Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vùng Đất Xannhicôp

Vùng Bắc Băng Dương có nhiều đảo lớn và nhỏ bao quanh, còn khu trung tâm không có đảo. Các đảo thường có băng, tuyết phủ, chỉ trừ một số ít đảo không có băng tuyết trong một thời gian ngắn về mùa hè. Biển bao quanh các đảo cũng thường xuyên đóng băng. Vùng trung tâm không có đảo thường có những lớp băng dày, lâu năm, nước và gió thường xô đẩy những tảng băng ở đây về nhiều hướng. Bất chấp những điều kiện khó khăn, các nhà thám hiểm dũng cảm đã đến vùng Bắc cực, từng bước nghiên cứu vùng này và đã từng sống ở những đảo đó. Người ta đã cố gắng lợi dụng các tảng băng di chuyển để đi vào vùng Bắc Băng Dương, nơi còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Sự khám phá các đảo mới được bắt đầu từ lâu và ngày nay cũng đang được tiếp tục; chẳng hạn các đảo nhỏ Gianet, Ghenriet, Bennet ở phía đông-bắc quần đảo Nôvôsibirơxcơ đã được phát hiện vào năm 1881; quần đảo lớn mang tên Vùng đất bắc ở phía bắc bán đảo Taimưrơ được phát hiện vào năm 1913; tiếp theo đó, các đảo nhỏ ở vùng biển Carơxkôie cũng được phát hiện. Dù sao, người ta cũng không thể khẳng định là các đảo ở vùng Bắc cực đã được phát hiện hết. Bởi vì ở nơi mà băng di chuyển nhiều, còn có thể có những hòn đảo khác, nếu đi bằng đường biển thì không đến các đảo này được, còn đi theo các tảng băng di chuyển cũng rất khó tới. Nhờ sử dụng máy bay, người ta có thể đến được những nơi trong vùng Bắc cực mà đi bằng đường biển hoặc đi theo băng di chuyển cũng không thể đến được. Song, cho đến ngày nay, người ta vẫn chưa khám phá được các hòn đảo ở vùng Bắc cực, mà những truyền thuyết về chúng được tồn tại đã gần một thế kỷ rưỡi nay rồi. Những người thợ săn dũng cảm đã từng đến các hòn đảo gần lục địa châu Á để kiếm lông thú và ngà voi ma-mút, cả những nhà thám hiểm phương bắc, trong những ngày đẹp trời hiếm có ở phương bắc, đã thấy được các hòn đảo đó từ những điểm cao, nhưng họ không sao đi đến được. Hòn đảo ở về phía bắc quần đảo Nôvôsibirơxcơ được đặt tên là Vùng đất Xannhicôp, do Iacôp Xannhicôp là người đầu tiên trông thấy nó ở tận phía chân trời giữa vùng bằng. Cuốn sách này miêu tả việc những người tù chính trị bị đi đày ở lưu vực sông Indihiroca đi tìm Vùng đất Xannhicôp. Cuốn tiểu thuyết này thuộc loại khoa học viễn tưởng, bởi vì tác giả mô tả một vùng đất tưởng tượng, miêu tả thiên nhiên và dân cư của vùng đất này theo các giả thuyết khoa học. Bạn đọc sẽ làm quen với những hòn đảo Bắc cực, với các điều kiện thám hiểm giữa vùng băng, với thiên nhiên và dân cư ở một vùng đất có thể có được mà chưa ai biết, nếu nó tồn tại theo các giả thuyết mà tác giả nêu lên. Trong chương “Vài lời cuối cùng” bạn đọc sẽ có được lời giải đáp về các giả thuyết nói về vùng đất Xannhicôp, và làm quen chút ít với những phát minh mới mẻ của các nhà khoa học nghiên cứu vùng Bắc cực của Liên