Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nước Ý, Câu Chuyện Tình Của Tôi - Trương Anh Ngọc

“Nước Ý, câu chuyện tình của tôi” là cuốn sách dành cho “người tình” của tác giả: Italia xinh đẹp, lãng mạn, đa tình và cuồng nhiệt. Mối tình của Trương Anh Ngọc bắt nguồn từ bóng đá, bằng tiếng sét ái tình khi nhìn vào đôi mắt Tardelli sau bàn thắng thứ hai vào lưới đội tuyển Đức trong trận chung kết ở Espana 1982. Khoảnh khắc ấy đã nhen lên nhiệt huyết cho hành trình không mệt mỏi qua 17 trên 21 vùng miền của nước Ý, và rồi trở nên cuồng si trong mỗi khoảnh khắc của hơn một ngàn ngày sống trong lòng “người tình.” “Nước Ý, câu chuyện tình của tôi” không phải cuốn cẩm nang du lịch với những dòng hướng dẫn khô khan. Trương Anh Ngọc dẫn độc giả men theo chính hồi ức của mình để khám phá từng thành phố, từng miền đất đã ghi sâu vào tâm tưởng, đến nỗi ngay cả tác giả khi nhìn vào những bức hình mình đã chụp cũng chẳng thể nào còn nhớ được ngày hôm đó đã nắng hay mưa. Mỗi dòng, mỗi chữ Trương Anh Ngọc đã viết đều thấm đẫm cảm xúc, không chỉ là hoài niệm mà còn đầy yêu thương. Yêu thương với một Roma hoa lệ có những con đường lát đá gồ ghề. Yêu thương một Venezia bồng bềnh trên kênh rạch chẳng biết rồi sẽ trôi dạt về đâu cùng vẻ đẹp quyến rũ, cổ điển đã đi vào thi ca. Yêu thương Toscana có cánh đồng hoa hướng dương vàng rực vươn mình về phía bầu trời xanh. Yêu thương Chanti Classico với rượu rất ngon và phụ nữ rất đẹp… Cứ thế, gã trai si tình Trương Anh Ngọc càng si mê nước Ý. Si mê một bản trường ca thuộc về cuộc sống, tình yêu và cái chết – bóng đá. Có lẽ chỉ khi đọc “Nước Ý, câu chuyện tình của tôi”, người đọc mới có thể bắt gặp những hình ảnh độc đáo về bóng đá Italia mà không một khuôn hình, không một thước phim nào của các hãng thông tấn có thể truyền tải được. Trên cây cầu tình yêu Milvio, bên những ổ khóa của những cặp tình nhân còn có ổ khóa của những cặp đối thủ sẽ gặp nhau trong trận derby của thành Roma. Trên thực đơn của những quán bánh ngọt có những món lấy tên của những cầu thủ, vì Roma là pane và pallone (bánh mì và trái bóng). Rồi còn nụ hôn im lặng của chàng trai Ý lên chiếc khăn đỏ đen của Milan trong siêu thị, âm thầm nhưng cuồng nhiệt. Và có những trận bóng mà cầu thủ chính là những thầy tu suốt một đời phụng sự Chúa. Italia – “đất nước lãng mạn và là điểm đến lý tường cho các lứa đôi, cũng là nơi mà tỷ lệ ly dị và ly thân đang tăng lên chóng mặt, người ta có thể từ bỏ người tình hoặc vợ, sẵn sàng chia tay tay những người bạn và tạo thêm cho mình những kẻ thù nhưng họ không bao giờ phản bội đội bóng mà họ yêu và đi theo suốt cuộc đời.” Nước Ý, “người tình” của Trương Anh Ngọc, là đất nước của tình yêu với những lá thư từ khắp mọi nơi trên thế giới gửi cho nàng Juliet ở Verona, là đất nước của những viên kem ngọt ngào, là đất nước của những chiếc xe Vespa chỉ còn lại trong quá khứ hoa mộng… Nước Ý ấy xa lạ nhưng cũng thật gần gũi với những câu chuyện