Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hang Động

Lấy cảm hứng từ huyền thoại hang động trong đối thoại triết học của triết gia thời cổ đại Platon, José Saramago đã viết cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Hang động, để phê phán xã hội tiêu thụ nói riêng và chủ nghĩa tự do mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại, thông qua hình ảnh hủng khiếp của Trung tâm thương mại khổng lồ đang từng ngày từng giờ bành trướng về đất đai, về quyền uy, không chỉ về vật chất mà cả tinh thần, “một thành phố trong một thành phố, nhưng lại to hơn chính cái thành phố kia”. Cuốn tiểu thuyết phản ánh bước chuyển biến từ xã hội nông nghiệp - thủ công nghiệp sang xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ nhanh chóng trên đất nước Bồ Đào Nha, qua đó chỉ rõ mỗi con người trong quá trình này đang bị đặt vào thế tiến thoái lưỡng nan: khi mà lối sống thực dụng, thói quen tiêu thụ, triết lý thị trường của xã hội tư bản ngày càng phát triển, sinh ra những mối quan hệ mới, những thế giới quan mới, buộc người ta phải quen với một trạng thái nô lệ kiểu mới, “ai không điều chỉnh được sẽ không dùng được”, và cũng như trong tác phẩm của Platon, một số người thoát ra khỏi hang động này, kịp thời nhận ra có thể có một cách sống khác. Câu chuyện xoay quanh số phận của một gia đình ba đời làm nghề gốm ở một vùng quê nghèo và đã bị Trung tâm đẩy vào bước đường cùng. Là nhân viên của Trung tâm, Marcal thì làm việc quần quật, đến nỗi vợ của anh, Maarta “chỉ được tận hưởng sự có mặt của chồng ở nhà và ở trên giường vẻn vẹn có sáu đêm và ba ngày mỗi tháng”. Trước bước phát triển như vũ bão của nền kỹ thuật, công nghiệp, cha con ông Cipriano Algor là những người thợ gốm cuối cùng cũng đành bỏ nghề, một nghề xưa nay vẫn có thể sản xuất ra của cải nay chỉ còn là kỷ niệm, nhà xưởng biến thành nghĩa trang, sản phẩm thành di sản khảo cổ cho hàng ngàn năm sau. Họ chuyển vào sống ở Trung tâm, vốn là ước mơ của bao người, trong gần ba tuần, mà chẳng khác gì bị tù, để rồi người cha phải thốt lên: “tại sao mình lại có thể để bị giam kín trong suốt ba tuần mà không nhìn thấy mặt trời và những ngôi sao…”. Cuộc sống tự do đã thôi thúc họ từ bỏ tất cả, đi tìm một cuộc sống mới không chỉ cho họ mà cho cả con cái của họ nữa. Câu chuyện có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và cũng hết sức cảm động về tình cảm vợ chồng, cha con, về tình yêu giữa hai người goá bụa nảy nở trong hoàn cảnh khó khăn cùng cực. Một cốt truyện giản dị, sâu sắc được kể liền mạch như trong một cuộc độc thoại nội tâm dài. Phong cách viết tiểu thuyết của José Saramago hết sức độc đào. Ông thường viết những câu văn rất dài, dùng dấu chấm, dấu phẩy mới nhìn tưởng là sai ngữ pháp, nhưng xem kỹ lại thấy hợp lý, mọi đối thoại đều liền mạch nối dài như mãi không dứt. Xen vào mạch truyện, ông thường đưa ra những nhận xét về mọi bình diện của cuộc sống, tuy đôi khi có những ý kiến rất khó hiểu những độc giả luôn tiếp nhận một cách thích thú. *** José de Sousa Saramago (16/11/1922 - 18/6/2010) là nhà văn, nhà thơ Bồ Đào Nha đoạt giải Nobel Văn học năm 1998. José Saramago sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở một làng nhỏ cách thủ đô Lisboa 100 km. Bố là lính pháo binh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, quyết định bỏ công việc đồng áng lên sống ở Lisboa. Những năm tiểu học, cậu là một học sinh giỏi: hoàn thành lớp ba và lớp bốn chỉ trong một năm. Khi lớn lên, vì không có khả năng tài chính