Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nghệ nhân và Margarita - Mikhail Bulgakov

M.Bulgakov - Bản thảo không bị cháy Từng chương, từng trang sách, đều ẩn chứa trong đó những hàm ý triết học được "phổ" vào ngay cả những sự kiện xoàng xĩnh, khôi hài đến thảm hại của một hiện thực rã nát trong thế giới văn nhân. Và toàn thể tiểu thuyết là một tuyên ngôn nghệ thuật mà cho đến ngày nay các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục khám phá không ngưng nghỉ. Nghệ Nhân là nhà văn vừa hoàn thành tiểu thuyết, viết về hai nhân vật Lesua và Ponti Pilat: Một là nhà triết học lang thang và một là quan tổng trấn quyền uy. Lesua đã bị gài bẫy, bị bắt và bị hành hình vì những rao giảng của mình. Cái chết của Lesua đã trở thành nỗi ám ảnh kéo dài suốt hai nghìn năm, không để cho Ponti Pilat được yên, bởi quan tổng trấn đã không thể "cứu" được Lesua khỏi án chết, như ước muốn bí mật chỉ riêng ông biết. Số phận của Nghệ Nhân cũng không hề may mắn hơn: Tác phẩm của anh bị nguyền rủa và khai tử bởi các đồng nghiệp ngay từ lúc chưa công bố, dẫn đến việc anh bế tắc, tuyệt vọng, tự đốt bản thảo và tìm đến nhà thương điên, trốn chạy cả tình yêu định mệnh của Margarita… Chỉ có quỷ sứ mới cứu nổi nhà văn. Và quả thật quỷ sứ đã xuất hiện. Phần lớn số trang của tiểu thuyết đã dành để mô tả những gì mà chúa quỷ Voland và đoàn tùy tùng đã "quậy tưng" thành phố Moscow lên theo cách nào. Bằng những phép thuật được sử dụng như thuốc thử, Voland đã buộc giới văn nhân tự lộn trái mình ra, bộc lộ những phẩm chất tồi tệ: Bất tài, dối trá, ăn bám và hám lợi. Quả thật, Bulgacov với "Tài năng của nhà văn trào phúng, tài năng của nhà văn giả tưởng và tài năng của nhà văn hiện thực" đã nén đến tối đa những vấn nạn văn chương - tư tưởng, nhằm khẳng định khát vọng của nhà văn. Nó ở trong lời đáp của Voland khi Nghệ Nhân lên tiếng hỏi mình có nên chạy theo Ponti Pilat không: "Không, chạy theo dấu vết của cái đã kết thúc để làm gì?…Chẳng lẽ anh không muốn giống như Faust, ngồi bên chiếc bình cổ cong với niềm hy vọng mình sẽ tạo ra được một giống Homuncul mới?". Nếu Nghệ Nhân - nhà văn trong tiểu thuyết khá mềm yếu và thụ động thì Bulgacov - nhà văn ngoài đời thực hoàn toàn ngược lại. Mạnh mẽ, quyết liệt, Bulgacov đã gửi một bức thư dài đến chính phủ Liên Xô: "Và tự tay tôi, tôi đã ném vào lò sưởi một tập bản thảo cuốn tiểu thuyết viết về quỷ sứ, một tập bản thảo hài kịch và phần đầu cuốn tiểu thuyết thứ hai của tôi - tiểu thuyết Sân khấu…Tôi xin lưu ý rằng, không được viết đối với tôi cũng có nghĩa là bị chôn sống… Nếu không được làm đạo diễn, tôi xin làm diễn viên đóng vai phụ. Nếu làm diễn viên phụ cũng không được, tôi xin làm công nhân sân khấu. Nếu cả điều đó cũng không thể được, tôi xin chính phủ Xô viết xử trí tôi như chính phủ thấy cần thiết…". Bức thư đã được gửi đi vào trước thời điểm mà Maiakovski đã dùng súng tự bắn vào đầu. Sự quyết liệt ấy đã thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết, ở những đối thoại giữa giữa Lesua - Pilat. Iesua đã trả lời Pilat, nhắc lại