Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người hành khách bí ẩn - Georges Simenon

Tên ebook: Người hành khách bí ẩn Tác giả: Georges Simenon Thể loại: Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây   Người dịch:  Đặng Phú - Lê Việt Dũng   Nhà xuất bản: Công An Nhân Dân   Kích thước: 13 x 19 cm   Số trang: 385   Năm xuất bản: 2004   Tạo prc: Hoa quân tử   Ebook:  Đào Tiểu Vũ's eBook -  http://www.dtv-ebook.com Đ ây là một căn bệnh tấn công những tàu thuyền trong tất cả các vùng biển trên thế giới mà nguyên nhân thuộc một lĩnh vực chưa ai biết, được gọi là ngẫu nhiên. Nếu những triệu chứng bước đầu của căn bệnh ấy rõ ràng thì chúng sẽ không thể thoát khỏi cặp mắt của những thuỷ thủ. Tuy nhiên, nó thường bắt đầu bằng những điều hết sức vô cớ, chẳng hạn như: một dây néo đứt văng ra như dây vĩ cầm làm bứt đi cánh tay một thuỷ thủ. Hoặc giả một chàng thủy thủ trẻ xoè ngón tay cái trong lúc gọt vỏ khoai tây và ngày hôm sau “tai hoạ bất ngờ” làm anh ta thét lên. Nếu không do vận hành sai thì làm sao một chiếc canot lại dại dột lao vào sống mũi tàu? Nhưng đó vẫn chưa phải là “cái nhìn xúi quẩy”. Cái nhìn xúi quẩy đòi hỏi hàng loạt những tai nạn. Khi cái loạt xúi quẩy ấy đeo đuổi, người ta dễ dàng nhận thấy những tổn hại mới vào ban đêm hoặc ngày hôm sau. Từ khi nó xuất hiện, mọi việc sẽ ngày càng xấu đi và những người đàn ông, chỉ còn biết nghiến răng mà đếm những trận đòn. Đó là lúc mà cỗ máy đã vận hành ba mươi năm không một lần hỏng hóc, bỗng dở chứng kẹt máy như chiếc cối xay cà phê cũ kỹ. Bất kể những dự báo được xác định là tốt nhất trên những bảng khí tượng và theo kinh nghiệm, nếu đúng, thì trong hai mươi ngày tới vào mùa này, gió không bao giờ xảy ra. Và con sóng đầu tiên ập đến sẽ không cuốn một người vào biển cả! Sẽ có bệnh lỵ nếu không phải dịch hạch! Còn may mắn nếu người ta sẽ không giạt vào mắc cạn ở một bãi cát hoặc khi đi vào cảng, người ta không va phải đê chắn sóng. ○○○ Con tàu Polarlys, neo đậu ở cảng số mười bảy trong một vũng tàu xa xôi nhất và bẩn thỉu nhất ở Hambourg phải nhổ neo dời bến vào ba giờ chiều theo thông báo ở tấm biển móc vào thùng thư tại cầu tàu. Chưa đến hai giờ, thuyền trưởng Petersen đã mơ hồ cảm thấy “cái nhìn xúi quẩy” rình rập. Tuy nhiên đây là một người đàn ông cương nghị, béo lùn, mập mạp. Từ chín giờ sáng, ông bước từng bước dài trên boong giám sát việc bốc hàng lên tàu. Sương mù đặc biệt vàng và xám, chứa đầy bồ hóng, phả ra độ ẩm lạnh giá, đè nặng lên bến cảng và thành phố, người ta chỉ nhìn thấy những chiếc đèn của xe điện, những cửa sổ sáng đèn như giữa đêm. Lúc này là cuối tháng hai. Do lạnh và vì vật lộn trong những đám mây ấy, đã để lại trên mặt và những bàn tay một loại váng băng. Mọi hồi còi đồng loạt rít lên thành một tiếp âm chói tai lấn át tiếng kèn kẹt của những cần trục. Boong tàu Polarlys hầu như vắng vẻ: bốn người đàn ông ở trên khoang trước đang tháo dỡ những chiếc hòm và thùng. Con tàu không có gì nổi tiếng cả. Đây là con tàu chạy hơi nước trọng tải một nghìn tấn, có vẻ tàu đánh bắt cá thu, boong tàu luôn đầy ắp hàng hoá, tàu làm dịch vụ từ Hambourg đến Kirkenes bằng cách đi dọc bờ biển Na Uy để phục vụ giao thông cho những cảng nhỏ. Đây là con tàu hỗn hợp có chỗ cho năm mươi hành khách ghế hạng nhất và cũng ngần ấy hành khách hạng ba. Từ Na Uy, người ta đưa đến nơi nhận những máy móc, hoa quả và thịt muối. Người ta đưa về từ cực Bắc những thùng cá thu cũng như da gấu và dầu hải cẩu. Cho đến Lofoten, khí hậu bình thường. Rồi đột nhiên, người ta rơi vào những miền băng giá và trong đêm dài tới ba tháng. Những sĩ quan là người Na Uy. Những chàng trai tốt biết trước sẽ lấy bao nhiêu thùng ở Công ty Olsen tại Tromsoe và chuyên chở cho ai ở Hambourg những máy công cụ. Ngay buổi sáng ấy, Petersen dứt bỏ chiếc lon cuối cùng của mình chỉ được giữ bằng một sợi chỉ. Công ty bỗng cử ông đi với hàng tràng những lời dặn dò như với sĩ quan thứ ba, một chàng trai Hà Lan mười chín tuổi gầy mảnh như mới mười sáu tuổi! Phải chăng sự xuất hiện của Vriens lúc mười giờ làm cho Petersen đánh hơi thấy cái nhìn xúi quẩy? Anh ta tốt nghiệp trường hàng hải Delfzijl ngay tuần ấy. Hôm qua, anh ta trình diện vẻ xanh xao, xúc động, trong bộ đồng phục đứng đắn, ngơ ngác, đứng nghiêm. — Tuân lệnh, thưa thuyền trưởng! — Này, anh Vriens - Petersen nói với anh ta - tôi không có lệnh cho anh trong lúc này. Anh có thể nghỉ ngơi cho tới ngày mai. Với tư cách là sĩ quan thứ ba, anh lo việc đưa hành khách lên tàu. Vriens đi, buổi tối không trở lại. Vào mười giờ sáng, thuyền trưởng trông thấy anh ta xuống xe taxi, lảo đảo, với nước da xanh xao, mi mắt sưng phồng, cái nhìn sợ sệt. Khi anh ta qua cầu tàu, đúng là anh ta loạng choạng. Petersen xoay lưng lại với anh ta, nghe thấy anh ta chạm gót chào trước khi đi về phía buồng mình. — Anh ta ốm yếu như một con chó! - Một lúc sau người phục vụ nói. - Anh ta yêu cầu tôi cà phê rất đặc. Anh ta nằm duỗi dài, thẳng đơ trên giường hầu như không sao nói được. Người ta để que diêm cháy trước hơi thở của anh ta... Tất nhiên đó không phải là thảm hại! Nhưng khi ta có thói quen sống chung với những sĩ quan của mình, ta không thích nảy sinh một gã trai thuộc loại này, nhất là có một lá thư của quan chức hành chính đến trước, gửi gắm tạo điều kiện dễ dàng cho những bước đầu của anh ta. Ở tuổi mười chín, Petersen chưa tốt nghiệp nhưng ông đã ba lần đi vòng quanh thế giới! ○○○ Ông có thể dự báo trước việc đó. Một loạt “tai họa” sẽ bắt đầu. Trong lúc đi vòng trên con tàu của mình, hai tay đút túi, chiếc tẩu thuốc ở miệng, ông nhìn thấy một gã cao lớn tóc hung đứng tựa lưng vào thành tàu, cuốn một điếu thuốc lá. Người đàn ông đành mập mờ cúi đầu chào ông, tìm diêm trong túi. Rõ ràng là một con chuột ở cảng! Một trong số tên lang thang này ở miền Bắc không giống một tên lang thang nào trên trái đất. Một gã trai dưới bốn mươi tuổi cao lớn, khoẻ mạnh, vẻ đứng đắn mặc dầu bộ râu tám ngày không cạo và đôi má hơi lõm. Gã ở đây như ở nhà gã. Gã rít thuốc từng hơi ngắn, ưỡn ngực dưới chiếc áo hiệu Landwehr cũ mà gã đã thay cúc. — Anh làm gì ở đây? Gã hất cằm chỉ cơ trưởng rõ ràng đang qua cầu. Và người sau giải thích cho thuyền trưởng. — Thủy thủ tiếp than vừa bị sốt rét. Tôi phải để lại hắn trên bờ. Thế là tôi nghĩ đến gã này trên bến cảng, và tôi tuyển dụng gã làm thủy thủ tiếp