Saramago phải vào học một trường kĩ thuật để trở thành thợ cơ khí. Học xong hai năm, Saramago làm việc cho một tiệm sửa chữa xe hơi, vào buổi tối, ông thường tới một thư viện công cộng ở Lisboa để đọc sách tự học thêm. Năm 1944, José Saramago cưới vợ, chuyển sang làm việc ở cơ quan phúc lợi xã hội. Năm 1947, ông viết xong cuốn tiểu thuyết đầu tiên Viúva (Góa phụ) nhưng do yêu cầu nhà xuất bản đã đổi thành Terra do Pecado (Mảnh đất tội lỗi). Sau đó Saramago còn bắt tay viết thêm mấy tiểu thuyết, nhưng rồi ông hiểu ra rằng mình chưa có gì để nói với thế giới nên đã lặng lẽ biến khỏi văn đàn suốt 19 năm không ai để ý. Vì các lý do chính trị, năm 1949 Saramago bị thất nghiệp nhưng nhờ lòng hảo tâm của một thầy giáo cũ ở trường kĩ thuật, ông tìm được việc làm ở công ty hợp kim. Sau đó ông chuyển sang làm việc với nhà xuất bản Estudios Cor. Đến năm 1966, ông xuất bản Os Poemas Possíveis (Chùm thơ có thể) đánh dấu sự trở lại của ông với văn chương. Năm 1969 ông vào Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha. Năm 1970, ông xuất bản tập thơ Provavelmente Alegria (Có thể đây là niềm vui). Sau khi li dị năm 1970, ông có mối quan hệ với nhà văn Isabel Da Nóbrega. Năm 1971, ông rời nhà xuất bản, làm việc trong hai năm cho tờ báo buổi tối Diario de Lisboa. Năm 1975, Saramago xuất bản tập thơ O Ano de 1993 (Năm 1993) và tiểu thuyết Manual de Pintura e Caligrafia (Tài liệu về hội họa và thư pháp, 1978); tiếp đó ông liên tiếp cho ra đời các tập truyện và tiểu thuyết như Objecto Quase (Mục tiêu Quase, 1978), Đêm tối (1979), Que farei com este livro? (Tôi có thể làm gì với quyển sách này?, 1980)... Năm 1988, ông kết hôn với nhà báo Pilar Del Rio. Năm 1993, ông bắt đầu viết hồi ký gồm năm tập. Năm 1995, ông được trao giải Camoes. Năm 1998 ông được trao giải Nobel Văn học, cho đến nay là người Bồ Đào Nha duy nhất được nhận giải thưởng này. Năm 2000 Saramago hoàn thành tiểu thuyết A Caverna (Hang động), là cuốn cuối cùng trong bộ ba tiểu thuyết - 2 cuốn đã xuất bản là Ensaio sobre a Cegueira (Mù lòa, 1995) và Todos os nomes (Tất cả các tên gọi, 1997). Sáng tác của Saramago đa dạng và đầy mâu thuẫn. Tiểu thuyết Phúc âm theo Jesus Christ (1991) bị nhà thờ Cơ đốc giáo buộc tội "coi thường sự thật lịch sử và xuyên tạc các nhân vật chính trong Tân ước" nhưng lại được tái bản hơn hai chục lần trong nước và được dịch ra 25 thứ tiếng nước ngoài. Một trí thức tự học, gắn bó với văn chương từ trẻ nhưng phải đến sáu chục tuổi mới được thừa nhận, Saramago thường cay đắng nói: "Lên sao Hỏa còn dễ hơn là gọi được cửa trái tim của những kẻ cùng thời". Tuy vậy, giải Nobel có vẻ đã phủ nhận suy nghĩ bi quan này. Một số tác phẩm của được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Mọi Cái Tên Mù Lòa Hang Động ... *** Đồ đạc của bố ở đây, Marta nói, không nhiều lắm, chứa đủ trong chiếc vali nhỏ nhất, hình như bố đã linh cảm thấy mình chỉ ở đây có ba tuần thôi phải không, Đến một lúc nào đó trong cuộc đời người ta chỉ còn vác trên vai cái thân mình nữa thôi, Cipriano Algor nói, Câu nói hay đấy, Vâng, thưa bố, nhưng con chỉ muốn bố nói xem sẽ sống bằng gì nào, Nhìn ngắm những bông hoa loa kèn, chúng đẹp giản dị, chẳng thêu dệt rắc rối. Cũng là một câu nói đẹp, chính vì thế thứ hoa đó mãi mãi cũng chỉ là hoa loa kèn, Con là một kẻ hoài nghi điên cuồng, một kẻ vô sỉ khó chịu, Bố ơi, con xin bố, con đang nói chuyện một cách nghiêm túc, Bố xin lỗi con, Con hiểu chuyện vừa rồi là một cú sốc lớn đối với bố, cả đối với con