Xô, làm sáng tỏ một phần nào về sự bí hiểm của Vùng đất Xannhicôp. *** Nửa đầu cuộc họp trọng thể của hội các nhà bác học để nghe thông báo của các nhân viên trong đoàn thám hiểm đi tìm bá tước Tôn và những người cùng đi với ông ta bị mất tích, đã sắp kết thúc. Trên diễn đàn, cạnh bức tường có trang trí các chân dung lớn của những người bảo trợ có chức tước và các vị chủ tịch của hội, là một sĩ quan hàng hải. Ông này đã từng dũng cảm vượt Bắc Băng Dương trên một con thuyền độc mộc, từ quần đảo Nôvôsibirơxcơ đến đảo Bennet, đây là nơi cuối cùng mà bá tước Tôn dừng lại, và không thấy trở về. Chiếc chao đèn màu xanh hắt bóng mờ lên khuôn mặt rắn rỏi, dầu dãi phong sương của người đang nói, rọi ánh sáng lên bản báo cáo đặt trên diễn đàn và lên bộ đồng phục hàng hải có khuy và huân chương bằng vàng của ông ta. Các ủy viên Hội đồng của hội đang ngồi sau một chiếc bàn dài phủ khăn xanh đặt ở phía trước diễn đàn. Họ đều là những nhà bác học lỗi lạc và những nhà du hành nổi tiếng, hiện đang sinh sống tại thủ đô phía bắc1. Vị chủ tịch ngồi ở giữa. Mắt ông nhắm nghiền, hình như giọng nói nhẹ nhàng của diễn giả đã làm cho ông ta thiu thiu ngủ. Căn phòng nhỏ chật ních người. Báo cáo viên đã miêu tả bước đường của đoàn thám hiểm đi cứu nạn, cuộc hành trình khó khăn khi họ phải dùng những xe trượt tuyết do chó kéo để chở chiếc thuyền độc mộc nặng nề từ lục địa đến quần đảo Nôvôsibirơxcơ, vượt qua vùng băng giá ven Bắc cực. Ông tả lại mùa hè trên đảo Côtennưi trong lúc chờ phá băng, việc đi dọc theo bờ biển rất gian khổ, và vượt qua biển để đến đảo Bennet một cách táo bạo. Ông nêu lên đặc điểm của hòn đảo ảm đạm, quanh năm phủ đầy băng tuyết đó và kể lại việc tìm thấy căn lều nhỏ của Tôn và những vật mà Tôn đã để lại trong lều cùng với tài liệu ghi chép về đảo kết thúc bằng những dòng chữ: “Hôm nay chúng tôi đang lên đường về phương nam. Có đủ thức ăn cho khoảng 15 đến 20 ngày. Tất cả đều khỏe mạnh.” - Như thế là - báo cáo viên cao giọng tuyên bố - ngày 26 tháng 10 năm 1902, bá tước Tôn, nhà thiên văn Dibec và hai thợ săn Vatxili Gôrôkhôp, người Iacut, và Nhicolai Điacônôp, người Tunggut đã rời đảo Bennet vượt qua băng tuyết đi về phương nam, theo hướng quần đảo Novôxibirơxcơ. Nhưng họ không bao giờ tới đích. Chúng tôi biết vậy, bởi vì chúng tôi không tìm ra một dấu vết nào cả. Thế thì điều gì đã xảy ra đối với các nhà du hành can trường ấy? Không còn nghi ngờ gì nữa, họ đã chết trên đường đi. Vào cuối tháng mười, trên các vĩ tuyến ấy, ban ngày không có ánh sáng trời chỉ sáng mờ mờ vào khoảng hai ba giờ lúc ban trưa. Băng giá tới 40 độ; hay có bão tuyết dữ dội. Nhưng mặt biển chưa hoàn toàn bị bao phủ bởi băng giá và có nhiều hồ nước. Các nhà du hành có thể rơi vào một trong những hồ nước mới đóng băng ấy giữa lúc có bão tuyết rồi mất hút. Hoặc họ có thể chết vì kiệt sức, hay lả đi vì đói, và vì băng giá trong khi phải