than vào lò. Gã khỏe mạnh... — Anh ta có giấy tờ không? — Đúng thể thức! Gã ra tù ở Cologne... - Và cơ trưởng cười trong lúc rời đi. “Vậy là hai!" - Petersen làu bàu. Có một kẻ tiếp than vào lò, dù là kẻ mới ra tù đối với ông thế nào cũng mặc vì ông đang cần. Nhưng ông cảm thấy chán ghét gã từ đầu đến chân. Trong lúc đi bách bộ, ông tiếp tục lén quan sát gã. Phần lớn những kẻ lang thang người Đức đều có cái vẻ tự tin này, việc không biết xấu hổ và ngay cả sự hèn mọn này. Thêm nữa, gã này còn có vẻ gì mỉa mai trong cái nhìn. Gã cảm thấy mình bị dò xét. Gã tiếp tục hút thuốc, thỉnh thoảng đá lưỡi thấm ướt giấy thuốc, rồi nhìn khói thuốc phả ra từ miệng gã hoà trộn với sương mù. — Anh tên là gì? — Peter Krull. — Anh đã làm gì để phải vào tù? — Lần cuối cùng tôi không làm gì hết! Đó là sự sai lầm của tư pháp... - Gã nói từ tốn, giọng kéo dài và chính thuyền trưởng bỏ cuộc nói chuyện. Vả lại một dây cáp đứt đúng lúc đó làm cho một chiếc thùng cực lớn bọc kín chiếc máy kéo nông nghiệp lao vụt xuống từ độ cao sáu mét vào đáy khoang. Hành khách đầu tiên lên tàu, Petersen chỉ trông thấy chiếc hòm xanh và chiếc áo khoác màu xám. — Vriens đâu? - Thuyền trưởng hỏi người phục vụ - Tôi mong rằng tôi sẽ không phải lo tới cả việc lên tàu! — Anh ta ở phòng khách trước những cuốn sổ. Đúng thế. Chắc chắn anh ta đau quặn bụng, đầu óc đau đớn nhưng anh ta đang ở vị trí của mình. Anh ta tiếp khách, ghi lại những điều chỉ dẫn trong hộ chiếu của người ấy và chỉ cho người đó một phòng. Hai giờ cuối cùng luôn lộn xộn. Những chiếc xe tải đưa hàng hoá đến chậm. Những chiếc cần trục không thể vận hành nhanh hơn. “Mặc kệ! Ta sẽ bỏ lại ai không lên tàu đúng giờ!" Một sự đe dọa theo truyền thống không làm ai sợ cả. Một nữ hành khách lên tàu, theo sau là một người khuân vác. Cảnh sát thảo luận với Vriens, anh này quên điền một phần vào những bản khai in sẵn. Khi tiếng chuông cảnh báo đầu tiên vang lên, con đường trước mặt con tàu Polarlys thông thoáng. Nhưng khi người ta thả dây chão năm phút sau thì chiếc tàu lớn chở dầu của Anh đang chắn ngang và nó phải thực hiện những thao tác phức tạp. Một chiếc xà lan chạy máy dần dần vững bước tiến lên sát mặt nước chỉ với một thủy thủ tựa vào cần lái và hút tẩu thuốc. Tàu va vào sườn nó. Nửa boong của nó ngập trong nước và thật kỳ diệu là nó có thể tiếp tục chạy giữa những chiếc vỏ đen của các tàu chở hàng dựng lên quanh nó như những bức tường. Trên con sông Elbe là một đám rước. Ba hàng tàu thuỷ đi nối đuôi nhau thành chuỗi trong sương mù ngăn việc phân biệt cái bẫy của tàu trước và những hồi còi dữ dội thi nhau vang lên. Những con tàu chạy nhanh hơn mài miệt vượt lên những chiếc khác. Những thuyền buồm chen lấn nhau và đột nhiên người ta trông thấy cánh buồm mũi của chúng mọc lên cách sống mũi thuyền ít nhất là một sải cáp, khoảng hai trăm mét. — Từ từ... Dừng lại... Lùi lại... Dừng... Từ từ...Một nửa... Dừng... Máy điện báo kêu lách cách và con tàu tiến sang phải sang trái từng đợt trong sương giá. ○○○ Vào bảy giờ, con tàu vẫn ở trên sông và người ta chưa thấy ngọn đèn hiệu ở Cuxhaven báo cho biết đã đến biển. Thuyền trưởng bước xuống từ cầu tàu, để lại thuyền phó cùng với người hoa tiêu ở đó và chuẩn bị cho một việc khổ sai khác: chuẩn bị bữa ăn cho hành khách. Người phục vụ đem theo chiếc cồng đi trong những hành lang, với vẻ năn nỉ, theo kinh nghiệm biết rằng ngày đầu, những hành khách không bao giờ vội vã cả. — Năm suất hả? - Petersen nhận xét. — Một bà và ba ông... Bà đây... Cô ta tiến lên vẻ dễ dãi. Chiếc bót thuốc lá bằng ngọc ở trên môi. Cô ta trang điểm như để ăn tối trên con tàu sang trọng vượt Đại Tây Dương và hầu như khoả thân dưới chiếc áo dài lụa đen. Một con người nhỏ bé lạ lùng, mảnh mai, dễ bị kích động với những cử chỉ lả lơi, bằng những sự khéo léo của thời thượng, tự cho mình là con người nổi bật. Cô ta có mái tóc hoe vàng và cũng óng mượt như tóc một đứa trẻ. Mái tóc được tách ra bằng một đường ngôi giữa, rủ xuống đôi má chỉ với một làn sóng làm nổi bật khuôn mặt bầu dục. Hai đồng tử mắt sẫm màu và để tạo ra sự tương phản mạnh mẽ hơn, lông mi được tô thuốc đen. Miệng mỏng; đôi bầu vú nhô rất cao, rất nhỏ. — Thuyền trưởng? - Cô ta lẩm bẩm với giọng dò hỏi. - Thuyền trưởng Petersen... Ông hầu như không rửa mặt. Mái tóc dày rậm cần phải chải. — Mời bà vui lòng ngồi xuống! Cô ta ngồi với vẻ thong dong, chọn chỗ dễ chịu bên phải thuyền trưởng. Một hành khách khác bước vào, bắt tay Petersen, máy móc thốt lên: — Thời tiết thật tồi tệ!. Đây là Bell Evjen, giám đốc mỏ Kirkenes, hằng năm có chuyến đi Luân Đôn và Berlin và con tàu Polarlys đưa ông đi sớm hơn một tháng. Ông ta thích thú quan sát người phụ nữ trẻ. Một lát sau, một hành khách khác nghiêng mình trước mỗi người, không nói một lời; đây là một gã trai cao lớn đầu cạo trọc, không có lông mi cũng không có lông mày, đeo kính có mắt kính dây đến nỗi đôi mắt anh ta to quá mức. — Hãy dọn ăn đi, anh phục vụ! Sau đó anh gõ cửa hành khách thứ năm... Bởi vì còn một suất ăn chưa có người. Bữa ăn bắt đầu theo mốt Bắc Âu: canh súp nóng mở đầu, tiếp theo là những món nguội, thịt lợn ướp, thức ăn muối, cá hộp, mứt quả và pho mát. — Người ở phòng số mười tám không trả lời. — Hãy nói với sĩ quan thứ ba lo việc đó. Hai lần Petersen trèo lên boong, lo lắng thấy máy đột ngột chạy chậm, vẫn trong tình cảnh sương mù, những tàu chở hàng chạy theo hàng một, những hồi còi inh ỏi, kèn và còi hú. Tại bàn ăn, mọi người yên lặng. Giữa hai món ăn, người phụ nữ trẻ châm một điếu thuốc lá với chiếc bật lửa là một tác phẩm kim hoàn. Petersen cho rằng cô ta là người Đức, cũng như người hành khách đầu cạo trọc. — Chúng tôi sẽ phục vụ các vị cà phê tại phòng hút thuốc! - Cuối cùng ông nói trong lúc đứng lên, theo một công thức mà ông thường nhắc lại từ mười hai năm nay trong mỗi chuyến đi. Ông đang nhồi tẩu thuốc trong hành lang trước buồng mình thì người nữ hành khách qua gần ông và đi vào trong cầu thang thẳng đứng dẫn tới phòng hút thuốc. Trong suốt thời gian cô ta trèo lên, ông nhìn đôi chân cô ta dưới làn lụa đen tạo cảm giác rất thú vị với đôi đầu gối nhỏ nhắn và cả chút ánh da thịt. — Này, ông Vriens hử? Chàng trai liền máy móc đứng theo tư thế của mình. Đôi môi anh ta run lên. Anh đờ người như thể đột nhiên anh rơi vào giữa một thảm kịch. — Không thấy người hành khách ấy. Tuy nhiên