nữa, dù con không xuống dưới đó, con hiểu rằng những người đàn ông và đàn bà kia không chỉ đơn giản là những người đã chết, còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều, Thôi con đừng nói nữa, bởi vì họ không chỉ đơn giản là những người đã chết mà còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều nên bố không muốn tiếp tục sinh sống ở đây nữa, Thế còn chúng con, còn con thì sao, Marta hỏi, Các con hãy tự quyết định lấy cuộc đời mình, bố đã quyết định đời của bố rồi, bố sẽ không sống nốt những ngày còn lại của mình trong cảnh bị trói chặt vào ghế đá và nhìn vào bức tường. Thế bố sẽ sống ra sao, Bố có tiền mà người ta thanh toán cho những hình người bằng gốm, đủ sống một hoặc hai tháng, sau đó ta sẽ tính tiếp, Con không nói đến chuyện tiền nong, bằng cách này hay cách khác thì bố cũng không thiếu tiền cho những nhu cầu về ăn, mặc, điều con muốn nói là bố sẽ phải sống một mình, Bố đã có con Achado, rồi hai con thỉnh thoảng lại về thăm bố nữa, Bố ơi, Gì cơ, Thế còn Isaura, Isaura thì có liên quan gì đến chuyện này, Bố đã nói với con là tình hình giữa hai người đã có thay đổi, nhưng lại chẳng giải thích rõ nó thay đổi như thế nào và tại sao bằng, Và đúng vậy đấy, Nếu như vậy, Như vậy thì sao nào, Hai người có thể sống chung với nhau, ý con muốn nói như vậy. Cipriano Algor không trả lời. Ông xách vali lên, Bố đi đây, ông nói. Cô con gái ôm chặt lấy bố, Chúng con sẽ về thăm bố trong ngày nghỉ đầu tiên của Marçal, trong tiếng từ giờ đến lúc đó bố phải luôn thông báo tin tức cho con nhé, khi về đến nơi, bố nhớ gọi điện ngay cho con nói xem căn nhà ra sao, và cả tình hình con Achado nữa, đừng quên con Achado đấy, bố nhé. Với một chân ở ngoài cửa, Cipriano Algor còn nói, Con hãy ôm hôn Marçal thay cho bố nhé, Thì bố đã ôm hôn anh ấy và đã chia tay anh ấy rồi mà, Ừ, nhưng bố cứ nhờ con thêm một lần nữa. ... Mời các bạn đón đọc Hang Động của tác giả José Saramago.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Qua Sông - Đào Hiếu
C ách đây 26 năm tôi có viết một truyện dài dựa theo cuộc đời của anh thương binh Phan Thành Lợi. Đây là sáng kiến của bà Đỗ Duy Liên, lúc ấy là phó chủ tịch UBND Thành phố HCM. Anh Lợi quê ở Củ Chi, là một thương binh bị cụt cả hai tay, hai chân. Lúc đó anh được cấp một căn hộ nhỏ trong "làng phế binh" Thủ Đức. Tôi lui tới làm việc với anh trong vài tháng và viết xong một truyện dài lấy tên là Qua Sông. Tác phẩm được nhà xuất bản Văn Nghệ in năm 1986 với số lượng là 10.150 cuốn, khổ 13x19cm. Hồi đó sách in bằng giấy đen, sần sùi, trông rất xấu xí, nhưng vẫn không đủ sách để mà bán. Sau khi anh Lợi qua đời vì những thương tích cũ hành hạ, tôi gần như quên tác phẩm ấy, một phần vì tôi nghĩ đó chỉ là một cuốn sách viết theo đơn đặt hàng, và phần khác vì đề tài "cách mạng" không còn được độc giả quan tâm nữa, do những tác động quá tệ hại của guồng máy tham nhũng ngoài xã hội. Hai mươi bốn năm sau, trong lúc nhàn rỗi, tình cờ đọc lại "Qua Sông", tôi không thể ngờ rằng trong quá khứ mình đã từng tiếp xúc với một anh du kích Củ Chi lạ lùng như vậy, đã từng viết về một cuộc tình đau đớn như vậy. Tôi từng xem những phim chiến tranh thuộc loại tầm cỡ của điện ảnh Mỹ như "Giải cứu binh nhì Ryan", "Huyền thoại mùa Thu", "Cuốn theo chiều gió", "Trung đội"…nhưng chưa từng thấy nhân vật nào có số phận nghiệt ngã như anh Phan Thành Lợi, chưa từng thấy có chiến trường nào bi thảm như chiến trường Củ Chi khi phải hứng chịu những trận bom rải thảm của máy bay B52 trong trận càn Cedar