những gì mà vì nó, nhà triết học phải bước lên đoạn đầu đài: "Tôi nói rằng ngôi đền của lòng tin cũ sẽ sụp đổ, và ngôi đền mới của chân lý sẽ được dựng lên… Bất kể thứ quyền lực nào cũng là bạo lực đối với con người, và sẽ đến một lúc sẽ không còn quyền lực của các hoàng đế lẫn bất kỳ thứ quyền lực nào khác. Con người sẽ đến được vương quốc của sự thật và công lý, nơi nói chung sẽ không cần một quyền lực nào cả…". Có lẽ sự quyết liệt ấy đã giúp cho "bản thảo không bị cháy", cho dù Nghệ Nhân, cho dù chính Bulgacov đã đốt nó. *** Năm 2006, Mikhail Bulgakov, một trong những nhà văn lớn nhất và kỳ bí nhất của nước Nga, tròn 115 tuổi. Hành trình cuộc đời, hành trình văn chương của ông trên dưới trăm năm đầy gian nan thăng trầm nhưng hướng về bất tử, như lời khẳng định của một nhà văn Nga: “Bulgakov – nhà văn đang sống và sẽ sống chừng nào còn tồn tại văn học Nga”. Hơn thế nữa, mối quan tâm đối với sự nghiệp sáng tác của Bulgakov mỗi ngày một tăng ở Nga và ở nhiều nơi trên thế giới, hầu hết tác phẩm của ông liên tục được in, tái bản, dịch, dựng phim… Xuất hiện ngày càng nhiều những công trình nghiên cứu “Bulgakov học”. Ông là một trong số rất ít nhà văn ở Nga được làm “Bách khoa toàn thư”; và đặc biệt, Bulgakov có lẽ là một trong những nhà văn có tác phẩm được đưa lên và được đọc nhiều nhất trên mạng Internet. Nghệ nhân và Margarita là cuốn tiểu thuyết lớn nhất của M. Bulgakov, một trong những đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ Nga. Tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Việt hai mươi năm trước, có thể nói đây là công trình dịch thuật công phu và tâm đắc nhất của tôi. Tuy nhiên, có một sự thật là, khác với ở nước Nga và phương Tây, kiệt tác này không thật sự được phổ biến và tiếp nhận rộng rãi ở bạn đọc Việt Nam – có lẽ là do những khác biệt nhất định về văn hóa. Lần này, 65 năm sau khi tác phẩm ra đời, chúng tôi xin tái bản lại bản tiếng Việt trong một nỗ lực tiếp tục đưa Bulgakov đến gần hơn nữa với bạn đọc Việt Nam, nhất là bạn đọc trẻ tuổi, thế hệ mà tôi hi vọng sẽ dễ dàng tiếp cận Nghệ nhân và Margarita hơn. Ngoài bản dịch cuốn tiểu thuyết, chúng tôi đưa thêm phần Phụ lục để phần nào giúp bạn đọc trong việc cảm thụ tác phẩm này. Hà Nội, 27 tháng 1 năm 2006 Ðoàn Tử Huyến *** Một buổi chiều mùa xuân, vào cái giờ mặt trời lặn nóng chưa từng thấy, trong công viên Hồ Pat’riarsi1 ở Moskva xuất hiện hai vị nam công dân. Người thứ nhất dáng thâm thấp, béo tốt, hói đầu, mặc bộ quần áo mùa hè màu xám nhạt, chiếc mũ còn khá lịch sự bóp lại cầm trong tay, cặp kính gọng sừng đen to quá cỡ ôm ngang khuôn mặt cạo kỹ lưỡng. Người thứ hai còn trẻ, vai rộng, tóc vàng hung rối bù, mũ cát két sọc vuông đội lệch ra sáu gáy, áo sơ mi kẻ ô, quần dài trắng nhàu nát và chân đi đôi giày vải đen. Người thứ nhất không phải ai khác, mà chính là Mikhail Aleksandrovich Berlioz2, chủ tịch ban chấp hành của một trong những hiệp hội văn học lớn nhất Moskva, viết tắt là MASSOLIT3, và ông đồng thời cũng là tổng biên tập một tờ tạp chí văn học lớn; còn người bạn đường