hành lý của ông ta còn ở trong buồng ông ta. — Ông ta là ai? — Ernst Ericksen ở Copenhagen. Tôi còn trông thấy ông ta lúc một giờ trước lúc tàu khởi hành! — Người đàn ông mặc áo khoác màu xám với chiếc hòm màu xanh phải không? — Đúng thế! Tôi đã tìm khắp nơi. — Có lẽ ông ta quay lên bờ để mua báo nên lỡ tàu... Vriens và chàng trai đeo kính đã vào buồng họ. Còn lại một mình nữ hành khách ở phòng hút thuốc. Chiếc áo lụa đen xuất hiện trên đầu cầu thang. — Thuyền trưởng... Cô ta tỏ vẻ xúc động, nhưng gắng mỉm cười, hai bàn tay nén giữ nhịp đập của lồng ngực. — Có chuyện gì xảy ra thế? — Tôi không biết... có lẽ tôi sợ. Tôi vừa vào phòng hút thuốc. Tôi thấy bình cà phê ở trên bàn cũng như những chiếc tách và tôi bắt đầu rót cho mình. Đúng lúc ấy, hình như tôi nghe thấy tiếng động đằng sau tôi. Tôi quay lại, trông thấy một người đàn ông mà tôi chưa nhận ra là ai... Tôi tin chắc người đó khiếp sợ bởi vì người đó đứng lên và chạy trốn. — Qua đâu? — Qua cửa này, cửa trông ra boong đi dạo, phải không? — Ông ta mặc áo khoác màu xám phải không? — Xám, vâng. Tôi kêu lên... Tại sao ông ta chạy trốn như vậy? Trong khi cô ta nói, Petersen có cảm giác cô ta nói với Vriens hơn là nói với ông. — Hãy đi xem! - Ông ta ra lệnh cho viên sĩ quan. Người này ngập ngừng rõ rệt, nhất là vào lúc bước qua trước bà khách mà anh ta phải lướt qua để đi ra. — Xin bà hãy bình tâm, thưa bà. Tất cả chuyện này chắc chắn sẽ được lý giải. Cô ta hé cười, bĩu môi làm điệu và nói: — Tôi sẽ ở lại một mình ở phòng hút thuốc ư? — Các bạn bà sẽ sớm lên đây. — Ông không uống cà phê ư, thưa thuyền trưởng? Ông cảm thấy mùi nước hoa của cô ta rất nồng và ông còn cam đoan thấy cả mùi hương của da thịt cô ta toả ra. Một lúc sau trong khi cô ta rót cà phê, ông xoi mói những đường nét của cô ta và khi cô ta quay lại, cô ta thấy mặt ông đỏ lựng, giả vờ bận tâm lôi kéo chiếc cravate của mình. Evjen bước vào. ○○○ Khi Petersen rời phòng hút thuốc rộng lớn chứa được khoảng năm mươi người, thoải mái nhưng tạo cảm giác hơi lạnh vì những đồ gỗ bằng gỗ sồi có màu rất sáng, thì Evjen ngồi ở một góc đang ghi chép những tài liệu buôn bán lấy từ cặp ra. Trong góc đối diện, gã trai đeo kính đọc cuốn Berliner Tagdblau. Ở giữa hai người ấy, người nữ hành khách đã trải lên mặt bàn những quân bài nhỏ và bắt đầu chơi trò phá trận. — Ông vui lòng cho tôi xin tí lửa, được chứ, thưa thuyền trưởng? Ông phải bước lại. Cô ta đưa về phía ông chiếc bót thuốc lá dài, trong lúc cúi xuống không biết làm thế nào mà mắt Petersen nhìn sâu vào chiếc áo ngắn tới chỗ bắt đầu bầu vú. — Cảm ơn... chúng ta tới biển chưa? — Chúng ta đang đến gần Cuxhaven, vâng! Tôi phải lên cầu tàu đây. Nhìn gần, ông nhận thấy như Vriens, cô ta có đôi mi sụp xuống, những nét mệt mỏi của người qua một hay nhiều đêm mất ngủ. Cũng như Vriens, đôi môi cô ta đôi khi bất chợt run lên. Trên cầu tàu, ông gặp viên sĩ quan thứ ba đang tìm ông, nét mặt tiều tuỵ hầu như anh ta đã khóc. — Anh đã tìm thấy ông ta chưa? — Không. Chắc chắn ông ta đang náu mình. Tuy nhiên tôi đã lấy ba người cùng tôi. Nhưng không phải thế... Petersen nhìn anh ta với vẻ hơi tò mò: — Thì sao? — Tôi muốn nói với ông, thưa thuyền trưởng... rằng... rằng tôi hết sức tiếc về... Giọng nói anh ta vỡ ra. Nước mắt dâng lên trong đôi mắt anh ta. — Tôi cam đoan với ông rằng đây là sự ngẫu nhiên.. Tôi chưa bao giờ uống... Đêm nay... tôi không thể giải thích cho ông... Nhưng điều đó làm tôi không thể chịu nổi khi nghĩ rằng ông... — Hết chưa? Mặt anh ta tái nhợt đến nỗi người nói chuyện với anh ta tỏ chút thương hại. — Anh đi ngủ đi! Ngày mai sẽ sao! - Ông nói thêm kém nhẹ nhàng. — Ông nghĩ tôi còn say ư? Tôi xin thề với ông... — Đi đi! Và Petersen, khoác chiếc áo da dê cái, lại gần viên hoa tiêu, trong khi chiếc tàu chở hàng bật đèn xanh lướt theo chiều ngược lại cách có vài mét. — Chưa đến ư? Người đàn ông chỉ bàn tay trái vào màn đêm. — Cuxhaven! - Ông ta làu bàu. Đây là người hoa tiêu ở Elbe, mà dưới đèn tín hiệu của bến này, ông ta phải xuống một chiếc tàu máy nhỏ đang đợi ông ta. Thuyền trưởng mời ông ta rượu trắng truyền thống trong buồng gác trong lúc trao đổi vài câu chuyện bình thường. Ông rót đầy cốc thứ hai thì máy chạy chậm lại, rồi hoàn toàn ngừng hẳn. Người ta sớm nhận ra ánh đèn đom đóm trong sương mù sát mặt nước. Nó hầu như ở xa nhưng chỉ một giây sau, nó chuyển thành chiếc đèn acetylene phân biệt được mọi chi tiết. Lập tức người ta nghe thấy tiếng va chạm vào vỏ tàu, dưới chiếc thang ở cửa tàu. Một cái bắt tay. “Chúc ngủ ngon!" Người phục vụ đã thu dọn gọn gàng phòng ăn. Tại phòng hút thuốc, ba người ngồi cách nhau không quá tám mét, vẫn chưa quen biết nhau mặc dầu Evjen luôn nhìn người đàn bà trẻ. Người hoa tiêu vừa đặt chân xuống tàu đã gọi: — Này! Thuyền trưởng. Có chuyện gì đó cho ông... Ngả người lên tay vịn, Petersen nhìn rõ trong chiếc canot bóng dáng một người đàn ông bất ngờ: một người đàn ông mặc áo choàng, tay cầm một chiếc vali rất to. — Ông muốn nói gì? — Tôi sẽ giải thích cho ông. Người ta phải giúp người đàn ông trèo lên thang. Sau khi lên boong, người này lo lắng nhìn quanh mình. — Cố vấn cảnh sát Von Sternberg! - Ông ta nói - Tôi không thể đi tàu thuỷ tới Hambourg nên tôi phải đi ôtô. Đây là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi có bộ râu nhọn và đôi lông mày rậm càng có vẻ lạ lùng với chiếc áo choàng màu mù mờ làm biến dạng bóng dáng ông ta. — Tôi sẽ ăn trong buồng tôi! - Ông ta nói thêm vì con tàu Polarlys lại bắt đầu chạy - Nếu những hành khách hỏi ông... — Tôi có ba hành khách tất cả! — Nếu những hành khách hỏi ông, ông hãy trả lời rằng tôi bị ốm phải nằm tại giường. Ông hãy nói với họ một cái tên khác... Wolt chẳng hạn, Herbert Wolf, thương gia về áo da lông. Tôi sẽ trả tiền chuyến đi. — Ông có công vụ ư? - Petersen hỏi với tâm trạng bực bội tăng lên. - Có người nào trên tàu cần...? — Tôi nói mình là cố vấn cảnh sát khi không phải là thanh tra. — Tuy nhiên... Thuyền trưởng hoàn toàn không phải không biết chức cố vấn cảnh sát ở Đức là một danh vị nổi tiếng mà chức năng không phải là truy đuổi những kẻ bất lương. Nhưng có vấn đề với cảnh sát đủ làm cho ông tỏ vẻ cà khịa. Ông là thuyền trưởng nên ông khẳng định mình là chủ con tàu của mình. — Dẫu sao, ông sẽ làm theo ý ông! - Ông làu bàu - Nếu đó là Ernst Ericksen làm ông quan tâm thì tôi phải nói