Falls đẫm máu đầu năm 1967. Đọc lại Qua Sông, tôi chợt "ngộ" ra một điều, đó là: cuộc chiến vừa qua không phải là cuộc chiến của những người đang cầm quyền hiện nay ở Việt Nam, mà là cuộc chiến của những người lính đã chết ngoài mặt trận, của những thương binh như Phan Thành Lợi, của những cô giao liên dũng cảm như Huệ, của những bà mẹ thui thủi chờ mong con bên ánh đèn dầu, của những đôi lứa yêu nhau đã phải chia lìa chỉ sau một trận đánh, của những trẻ thơ chết như rạ giữa đồng sau một trận pháo bầy. Còn chúng ta, những người đang cướp bóc, đang giành giựt của cải và quyền lực… chỉ là một lũ ăn theo, một bọn dây máu ăn phần, một phường hôi của bần tiện. Trong kháng chiến chống Mỹ, những người như anh Lợi cứ nghĩ rằng mình là "cộng sản" nhưng thực tế họ không hề biết chủ nghĩa cộng sản là gì. Ở các đô thị miền Nam cũng vậy: Có những trí thức trẻ đã đấu tranh dưới ngọn cờ của Đảng cộng sản Việt Nam, thậm chí đã là đảng viên, nhưng vẫn không phải là một người cộng sản, vì không hề quan tâm đến triết học Mác-Lênin và cũng không muốn tìm hiểu nó. *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái ... Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** T ổ của Bạch có ba người, toàn thiếu nữ rất trẻ, rất vui tính. Buổi trưa trời đứng gió, họ dừng lại tại một nhà cơ sở nấu ăn, nghỉ trưa rồi đợi cho nắng dịu một tí, ba người mới lên đường. Xế chiều, họ đi ngang qua một cánh đồng mênh mông. Họ đi được một lát thì bỗng thấy trước mặt có một mảng đen lớn trông như một mảng bóng tối xa lạ. - Cái gì vậy? Một người hỏi. Bạch dừng lại, nhón gót lên nhìn. Không biết là cái gì. Một vùng đen như thế thực là hiếm có trong một khu vực đồng ruộng rừng chồi và bưng biền. Họ đi tới, đi tới nữa. Ánh sáng mờ dần đi và những vùng lá cây trở nên đen hơn. Ba người đến nơi, dẫm chân lên cái vùng bóng tối xa lạ ấy. Cái vùng bóng tối tạo thành bằng tro than của cánh đồng bị xăng đặc đốt cháy rụi. Bước chân đi qua còn hơi ấm nóng. Bụi than bám lên tới gối. Những bàn chân trần đã trở nên đen mốc, xù xì. Nhưng họ không thể đi con đường khác vì sợ lạc. Hoàng hôn. Ba người đến bến sông. Bến sông vắng. Không thấy giao liên đâu. Họ ngồi chờ trên bờ cỏ, lấy cơm ra ăn và nhìn dòng sông phẳng lặng. - Trước đây có một người đưa đò trên bến sông này – Bạch nói – đó là một chiến sĩ cách mạng rất dũng cảm, một người thương binh, một người anh rất đáng quý của mình. Bây giờ anh không còn ở đây. - Anh hy sinh rồi sao? - Không! Nhưng đã trở thành một người tàn phế. Cụt cả hai chân hai tay. Bạch khóc. Những người đồng hành bất ngờ về những giọt nước mắt ấy. Họ ngồi lặng thinh. Cũng lặng thinh như dòng sông Sài Gòn trong buổi chiều đang xuống. Sương cũng bắt đầu xuống, mênh mông, nhẹ, mơ hồ. Giao liên vẫn chưa tới, sông vẫn vắng buồn. Ba cô gái đã mắc võng trên những cây chồi thấp, nằm đợi, súng dựa gốc cây, hiền lành như những nhánh củi. Sông vẫn không ngớt vang lên tiếng sóng nhỏ xao xác. Không có một con thuyền nào đi qua đây mà thỉnh thoảng vẫn có tiếng động quen thuộc của mái chèo. Tiếng mái chèo vang lên trong trí nhớ của người con gái, tiếng mái chèo quẫy nước trong sáng, đều nhịp, tiếng ai gọi đò, tiếng nói chuyện rầm rì trên mặt sông khuya. Bạch còn nhìn thấy cả những đóm thuốc lá lập lòe, ở xa dễ lầm với đóm đóm. Những con đom đóm lớn bay nhấp nhô, vệt sáng giữ rất lâu trong đêm đen, những con đom đom sáng đến nỗi người ta có thể nhận ra chúng ngay cả dưới ánh trăng rằm. ... Mời các bạn đón đọc Qua Sông của tác giả Đào Hiếu.