chống chọi với các tảng băng. Vì không có chó, họ buộc phải kéo lê những xe trượt tuyết nặng trĩu, xuồng và đồ đạc. Hoặc cuối cùng, gặp một cơn bão, họ chết đuối trong đêm đen Bắc cực giữa lúc cố gắng vượt qua vùng biển chưa đóng băng trên những chiếc xuồng mỏng manh, Bằng cách nào thì họ cũng yên giấc ngàn thu dưới đáy Bắc Băng Dương, còn như tôi đã cố gắng chứng minh cho các vị: Vùng đất Xannhicôp mà Tôn đi tìm từ lâu nay, thực ra không có. Người nói bước khỏi diễn đàn. Câu kết luận của ông ta đã làm cho những người nghe ngán ngẩm. Bỗng người ta nghe thấy một giọng nói to từ phía hàng ghế cuối vọng lên; Dầu sao - tôi bảo là - nó vẫn có! Cả gian phòng náo động. Người ta nghe thấy những câu hỏi: - Ai thế? Sao kỳ quặc vậy? Vị chủ tịch nghiêm nghị nhìn quanh và rung chuông. Khi trật tự đã trở lại, ông ta nói giọng oai nghiêm. - Tôi muốn rằng toàn thể hội nghị và các vị khách, chúng ta hãy đứng dậy mặc niệm những nhà du hành gan dạ đã sống trọn đời cho khoa học: bá tước Tôn, nhà thiên văn Dibec và hai thợ săn Gôrôkhôp và Điacônôp. Mọi người đứng cả dậy. - Tôi tuyên bố nghỉ giải lao mười lăm phút. Những người ngồi gần cửa vội vàng tuồn ra ngoài. Các ủy viên của Hội đồng vây lấy người nói, trong khi đó người ta thấy một hội viên có thân hình đẫy đà, viện sĩ Sencơ, đang lách qua đám đông đến những hàng ghế cuối. Ông ta là nhà thám hiểm nổi tiếng, người tổ chức và là cố vấn của đoàn thám hiểm của bá tước Tôn. Giữa sự ồn ào của tiếng ghế xô đấy, tiếng trò chuyện của đám đông, vang lên giọng nói to của ông ta: - Tôi xin mời vị nào đã quá tin rằng Vùng đất Xannhicôp là có thật, nói chuyện với tôi. Đáp lời mời này, một người trẻ tuổi mặc áo choàng dài màu đen, tách khỏi đám đông thính giá. Khuôn mặt ngăm đen của anh ta đầy những vết nhăn nhỏ xíu, kết quả của nắng hè, băng giá mùa đông và những cơn gió bão. - Tôi nói vậy và nếu cần, tôi sẽ nhắc lại một lần nữa,- anh ta tuyên bố sau khi tiến lại gần Sencơ. - Ta hãy đến thư viện; không thể nói chuyện trong tình trạng hỗn độn này được,- Sencơ vừa nói vừa nhìn người trẻ tuổi hăng hái bằng con mắt xoi mói ẩn dưới đôi lông mày rậm, Khoác tay người lạ mặt, Sencơ dẫn anh ta qua cửa bên đi đến những phòng ở phía sau của thư viện. Đây là văn phòng của hội. Trong phòng im ắng và trống rỗng. Viện sĩ ngồi lên ghế của thư ký rồi ra hiệu cho người cùng đi với mình ngồi sang ghế bên. Ông châm một điếu thuốc và nói: - Tôi nghe đây. Tôi muốn nghe điều ông biết về Vùng đất Xannhicôp. - Điều đầu tiên là hãy cho phép tôi nói với ông tôi là ai, - anh ta nói. - Đã năm năm, tôi là một tù chính trị, bị đày biệt xứ ở một làng tên gọi Cadatric tại cửa sông Iana, trong xứ sở của gấu, hay nói cho đúng hơn là của những con gấu Bắc cực. Ở đó tôi đã làm quen với những thợ săn địa phương. Theo cách nhìn văn hóa của thủ đô thì họ là những con người cục cằn và dốt nát, nhưng họ tốt bụng và dũng