ngay với ông rằng không bắt được hắn đâu. Mất tích rồi! Hắn ẩn náu có trời mới biết ở đâu, mặc dầu hắn đã mua vé cho chuyến đi và hành lý của hắn còn ở trong buồng hắn. Ông gọi: — Phục vụ viên đâu! Anh hãy đưa ông đây tới một buồng còn trống. Anh sẽ phục vụ ông ấy tại chỗ. Ông Wolf. Rồi quay về phía người đàn ông mặc áo choàng: — Đúng thế, phải không? Ông trực ban vào sáu giờ sáng và lẽ ra ông phải ngủ từ lâu. Ông trở về buồng mình, nằm vào giường, nhưng ông còn chú ý đến những người đi đi lại lại ở hành lang một cách vô ý thức. Vì vậy ông nghe thấy tiếng Evjen và người hành khách trọc đầu vào phòng họ. Qua nửa đêm mà cửa buồng người đàn bà trẻ chưa mở ra. Ông bấm chuông gọi người phục vụ. — Mọi người đã ngủ rồi ư? — Không phải tất cả. Còn người đàn bà... — Cô ta vẫn chơi trò phá trận à? — Xin lỗi! Cô ta dạo chơi trên boong với... — Với ai? — Với ông Vriens. — Anh ta dám cả gan bám riết cô ta ở phòng hút thuốc ư? — Không! Anh ta ở trong buồng mình. Chính cô ta yêu cầu tôi gọi anh ta... Thuyền trưởng nặng nề trở mình trên giường và càu nhàu điều gì đó khó hiểu đối với người phục vụ làm anh này đợi một lúc mới rút lui.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhân Chứng Ẩn Mình - Nora Roberts
Việc phải đóng vai cô con gái mẫu mực của một bà mẹ lạnh lùng độc đoán suốt mười sáu năm trời đã khiến cho Elizabeth Fitch hết chịu nổi. Một ngày cô quyết định nổi loạn khi lần đầu trong đời theo chân bạn bè tới hộp đêm. Tại đó cô đã bị quyến rũ bởi một anh chàng người Nga lạ mặt và đồng ý tới căn biệt thự của gia đình anh ta. Mười hai năm sau, một phụ nữ mang tên Abigail Lowery sống lẻ loi ở thị trấn nhỏ vùng núi Ozark. Cô ta có một công việc tự do liên quan đến thiết bị an ninh công nghệ, một chú chó dữ dằn theo sát từng bước chân và một khẩu súng luôn bên người. Việc quá giữ mình khiến cho người dân thị trấn chẳng biết gì về cô ta, đó cũng là lúc mà tính tò mò trỗi dậy. Anh chàng cảnh sát trưởng Brooks Gleason đã bị cô gái bí ẩn, thông minh, đầy quyến rũ này hớp hồn. Nhưng cách cư xử lạ lùng của Abigail khiến anh băn khoăn phải chăng cô là tội phạm bị truy nã hay đang lẩn trốn ai đó? Liệu Abigail có thoát được sự đeo bám của anh chàng Brooks này, và chuyện gì trong quá khứ đã khiến cô trở nên như vậy, xin mời các bạn cùng theo dõi câu chuyện. *** Nhận định “Tác phẩm Nhân chứng ẩn mình của Nora Roberts, nữ văn sĩ có sách bán chạy số một New York Times, là minh chứng rõ ràng cho tài năng tuyệt vời của bà trong việc kết hợp giữa một bối cảnh hình sự với một chuyện tình lãng mạn.” (Booklist) “Câu trả lời của Nora Roberts cho Cô gái có hình xăm rồng.” (Kirkus Reviews) “Một trong những nhân vật nữ chính thông minh nhất của Roberts, cuốn sách kịch tính này xác nhận rằng bà là người đi đầu trong thể loại này.” (Publishers Weekly) *** Thật sự “nhân chứng ẩn mình” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nora Roberts mình từng đọc. Phong cách viết kết hợp giữa trinh thám và lãng mạn của bà chưa bao giờ làm mình thất vọng. Với mỗi tác phẩm, tác giả đều có cách tiếp cận vấn đề và cách triển khai không giống nhau, mọi thứ đều rất mới mẻ và thu hút. Có rất nhiều tình huống trong “nhân chứng ẩn mình”, tất cả đều logic, hợp lý và khiến người đọc không thể rời mắt cho đến khi kết thúc tác phẩm. Và hơn cả là mọi tình tiết đều khá thật. Một cuốn tiểu thuyết thành công là sự kết hợp giữa hiện thực và…hư cấu. Ở điểm này Nora Roberts đã kết hợp được điều đó trong “nhân chứng ẩn mình” nói riêng và trong các tác phẩm trinh thám lãng mạn khác nói chung. Tóm lại đây là một tác phẩm rất đáng đọc của tác giả, phù hợp với cả những độc giả yêu thích các tác phẩm lãng mạn hoặc các tác phẩm hình sự.   Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Ẩn Mình của tác giả Nora Roberts.
Báo Thù - Barry Eisler
Báo thù là cuốn tiểu thuyết trinh thám thứ 2 trong series 7 tập về John Rain, một cựu quân nhân mang hai dòng máu Nhật  - Mỹ hành nghề sát thủ tự do. Trong tập đầu tiên của bộ sách này, Sát Thủ Tokyo, John Rain đã trừ khử được Holtzer - giám đốc phân cục CIA tại Tokyo. Những tưởng cuộc sống yên bình đã chọn anh ở xứ Osaka tươi đẹp nhưng không, một lần nữa anh phải tái xuất để thực hiện nhiệm vụ cuối cùng: tìm ra và loại trừ một tên sát thủ máu lạnh, không hề biết thương xót và hối hận. Hành tung của hắn có liên quan tới nền chính trị Nhật, đặc biệt người bạn thân của anh là Harry cũng bị hắn theo dõi. Quyết tâm dấn thân vào nhiệm vụ cuối để bảo vệ người bạn của mình đồng nghĩa với việc Rain đang đánh đổi mạng sống của mình giữa vòng kiềm tỏa của một bên là giới Yakuza khát máu, một bên là những âm mưu trả thù của CIA. Liệu rằng anh sẽ phải làm gì để bảo vệ chính mình? *** "Từ những yakuza máu lạnh Nhật Bản cho đến những đặc vụ CIA xảo quyệt, một câu chuyện hồi hộp đến nghẹt thở". *** Barry Eisler sinh năm 1964, là tác giả của nhiều tiểu thuyết trinh thám ăn khách. Sau khi tốt nghiệp ngành luật ở đại học Cornell năm 1989, ông làm việc cho CIA trong 3 năm. Tiếp đó ông sống và làm việc tại nhiều nơi ở Nhật Bản, trở thành một võ sĩ judo đai đen tại Trung tâm judo quốc tế Kodokan. Năm 2002, ông bắt đầu sự nghiệp viết văn toàn thời gian sau khi bán bản quyền tiểu thuyết đầu tay Rain Fall, cuốn đầu tiên trong series về nhân vật John Rain - đến nay đã xuất bản được 7 cuốn. Loạt truyện này của ông đã được dịch ra gần 20 thứ tiếng. Eisler từng đoạt Barry Award và Gumshoe Award cho "Tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất năm". Tháng tư năm 2009, hãng Sony Pictures Nhật Bản đã phát hành bộ phim dựa trên tiểu thuyết Rain Fall (Sát thủ Tokyo) với Shiina Kippei vào vai Rain và diễn viên gạo cội Gary Oldman vào vai đối thủ của Rain, giám đốc chi nhánh CIA William Holtzer. Eisler sống tại Menlo Park và Tokyo. *** Đây là quyển sách tiếp theo của cuốn " Sát thủ Tokyo" , cách kể của Barry Eisler có gì đó khá lôi cuốn người đọc. Nhưng có thất một chút thì ban đầu cuốn sách vì kể hơi dài dòng. Phần này nói về cuộc sách của Rain sau khi giết Holtzez - giám đốc phân cục của CIA, và cũng thật tiếc cho anh chàng Harry tài giỏi vì một chút nông nỗi mà phải chết, cũng từ lúc đó chuyện càng trở nên hấp dẫn hơn có thêm nhiều trận đấu nảy lửa, kịch tính. Không biết có thêm tập mới của bộ series này không nữa???   Mời các bạn đón đọc Báo Thù của tác giả Barry Eisler.
Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông
Thị trấn nhỏ nép mình nơi miền rừng núi của tiểu bang Wisconsin không chỉ bị trận bão tuyết bất ngờ ập đến làm cho trấn động. Trong đêm bão, cả gia đình nhà Lacourt gồm 3 người bị sát hại hết sức dã man, ngôi nhà của họ bị thiêu rụi bởi một kẻ mang tên là Người Băng, chỉ vì hắn cần lấy một bức ảnh. Vụ việc xảy ra hết sức phức tạp, để truy tìm ra danh tính kẻ sát nhân, chàng thám tử đến từ thành phố  Minneapolis, tên là Lucas Davenport buộc phải dùng kì nghỉ đông dài ngày của mình khi được cảnh sát trưởng của thị trấn tin tưởng giao trọng trách điều tra vụ án bí ẩn này. Trong khi tham gia vào điều tra vụ án này Lucas Davenport đã quen với một nữ bác sĩ tên là Weather Karkinnen. Tại đây hai người đã nảy sinh tình cảm và cùng nhau đi tìm lời giải đáp của vụ án này. Trong lúc lần mò tháo từng nút thắt, Lucas Davenport không biết rằng, tên sát nhân Người Băng – kẻ thù nguy hiểm nhất của anh đang ẩn mình trong đêm tối như một con sói săn mồi, chực chờ thời cơ hòng hủy diệt mọi đầu mối dẫn đến những bí mật khủng khiếp hơn ẩn dưới lớp tuyết dày. “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một cuốn sách đầy lối cuốn với những tình tiết rùng rợn được đẩy lên cao trào, khiến người đọc như hòa vào dòng chảy của câu chuyện không thể dừng lại. Và khác so với nhiều cuốn tiểu thuyết khác, tác phẩm được xây dựng cốt truyện ngay từ khi được chắp bút của tác giả. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil.   *** Trong số mười chín tiểu thuyết trong series Săn mồi tôi đã viết tính đến giờ, có một vài cuốn có cốt truyện đơn giản hơn, và thực lòng mà nói, cũng có một vài cuốn hay hơn những cuốn khác. Tôi không muốn kể tên chúng ra - thế lại làm giảm doanh thu bán sách của tôi mất - những những người đã theo dõi cả bộ tiểu thuyết nói với tôi rằng “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một trong những cuốn xuất sắc hơn hẳn. Tôi cũng đồng ý với những nhận xét này. Và thường những tác phẩm hay lại là những cuốn truyện không tốn quá nhiều công sức của tác giả. Một câu chuyện với những nhân vật hay ho cùng tính cách phong phú, và với cốt truyện liền mạch ngay từ khi vừa chắp bút sẽ tự khai triển trong tâm trí tác giả như một cuốn phim vậy - ta gần như có thể xem được bộ phim đó khi ngồi viết bên bàn máy tính. Viết nên cuốn tiểu thuyết này giống như chép lại những câu chuyện trong đầu tôi vậy. Cũng có những cuốn kiểu như thế này. Bạn dự định viết một cuốn dài một trăm nghìn từ nhưng khi mới viết được năm mươi nghìn thì bạn lại nghĩ rằng câu chuyện chỉ có thể dừng ở mức năm mươi lăm nghìn từ. Sau cùng, thay vì viết tiểu thuyết, bạn lại viết nó thành một truyện ngắn. Và khi chuyện đó xảy ra, bạn cố tình tạo ra những bất ngờ hay những nút thắt thay đổi cốt truyện mà ngay từ đầu không hề dự định. Và điều này khiến nó trở thành một cuốn tiểu thuyết không xuất sắc. (Những ví dụ điển hình nhất cho thể loại này là những cuốn tiểu thuyết viễn tưởng chỉ dài có hai trăm năm mươi nghìn từ, loại tiểu thuyết bạn có thể đọc trên xe buýt trong vòng hai tuần. Đó là cái kiểu chuyện nói về một anh hùng cưỡi rồng tới Khu Rừng Hắc Ám để chiến đấu với đồ đệ của một phù thủy nào đó. Rồi sau cuộc chiến, anh ta lại tiếp tục đi sâu hơn vào khu rừng để chiến đấu với một tên đồ đệ phù thủy lợi hại hơn, vân vân… Khuấy các tình tiết lên cho đến khi chúng trộn lẫn vào nhau và thành một món dở sống dở chín). Khác với những tiểu thuyết này, cuộc THANH TRỪNG MÙA ĐÔNG được dựng cốt truyện ngay từ khi chắp bút. Ngay trước khi cầm bút, tôi đã có cơ hội được trải nghiệm mùa đông khắc nghiệt ở khu rừng North Woods. Mùa đông ấy vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi, và nó đã trở thành một nhân vật trong cuốn sách, với những con hươu, con sói đói khát và những hiện trường vụ án lạnh lẽo đến thấu xương. Một người bạn của tôi nói rằng vợ anh ấy chưa từng đọc hết cuốn truyện vì nó quá rùng rợn. Cô ấy sống ở vùng nông thôn, và trong suốt mùa đông, khi mà anh bạn của tôi thường xuyên vắng nhà, cô ấy không muốn có bất kì ý niệm nào về những sinh vật hoạt động trong những đêm đông, cho dù đã nhét khẩu súng săn dưới giường… Đồng thời, trong Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi cũng đem đến một nhân vật mới, Weather Karkinnen. Cô là một bác sĩ, và không chỉ sưởi ấm cho Lucas Davenport trong cuốn sách này, cô sẽ trở thành tình yêu của đời anh trong những cuốn tiếp theo. Tôi đã từng thắc mắc mình sẽ làm gì với Weather sau khi cuốn truyện này kết thúc. Thực ra, tôi đã liên tục nhắc đến cô dưới cái tên “Harkinnen” ở những cuốn tiểu thuyết sau này. Tôi tin rằng Weather được khắc họa đậm nét nhất trong Cuộc thanh trừng mùa đông hơn bất kì một cuốn nào khác, dù trong một cuốn truyện, cô ấy trở thành nhân vật chính, và trong các cuốn tiểu thuyết khác cũng xuất hiện nhân vật này. MỘT ĐIỀU KHIẾN Cuộc thanh trừng mùa đông trở nên thành công chính là khi tôi viết cuốn sách này, tôi vẫn khá gần gũi với công tác báo chí. Ví dụ, cảnh hỏa hoạn ở phần mở đầu của cuốn sách thực ra được mô phỏng dựa trên hai vụ hỏa hoạn mà tôi đã đưa tin vào mùa đông ở Minnesota, một vụ cháy căn nhà di động và một vụ ở tòa nhà ở trung tâm Minneapolis. Vụ cháy tòa nhà ở Minneapolis diễn ra khi nhiệt độ xuống tới âm hai mươi bảy độ c với sức gió lên đến gần năm mươi km/h. Khi làm thử phép tính, sẽ cho ra “yếu tố gió lạnh”* tầm âm một trăm nghìn độ. Các anh lính cứu hỏa phải được “đục” ra theo đúng nghĩa đen khỏi những bộ đồng phục bị băng đá thổi ngược lại từ cái vòi cứu hỏa làm cho nặng trịch. Yếu tố gió lạnh (windchill factor), chỉ tình trạng vào mùa đông khi có gió thổi, con người sẽ cảm thấy lạnh hơn nhiệt độ thực tế đo được. Đó là những mẩu chuyện khá hay ho. Theo cá nhân tôi, những câu chuyện viễn tưởng “thực nhất” phải bao gồm những sự kiện được quan sát tận mắt chứ không phải chi được vẽ ra trong trí tưởng tượng của tác giả. Dù sao đi chăng nữa thì mùa đông (ở Hayward, Wisconsin, nơi tôi có một ngôi nhà gỗ để nghỉ hè) vẫn là một trong những nguồn cảm hứng dồi dào nhất của tôi. Một tên loạn trí cưỡi xe trượt tuyết, cùng một cô người yêu tuổi mới lớn lệch lạc tư tưởng và một đống xác chết - thảy hết chúng vào câu chuyện này, và ta chẳng còn cần gì hơn thế nữa. SAU KHI KẾT THÚC cuốn truyện và chỉnh sửa những chương đầu cùng chương cuối, tôi ngồi ngẫm lại và nhận ra rằng có lẽ mình đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp của dòng tiểu thuyết trinh thám rồi. Không chỉ không gặp nhiều khó khăn với cuốn này, mà sau sáu cuốn tiểu thuyết tôi đã từng chắp bút, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể điều khiển dòng chảy của câu chuyện từ đầu cho tới cuối. Không như những cuốn tôi đã viết trước đó, tôi không phải dừng lại giữa chừng để đọc lại và bỏ đi một nửa những gì mình đã viết, vì tôi đã dẫn dắt câu chuyện đi sai hướng, hoặc vì tôi đã phạm phải một lỗi cơ bản mà không nhận ra. Tôi có thể thấy được cái kết cho Cuộc thanh trừng mùa đông ngay từ khi bắt tay vào viết… Sau Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi nghĩ rằng mình có thể viết đến cả trăm cuốn nữa cho bộ tiểu thuyết