Người Mong Hạnh Phúc - Laurent Gounelle
T ôi không muốn rời Bali mà không trở lại. Tôi không biết vì sao. Tôi không đau ốm; lúc nào tôi cũng thấy khỏe mạnh. Tôi đã học được cách trả công ở đây, và khi kỳ nghỉ của tôi gần kết thúc thì cái ví tiền của tôi đã gần như rỗng. Tôi thậm chí không dám bàn đến việc chuyển tiền qua ngân hàng. Những người thông thạo thì bảo tôi: “Anh muốn đưa thì cứ đưa, nhét vào cái hộp đặt trên giá ấy.” Vâng, điều đó đã làm tôi yên tâm, ngay cả khi thấy sợ cái ý tưởng để lại tấm phiếu thanh toán cho một người nghe nói đã từng chăm sóc thủ tướng Nhật. Thật khó tìm được ngôi nhà lọt thỏm trong một làng nhỏ ở giữa đảo, cách Ubud mấy cây số. Tôi không hiểu vì sao ở đất nước này gần như không có tấm biển chỉ đường nào. Đọc một tấm thẻ chỉ có thể hiểu được khi người ta có những điểm tham chiếu, nếu không thì có dùng điện thoại di động cũng vô ích trong vùng không phủ sóng này. Chỉ còn lại một giải pháp khả dĩ: hỏi người qua đường. Rất may, tôi là người không bao giờ gây khó cho bản thân. Tôi cảm thấy đa số đàn ông có ấn tượng là họ bị mất tính đàn ông, nếu họ hạ mình đến mức đó. Họ thích im lặng và ra vẻ “Tôi biết rồi”, cho đến khi hoàn toàn mất hướng, và bà vợ phải nói: “Thì em đã bảo phải hỏi thăm mà lại.” Ở Bali có một cái dở là mọi người đều nhã nhặn đến mức luôn nói “vâng”. Đúng thế. Nếu bạn nói với một cô gái “Cô thật duyên dáng”, cô ấy sẽ mỉm cười nhìn bạn và nói “vâng”. Và khi bạn hỏi đường, họ sẽ muốn giúp bạn đến mức không thể thú nhận là họ không giúp được. Thế là họ chỉ hướng cho bạn, mà chắc chắn là hú họa. Tôi khá bực mình khi lại đứng trước cổng vườn. Không hiểu vì sao tôi lại hình dung ra một ngôi nhà khá sang trọng, như thỉnh thoảng vẫn thấy ở Bali, với những hồ sen, dưới tán của những cây đại khoe những bông hoa trắng với mùi hương đậm đặc đến mức hơi quá. Thực tế thì khu nhà giống như một dãy lán trại, kiểu như những ngôi nhà nhỏ không có vách và nối liền với nhau. Trong khung cảnh khu vườn, chúng có vẻ thật đơn giản, trần trụi và có phần thảm hại. ... Mời các bạn đón đọc Người Mong Hạnh Phúc của tác giả Laurent Gounelle.