chân thực về cuộc sống, về những bon chen, lo lắng thường nhật vì giao thông hỗn loạn ở Roma, vì trường học xuống cấp, thiếu hụt giáo viên,… Nước Ý, trong con mắt của Trương Anh Ngọc, có Đức Hồng y và mafia, có bầu trời xanh và những vũng nước nhầy nhụa, có tình yêu cháy bỏng nồng nhiệt và những vụ ly hôn… Nước Ý ấy, không hoàn hảo, không lộng lẫy, nhưng vẫn đẹp và vẫn khiến người ta yêu say đắm. “Nước Ý sẽ ở trong tim bạn ngay cái nhìn đầu tiên, như một tình yêu sét đánh mà người Ý, vốn hoa tình và quá lãng mạn trong đời sống tình cảm, luôn vướng vào như mắc phải tơ nhện [...] Tình yêu ấy với nước Ý đôi khi không chỉ bắt nguồn từ âm nhạc, ngôn ngữ, bóng đá, ẩm thực và đàn bà mà có thể qua cả mafia và cuộc chiến chống mafia nữa. [...] Trên đất nước của những điều kỳ diệu của con người, thiên nhiên, của các tác phẩm nghệ thuật, của lịch sử và văn minh, có quá nhiều điều bất công, có biết bao tội ác và những điều nghịch lý. Nhưng những ai đã có nước Ý trong tim rồi sẽ chẳng bao giờ từ bỏ tình yêu ấy vì điều đó.” *** “Series A, Mafia, Bầu trời Tuscany và Anh Ngọc. Một hành trình khám phá nước Ý qua gọng kính của một kẻ lãng mạn.” - Đạo diễn Việt Tú    “Nước Ý sẽ ở trong tim bạn ngay cái nhìn đầu tiên, như một tình yêu sét đánh mà người Ý, vốn hoa tình và quá lãng mạn trong đời sống tình cảm, luôn vướng vào như mắc phải tơ nhện [...] Tình yêu ấy với nước Ý đôi khi không chỉ bắt nguồn từ âm nhạc, ngôn ngữ, bóng đá, ẩm thực và đàn bà mà có thể qua cả mafia và cuộc chiến chống mafia nữa. [...] Trên đất nước của những điều kỳ diệu của con người, thiên nhiên, của các tác phẩm nghệ thuật, của lịch sử và văn minh, có quá nhiều điều bất công, có biết bao tội ác và những điều nghịch lý. Nhưng những ai đã có nước Ý trong tim rồi sẽ chẳng bao giờ từ bỏ tình yêu ấy vì điều đó.” “Cuốn sách này là “đồng xu” mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi. Nó sẽ giúp bạn đến được với nước Ý.” - Nhà báo Yên Ba   “Nếu nói nước Ý là quê hương thứ hai của Ngọc, có lẽ là nói quá lên về mặt địa lý. Nhưng nói nước Ý đã sinh ra một chàng trai Việt, có lẽ người-tình-trong-anh gắn bó với mảnh đất này không thể dỗi hờn!” - Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long    “Với Nước Ý - câu chuyện tình của tôi của Anh Ngọc, những ai đã đến hoặc chưa hoặc rồi sẽ đến, đã yêu hay không yêu hoặc chưa yêu đều sẽ biết đến một nước Ý hoàn toàn khác. Một nước Ý theo kiểu của một Milanista đích thực, yêu Milan đến quặn lòng, nhưng bình luận trận Roma vô địch nước Ý hồi năm 2001 thì lại khóc, khóc nghẹn cả giọng vì… sung sướng!” - Nhà thơ Đoàn Ngọc Thu *** Tôi làm quen với nước Ý từ năm lên bảy. Espana 82. Tiếng nhạc Tây Ban cầm và điệu gõ gót chân Flamenco. Những bàn thắng trên sân cỏ Tây Ban Nha. Và những hình ảnh không bao giờ có thể xóa mờ cho đến lúc chết về đôi mắt sáng rực của Tardelli sau bàn thắng thứ hai vào lưới đội tuyển Đức trong trận chung kết. Đôi mắt Ý ấy cứ ám ảnh tôi