này, và chúng cũng sẽ xuất sắc, cô đọng và đầy chuyên nghiệp như thế này. Và rồi nghiệp viết văn của tôi sẽ trở nên dễ dàng hơn. Mọi chuyện chưa được như ý tôi muốn nhưng ít nhất đó là những gì tôi cảm nhận sau khi hoàn thành cuốn này. Mong bạn đọc sẽ yêu thích câu chuyện. JOHN SANDFORD *** GIÓ RÍT TỪNG CƠN dọc những lạch nước đã đóng băng của sông Shasta, giữa những bức tường đen kịt được tạo nên bởi rừng thông. Những rặng trăn trần trụi khẳng khiu nơi đầm lầy và những cây bạch dương mới nhú rủ xuống trước gió. Những bông tuyết nhọn hoắt như mũi kim cưỡi gió, tựa như hạt sạn trên tờ giấy nhám, tạc nên những đường xoắn ốc kiểu Ả Rập trên lớp tuyết đang lất phất bay. Người Băng men theo con sông dẫn tới hồ. Hắn ta định hướng chủ yếu dựa vào cảm tính và thời gian cũng tốt như bằng thị giác vậy. Khi sáu phút đã trôi qua trên cái mặt phát sáng của chiếc đồng hồ lặn, hắn bắt đầu đi tìm cây thông chết. Hai mươi giây sau, cái thân bị thời tiết mài cho trắng phớ của cây thông hiện ra dưới ánh đèn pha của chiếc xe máy tuyết, treo mình ở đó một lúc, rồi biến mất như một con ma vẫy xe xin quá giang. Chín ki lô mét, góc phương vị* hai trăm bảy mươi độ… Góc phương vị (compass bearing) là góc tạo bởi hướng Bắc và hướng muốn đi trên la bàn. Tích tắc tích tắc… Vấn đề duy nhất bây giờ là thời gian… Hắn suýt chút nữa đâm sầm vào bờ hồ phía tây nơi chân con dốc đổ xuống từ phía ngôi nhà. Ngôi nhà bị tuyết phủ tọa lạc trên tầng tầng tuyết trắng, hiện ra lù lù trước mắt. Hắn quẹo xe, giảm tốc rồi men theo bờ hồ. Thứ ánh sáng màu xanh nhân tạo phát ra từ đèn hiên xuyên rọi qua màn tuyết. Hắn chầm chậm nhích xe lên trên bờ hồ rồi tắt máy. Gạt cái kính mũ bảo hiểm lên, Người Băng ngồi xuống và lắng nghe. Hắn chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng tuyết khẽ táp vào bộ quần áo đang mặc và chiếc mũ bảo hiểm, những âm thanh thật khẽ của động cơ xe đang nguội dần, hơi thở của chính hắn và tiếng gió. Hắn đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết bằng len che kín cả mặt, chỉ còn chừa lại đôi mắt và miệng. Những bông tuyết len lỏi vào từng thớ len, rồi dần dần tan ra, nhỏ thành từng giọt từ khoảng hở chỗ đôi mắt xuống mặt dọc theo sống mũi hắn. Hắn ăn vận thật kĩ lưỡng cho chuyến đi trong cái thời tiết này, mặc trên người bộ đồ đi tuyết chống gió và cách nhiệt, chân mang đôi giày đi tuyết nặng trịch và tay thì xỏ găng trượt tuyết. Cái áo cao cổ làm bằng sợi PP dày cộp chờm lên cái mặt nạ và cổ áo của bộ đồ hắn mặc trên người thì được cài liền với chiếc mũ bảo hiểm màu đen. Hắn gần như được bao bọc bởi len và nylon, vậy mà hơi lạnh vẫn luồn vào từng kẽ hở, rút lấy từng hơi thở của hắn… Trên giá để đồ, đôi giày đi tuyết được cột sau ghế ngồi, bên cạnh con dao chặt ngô bọc trong một tờ báo. Xoay người ngồi nghiêng một bên, hắn tựa hẳn mình vào chiếc xe, tay lục tung túi áo parka để tìm chiếc đèn pin nhỏ bằng nhôm và soi về hướng giá để đồ. Đôi găng tay dày cộp lúc này trở nên thật vướng víu. Hắn tháo găng ra, mặc nó lủng lẳng trên nẹp cổ tay áo. Ngọn gió như một lưỡi rìu phá băng cứa sâu vào những ngón tay không đeo găng của hắn khi hắn rút đôi giày đi tuyết ra. Hắn ta bỏ đôi giày xuống nền tuyết trắng, xỏ chân vào cái nẹp nối thao tác nhanh, cài dây buộc rồi ngay lập tức lại luồn tay vào đôi găng. Mới có một phút mà tay hắn đã lạnh cóng, đông cứng lại. Sau khi xỏ lại đôi găng, hắn đứng dậy, kiểm tra bề mặt tuyết bên dưới. Lớp tuyết bên trên khá xốp nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt đã làm lớp tuyết bên dưới cứng lại. Chân hắn chỉ bị lún xuống sáu đến tám xen ti mét. Tình hình khá khả quan. Tiếng chuông báo hiệu thời gian lại vang lên trong tâm trí hắn. Hắn dừng lại, tự trấn an mình. Cái bộ máy phức tạp vận hành sự tồn tại của hắn giờ đây đang trong hiểm nguy. Hắn đã từng ra tay hạ sát trước đây, nhưng đó gần như chỉ là một tai nạn. Hắn đã phải tạo hiện trường giả một vụ tự sát quanh tử thi của nạn nhân. Và nó gần như quá hoàn hảo. Ít nhất cũng đủ để cảnh sát không có lấy một cơ hội để bắt hắn. Ngày hôm đó đã thay đổi hắn hoàn toàn. Hắn đã được nếm mùi máu và hương vị thứ thiệt của quyền lực. Hắn ngửa đầu ra sau như một con chó đang lần theo mùi. Ngôi nhà cách bờ sông hơn ba trăm mét. Hắn bị bóng tối bao trùm, không thể nhìn thấy ngôi nhà ngoại trừ ánh sáng le lói rọi từ đèn sân. Hắn lôi con dao ra khỏi giá đựng đồ và bắt đầu leo lên dốc. Con dao chặt ngô là một vũ khí đơn giản nhưng hoàn hảo để phục kích trong một đêm đầy tuyết, nếu cơ may xuất hiện. Trong cơn bão, và đặc biệt về đêm, căn nhà của Claudia LaCourt dường như trôi ra nơi rìa thế giới. Tuyết rơi càng dày thì những ngọn đèn rọi từ hiên nhà qua dòng sông đóng băng càng mờ dần rồi từng ngọn, từng ngọn lụi tắt hẳn. Cùng lúc đó, khu rừng như tiến sát lại. Những cây thông và cây tùng khẽ nhón chân lại gần, đè hẳn mình lên ngôi nhà. Những cây trắc bách diệp như đang cạo vào cửa sổ, và những cành bạch dương trơ trụi thì như muốn cào nát diềm mái nhà. Tất thảy nghe như thể một sinh vật ác độc đang tiến lại gần, một con quái vật với vuốt nhọn và răng nanh, đập vào tấm ván che kêu rầm rầm hòng tìm kiếm một chỗ để bám vào. Nó dường như có thể thổi bay cả ngôi nhà. Khi ở nhà một mình hoặc ở cùng cô con gái Lisa, Claudia thường nghe những album cũ của Tammy Wynette hay xem các chương trình truyền hình giải trí. Nhưng cơn bão vẫn chứng minh sự hiện diện của mình bằng những cú sập cửa hoặc những tiếng gào rú trong đêm. Hoặc một đường dây dẫn điện có thể hỏng ở đâu đó. Lúc đó, những ngọn đèn chập chờn rồi vụt mất, nhạc tắt lịm, ai nấy đều nín thở lắng nghe cơn bão gầm gừ như muốn xé nát tất cả. Ánh nến càng làm cho mọi thứ trở nên tệ hại hơn và đèn bão thì cũng chẳng hữu ích là bao. Thứ duy nhất có thể chiến đấu với những điều xấu xa được tạo ra bởi trí tưởng tượng của con người trong một cơn bão đêm là sự hiện diện của khoa học hiện đại -truyền hình vệ tinh, radio, đĩa CD, điện thoại và trò chơi điện tử. Hoặc máy khoan. Những thứ tạo ra âm thanh của máy móc và xua đi những móng vuốt của thời kỳ tăm tối đang chực chờ lật tung ngôi nhà. Claudia đứng cạnh bồn, rửa cốc cà phê và treo chúng lên giá. Cửa sổ cạnh bồn rửa phản chiếu hình ảnh của cô như một tấm gương, nhưng đôi mắt và những đường nét trên gương mặt có vẻ tối hơn giống như trong những bức hình được chụp theo phương pháp Daguerre* vậy. Phương pháp Daguerre (Daguerreotype) là phương pháp chụp ảnh được phát minh bởi Louise Dagueưe (1787-1851), qua đó hình ảnh sẽ được ghi lại trên một tấm bảng kim loại. Nhìn từ bên ngoài, Claudia trông như nàng thánh mẫu trong một bức vẽ, là dấu hiệu duy nhất của ánh sáng và sự sống trong cơn bão, nhưng cô chưa từng nghĩ mình như vậy. Claudia là một bà mẹ với vòng ba săn chắc, mái tóc mang sắc đỏ, có khiếu hài hước và rất có gu uống bia. Cô có thể lái tàu đánh cá và chơi bóng mềm. Vào mùa đông, thỉnh thoảng, khi Lisa ngủ ở nhà bạn, cô và Frank lái xe tới Grant và thuê một phòng ở nhà nghỉ Holiday Inn, nơi có những tấm gương lớn, cao từ sàn tới tận trần nhà, được đặt trên cánh cửa tủ quần áo cạnh giường. Cô thích cái cảm giác ngồi trên hông của anh ngắm thân hình mình trong cơn