Nếu Ngày Mai Không Bao Giờ Đến - Yasushi Kitagawa
Tác phẩm “Nếu ngày mai không bao giờ đến” là tác phẩm thứ 2 của Kitagawa, xuất bản năm 2006. Cuốn tiểu thuyết này trở thành best seller với doanh số bán hàng đạt 90.000 bản và được xếp hạng nhất trong bảng xếp hạng của “Hội nghiên cứu phổ biến việc đọc sách, book sommelier” năm 2007. Có rất nhiều thứ để miêu tả vẻ đẹp của tuổi trưởng thành. Khi từng dòng hồi ức lướt qua đủ để con người ở thì hiện tại cảm thấy bồi hồi và nuối tiếc. Người ta vẫn thường nói, mọi cuộc hạnh ngộ trên đời là do duyên số đưa đẩy, nhưng cũng tồn tại những cuộc gặp gỡ vốn được lên kế hoạch từ trước, chỉ chờ một cái cớ hoàn hảo để tiếp cận đối phương. Đó cũng chính là cách Haruka xích lại gần hơn với cậu bạn Yousuke, người cô thầm mến mộ đã lâu. *** Đây là cuốn sách đã từng đạt được kỉ lục 90,000 bản tại Nhật. Có rất nhiều thứ để miêu tả vẻ đẹp của tuổi trưởng thành. Khi từng dòng hồi ức lướt qua đủ để con người ở thì hiện tại cảm thấy bồi hồi và nuối tiếc. Người ta vẫn thường nói, mọi cuộc hạnh ngộ trên đời là do duyên số đưa đẩy, nhưng cũng tồn tại những cuộc gặp gỡ vốn được lên kế hoạch từ trước, chỉ chờ một cái cớ hoàn hảo để tiếp cận đối phương. Đó cũng chính là cách Haruka xích lại gần hơn với cậu bạn Yousuke, người cô thầm mến mộ đã lâu. “Tôi muốn trở thành một người khiến bất cứ ai có duyên gặp gỡ cảm thấy tuyệt vời vì được quen biết một người như thế.” Không nhiều màu sắc, không nhiều kịch tính, dữ dội mà chỉ với một gam màu dịu dàng và lãng đãng xuyên suốt, tựa tiếng nói thủ thỉ chảy nhẹ vào tai, rồi khắc sâu trong tâm trí bạn những bài học quý giá về cuộc đời. Lại một lần nữa, nhà văn Yasushi Kitagawa đem sự sâu lắng và trải đời của mình vào từng con chữ như một dòng chảy ngầm mãnh liệt khơi dậy sự thức tỉnh và thay đổi trong tư duy của mỗi người trẻ. Càng đọc càng bị cuốn hút vào, khi được một phần ba cuốn sách, bạn sẽ có cảm giác như nó không phải viết cho ai khác, mà được viết ra dành cho mình. Cảm giác đồng cảm, cảm động, hưng phấn khiến bạn phải đứng dậy đi đi lại lại loanh quanh trong phòng. “Hãy giữ niềm tin son sắt vào giấc mơ tương lai của chúng ta Đem bầu nhiệt huyết hướng đến nó, và làm những việc bản thân cần làm Làm được như thế thì bất kể ước mơ lớn đến thế nào, Một khi ta đã đặt lời thề hứa nhất định sẽ đạt được mong ước.” Sự bình yên và gắn kết giữa hai tâm hồn đồng điệu giúp Haruka và Yousuke bước vào thế giới của nhau như một điều tất yếu. Tay trong tay, Haruka dẫn lối đưa Yousuke đến những miền cảm xúc mới lạ nhờ sự chia sẻ được ba cô bé chỉ dạy và ghi chép tỉ mỉ trong cuốn sổ nhật ký. Những tâm sự chất chồng về mối quan hệ gia đình, nỗi niềm lo lắng bất an về tương lai hay những thắc mắc về thế giới đầy màu sắc của người lớn được Haruka diễn giải qua những con chữ nhẹ nhàng đầy trầm tư, điều hiếm thấy ở độ tuổi mười tám. Mỗi bài học chia sẻ cùng cậu bạn Yousuke , đều được cô bé gấp thành những chiếc máy bay nhỏ nhắn, mỗi chiếc bay lên trời tựa như  khao khát muốn biến ước mơ thành hiện thực, chạm được vào đích đến của thành công.  “Sống cuộc đời là chính mình” – là điều Haruka mong mỏi được nhìn thấy ở cậu trai cô yêu mến thôi thúc cô hành động. Từng ngày thấy Youssuke trưởng thành, trong lòng Haruka như nở hoa. Cuối cùng mảnh đất khô cằn trong tâm hồn cũng được hồi sinh nhờ một người đặc biệt. Bệnh tật cũng đầu hàng trước cái cách cô sống vui vẻ và lạc quan; nhưng trên đời, không ai nói trước được điều gì. Có những người vốn dĩ chẳng bao giờ dám nghĩ đến ngày mai sẽ ra sao. “Nhưng một đời người sẽ có gì xảy ra và xảy ra lúc nào thì không ai biết trước được. Mọi người đều nghĩ ngày mai sẽ tới như một điều hiển nhiên. “Trên đời này chẳng ai có thể đảm bảo ngày mai sẽ đến” – có những người hiểu được những câu chữ này nhưng họ cũng không bao giờ nghĩ rằng có thể chính mình bỗng nhiên sẽ không có ngày mai.” Tác phẩm “Nếu ngày mai không bao giờ đến” là tác phẩm thứ 2 của Kitagawa, xuất bản năm 2006. Cuốn tiểu thuyết này trở thành best seller với doanh số bán hàng đạt 90.000 bản và được xếp hạng nhất trong bảng xếp hạng của “Hội nghiên cứu phổ biến việc đọc sách, book sommelier” năm 2007 . Như một bản nhạc êm dịu được cất lên trong ngày hè rực rỡ, gặp gỡ rồi tạm biệt. Rồi số phận sẽ đưa đẩy cả hai đến những ngã rẽ nào, hãy lật giở từng trang viết để cảm nhận bạn nhé !  *** Đầu hè năm 2005. Một cậu học sinh phổ thông ghé thăm tôi. Đó là cậu học sinh mà tôi dạy cho đến khi tốt nghiệp trung học cơ sở, giờ đã học lớp 11 rồi. Cậu ta ngồi xuống ghế, tay ôm cuốn "Sách cho hiền tài" mà tôi viết. Tôi đã được anh trai cậu ấy (cũng từng là học sinh của tôi) cho biết cậu học sinh này khi vừa vào trung học phổ thông thì phát hiện ra có khối u trong não và đã được phẫu thuật một lần, cả tình trạng bệnh hiện nay nữa. Vì thế, tôi hỏi: "Em có khỏe không?", lòng như cảm thấy mình chạm được vào khối u đó vậy. Cậu ta vốn là một học sinh luôn rất vui tươi suốt từ thời cấp hai. Lúc đó, cậu ấy cũng trả lời tôi rất khỏe: "Có ạ, giờ thì em còn đi học được nữa." Trái với câu trả lời đó, chỉ cần nghe câu sau cũng biết tình trạng chắc hẳn không hề tốt. Nguyên văn lời cậu ấy thế này: "Căn bệnh là một quả bom nổ chậm mà em không biết bao giờ sẽ nổ." Nghe câu ấy, tôi chết lặng. Cậu ấy đã đến gặp tôi bất chấp tình trạng đó. "Mẹ em bảo hãy đi cảm ơn thầy vì bà nghĩ rằng cuốn sách này giờ đã thành thứ viết ra cho em..." với vẻ ngại ngùng, cậu ta đưa ra cuốn "Sách cho hiền tài" và nói rằng cậu ta muốn tôi viết vài lời và ký tặng. Tôi vừa nghĩ một lúc xem nên viết gì, vừa nghe chuyện cậu ta rồi ký chữ ký mình chưa quen tay vào. Thế rồi, tôi nhìn theo sau lưng cậu học sinh ấy khi ra về, vẫn chưa nói được nhiều điều. Cái dáng người bước đi chậm rãi liêu xiêu ấy dường như là một người khác so với cậu học sinh vừa mới đây. Vậy mà vừa ra đến cửa, cậu ta đã quay lại "Em cảm ơn thầy ạ" rất lễ phép. Trong lời chào ấy có sự khỏe mạnh khi xưa. Ngực tôi nhói lên vì sự tương phản ấy. Sau đó tôi mới nghĩ ra có lẽ khi ấy, tình trạng của cậu ấy đã thực sự rất tồi tệ rồi. Mùa thu năm 2005. ... Mời các bạn đón đọc Nếu Ngày Mai Không Bao Giờ Đến của tác giả Yasushi Kitagawa.