mãi, vì sau ánh mắt hạnh phúc và xúc động tột cùng dường như không thể tin nổi vào chiến thắng ấy là rất nhiều những ánh mắt khác nữa, ánh mắt hân hoan tột độ, lóe lên rồi tắt ngấm của Schillaci ở Italia 90, ánh mắt buồn bã nhưng không đau khổ đến mức tuyệt vọng của Roberto Baggio sau những loạt penalty thất bại ở World Cup 94, và ánh mắt như say trong cơn mê của Grosso trong trận chung kết World Cup 2006. Bóng đá Ý là vậy ư, tràn ngập những cảm xúc về cuộc sống, về con người, về những bon chen và thủ đoạn, là tấm gương phản ánh tất cả những nét đẹp đẽ và xấu xa của cuộc đời? Những đôi mắt Ý là vậy ư, sâu thẳm, đầy tình cảm, lãng mạn, nhưng cũng rất thực tế mà mỗi thành công trong cuộc sống phải trả những cái giá rất đắt, để đến khi những niềm vui biểu lộ ra bao giờ cũng xúc động như chan chứa những giọt lệ rơi? Và cũng có một âm hưởng chung như thế với những bài dân ca Napoli trong tiếng đệm mandolin, những bài hát lãng mạn mà mỗi câu lại được viết bằng thứ tiếng Ý trong trẻo và vang lên trên đầu lưỡi mỗi người, bản thân nó, khi không đệm nhạc cũng đã đầy chất nhạc và thơ? Phải, và có lẽ vì thế, những ai đã đến đất nước lãng mạn và xinh đẹp hình chiếc ủng bên bờ Địa Trung Hải và Adriatico ấy đều mong ngày trở lại. Chẳng cần phải đến cho bàn tay vào La Bocca della Verita1 để kiểm tra xem tình cảm ấy có đúng không, chẳng cần phải ném những đồng xu may mắn xuống đài phun nước Trevi ở Roma, hay ngồi trên những Bậc thang Tây Ban Nha để mơ mộng một cách mê đắm như Audrey Hepburn trong Kỳ nghỉ ở Roma để thể hiện tình yêu ấy là thật. Chỉ cần bạn nói bạn yêu nước Ý, thế là đủ. Italia Mia2! Nước Ý sẽ ở trong tim bạn ngay cái nhìn đầu tiên, như một tình yêu sét đánh mà người Ý, vốn hoa tình và quá lãng mạn trong đời sống tình cảm, luôn vướng vào như mắc phải tơ nhện (có phải vì thế mà người ta đã nói từ thời Trung cổ: “Không hiệp sĩ Ý nào lại không giắt dao găm dưới áo giáp, không có người phụ nữ Ý nào lại không có bồ”?). Tình yêu ấy với nước Ý đôi khi không chỉ bắt nguồn từ âm nhạc, ngôn ngữ, bóng đá, ẩm thực và đàn bà mà có thể qua cả mafia và cuộc chiến chống mafia nữa. Ai đã sống cùng tôi những năm 1980 hẳn sẽ chẳng bao giờ quên những thước phim Bạch tuộc, những thước phim về cuộc chiến của thanh tra Cattani, về cái chết bi thảm của ông như một bản sao từ cái chết của viên tướng Dalla Chiesa ở Palermo năm 1982, báo hiệu cho những cái chết tiếp theo của các thẩm phán Falcone và Borsellino. Trên đất nước của những điều kỳ diệu của con người, thiên nhiên, của các tác phẩm nghệ thuật, của lịch sử và văn minh, có quá nhiều điều bất công, có biết bao tội ác và những điều nghịch lý. Nhưng những ai đã có nước Ý trong tim rồi sẽ chẳng bao giờ từ bỏ tình yêu ấy vì điều đó. Tôi đã luôn mơ đến việc đắm mình trong cuộc sống ở đó, đi dạo trên những quảng trường và ngắm những đài phun nước ở Roma, lái một chiếc xe du lịch dọc bờ biển gần Napoli để đến Positano và Sorrento, ra bờ biển Capri