cảm. Mỗi năm xuân đến, khi ngày trở nên dài hơn và băng vẫn rắn, họ quả cảm đến quần đảo Nôvôsibirơxcơ để lùng ngà voi ma-mút, ở đây có rất nhiều... Một số thợ săn đã thấy rõ ràng Vùng đất Xannhicôp và tin chắc rằng nó có thật. - Điều đó cũng chưa đủ để thuyết phục! - Sencơ nhận xét. - Ông biết chứ, diễn giả đã bảo rằng những ngọn núi mà Xannhicôp và Tôn đã thấy chỉ là những dãy núi băng khổng lồ. Để có thể đứng ở đảo Côtennưi nhìn thấy được những ngọn núi của vùng đất tưởng tượng ấy thì chúng phải cao ít nhất là hai nghìn hai trăm năm mươi mét. Khó mà tin rằng có những ngọn núi cao như thế ở Bắc Băng Dương. - Đó chỉ là điều phỏng đoán chứ không phải là sự thật! - Hơn nữa, trước khi đặt chân lên đảo Bennet, Tôn đã uổng công đi tìm vùng đất ấy trên chiếc du thuyền “Rạng đông” chở ông ta, đi gần chỗ mà người ta cho là vùng đất. - Điều này chỉ chứng tỏ rằng vùng đất ở xa hơn về phương bắc chứ không gần đảo Côtennưi như Xannhicôp và những người khác đã tưởng, họ thấy nó nhưng không ước lượng được khoảng cách một cách chính xác, - người trẻ tuổi cãi lại. - Ông nói đúng! - Sencơ nói... - Nhưng sự thật, ngoài những chứng cứ này ra, ông sẽ đồng ý với tôi rằng đây chỉ là những chứng cứ bấp bênh, chúng ta không có gì khác, hay nói đúng hơn, không có gì xác thực để xét, ngoài việc những đàn chim di cư về một nơi nào đó ở phương bắc. - Tại sao ông nghĩ rằng dấu hiệu đó lại không đầy đủ tính chất xác thực? - người trẻ tuổi ngạc nhiên hỏi, - Vranghen đã viết về điều này, Maiden xác nhận nó, còn nhân dân địa phương chỉ rõ rằng vào mùa hè có hàng đàn chim sống trên bờ biển phía bắc của Xibiri, trừ hai nơi: nơi thứ nhất nằm giữa sông Khrôma và sông Ômôlôi, nơi thứ hai bắt đầu khoảng năm mươi cây số về phía tây của mũi Tacan và kéo dài đến mũi Riacaipi2. Trong những nơi này, số lượng chim không đáng kể, nhưng nhân dân ở đây thấy có những con chim bay về phương bắc. - Từ dải đất ở phía tây, chim bay về quần đảo Nôvôxibirơxcơ, trong khi từ dải đất ở phía đông, chim bay đến đảo Vranghen, - Senco bác lại. - Trước kia người ta nghĩ thế, nhưng thực ra không phải như vậy. Đảo Vranghen rất cao, lởm chởm đá và hầu như cả mùa hè tuyết phủ. Cũng có một số ít nơi trên đó các loài chim như ngỗng và vịt có thể làm tổ. Nhưng chúng ta chú ý nhiều hơn đến dải đất phía tây. - Phải rồi, từ đây, bầy chim bay về quần đảo Nôvôxibirơxcơ.   Mời các bạn đón đọc Vùng Đất Xannhicôp của tác giả Vlađimia Ôbrutrep.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Sói
