu tiên không bay lên bầu trời đêm như các bạn trẻ mong muốn mà như một trái bom làm nổ tung hàng rào vườn hồng của mẹ, biến Homer thành một “hiện tượng” chẳng lấy gì làm hay ho trong thị trấn. Mặc dù vậy, người mẹ tuyệt vời và khác người của Homer lại ra sức ủng hộ cho ý tưởng “điên rồ” của con, bất chấp sự ngăn cản của người chồng. Bà muốn gieo vào lòng con trai một khát vọng, một niềm đam mê để cậu có thể tìm ra con đường thoát khỏi khu mỏ, vùng đất mà theo bà đang dần tàn lụi vì sự cạn kiệt tài nguyên. Nhờ sự hỗ trợ của mẹ và cô giáo dạy hóa Riley, Homer đã thành lập Tổ chức tên lửa Big Creek. Những bạn trẻ ấy phải đối mặt với biết bao rào cản - rào cản về tri thức, những khó khăn về vật chất và cả rào cản vô hình từ bạn bè, gia đình - những người không ủng hộ dự án của họ. Tự mày mò nghiên cứu khoa học, những trái hỏa tiễn đầu tiên mang lại cho nhóm không ít rắc rối cùng những bi hài kịch cười ra nước mắt. Các bạn trẻ này đã nỗ lực bằng mọi cách, kể cả việc vô tình vi phạm pháp luật, để tìm kiếm các nguyên vật liệu chế tạo tên lửa... Với quyết tâm và niềm mơ ước được gia nhập đội ngũ kỹ sư NASA để khám phá vũ trụ, Homer và các bạn từng bước chinh phục được bầu trời Coalwood và tình cảm của người dân vùng mỏ này. Nhóm bạn trẻ đã đạt được huy chương vàng tại Hội chợ Khoa học Toàn quốc năm 1960 với sáng chế của họ. *** Đôi dòng về Những cậu bé hỏa tiễn Dám mơ ước và biến ước mơ thành hiện thực - đó chính là một trong những thông điệp chính của cuốn sách này. “Tên lửa không bay lên nếu không được ai châm ngòi” - O’Dell, một thành viên của nhóm thường lặp đi lặp lại câu nói này. Những quả tên lửa cũng như những khát vọng của tuổi trẻ và những khát vọng ấy sẽ mãi chỉ là mơ ước nếu không có một ai “châm ngòi” cho chúng. Tuổi trẻ luôn tràn đầy hoài bão lớn, song làm sao để biến chúng thành hiện thực lại là cả một hành trình đầy gian nan mà cũng thật thú vị nếu ai dám vượt lên chính mình như những cậu bé vùng mỏ nghèo xứ Coalwood. Một lần khi ngắm nhìn mặt trăng, những cậu bé hỏa tiễn nhận ra rằng từ khi quan tâm đến vấn đề khám phá vũ trụ thì mọi khái niệm về mặt trăng đã thay đổi. “Chúng tôi phóng đi một chiếc phi thuyền nhỏ, vượt qua khỏi giới hạn vật lý của nó; vượt qua những rặng núi cheo leo, qua khỏi những sự lừa dối và nước mắt của những phản đối gay gắt ban đầu; ngưỡng mộ những miệng núi lửa, những vùng tối và những ngọn núi của mặt trăng. Vậy thì một ngày nào đó, tôi tự nhủ rằng chúng tôi sẽ đến đó.” Chính cậu bé Homer Hickam, nhân vật chính và là tác giả của cuốn sách, sau này đã trở thành một kỹ sư NASA đúng như mơ ước thuở nhỏ. Đúng như nhận xét của tiến sĩ Mark A. Hill, Giám đốc Viện Giáo dục quốc tế Hoa Kỳ (IIE) tại Việt Nam, “...câu chuyện của Homer Hickam, một câu chuyện về hy vọng, kiên trì, thắng vượt nghịch cảnh không chỉ giới hạn ở nước Mỹ, mà là một câu chuyện phổ quát diễn ra ở mọi quốc gia trên địa cầu này. Những cậu bé hỏa tiễn kể về niềm tin, “một niềm tin vững chắc vào một điều gì đó không có chứng cứ,” niềm hy vọng về điều mình chưa từng thấy.” Và sự chân thực của cuốn sách đã tạo nên sức lay động lớn với trái tim độc giả. Những cậu bé hỏa tiễn là một tác phẩm đầy sức cuốn hút với giới trẻ. Bên cạnh câu chuyện chế tạo tên lửa, tác giả đã đưa người đọc đến với một vùng đất Mỹ hẻo lánh thuộc miền Tây Virginia, khám phá cuộc sống của những người thợ mỏ những năm 1950. Tác phẩm thật gần gũi với những câu chuyện tình yêu ngọt ngào và cũng không kém phần chua xót, những trăn trở của tuổi trẻ... Tác giả đã khắc họa những chân dung