trẻ của ông là nhà thơ Ivan Nikolaievich Ponưrev, bút danh Bezdomnưi4. Bước vào dưới dãy bóng râm của hàng cây lipa5 đang bắt đầu nhú lá xanh, việc đầu tiên của hai nhà văn là chạy vội đến bên chiếc quầy dựng bằng ván sơn sặc sỡ với dòng chữ “Bia và nước giải khát”. Mà quên, có lẽ cần phải thông báo ngay cho bạn đọc biết điều kỳ lạ thứ nhất của cái buổi chiều tháng Năm khủng khiếp này. Ðó là, không chỉ ở cạnh quầy giải khát, mà suốt dọc cả con đường có trồng cây chạy song song với phố Malaia Bronnaia cũng không thấy một bóng người nào. Vào cái giờ đó, khi hình như mọi người đã hết cả sức để thở, khi vầng mặt trời, sau một ngày thiêu đốt Moskva, đang bọc mình trong màn sương khô lặn xuống một nơi nào đấy phía sau tuyến đường vòng Sadovoie, chúng ta không hề gặp một ai đi dạo hóng mát dưới bóng hàng cây lipa, không thấy một người nào ngồi trên những chiếc ghế băng “suốt dọc con đường dài vắng tanh vắng ngắt.” “Cho cốc nước khoáng narzan”, Berlioz nói với người đàn bà bán hàng. “Không có narzan đâu”, người đàn bà trong quầy đáp, và không hiểu tại sao bà ta lại tỏ vẻ phật ý. “Có bia không?” Bezdomnưi hỏi bằng giọng khàn khàn. “Bia tối mới chở về”, người đàn bà trả lời. “Thế có gì?” Bezdomnưi lại lên tiếng. “Nước mơ ấm”, người đàn bà nói. “Thôi được, cho xin, cho xin, cho xin!…” Hai cốc nước mơ sủi rất nhiều bọt màu vàng, và trong không khí bốc lên một thứ mùi như ta thường thấy trong các cửa hiệu cắt tóc. Uống xong, hai nhà văn lập tức đua nhau nấc cụt; họ trả tiền và ngồi xuống một chiếc ghế băng, mặt ngoảnh ra hồ, lưng quay về phía phố Bronnaia. Ðúng lúc đó bắt đầu xảy ra điều kỳ lạ thứ hai của buổi chiều hôm đó, nhưng nó chỉ liên quan tới một mình Berlioz: ông bỗng thôi nấc, tim bỗng đập mạnh một cái rồi lặn hẫng đi đâu mất; và thoáng sau nó trở lại nhưng hình như có kèm theo một mũi kim tù nằm mắc bên trong. Thêm vào đó, Berlioz bỗng cảm thấy một nỗi sợ hãi vô cớ nhưng rõ rệt đến nỗi ông muốn ngay lập tức bỏ chạy khỏi nơi đây không ngoái lại. Không hiểu cái gì khiến ông hoảng sợ, Berlioz đưa mắt rầu rĩ nhìn quanh. Mặt ông tái mét; ông lấy khăn mùi soa lau trán, nghĩ thầm: “Cái gì xảy ra với mình thế này nhỉ? Trước đây chưa bao giờ như vậy cả… Hình như tim mình bị sao ấy… Mình mệt mỏi quá rồi. Có lẽ cần phải vứt tất cả lại để đến nghỉ ở Kislovodsk6 thôi…” Ðúng lúc đó, làn không khí oi ả bỗng cô đặc lại trước mắt Berlioz, tạo thành một người đàn ông trong suốt có hình thù hết sức kỳ dị. Trên mái đầu nhỏ tí của anh ta là chiếc mũ lưỡi trai của dân đua ngựa, áo vét kẻ ô mỏng ngắn cũn cỡn… Người này cao khoảng một sagien, nhưng vai hẹp, gầy không thể tưởng được, và bộ mặt, xin bạn đọc lưu ý cho, đầy vẻ nhạo báng! ... Mời các bạn đón đọc Nghệ nhân và Margarita của tác giả Mikhail Bulgakov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ván Bài An Ủi - Anna Gavalda