khoái lạc, đầu ngả ra sau và ngực thì ửng hồng. Claudia cậy mảng vỏ bánh cháy cuối cùng ra khỏi khay nướng bánh, rửa sạch rồi cho nó vào giá đĩa để ráo nước. Cô nhìn ra ngoài, nơi một cành cây cào vào cửa sổ, nhưng không hề sợ hãi. Cô ngân nga một bài hát cũ rích nào đó, một bài hát từ thời trung học. Đêm nay ít ra thì không chỉ có mình cô và Lisa. Frank đang ở đây. Anh bước lên trên cầu thang và cũng đang ngân nga một bài hát nào đó. Họ thường hay cùng lúc làm một việc như vậy. “Ừm,” cô quay lại khi nghe thấy tiếng anh. Mái tóc đen mỏng của anh loà xoà trên đôi mắt đen. Anh trông như một chàng cao bồi với gò má cao và đôi bốt cao cổ cũ kĩ ló ra ngoài chiếc quần bò côn, Claudia nghĩ. Anh đang mặc một cái tạp dề làm bằng vải bò rách tả tơi bên ngoài chiếc áo phông, và tay thì cầm chiếc chổi sơn lấm lem nước sơn đỏ như máu. “Sao vậy, anh yêu?”cô lên tiếng. Đây là cuộc hôn nhân thứ hai của cả hai người. Họ đều đã trải qua nhiều chuyện và thực sự dành tình cảm cho nhau. Anh rầu rĩ, “Anh vừa mới bắt đầu sơn cái giá sách nhưng anh đã để cái lò sưởi cháy hết mất rồi.” Anh vung vẩy cái chổi sơn trước mặt cô. “Chắc anh sẽ mất cả tiếng đồng hồ để sơn xong cái giá sách mất. Anh thực sự rất thích việc này.” “Lạy Chúa, Frank…,” cô đảo mắt. “Anh xin lỗi,” anh ăn năn theo đúng kiểu một chàng cao bồi bảnh bao. “Thế về chuyện với cảnh sát trưởng thì sao?” Cô chuyển chủ đề. “Anh vẫn sẽ tiếp tục chuyện này sao?” “Anh sẽ gặp ông ấy vào ngày mai,” anh quay mặt đi, tránh ánh mắt của cô “Chỉ thêm rắc rối thôi.” Cuộc tranh luận vẫn đang âm ỉ giữa hai người họ. Cô bước ra xa khỏi bồn rửa và nghiêng người ra sau, đưa mắt về phía hành lang hướng phòng Lisa. Căn phòng vẫn đóng kín và tiếng nhạc của Guns ‘N Roses khe khẽ vọng ra. Giọng của Claudia trở nên gay gắt, đầy lo lắng. “Anh có thể im đi được không? Đó không phải việc của anh. Anh đã nói cho Harper nghe rồi. Jim là con trai của anh ta. Nếu đó là Jim.” “Chắc chắn là Jim, được chứ. Anh đã kể cho em cái cách mà Harper cư xử rồi mà.” Frank bặm chặt môi lại. Claudia nhận ra cái biểu cảm này và biết rằng anh sẽ không thay đổi quyết định của mình, cũng giống như cái gã trong bộ phim “High Noon.” Hắn tên gì nhỉ? Phải rồi, Gary Cooper. “Em ước là mình chưa bao giờ thấy bức hình đó,” cô cúi đầu, tay phải day thái dương. Lisa đã đưa lại bức hình cho mẹ mình trong phòng ngủ. Cô bé không muốn Frank thấy nó. “Chúng ta không thể để mọi chuyện cứ như thế được.” Frank năn nỉ. “Anh đã bảo với Harper rồi.” “Sẽ có rắc rối đó, Frank,” Claudia nói. “Pháp luật có thể giải quyết được mà. Chúng ta sẽ không bị liên lụy gì cả,” anh đoan chắc. Sau một hồi, Frank lên tiếng “Em bật cái lò sưởi lên nhé?” “Thôi được rồi. Em sẽ lo chuyện cái lò sưởi”. Claudia hướng mắt ra ngoài cửa sổ nơi ánh đèn thuỷ ngân ngoài hiên rọi xuống garage. Những bông tuyết dường như bắt đầu rơi từ một điểm ngay bên dưới ánh đèn, như thể được đổ xuống từ một cái phễu phía trên phía cửa sổ, chiếu thẳng vào đôi mắt cô như một viên đạn nhỏ. “Trông có vẻ như tuyết sẽ ngớt.” “Đáng nhẽ không có tuyết mới đúng.” Frank chửi tên dự báo thời tiết, “Mẹ kiếp.” Dự báo thời tiết nói rằng trời sẽ lạnh và quang quẻ ở hạt Ojibway, nhưng bây giờ thì tuyết đang rơi như trút. “Anh thử suy nghĩ về việc buông xuôi nó đi” cô nài xin “Hãy suy nghĩ lại một chút thôi.” “Anh sẽ suy nghĩ lại,” anh nói rồi quay lưng đi xuống hầm. Frank có thể nghĩ về nó, nhưng anh sẽ không bao giờ thay đổi quyết định của mình. Claudia ngẫm lại mọi chuyện, tròng mình vào chiếc áo len rồi bước ra gian ngoài. Đôi găng lái xe ướt nhẹp của Frank phơi trên lỗ thông hơi của lò sưởi khiến cả căn phòng có mùi như len sấy khô. Cô khoác lên người chiếc áo parka và chiếc mũ len với quả bông treo lủng lẳng phía sau. Claudia đeo găng rồi với tay tìm công tắc trong gian ngoài, bật đèn hiên và bước ra ngoài, hòa mình vào cơn bão. Bức ảnh đó. Bọn họ đáng lẽ có thể là bất cứ ai, từ Los Angeles đến Miami, nơi mà họ làm những việc như vậy. Nhưng không. Họ đến từ hạt Lincoln. Chất lượng in ấn thì tệ hại, giấy thì tồi đến mức có thể bở nát ra ngay khi cầm trong tay. Nhưng đó đúng là con trai của Harper. Nhìn kĩ bức ảnh, cô có thể thấy đốt tay cụt bên bàn tay trái bị gây ra bởi rìu chặt củi và đôi khuyên tai vòng của cậu bé. Trong bức ảnh, cậu ta đang khỏa thân trên giường, hông hướng về phía máy ảnh và ánh mắt thì đờ đẫn pha lẫn chút hoang mang. Cậu ta có gương mặt đang dần trưởng thành của một thanh niên trẻ tuổi, nhưng đâu đó vẫn ẩn chứa hình bóng của một cậu bé làm việc ở trạm xăng của cha. Cậu bé mà cô đã biết từ lâu. Phía trước bức ảnh là thân hình của một gã đàn ông ục ịch, ngực đầy lông. Hình ảnh đó nhanh chóng lướt qua tâm trí Qaudia. Cô đủ quen thuộc với đàn ông và cơ thể của họ, nhưng có một điều gì đó trong bức ảnh, một điều vô cùng tồi tệ… Mắt của cậu bé tối sầm lại trước đèn flash. Khi nhìn gần hơn nữa, đồng tử của cậu bé trông như thể ai đó ở tòa soạn của tờ tạp chí đã vẽ nó vào mắt cậu bằng một cây bút dạ. Claudia khẽ rùng mình nhưng hoàn toàn không phải vì lạnh. Cô nhanh chóng bước xuống đường hào bị phủ đầy tuyết dẫn tới garage và kho để gỗ. Mới đó mà tuyết rơi trong hầm đã dày tới mười centimet. Rồi sáng mai cô sẽ lại phải thổi tuyết ra. Cửa garage ở phía cuối đường hào. Cô đẩy mạnh cánh cửa rồi bước vào, bật đèn sáng choang và giậm mạnh chân theo quán tính. Garage được cách nhiệt và sưởi ấm bằng lò sưởi. Bốn khúc gỗ sồi cháy âm ỉ và tản ra đủ nhiệt để giữ nhiệt độ trong garage luôn trên mức đóng băng kể cả vào những đêm lạnh giá nhất, và cũng đủ để khởi động xe. Ở cái xứ Chequamegon này thì khởi động xe đúng là vấn đề sống còn. Lò sưởi vẫn còn ấm. Than đã cháy hết, nhưng Frank đã dọn lò tối hôm trước. Dù sao thì đó cũng không phải là việc của cô. Cô quay lại nhìn về phía đống gỗ gần cánh cửa. Chỉ còn đủ cho đêm nay. Cô ném vài thanh gỗ thông còn đầy nhựa to bằng cổ tay vào lò cùng với bốn khúc gỗ sồi để giữ lửa cháy. Cô thở dài nhìn về nơi mà đống gỗ đáng lẽ phải ở và quyết định mang thêm mấy thanh gỗ để tuyết bám trên chúng có thể tan ra trước sáng hôm sau. Rồi cô bước ra ngoài, đóng cửa lại nhưng không khóa, lần dọc về phía chái nhà để củi ở bên hông garage. Cô nhặt thêm bốn khúc gỗ sồi rồi loạng choạng quay về cửa garage, đẩy cửa bằng chân và thảy mấy khúc gỗ sồi xuống cạnh lò sưởi. Cô sẽ chỉ đi một lượt nữa thôi và phần còn lại sáng hôm sau là của Frank. Cô quay về phía hông garage, đi vào nhà kho đựng gỗ tối om lấy thêm hai khúc gỗ sồi. Đột nhiên tóc gáy cô dựng đứng… Không chỉ có cô, ai đó cũng đang ở đây. Claudia run rẩy đánh rơi những khúc gỗ, tay đưa lên cổ tự trấn an mình. Khu đất phía sau của garage tối đen như mực. Cô không thể nhìn thấy ai cả nhưng trực giác của cô thì mách bảo điều ngược lại. Tim cô đập dội vang trong lồng ngực và những bông tuyết rơi trên mũ trùm tạo thành từng tiếng đồm độp thật nhỏ. Không còn gì khác nữa, nhưng cô có linh cảm không lành. Cô lùi lại, nhưng chẳng có gì khác ngoài tuyết và ánh sáng xanh của đèn hiên. Bước đi trong đường hào đầy tuyết, cô bỗng khựng lại, chú mục vào bóng tối… rồi bỏ chạy thật nhanh về phía căn nhà. Ngay cả khi tới nơi, cô vẫn có cảm giác ai