và nghe những bài dân ca bằng thổ ngữ Napoli, đọc những vần thơ của Dante và ngắm hoàng hôn trên sông Arno ở Firenze, thăm quảng trường San Marco, lướt nhè nhẹ trên dòng Kênh Lớn3 ở Venezia bằng những chiếc gondola, thăm những bức tường cổ với những nét văn hóa từ thời Hy-La, Phoenici và Byzantine ở Palermo, đi trên những cánh đồng hướng dương vàng đến tận chân trời xứ Toscana, uống rượu Chianti được làm bằng thứ nho hảo hạng nhất, dự một lễ hội Palio ở Siena và dự khán một trận derby Milano, đã nghĩ tới một ngày nắng đẹp đặt chân đến Roma, ngửa đầu nhìn bầu trời xanh Địa Trung Hải cao lồng lộng, hít một hơi của một bầu không khí mới mẻ và nói tiếng Ý với những người Ý thực thụ... Tất cả như một giấc mơ lớn cần được hoàn thành trong đời, rồi sau đó, chẳng cần biết ra sao nữa. Giờ đây, khi đã trở về sau một hành trình dài trong lòng nước Ý, sống với những người Ý cả gần gũi lẫn xa lạ, được chia sẻ tất cả những gì có thể với những người có chữ cuối ở tên thường là “a”, “o” hay “i”, tôi cảm thấy mình như một phần của họ, và bản thân họ sống trong tôi. Cuốn sách này là câu chuyện tình của tôi với nước Ý. Tôi không có tham vọng đây sẽ là cuốn sách hướng dẫn du lịch cho các độc giả muốn hiểu biết thêm về nước Ý, mà đơn giản là một tập hợp những ghi chép từ trái tim của một nhà báo đã không chỉ sống ở đó hơn ba năm, mà còn thực sự yêu đất nước ấy từ trước khi đặt chân lên đó. Nước Ý ấy hiện ra một cách lãng mạn qua những tấm ảnh tôi chụp trong những năm sống tại Ý và được chọn riêng cho cuốn sách này. Nước Ý ấy cũng hiện lên đầy sinh động, bắt đầu từ những trang viết về thủ đô Roma, nơi tôi đã sống và làm việc phần lớn thời gian, về nước Ý tôn giáo và sùng đạo với hình ảnh nhà thờ Thánh Pietro, về nước Ý của tình yêu qua những ổ khóa trên cầu Milvio và ban công nhà nàng Juliet ở Verona; qua nước Ý của La dolce vita4 với rượu vang Chianti; tới nước Ý đẹp đẽ như một thiên đường ở miền Nam. Nước Ý sẽ sống trong bóng đá một cách sinh động và thậm chí điên rồ ở phần hai và những trăn trở trong bộn bề cuộc sống ở phần cuối cuốn sách. Hãy đọc cuốn sách này với sự đam mê, và nếu có thể được, hãy đọc trong tiếng nhạc nhè nhẹ của Andrea Bocelli, Claudio Baglioni hay Francesco de Gregori. Italia Mia! TRƯƠNG ANH NGỌC Mời các bạn đón đọc Nước Ý, Câu Chuyện Tình Của Tôi của tác giả Trương Anh Ngọc.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trúng Số Độc Đắc - Vũ Trọng Phụng
Trúng số độc đắc là một biến cố, thường đem đến cho con người những thay đổi thật lạ lùng. Cái ngày trúng số như chia cuộc đời con người gặp may ra hai phần, mà bao nhiêu thứ đều trái ngược nhau đến mức bi đát. Trúng số độc đắc đã vẽ lại con đường rất biện chứng, biến một anh ký viết ra một tay cự phú, với các hoàn cảnh gia đình, xã hội vây quanh anh ta.  Thất nghiệp, Nguyễn Văn Phúc bị vợ sỉ vả đủ thứ. Bố mẹ thì nói ra, nói vào, chửa Phúc là ăn hại, đái nát, vô tích sự, gàn dở, không đáng bưng bát cơm lên mà ăn. Nhẫn nhục đi xin một chân thư ký hãng buôn thì lão chủ Tây ném đơn xuống đất...  