Cuộc sống ở tuổi 47 của Charles, một nghề kiến trúc sư, tưởng chừng sẽ bình lặng trôi đi. Nhưng một ngày kia, anh gần như suy sụp và bơ vơ khi được tin mẹ một người bạn thời ấu thơ qua đời. Suốt một năm sống trong đau buồn, lên đường tìm kiếm, day dứt giữa quá khứ và hiện tại, anh đã mang lại cho chính mình đầy ắp những bất ngờ. Một tình bạn ngỡ như tan vỡ được hàn gắn, những đứa trẻ mồ côi được đoàn tụ, những người chết được trở về và một tình yêu lớn nảy nở. Tất cả thấm đẫm cảm xúc và mỗi câu chuyện, mỗi sự việc đều toát lên hơi ấm của tình yêu, bởi “chúng ta còn lại gì nếu chúng ta không nói với nhau về tình yêu hay về điều mà mình thích”? *** Lời khen tặng dành cho Ván bài an ủi “Một cuốn tiểu thuyết thật lạ, thật buồn.” - Le Figaro “Bạn mong văn chương mang đến cho bạn những cơn thác cảm xúc? Xóa nhòa đời sống thường nhật của bạn? Khiến bạn bất ngờ khóc òa? Bạn sẽ có tất cả trong Ván an ủi của Anna Gavalda.” - Tạp chí Psychologies “Một câu chuyện đẹp và cảm động về những con người luôn gắn bó với nhau bất chấp mọi thương tổn và phức tạp.” - critiqueslibres.com "Cuốn tiểu thuyết rườm rà, điên rồ và đầy ắp những khám phá.” - Le Monde “Anna Gavalda lại một lần nữa tạo ra những điều kỳ diệu.” - Tạp chí Lire *** Anna Gavalda sinh ngày 9-12-1970 tại Boulogne-Billancourt. Cô đã theo học và nhận bằng cử nhân văn chương tại Đại học Sorbonne. Hiện nay cô đang làm ở tạp chí Elle. Ngoài ra Gavalda còn viết thời luận cho tạp chí Paris-Ile-de-France của Journal du Dimanche và giảng dạy tiếng Pháp… Anna Gavalda là một giáo viên người Pháp và tiểu thuyết gia từng đoạt giải thưởng. Được tạp chí Voici gọi là "hậu duệ xa xôi của Dorothy Parker", Anna Gavalda sinh ra ở một vùng ngoại ô thượng lưu của Paris. Sau “Giá đâu đó có người đợi tôi”, “Bố đã từng yêu”, “Chỉ cần có nhau”, “35 kilô hy vọng"… Anna Gavalda đã trở thành cái tên quen thuộc trên văn đàn Pháp với hơn 4 triệu bản sách bán ra. Mời các bạn đón đọc Ván Bài An Ủi của tác giả Anna Gavalda.
Những Người Ở Khác Cung Đường - Hoàng Minh Tường
Cuốn truyện này, chính là tác phẩm của nhà văn Lữ Hành, người bạn vong niên của tôi, mà tôi chỉ là người sao chép lại. Cái ý định xây dựng một bộ tiểu thuyết về những con người làng Hạ quê anh, đã được anh ấp ủ từ lâu, mà cuốn truyện này mới là một phần trong bộ tiểu thuyết ấy. Nhưng buồn thay, vào đúng cái buổi chiều, sau khi đưa Tựu đến thăm Phát trở về, một tai nạn bất ngờ đã làm nhà văn làng Hạ suýt từ giã chúng ta. Lúc ấy mới vào quãng chập tối. Đưa Tựu trở lại xí nghiệp sản xuất thương binh rồi, Lữ Hành rong ruổi trên chiếc xe đạp tàng trở về nhà. Nhưng vừa kịp đến đầu dốc từ con đê quai Hồ Tây rẽ về làng Hạ, thì một chiếc xe máy từ phía sau lao thẳng vào người anh. Ba ngày sau hôm nhà văn Lữ Hành bị tai nạn, tôi mới biết tin, vào viện thăm anh. Rất may là người không bị sây sát gì lớn. Nhưng nghe bác sĩ nói, anh bị trấn thương sọ não nặng, một thương tật trùng lặp đến trớ trêu với trường hợp của Phú mà chúng ta đã biết! Trong thời gian thường xuyên lui tới thăm nhà văn Lữ Hành ở bệnh viện, tôi được biết công an đang điều tra vụ tai nạn này. Chủ nhân của chiếc xe máy gây ra tai nạn chưa biết là ai, vì ngay sau phút Lữ Hành bị ngã xe, thủ phạm đã nhanh chóng chạy trốn. Có tin nói rằng, vụ Lữ Hành bị tai nạn có liên quan đến bài báo của anh viết về những bê bối ở xí nghiệp sản xuất thương binh 27 tháng bảy. Sự thể thế nào, chắc chỉ một thời gian nữa, công luận sẽ làm sáng tỏ. Mặc dù sức khoẻ rất yếu, lại thường xuyên bị hôn mê, nhưng đôi khi nhà văn Lữ Hành vẫn có chút ít tỉnh táo. Vào một lúc tỉnh táo nhất khi tôi đến thăm, anh ra hiệu cho tôi lại gần và đưa cho tôi cuốn sổ tay mà lúc nào anh cũng giữ bên mình. Với tôi cuốn sổ tay ấy là một tài sản vô giá. Hiểu rõ ý định của anh, tôi vội vàng tập hợp lại các tư liệu, có thêm bớt chút ít để thành cuốn tiểu thuyết NHỮNG NGƯỜI Ở KHÁC CUNG ĐƯỜNG.​ *** Hoàng Minh Tường là một trong những nhà văn hiện đại của Việt Nam, tác giả cuốn Thời của thánh thần Hoàng Minh Tường từng trải qua các nghề dạy học, viết báo và viết văn. Mời các bạn đón đọc Những Người Ở Khác Cung Đường của tác giả Hoàng Minh Tường.
Người Tình
Bản dịch của Dịch giả Trịnh Xuân Hoành. Sáu mươi năm trước Marguerite Duras đã sống những năm thơ ấu của mình ở Sa Đéc (Một thị xã ở đồng bằng sông Cửu Long). Những năm thơ ấu đó cũng là những năm xuân tình nữa. Một ký giả của tờ Le Point bên Pháp đã gọi đùa đó là “những năm dan díu lăng nhăng ở Đông Dương của Marguerite Duras”. Nhưng trái lại Marguerite tiết lộ, đó là những năm để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong ký ức của bà (Theo nhà văn Sơn Nam - Trong Bách Khoa văn học). Và với bút pháp lãng mạn, Marguerite đã đem đến cho độc giả thế giới và Việt Nam tác phẩm “Người tình” (L'amant) đầy sức hấp dẫn (được giải Công Cua 1984) mà bối cảnh là đồng bằng sông Cửu Long - nơi mà ở đấy các nhân vật bắt đầu khám phá ra tình yêu. Dựa vào cuốn tiểu thuyết này, nhà đạo diễn phim nổi tiếng của Pháp: J.J Annand, đã xây dựng bộ phim “Người tình” (L'amant). Bộ phim sắp được hoàn thành. Trước khi xem “Người tình” trên màn ảnh, xin mời bạn đọc. Tiểu thuyết “Người tình” của Marguerite lần đầu được dịch ra tiếng Việt. NXB HỘI NHÀ VĂN - 1991 ***       Marguerite Duras (1914 - 1996) tên thật là Marguerite Donnadieu. Năm 1943, bà đổi tên thành Marguerite Duras theo tên một làng vùng Lot-et-Ga-ronne, nơi có ngôi nhà của cha mẹ bà. Bà sinh tại Gia Định, Đông Dương (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Cha là giáo sư toán mở đồn điền nhưng thất bại, lâm vào cảnh nợ nần và mất năm Marguerite mới lên bốn tuổi. Mẹ bà là giáo viên tiểu học, sau được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Trường Escole de jeunes filles ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (trường Tiểu học Trương Vương ngày nay). Mẹ bà ở vậy nuôi bà người con trong cảnh khốn khó. bà có một người anh nghiện ngập và người em thì quá yếu đuối. Trải qua tuổi thơ và thời thiếu niên ở Việt Nam, nhưng kỷ niệm nơi đây đã gợi nhiều cảm hứng và in đậm trong các tác phẩm của bà. Năm mười tám tuổi, Duras trở về Pháp. Sau khi học toán, luận và khoa học chính trị, bà làm thư ký tại bộ Thuộc địa từ năm 1935 tới năm 1941. Năm 1950, Duras được biết tới lần đầu tiên với cuốn tự truyện Un barrage contre le Pacifique. Những