Tên eBook: Mowgli - Người Sói (full prc, pdf, epub) Tác giả: Rudyard Kipling Thể loại: Tiểu thuyết, Văn học Ấn Độ Dịch giả: Hoàng Hưng Nhà xuất bản: NXB Trẻ Năm xuất bản: 1999 Số trang: 250 Số quyển / 1 bộ: 1 Hình thức bìa: Bìa mềm Tạo prc: santseiya  Nguồn: vietkiem.com, thuvien-ebook.com  Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: RUDYARD KIPLING, tên đấy đủ là Joseph Rudyard Kipling, sinh ngày 30 tháng 12 năm 1865 tại thành phố Bombay, Ấn Độ, trong một gia đình trí thức người Anh. Năm lên sáu tuổi, cậu được đưa về Anh học, tuổi thơ của cậu nhìn chung là bất hạnh. Kipling trở lại Ấn Độ năm 1882, làm nghề báo. Ông đi đó đi đây, khắp Ấn Độ, rồi sang Mỹ, sang châu Phi, nhờ đó mà tích luỹ nhiều vốn sống cho các trang viết của mình sau này.     Kipling nổi tiếng trước hết là một nhà thơ. Sau khi Lord Tennyson qua đời vào năm 1892, có thể nói Kipling đã chiếm vị trí số một trong lòng công chúng yêu thơ nước Anh. Ông cũng là người viết truyện ngắn và tiểu thuyết lừng danh. Bạn đọc trẻ khắp năm châu thì yêu quí Kipling qua những tác phẩm viết cho lứa tuổi của họ: Những Thuỷ Thủ Dũng Cảm (1890), Sách Rừng (quyển 1 năm 1894, quyển 2 năm 1895), Kim (1901). Ông được trao giải Nobel văn chương năm 1907.     Từ năm 1901, Rudyard Kipling định cư ở Anh và qua đời ngày 18 tháng 1 năm 1936 tại London.     Hai quyển Sách Rừng có thể coi là tập hợp những câu chuyện thú vị, hấp dẫn bậc nhất về đời sống hoang dã trong văn chương nhân loại từ trước tới nay, mà nhân vật chính là một chú bé được bầy sói nuôi và huấn luyện giữa rừng xanh, trở thành chúa tể của rừng. Mowgli - Người Sói là bản dịch tiếng Việt hai quyển Sách Rừng, bám sát bản gốc, chỉ lược bỏ một số bài thơ quá dài chen giữa các câu chuyện. Bản dịch đã được đông đảo bạn đọc tán thưởng qua hai lần in năm 1987, 1988 của Nhà Xuất Bản Trẻ. Bản in lần thứ 3 này đã được dịch giả sửa chữa một số chỗ.     NXB Trẻ hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc.
Những Đứa Trẻ Bị Bỏ Rơi Trong Tủ Gửi Đồ
Tên eBook: Những Đứa Trẻ Bị Bỏ Rơi Trong Tủ Gửi Đồ (full prc, pdf, epub) Tác giả: Ryu Murakami  Thể loại: Tiểu thuyết, Văn học Nhật bản  Người dịch: Trần thị chung Toàn, Nguyễn thị hạnh Vân  Giá bìa: 88,000 VNĐ  Số trang: 519  Ngày Xuất Bản: 04-2010  Nhà Xuất Bản: NXB Lao Động   Nguồn + Tạo prc: Hoa Quân Tử - fb.com/nhut.huynhminh.129 Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com  Giới thiệu: Ryu Murakami, một trong những nhà văn nổi bật của xu hướng: Một nền văn học không ranh giới. Ông sinh năm 1952, văn tài sớm được khẳng định giữa những năm 70, qua tác phẩm "Màu xanh trong suốt", đoạt giải Akutagawa 1976. Tiếp theo là các tác phẩm "Những đứa bé bị bỏ rơi trong tủ gửi đồ" (1980), Khách sạn Raffles (1989)... Với tác phẩm "69", ảnh hưởng phong cách Mark Twain, ông viết về lớp trẻ trong một trường Trung học tỉnh lẻ, đã đứng lên phản đối sự hiện diện của một căn cứ quân sự Mỹ. Còn đời sống Mỹ hóa trong đô thị, chúng ta sẽ thấy rõ qua "Những đứa trẻ bị bỏ rơi trong tủ gửi đồ" (Coin Lockers Babies). "Những đứa trẻ bị bỏ rơi trong tủ gửi đồ" - đó là Kaku và Hashi, hai đứa trẻ bị mẹ chúng bỏ rơi trong ngăn cho thuê gửi đồ tạm, cũng là hai trong số rất ít ỏi còn sống sót vào thời gian đó. Sự trưởng thành của hai đứa luôn gắn với cuộc sống đầy phức tạp, biến động của nước Nhật, vào thời kỳ cuộc sống Mỹ hóa mạnh mẽ. Hai đứa trẻ luôn bị ám ảnh, tra vấn về nguồn cội, về sự tồn tại phi lý của chúng, về người mẹ nào đã đang tâm bỏ rơi chúng, bỏ chúng đến chết... và chúng chỉ may mắn vượt qua tay thần chết có khi chỉ nhờ sự đánh hơi ngẫu nhiên từ một chú chó ! Hình như một nhân vật của Nhà văn Hermann Hesse nói lời này: ''Không có Mẹ người ta không sống được, không có Mẹ người ta không chết được", có lẽ đúng với trường hợp Kaku và Hashi. Chúng lớn lên với một trái tim thương tổn, tật nguyền, từ đó cơn lốc của cuộc sống Mỹ hóa đã lôi cuốn chúng đến những tình cảnh khủng khiếp và nghiệt ngã nhất, số phận, lần nữa như chơi trò tai ác, tiếp tục ám ảnh chúng với chất Dature (một loại chất độc ảnh hưởng thần kinh, một loại thuốc gây hưng phấn lạ lùng, biến con người nhiễm nó trở thành một sinh vật mới mang hình hài con người, và muốn hủy diệt tất thảy). Và cuộc đời những "đứa con căm thù" này, thoát được tay Thần chết nhưng lại phải sống trong Địa ngục trần gian. Chỉ với một góc, bên lề Tokyo Thiên đường diễm lệ, một Khu Chợ đen nhớp nhúa, thác loạn, đã thấy thấp thoáng những tầng địa ngục đang đầy ải, bòn rút con người, từng giây phút, từng ngày, biến họ thành những hình nhân, những bóng ma ! Sẽ thật ngạc nhiên, nếu những Kaku, Hashi...còn sót lại một chút gì được gọi là ký ức tốt đẹp. Với tài năng dẫn kể lôi cuốn, cùng những quan sát tinh tế, sự am hiểu sâu sắc nhiều lĩnh vực đời sống, Ryu Murakami đã khảm một bức tranh hết sức kỳ công, biến ảo của Địa ngục trần gian. Bức tranh có tính nhân loại. Một lời cảnh báo về sự hủy hoại nhân tính. Liệu con người có thể ngoảnh mặt, làm ngơ ? Trân trọng giới thiệu "Những đứa trẻ bị bỏ rơi trong tủ gửi đồ", một tác phẩm văn học đặc sắc của nhà văn Ryu Murakami cùng bạn đọc.
Em sẽ đến cùng cơn mưa - Takuji Ichikawa
  AudioBook Em Sẽ Đến Cùng Cơn Mưa   Văn học Nhật đem đến cho độc giả cảm giác bình yên, lãng mạn khi đắm mình trong những tác phẩm tinh tế, chìm trong câu chữ nhẹ nhàng nhưng đầy trầm tư, ám ảnh. Em Sẽ Đến Cùng Cơn Mưa cũng vậy. Không nhiều màu sắc, không nhiều kịch tính, dữ dội mà chỉ với một gam màu trầm buồn, một khung cảnh ảm đạm ngày mưa, một cốt truyện nhẹ nhàng, Ichikawa Takuji đã vẽ nên được một bức tranh tình yêu tuyệt diệu. Ở tác phẩm không có sự đối lập, hoặc giả có đi chăng nữa thì cũng hết sức nhạt nhòa, chỉ có sự hài hòa được đề cao (đặc trưng của văn phong Nhật). Sự hài hòa không chỉ ở vòng xoay giữa Takumi, Mio và Yuji mà còn lan ra cả những mối quan hệ khác với thầy Nombre,và chú chó Pooh, với cả thiên nhiên cùng mùa mưa ẩm ướt. Nét u huyền phảng phất suốt tác phẩm gây cho người đọc những cảm xúc không thể diễn tả, có một cái gì đó không chắc chắn, không rõ ràng vẫn đang tồn tại đâu đó. Ta không thấy sự đau khổ đến tột cùng của Takumi khi Mio qua đời, không thấy