Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Định Mệnh - Alexandre Dumas

Thế kỷ XVI, châu Âu chìm trong sự hỗn độn của ánh sáng vǎn minh và tối tǎm bảo thủ. Con người cũng vậy, họ vừa kiểu cách, vừa nổi loạn. Những câu chuyện về hoàng cung, tôn giáo, phân biệt đẳng cấp luôn được bàn cãi sôi nổi. Vốn nổi tiếng với những tiểu thuyết hiệp sĩ như: Đactanhǎng và ba chàng lính ngự lâm, Bá tước Môngtơcrixtô,... lần này, Alexandre Duymas lại đem đến cho độc giả những say mê mới trong tiểu thuyết Tình yêu định mệnh. Những nhân vật như Catơrin, Rôbớc Stuya không chỉ là hiện thân của tình yêu cao cả vượt lên số phận mà còn là hình ảnh tiêu biểu cho con người đầy khát khao vươn tới những lý tưởng cao đẹp trong cuộc đời. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) *** Một buổi sáng rực rỡ giữa tháng sáu năm một nghìn năm trăm năm mươi chín, một đám đông ước từ ba đến bốn mươi nghìn người chen chúc đầy quảng trường Xanhtơ Giơnơvievơ. Một người đàn ông vừa chân ướt chân ráo từ tỉnh lẻ tới, đột nhiên lọt vào giữa thành phố Xanh Giắc, vô cùng bối rối nghĩ rằng cái đám người thật đông đảo tụ tập trên địa điểm này của thủ đô nhằm mục đích gì. Trời thật quang đãng: vậy không phải là buổi lễ rước thánh tích Giơnơvievơ như năm 1951 để cầu chấm dứt mưa. Đêm trước, trời đã đổ mưa: vậy cũng không phải là lễ rước thánh tích Giơnơvievơ để cầu đảo như năm1556. Người ta cũng không hoảng loạn về chiến trận khốc liệt như thảm hoạ Xanh Căngtanh (Xanh Căngtanh: là thị trấn của Pháp bị quân Đức chiếm ngày 28-8-1914, bị tàn phá một phần và được giải phóng ngày 2-10-1918.N.D), vậy cũng không phải người ta diễu hành lễ rước thánh tích Giơnơvievơ để cầu Chúa phù hộ. Rõ ràng là đông đảo dân chúng kéo nhau tập trung trên quảng trường tu viện cổ này để dự một lễ trọng. Nhưng lễ trọng gì đây? Không phải ngày lễ hội tôn giáo vì, dẫu ta có nhận thấy đây đó trong đám đông vài tấm áo tu sĩ nhưng những bộ áo đáng tôn kính này không đủ số lượng để đem cho lễ hội tính chất tôn giáo. Cũng không phải ngày lễ hội của quân đội vì số quân nhân rất ít ỏi, vả lại họ không mang theo cả thương kiếm lấn súng hoả mai. Đây cũng không phải ngày lễ hội của giới quý tộc vì ta không thấy nhô khỏi đầu người những lá cờ nhỏ có đính huy hiệu của các quý tộc bay phơ phất hoặc những chiếc mũ có gắn những chòm lông của các lánh chúa. Trong đám người đông nghẹt hàng ngàn màu sắc ấy, trà trộn quý tộc, thầy tu, kẻ cắp, thị dân, gái làng chơi, người già cả, những người làm trò ảo thuật, phù thuỷ, dân Bôhêmiêng, thợ thủ công, những ngừơi mang những vật vô giá trị, kẻ bán rượu bia; những người này cưỡi ngựa, những kẻ khác cưỡi lừa, cưỡi la, người ngồi xe ngựa (trong năm này người ta vừa sáng chế ra xe ngựa) thì số người đông đảo nhất đi đi lại lại, xô đẩy chen lấn nhau để đến được trung tâm quảng trường, theo chúng tôi là đám học sinh thuộc bốn quốc tịch: Êcôtxơ, Anh, Pháp, Ý. Thật ra là thế này: đây là ngày thứ hai đầu tiên sau ngày lễ thánh Bacnabê(11-6) và chính là để đi tới lễ hội Lăngđi mà cả đám dân chúng đông đúc này đã tụ họp lại. Có lẽ từ này thuộc ngôn ngữ thế kỉ thứ mười sáu không nói lên được điều gì với độc giả cả. Vậy chúng tôi xin giải thích về lễ hội Lăngđi là thế nào. Xin độc giả thân mến hãy lưu ý! Chúng tôi xin nói về ngôn ngữ học, không hơn không kém một viện sỹ hàn lâm về tu từ và mĩ học. Từ La tinh “indictum” có nghĩa là một ngày và một địa điểm được ấn định cho một cuộc hội họp nào đó của dân chúng. Chữ i trước hết được đổi thành ơ rồi thành a. Sau đó đáng lẽ người ta nói “anhddictum” thì lần lần người ta nói là “anhđich” rồi gọi lại là Lăngđi. Tóm lại từ này có nghĩa là ngày giờ và địa điểm được ấn định cho một cuộc họp. Vào thời Xaclơmanhơ, cứ mỗi năm một lần, ông vua người Đức này định đô ở Achxơ-La-Sapen lại cho những kẻ hành hương được nhìn thánh tích trong giáo đường. Xaclơ nói những thánh tích này từ Achxơ về Pari và cứ mỗi năm một lần cho dân chúng được ngắm nhìn những thánh tích ấy trong một lễ hội được tổ chức tại đại lộ Xanh Đơnit. Giới tăng lữ ở Pari rước những thánh tích tới đây và giám mục đến làm lễ ban phước cho dân chúng, nhưng đó là những phước như của cải tương lai hoặc hoa trái gần gặn: ông không có quyền ban phát chúng như ông muốn; còn giới tăng lữ ở Xanh Đơnit lại đòi hỏi chỉ họ mới có quyền ban phước trên đất đai của họ và lưu ý nghị viện Pari coi giám mục là kẻ tiếm quyền. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Định Mệnh của tác giả Alexandre Dumas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Câu Hỏi Tình Yêu - Isabel Wolff
Đôi khi câu hỏi khó trả lời nhất là những câu hỏi chính mình… Đang đau khổ vì gia đình tan nát, MC Laura Quick gắng gượng vượt qua những kỷ niệm buồn và tiếp tục sống. Luke – bạn trai cũ của cô- đột nhiên xuất hiện với một cô con gái sáu tuổi. Các chị của Laura nghĩ rằng Luke là tấm vé dành cho cô: một người đàn ông hoàn hảo có thể giúp cô tiếp tục sống và quên Nick-người chồng đã bỏ rơi cô.   Nhưng Laura đặt ra nhiều câu hỏi hơn so với những câu trả lời khi cô cố phân tích về việc liệu cô có nên hy sinh mọi thứ để gắn kết với Luke lần thứ hai. Điều gì đã xảy ra cho cuộc hôn nhân giữa cô và Nick, và cô thực sự biết được bao nhiêu về gia đình thân thuộc của mình?…   Một cái nhìn tươi sáng trước cuộc sống và tình yêu. Mời bạn đón đọc Câu Hỏi Tình Yêu của tác giả ​Isabel Wolff.