Chưa đầy nửa tháng, nghe tin Phúc trúng số mọi thứ đều thay đổi. Gia đình thì thấy anh Phúc biến ra đại quý, còn người đời thì cung kính vô cùng. Cái số độc đắc không chỉ sinh ra hài kịch gia đình mà còn làm nổ ra những bi kịch ghê gớm. Nhân tình thế thái, thì ra cái số độc đắc là giọt rượu quý để ma lực làm cho nó đỏ hay xanh trước mắt người đời.  Viết Trúng số độc đắc, Vũ Trọng Phụng đã tập trung tất cả bút lực để theo dõi, phân tích, mô tả những thay đổi trong đời và trong lòng của chỉ một nhân vật. Ông có cái nhìn rất sáng suốt, tính nhậy cảm thật tinh tế, không những trông thấy những tình cảm được biểu lộ mà cả những ý muốn sơ phát còn tiềm tàng, những ký ức bị quên đi bỗng hiện về, những cảm giác từ lâu sống dậy.  Với cuốn tiểu thuyết, Vũ Trọng Phụng lên án thế gian và người đời nghiêm khác, thế nhưng giọng kể chuyện, tả cảnh, tả tình cứ hồn nhiên, vui vẻ và có dịp là không quên hài hước.  Đây là tác phẩm cuối đời của Vũ Trọng Phụng, tác phẩm tuyệt mệnh này thực sự là một tuyệt tác về nhiều phương diện. *** Vũ Trọng Phụng là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ 20. Đặc biệt ông nổi tiếng với những bài phóng sự và được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Những tác phẩm của ông góp phần tạo nên diện mạo văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám chịu nhiều chìm nổi. Ông sinh năm 1912, mất năm 1939, quê ở tỉnh Hưng Yên, nhưng được sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Vốn xuất thân trong một gia đình nghèo, lại mồ côi cha mẹ từ lúc mới 7 tháng tuổi, mẹ tần tảo nuôi ăn học. Năm 16 tuổi, sau khi đỗ bằng tiểu học, ông phải thôi học để đi làm kiếm sống. Sau hai tháng làm thư kí đánh máy cho hãng buôn Goddard, ông bị đuổi và thất nghiệp. Ít lâu sau, ông đánh máy chữ cho Nhà in Viễn Đông nhưng hai năm sau lại bị đuổi.Từ đó ông chuyển hẳn sang làm báo, viết văn chuyên nghiệp. Với giọng văn sắc sảo, mang đậm chất châm biếm, trào phúng và nội dung tư tưởng sâu sắc, các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều hướng tới chủ đề hiện thực, tố cáo và vạch trần xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8 – một xã hội bê bối với những tấn trò đời bi kịch. Đọc những trang văn của ông, người ta không khỏi ngậm ngùi, chua chát. ***  Trừ những ngày mưa không kể, sáng nào cũng vậy, cứ đúng chín giờ là anh Phúc đã ngồi trên một cái ghế xi măng trước nhà Kèn, trong vườn hoa Paul Beri[1]. Đã tám tháng nay nhàn cư như vậy cho nên từ người phu lục lộ quét vườn hoa cho đến mấy đứa sống cầu bơ cầu bất bằng đủ các nghề như trèo me, trèo sấu, câu cá, bắt tổ chim, có khi ăn cắp, giật khăn nữa: nói tóm lại là bọn ma cà bông vẫn lấy nhà Kèn làm khách sạn, đối với anh Phúc, đều đã trở nên ít nhiều thân thuộc. Hễ anh cứ ngồi vừa nóng ghế được năm phút, thì người phu gát đến chỗ chân anh. Mà lần nào cũng vậy, hễ anh co chân