tác phẩm sau này của bà đã góp phần làm mới cho thể loại tiểu thuyết. Năm 1984, Duras đoạt giải thưởng Goncourt với người tinh (l’ Amant), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nông nàn và lãng nạm giữa bà với điền chủ gốc hao giàu có, Huỳnh Thủy Lê, tại Sa Đéc. Người tình là một thành công lớn, đã được dịch ra hơn bốn mươi thứ tiếng và được dựng thành phim năm 1992. Tác phẩm của Duras bao gồm khoảng bốn mưới tiểu thuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có India Song và Les- enfants. Cuộc đời của bà giống như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết vê những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và cả sự im lặng... Những tác phẩm đầu tay của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã từng bị nhà văn Raymond Quene-au chỉ trích), nhưng kể từ Monderato Cantabile, bà đã thử những lỗi viết mới, đặc biệt là cắt bổ những đoạn văn dài nhằm làm tăng tầm quan trọng của những gì không được viết ra. bà được xếp vào phong trào tiểu thuyết mới trong văn học Pháp. Các phim của bà cũng mang tính chất thực nghiệm, thường tránh dùng âm thanh thu cùng hình ảnh mà dùng lời của người kể truyện, nhưng không phải để kể lại mà để ám chỉ những chuyện có thể xảy ra với các hình ảnh đó. Năm 1989, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu. Marguerite Duras mất ngày 3 tháng 3 năm 1996 ở paris, được chôn cất tại nghĩa trang Montparnasse. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già.   Mời các bạn đón đọc Người Tình của tác giả Marguerite Duras.
Ký Ức Đen - Jennifer Egan
Từ thập niên 70 cho đến thời đại tương lai, từ Châu Phi cho đến Naples rồi New York và San Francisco, từ nhà sản xuất âm nhạc đến viên tướng diệt chủng… Nhà văn Jennifer Egan đã xử lý một cách hoàn hảo tất cả những chất liệu tưởng chừng như rất tương phản nhau ấy và dung hòa chúng trong một tập tiểu thuyết dài hơn 400 trang.Mỗi chương sách là một truyện ngắn về cuộc sống của các nhân vật, tưởng chừng như chẳng liên quan đến nhau nhưng lại được xâu chuỗi trong một sợi dây vô hình của định mệnh. Ký ức đen đem lại cho người đọc nhiều cung bậc cảm xúc: hài hước, buồn bã, nuối tiếc, hứng khởi… Với kết cấu 2 phần A - B và nhân vật chủ đạo là các thành viên trong một ban nhạc của thập niên 70, người đọc dường như không phải đang xem sách nữa mà đang được nghe, giai điệu cuộc đời và số phận của những con người trong xã hội Mỹ, qua một cuốn băng cát-xét mà hễ lật mặt nào cũng thấy đủ mọi hỷ nộ ái ố của đời người. Hãy níu giữ từng khoảnh khắc của tuổi trẻ, đừng để thanh xuân trôi qua vô nghĩa, rồi có khi phải thốt lên - như bao nhân vật trong tiểu thuyết này - “Thời gian là một tên khủng bố, có phải không?” *** Jennifer Egan là một tiểu thuyết gia người Mỹ và nhà văn viết truyện ngắn sống ở Hill Hill, Brooklyn cùng với chồng và hai con trai. Cuốn tiểu thuyết của Egan A Visit from the Goon Squad đã giành giải Pulitzer 2011 cho tiểu thuyết và tiểu thuyết phê bình sách quốc gia về tiểu thuyết.  Mời các bạn đón đọc Ký Ức Đen của tác giả Jennifer Egan.