James Bond Lữ Quán 007 - Ian Fleming
James Bond (bí danh 007 hoặc là Điệp viên 007) là một nhân vật điệp viên hư cấu người Anh được tạo ra bởi nhà văn Ian Fleming vào năm 1953 và đã được đưa vào 12 cuốn tiểu thuyết, 2 tuyển tập cũng như loạt phim về các cuộc phiêu lưu của điệp viên này. Sau khi Ian Fleming mất vào năm 1964, các phần tiếp theo của tiểu thuyết về James Bond được viết tiếp bởi Kingsley Amis (dưới bút danh Robert Markham), John Pearson, John Gardner và Raymond Benson. Thêm vào đó Charlie Higson cũng đã bắt đầu một loạt sách về "9. Năm 2007, Sebastian Faulks được công bố chính thức là người sẽ viết tiếp các phần sau của tiểu thuyết này bắt đầu từ năm 2008. Đồng thời, nhà văn Christopher Wood sẽ chuyển thể hai kịch bản phim, và một số nhà văn khác sẽ viết tiếp những phần không chính thức về nhân vật điệp viên bí ẩn này và thường được biết là sử dụng khẩu súng lục Walther PPK (thỉnh thoảng anh cũng dùng Walther P99). Ban đầu thì James Bond được biết đến như một tiểu thuyết best-selling, còn nhân vật James Bond được biết đến nhiều nhất là từ các phim của hãng EON, phần thứ 23 của loạt phim này, Tử địa Skyfall vừa được hoàn thành năm 2012. Phần thứ 24 trong loạt phim về những cuộc phiêu lưu của James Bond, Spectre, đã được ra mắt vào năm 2015. Những bộ phim của hãng EON được gọi là những bộ phim "chính thức" về James Bond sau khi nhà sản xuất Harry Saltzman mua lại tác quyền của loạt tiểu thuyết này sau thập niên 1950; và thuật ngữ "chính thức" này được sử dụng trong tất cả các bài viết. Mời các bạn đón đọc James Bond Lữ Quán 007 của tác giả Ian Fleming.
Thương Nhớ Mười Hai - Vũ Bằng
Trong số tác phẩm của Vũ Bằng, Thương Nhớ Mười Hai là tác phẩm đặc sắc nhất, tiêu biểu cho tình cảm và phong cách viết của ông. Tác phẩm được đặt bút từ Tháng Giêng 1960 và mất mười một năm mới hoàn thành vào năm 1971 với độ dày 250 trang. Mười hai ở đây là mười hai tháng trong năm mà theo lời tác giả “mỗi tháng lại có những cái đẹp não nùng riêng, nỗi nhớ nhung riêng…”. Thông qua mười hai tháng ấy, Vũ Bằng đã gởi gắm những hồi ức đẹp đẽ của mình về Hà Nội, nơi chốn xa xôi ông luôn hướng về với những phong tục của người Bắc Việt, những thói quen sinh hoạt, những thú vui ẩm thực giản dị mà đầy tính nghệ thuật và trên tất cả là hình bóng người vợ đảm đang dịu hiền đang còn xa cách… Nhân vật tôi ở miền Nam mà lòng luôn nhớ thương miền Bắc. Nỗi lòng ấy da diết và khắc khoải tựa thanh gỗ mục, bề ngoài đẹp đẽ mà bên trong đã rệu nát tự bao giờ. Ông biết thế là bất công nhưng tình yêu mà, đã yêu thì bao giờ người mình yêu cũng là đẹp nhất. Ông còn thầm cảm ơn sự bất công ấy bởi nó đã cho ông nhận ra mình yêu Bắc Việt đến dường nào…mà càng yêu thì lại càng nhớ… Mời các bạn đón đọc Thương Nhớ Mười Hai của tác giả Vũ Bằng.
Bí mật thành phố vàng của người Inca
El Dorado (phát âm tiếng Việt là En – đô – ra – đô) hay đất nước bằng vàng hay là truyền thuyết về thành phố vàng là một thành phố trong khu rừng già Amazon của Nam Mỹ của người Inca mà theo nhiều nhà thám hiểm cho rằng đây là thành phố có chứa rất nhiều vàng. Trong tiếng Tây Ban Nha từ gốc "El Dorado" có nghĩa là "dát vàng". Nguồn gốc của từ này xuất phát từ một tục lệ của một bộ tộc người da đỏ khi nhà vua mới lên ngôi họ đem cát vàng rắc lên người nhà vua. Từ đó sinh ra truyền thuyết về "người dát vàng El Dorado" mà những nhà thám hiểm Tây Ban Nha kể lại. Đây là một trong những thành phố nổi tiếng nhất trong các huyền thoại, El Dorado là một đế chế bí hiểm được tìm thấy ở các khu rừng Nam Mĩ. Thành phố được trị vì bởi một nhà vua hùng mạnh, với rất nhiều vàng và châu báu. Trong nhiều năm, nó là chủ đề của những cuộc thám hiểm, cũng như nhiều tai nạn đã xảy ra. Mời các bạn đón đọc Bí mật thành phố vàng của người Inca.