nhân vật thật sống động, chân thực. Homer Hickam được ngợi ca là một người kể chuyện tài tình và rất có duyên, người đã xóa nhòa ranh giới của tiểu thuyết và hồi ký. Điều đó khiến cho Những cậu bé hỏa tiễn có sức lan tỏa lớn đến hàng triệu người đọc trên thế giới. Cuốn sách được dịch ra 8 thứ tiếng và được sự đón nhận nồng nhiệt của rất nhiều trường phổ thông, đại học trên toàn nước Mỹ, trở thành động lực để các bạn trẻ học tập, nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học, nghệ thuật. Năm 1999, bộ phim October Sky ra đời dựa theo cốt truyện của Những cậu bé hỏa tiễn cũng thực sự tạo nên một cơn sốt trên màn bạc. Tại Việt Nam, trong tháng 8 vừa qua, Viện Giáo dục quốc tế Hoa Kỳ (IIE) cũng đã phát động một cuộc thi “Biến giấc mơ thành hiện thực” (Turning dreams into reality), dựa trên cảm hứng của tác phẩm Những cậu bé hỏa tiễn, dành cho học sinh, sinh viên trên cả nước. *** Đôi dòng về tác giả Homer H. Hickam (19/2/1943), sinh trưởng tại Coalwood, miền Tây Virginia, Mỹ. Ông tốt nghiệp trường trung học Big Creek vào năm 1960, sau đó là Cao Đẳng Kỹ Thuật Virginia và nhận bằng cử nhân Kỹ sư Công nghiệp vào năm 1964. Ông cũng là một cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam. Trong thời gian này, ông bắt đầu viết sách, hầu hết là về những chuyến phiêu lưu dưới biển và về sau là về những cuộc chiến của Mỹ trong Thế Chiến Thứ 2. Sau đó ông làm việc cho NASA, huấn luyện các phi hành gia về những kiến thức và kinh nghiệm khoa học khi lên đến quỹ đạo. Homer Hickam được xếp vào danh sách một trong những tác giả có sách bán chạy nhất tại Mỹ. Homer Hickam là tác giả của hai cuốn sách được hoan nghênh thời “hậu” Những cậu bé hỏa tiễn: Con đường Coalwood (The Coalwood Way- 2000) và Bầu trời đá (Sky of Stone - 2001). Ông cũng viết Giao lộ Torpedo (Torpedo Junction - 1989), Trở lại mặt trăng (1999) và nhiều tiểu thuyết khác, tác phẩm mới nhất là Chiếc mũ bảo hộ màu đỏ (Red Helmet - 2008). Đầu tháng 9.2009, Homer H. Hickam có chuyến viếng thăm Việt Nam để trò chuyện với sinh viên ở Hà Nội và TP.HCM xung quanh chủ đề “Biến ước mơ thành hiện thực”. Đồng thời, tác giả cũng tham gia trao giải cho cuộc thi Turning dreams into reality, do IIE tổ chức. *** Nhận xét của báo chí quốc tế về Những cậu bé hỏa tiễn “[Hickam] là một người kể chuyện tài tình (...) Chắc chắn rằng đây là câu chuyện mà tác giả kể cho chính bản thân mình. Một câu chuyện đầy thú vị và trong sự nghiệp của Homer H. Hickam, Jr., ông đã vượt qua rào cản cuộc sống để trở thành một kỹ sư NASA, huấn luyện các phi hành gia trước khi vào không gian - chính điều đó đã làm cho cuốn sách này thực sự khác biệt.” - The New York Times Book Review “Hickam có một câu chuyện tuyệt vời để kể cho chúng ta... Những cậu bé hỏa tiễn chắc chắn sẽ gợi nên một nỗi hoài nhớ trong lòng bất kỳ ai đã từng lớn lên ở thời kỳ đầu của cuộc đua vào vũ trụ, nhưng câu chuyện này còn hơn thế nữa...” - The Philadelphia Inquirer “Một câu chuyện sôi nổi đưa ra một vấn đề đặc sắc... thông điệp của niềm hy vọng trong một thời đại của sự hoài nghi.... Có lẽ tất cả chúng ta có một điều gì đó để học từ sáu cậu bé, những người đã dám vượt qua mọi giới hạn... và quyết tâm gửi những giấc mơ vút lên trời cao.” -The San Diego Union-Tribune “Thật khó quên... Không giống như nhiều hồi ký khác, cuốn sách này mang đến cho đời sống không chỉ kinh nghiệm của một cá nhân. Nó còn mang đến cho đời sống một thị trấn đã mất của Coalwood, miền Tây Virginia.” - USA Today Mời các bạn đón đọc Những Cậu Bé Hỏa Tiễn của tác giả Homer Hickam.