Lạc Đường - Đào Hiếu
Mùa Thu năm 2007 tôi gặp nhà văn Nguyễn Mộng Giác tại Hoa Kỳ. Tôi khoe với anh là mình đang viết hồi ký. Anh nói: viết hồi ký cũng giống như quay phim đám cưới. Phim quay xong, người trong cuộc ngồi xem rất thích thú nhưng người ngoài chỉ liếc mắt ngó qua rồi đi, vì đám cưới ấy chẳng dính dáng gì tới họ. Anh nói nghe rất có lý. Hơn nữa tôi không phải là một nhân vật quan trọng nào đó mà chỉ là một anh Việt cộng nằm vùng không mấy người biết đến. Nhưng tôi tin rằng hồi ký của gã vi-xi vô danh ấy sẽ thu hút người đọc và biết đâu sẽ gây tiếng vang lớn. Tôi bắt đầu viết hồi ký này giữa năm 2006, viết được hơn một nửa thì tôi sang Mỹ và hoàn tất nó vào mùa Thu năm 2007 tại thành phố Lake Forest và quyết định gọi tên nó là “tự truyện Lạc Đường”. Đầu năm 2008 tôi về Việt Nam, đưa bản thảo cho vài người bạn. Và nó đã được đón nhận rất ồn ào. Từ vài ba người bạn thân, nó lan truyền trong giới nhà văn nhà báo và họa sĩ. Đáng ngạc nhiên nhất là giới luật sư đọc rất nhiều. Biết rằng tự truyện này không thể xin giấy phép in công khai được, tôi bèn gởi nó cho trang web Talawas. Mười ngày sau tôi nhận được thư của chị tổng biên tập Phạm Thị Hoài. Chị nói: “Tôi sẽ đích thân biên tập tác phẩm này.” Rồi tự truyện Lạc Đường xuất hiện trên Talawas. Hai mươi bốn giờ sau, chị Hoài lại viết cho tôi: “đã có 15.333 lượt người đọc”. Mấy hôm sau, buổi tối, khi tôi đang nằm coi TV thì nhận được cú điện thoại từ đài BBC. Lê Hải gọi tôi. Anh nói: “Tôi đã đọc xong tự truyện Lạc Đường của anh và rất khâm phục. Xin chia vui cùng anh. Anh có thể cho đài BBC một cuộc phỏng vấn không?” Đó là cuộc phỏng vấn dài 20 phút phát sóng sau đó mấy ngày và được phát lại lần thứ hai cách nửa tháng. Tôi rất cám ơn Talawas và đài BBC vì nhờ các phương tiện truyền thông này mà tự truyện Lạc Đường đã được hàng vạn người biết đến. Dạo ấy mỗi ngày tôi nhận được rất nhiều thư độc giả từ khắp Việt Nam và khắp nơi trên thế giới gởi về qua địa chỉ E.mail của tôi. Tôi biết mình đã thành công ngoài dự kiến và điều mà anh Nguyễn Mộng Giác lo ngại đã không xảy ra. Ở lần tái bản này tôi đã sửa chữa và bổ sung một số thiếu sót. Những chuyện được kể trong tác phẩm này là sự thật mặc dù đôi khi, do không kiềm chế nổi sự ngông cuồng của mình, tôi đã thể hiện nó như một tiểu thuyết. ĐÀO HIẾU *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái ... Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** Trước Tết Tân Hợi (1971) chừng một tháng, tôi xin được một cái phép ba ngày về thăm mẹ. Căn nhà của tôi bây giờ chỉ là một nơi hoang tàn, lạnh lẽo. Tôi đi từ nhà trước ra nhà sau, không một bóng người. Khi tôi đẩy cửa bước vô căn buồng nhỏ nơi mẹ tôi thường nằm thì nghe có mùi gì rất lạ. Căn buồng tối quá, tôi phải mở cánh cửa nhỏ mới nhìn thấy được mọi thứ trong đó. Chiếc giường nhỏ kê sát vách không có ai nằm. Một chiếc gối nhỏ và chiếc mền cũ màu xám tro. Tôi đến bên giường, vừa đặt tay lên gối thì một đám bụi bốc lên. Trên chiếu lờ mờ hiện lên những vật gì màu nâu. Tôi cúi xuống. Các bạn có biết đó là cái gì không? Đó là phân người. Chúng đã khô quắt lại. Từ ngày tôi bị bắt lính, mẹ tôi đã sống thui thủi một mình trong cái buồng nhỏ này với ngọn đèn dầu hiu hắt từng đêm. Những người hàng xóm kể lại rằng khi bà đi xuống bếp lục cơm nguội ra ăn, với tay lấy chai nước mắm chan vô chén cơm, hóa ra đó là chai dầu lửa. Bà nhai miếng cơm trộn trạo trong miệng một lúc mới nghe được mùi hôi và ói ra đầy giường. Xế chiều buồn quá bà ngồi dậy quơ lấy cây gậy tre, từng bước chống đi, dò dẫm đến những nhà quen ở đầu chợ. Tôi liền chạy ra đầu chợ, thấy mẹ ngồi đó, nhưng bà cũng không nhận ra tôi nữa. Lúc tôi chạy đến ôm bà, bà mới nhận ra hơi hướng của tôi. Bà sờ lên đầu lên mặt tôi và hỏi: -Con đấy hả? Thế là bà khóc. Tôi cũng khóc. Buổi chiều đó tôi cõng mẹ từ ngoài chợ về nhà. Những người trong làng đổ xô ra xem, xem anh lính binh nhì cắp cây gậy tre trong nách cõng mẹ đi qua thị trấn. Hàng xóm chạy đến giúp tôi dọn dẹp nhà cửa. ... Mời các bạn đón đọc Lạc Đường của tác giả Đào Hiếu.