đó đang ở phía sau lưng mình. Hắn dường như sắp chạm tới cô. Cô túm lấy nắm tay cửa, giật thật mạnh, đẩy cửa bằng mu bàn tay rồi bước vào gian ngoài sáng choang và ấm áp. “Claudia?” Frank lên tiếng. Cô hét lên. Frank đứng thần ra ở đó với chiếc giẻ lau sơn, và đôi mắt mở to đầy ngạc nhiên “Xảy ra chuyện gì vậy?” “Chúa ơi!” Claudia kéo khóa áo bộ đồ đi tuyết xuống, vật lộn với cái khóa mũ trùm đầu. Mồm cô mấp máy nhưng không thể phát ra một lời nào. “Lạy Chúa, Frank, có ai đó ngoài garage.” “Gì cơ?” Frank khẽ nhíu mày và tiến về phía cửa sổ trong bếp. “Em có thấy hắn ta không?” “Không, nhưng em thề có Chúa là có ai đó ngoài kia. Em có thể cảm thấy hắn.” Cô bám lấy tay anh, đôi mắt hướng ra ngoài cửa sổ. “Gọi 911 đi!” “Anh không thấy gì cả,” Anh đi qua bếp, nghiêng người trên bồn rửa, nhìn chằm chằm về phía đèn hiên. “Anh không thể thấy được gì đâu,” Cô khóa chặt cửa lại rồi bước vào căn bếp, “Frank, em thề có Chúa đấy, chắc chắn là có ai đó ngoài kia…” “Thôi được rồi,” Anh trả lời một cách nghiêm túc “Anh sẽ đi kiểm tra xem sao.” “Tại sao chúng ta không gọi…” “Anh sẽ xem thử xem thế nào.” Anh nhắc lại. Rồi tiếp lời, “Cảnh sát sẽ không tới đây lúc trời bão thế này đâu. Khi mà thậm chí em còn không nhìn thấy ai cả.” Anh nói đúng. Claudia theo anh ra gian ngoài, mồm lắp bắp, “Em đã cho gỗ vào bếp sưởi, sau đó em vòng sang hông garage để lấy thêm vài khúc gỗ cho sáng mai.Vào lúc đó, cô tự nhủ rằng, đây không phải là cô của thường ngày. Frank ngồi trên chiếc ghế dài ở gian ngoài, kéo đôi bốt Tony Lamas ra khỏi chân. Mặc xong bộ đồ đi tuyết, Frank ngồi xuống, xỏ chân vào đôi ủng rồi buộc dây giày. Xong xuôi, anh kéo khóa áo khoác lên và với lấy đôi găng tay. “Anh sẽ quay lại ngay.” Anh tỏ vẻ tức giận nhưng anh biết rõ cô không phải là người dễ dàng hoảng sợ. Cô bật thốt lên, “Em sẽ đi cùng anh” “Không, em sẽ ở lại đây.” anh nói chắc nịch. Cô vội vã vòng ra sau bàn bếp và kéo mạnh cái ngăn kéo “Frank, mang súng theo đi.” Một khẩu Smith Wesson 357 cỡ lớn đã được nạp sẵn đạn nằm sâu trong hộc tủ, phía sau bức vách ngăn. “Đó có thể là Harper… Có thể…” Mời bạn đón đọc Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông của tác giả John Sandford.
Ác Quỷ Thành Phố Trắng
“Ác quỷ thành phố trắng” là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất của tác giả Erik Larson, và được tờ The New York Times bình chọn là cuốn sách best seller. Năm 2004, cuốn sách nhận giải thưởng Edgar cho hạng mục Tác phẩm về tội phạm có thật xuất sắc nhất.  Cuốn sách thuật lại hành trình xây dựng Hội chợ thế giới của nhóm kiến trúc sư tài hoa ở Chicago sau khi thành phố này giành quyền đăng cai tổ chức hội chợ. Thành phố Chicago nhanh chóng thành lập một công ty chính thức mang tên là: “Công ty hội chợ thế giới Hoa Kì”, nhằm cung cấp tài chính và xây dựng. Và nhà thiết kễ chính là Burnham và Root, được yêu cầu phải xây dựng gần như cả một thành phố và vượt lên trên sự tuyệt vời của hội chợ Paris, gánh nặng đè lên vai, việc thất bại là không thể vì nó sẽ ảnh hưởng đến danh dự và tổn hại của quốc gia. Quá trình xây dựng được bắt đầu, nhưng không ai ngờ rằng chỉ cách khu hội chợ quy mô và hấp dẫn nhất thế giới vào thời kì ấy chỉ vài bước chân, tên sát nhân hàng loạt đã xây dựng một khách sạn được trang bị bàn mổ, lò thiêu và những thùng axit. Cả thành phố hối hả với hội chợ mà “bỏ lỡ” kẻ sát nhân tàn ác với những thủ đoạn tinh vi. Thời gian diễn ra hội chợ hắn đã giết chết hàng chục người, đa số là phụ nữ trẻ. “Tôi sinh ra với ác quỷ trong mình. Tôi không thể thay đổi sự thật rằng tôi là kẻ sát nhân, giống như các nhà thơ biến cảm hứng thành vần điệu”.Vậy hắn là ai mà giết chóc nhiều như vậy nhưng không bị phát hiện? *** Erik Larson là tác giả nổi tiếng với dòng truyện phi hư cấu về lịch sử và trong đó không thể không nhắc tới cuốn “Sống sót ở Berlin”. Cuốn sách nói về lịch sử nước Đức ngày càng chìm sâu trong bóng tối sau thời khắc Trùm Phát xít Adolf Hitler trở thành Thủ tướng của Đế chế Đức vào năm 1933. Kể từ đó trở đi, nước Đức xảy ra bạo lực liên miên và nạn phân biệt chủng tộc, đặc biệt đối với người Do Thái, Hitler quan ngại với người Do Thái bởi chính sự tài năng của nhóm người đó sẽ làm ảnh hưởng, cản trở đối với quyền lực của hắn. Đúng vào thời điểm đó, ông William E.Dodd – một giáo sư lịch sử được cử sang Berlin làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Đức. Ông cùng cô con gái – Martha sớm được trải nghiệm một nước Đức kỳ lạ, tươi đẹp, nhưng cũng đầy rẫy hiểm nguy bủa vây. Trong khi đó, Hitler lại ngày càng tỏ ra thiện chí và ưa chuộng hòa bình. Nhưng liệu mọi người nghe thấy, nhìn thấy và ngửi thấy gì? Các nhà ngoại giao và du khách giải thích những sự kiện diễn ra xung quanh họ như thế nào? Và có ai thấy được bộ mặt thật của Trùm Phát xít Hitler và ngăn hắn lại khi quá muộn???... *** CÁI ÁC ẨN HIỆN (GHI CHÚ) Tại Chicago vào cuối thế kỷ XIX, giữa làn khói công nghiệp và tiếng còi tàu vang vọng, xuất hiện hai người đàn ông, cả hai đều đẹp trai, mắt xanh và đều lão luyện một cách bất thường trong các kĩ năng của họ. Mỗi người là hiện thân của một yếu tố trong động lực vĩ đại đặc trưng cho sự hối hả tiến vào thế kỷ XX của nước Mỹ. Một người là kiến trúc sư, đã xây dựng rất nhiều những công trình quan trọng bậc nhất của Mỹ, trong đó có tòa nhà Flatiron tại New York và Nhà Ga Trung Tâm của Washington, D.C.; người còn lại là một tên sát nhân, một trong những kẻ khát máu nhất trong lịch sử và là điềm báo của một hình mẫu Mỹ: Kẻ giết người hàng loạt tại đô thị. Mặc dù cả hai không bao giờ gặp nhau, ít nhất là một cách chính thức, số phận của họ lại được liên kết bởi một sự kiện huyền diệu độc nhất, dù hiện tại không còn được nhớ đến nhiều, tuy nhiên vào thời điểm bấy giờ thì lại sở hữu một sức mạnh có khả năng làm xáo trộn gần tương đương với cuộc nội chiến. Trong những trang tiếp theo, tôi sẽ kể câu chuyện của hai người đàn ông và sự kiện này, nhưng tôi phải thông báo trước: Dù một vài sự kiện sau đây có kỳ lạ hoặc rùng rợn đến đâu chăng nữa, đây không phải là một tác phẩm hư cấu. Bất cứ điều gì nằm trong dấu ngoặc kép đều đến từ một lá thư, hồi kí, hoặc các văn bản khác. Sự việc chủ yếu diễn ra ở Chicago, nhưng tôi xin độc giả lượng thứ khi thỉnh thoảng lại đảo qua ranh giới bang khác, như khi Thám tử Geyer đau buồn nhưng kiên cường bước vào căn hầm khủng khiếp cuối cùng. Tôi cũng mong độc giả kiên nhẫn khi đọc các cuộc hành trình bên lề thường xuyên diễn ra theo yêu cầu của câu chuyện, bao gồm cả những chuyến du ngoạn vào ngành kinh doanh xác chết nhằm mục đích y tế và việc sử dụng cây phong lữ Hoàng Tử Đen trong cảnh quan của Olmsted. Phía sau làn khói, máu me và mùn đất, cuốn sách này viết về sự phù du của cuộc sống và lí do tại sao một số người chọn cách lấp đầy thời gian trên cõi đời ngắn ngủi của mình bằng việc thực hiện những điều không tưởng, trong khi những người khác tạo ra nỗi buồn đau. Cuối cùng, đây là một câu chuyện của những xung đột không thể tránh khỏi giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Thành Phố Trắng và Thành Phố Đen. ERIK LARSON SEATTLE  Mời bạn đón đọc Ác Quỷ Thành Phố Trắng của tác giả Erik Larson.