niềm hạnh phúc mãnh liệt của anh khi bỗng nhiên nàng quay lại, ta chỉ thấy một sự nhẹ nhàng lan tỏa trong tình yêu đó - phẳng lặng nhưng tràn ngập ở khắp nơi. Vậy mới biết, tình yêu có rất nhiều cung bậc, không phải cứ cuồng nhiệt nhiều, đau đớn nhiều đã là yêu nhau nhiều, mà có khi chỉ cần nhẹ nhàng, êm dịu như tình yêu của Takumi và Mio là đã đủ chạm đến thiên đường hạnh phúc. Em Sẽ Đến Cùng Cơn Mưa được viết với lời văn trong sáng, ngắn gọn và đôi chút ngộ nghĩnh sẽ đem đến sự thú vị và ấm áp khi “nhấm nháp” những trang sách, có thể trong một ngày mưa nhẹ nhàng. *** “Hôm nay là lần đầu tiên chúng mình gặp nhau với đôi giầy có cổ và có gót. Cũng phải nói thêm, hôm nay cũng là lần đầu tiên anh thấy em mặc chiếc váy liền màu đỏ sẫm. Lần đầu tiên anh thấy em tô son. Lần đầu tiên anh thấy mái tóc em đung đưa mỗi lần em nghiêng đầu, lần đầu tiên anh cảm thấy bồn chồn không yên khi nói chuyện với em. Tất cả đều là lần đầu tiên, đến nỗi mà khó tìm được một thứ không phải lần đầu tiên.’’ --------- "Anh cũng hiểu, tuy chỉ mang máng, rằng ngay cả giai đoạn hôn thôi cũng cần phải có thời gian. Anh không vội, hơn nữa, em là người sẽ sống cùng anh cả đời nên vẫn còn khối thời gian. Ít ra thì chúng mình đã mất ba năm mới hẹn hò nhau lần đầu, kể từ sau lần nói chuyện đầu tiên. Cho nên, muốn tiến tới được giai đoạn hôn thì cũng phải mất thêm ba năm nữa. Anh đã nghĩ vậy. Trong lần trò chuyện năm tiếng này, chúng mình đã tiến gần đến đoạn hôn nhau. (Không biết lúc hôn, cái răng khểnh của em có bị vướng không?) Anh đã nghĩ thế lúc nhìn vào môi em. Trời tối, chúng mình phải về. Giờ nhìn lại có thể nói lần hẹn hò này là bước mở đầu cho giai đoạn tiếp theo, nhưng thú thật với em là khi ấy, anh không đủ tự tin để nghĩ vậy. Nhiệm vụ trước mắt của anh là phải hẹn được em cho lần sau chứ không phải nghĩ tới chuyện hôn hay cưới em." (trích "Em Sẽ Đến Cùng Cơn Mưa", Ichikawa Takuji, Mộc Miên dịch)   Về Tác Giả: Takuji Ichikawa sinh ngày 7 tháng 10 năm 1962 tại Tokyo. Ông tốt nghiệp trường đại học Dokkyo. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Separation, xuất bản năm 2002. Cuốn Em Sẽ Đến Cùng Cơn Mưa (xuất bản tại Nhật với tên Ima Ainiyukimasu) in lần đầu năm 2003, là một trong những tiểu thuyết thành công nhất Nhật Bản, được chuyển thể thành truyện tranh, kịch, phim truyền hình ở Nhật và điện ảnh tại Mỹ. Lời Khen Tặng Dành Cho Tác Phẩm: “Một câu chuyện tình tinh tế và ngọt ngào đến nỗi ngay cả cái chết rình rập cũng đem lại những an ủi dịu dàng.” - Le Monde “Vừa phi thực vừa chân thực, một câu chuyện ngọt dịu về sự trường tồn của tình yêu.” - Reading-reviewing.com “Hành trình khám phá, một lần nữa, về tình yêu đã mất.” - Goodreads.com “Kết hợp hài hòa giữa những điều có và không thể, một câu chuyện bình dị dành cho bất kỳ ai.” - Amazon.com Mời các bạn đón đọc Em sẽ đến cùng cơn mưa của tác giả Takuji Ichikawa.