lên để tránh những hòn sỏi nhỏ do cái chổi tre hắt bắn lung tung, thì người phu cũng thản nhiên khẽ chào anh: “Cậu chơi!” để cho Phúc vui vẻ đáp: “Không dám! Ấy kìa bác…”. Độ nửa giờ sau, người phu ấy lại quay lại với Phúc, giơ cái điếu thuốc lào quấn bằng lá chuối mà bác ta vẫn gài mang tai khiến Phúc phải gập sách lại, ngừng đọc. Anh ta bèn lôi ngay ở túi áo ra bao diêm và gói thuốc lào. Bao giờ Phúc cũng để người phu hút trước, mình sau. Bao giờ người phu cũng để cho Phúc cái hân hạnh mời mình cả diêm lẫn thuốc, và sự ấy, Phúc coi là một thứ thuế đánh chỗ ngồi của chàng, không phải đóng thẳng cho Nhà nước nhưng đóng cho một người thay mặt Nhà nước vậy. Sau cuộc thù tạc nhỏ mọn ấy, Phúc lại đọc sách, người phu lại vác chổi ra đi. Còn bọn ma cà bông, giao thiệp với anh ta thì khác. Chúng gọi anh là “cậu áo trắng dài” chỉ vì cái lẽ rất dễ hiểu là xưa nay chúng không thấy Phúc vận gì khác ngoài cái áo trắng dài. Thoạt đầu, chúng cũng ngạc nhiên không hiểu sao trong đời lại có người vô công rỗi nghề đến bậc ngày nào cũng ra ngồi vườn hoa như thế, nhưng khi thấy Phúc bao giờ cũng đọc sách, chúng bèn đoán hẳn đó là một người học trò sửa soạn đi thi. Đối với bọn ấy, Phúc rất dè dặt. Có đứa đã đến ngồi cạnh chân anh ta, và sau khi hỏi chuyện mà không được đáp lời đằm thắm, đã ngồi ra nghịch những hòn cuộn dưới chân anh hàng nửa giờ mà chưa đi cho. Lại có đứa đã từng có lần moi trong một cái tay nải ra những quả me xanh hoặc sấu chín nó có thể làm cho Phúc nhớ lại cái thời học trò thơ ấu nữa, nhưng Phúc đã trả tiền, sợ ăn không thì thành ra thân mật quá, và thân mật với cái hạng hay văng tục ghê gớm, hay chửi ỏm tỏi, là rất nguy hiểm. Những khi bị bọn quỉ sứ ấy hỏi chuyện, Phúc chỉ đáp thế nào cho phải phép, cho khỏi là đáng ghét mà thôi. Tuy vậy, anh ta cũng đã nhớ tên và hiểu rõ cả tâm tính từng đứa một: thằng Bí Sến Vườn hay đánh chửi nhưng thẳng và tốt, thằng Tẹo mắt híp miệng nói leo lẻo nhưng mà gian, thằng Bôn Tây Lai có cả những tánh xấu của hai thằng kia, nghĩa là vừa hay bắt nạt vừa ăn gian, thằng Sáu Vẩu mềm nắn rắn buông, khôn ngoan đủ khoé, vân, vân… ... Mời các bạn đón đọc Trúng Số Độc Đắc của tác giả Vũ Trọng Phụng
Tình Yêu và Ước Vọng - Archibald Joseph Cronin
Tình Yêu và Ước Vọng của tác giả Archibald Joseph Cronin là câu chuyện xúc động của hai y tá-Anne và Lucy, những người đã cống hiến tất cả bản thân để phục vụ người khác. Khi sự bất cẩn của cô em Lucy gây ra cái chết thảm khốc của một bệnh nhân trẻ tuổi, Anne đã nhận trách nhiệm bảo vệ cô em gái - một hành động đe dọa hủy hoại sự nghiệp chăm sóc điều dưỡng đang rực rỡ của cô. Và rồi Anne gặp một bác sĩ phẫu thuật trẻ lý tưởng, người quan tâm đến cô; Và mặc dù một trong những truyền thống lâu đời và nổi tiếng nhất của ngành y tế là mối quan hệ giữa bác sĩ và y tá vẫn không có tính cá nhân, bác sĩ và y tá là tất cả những con người-và đôi khi truyền thống bị phá vỡ. *** Archibald Joseph Cronin (19/07/1896 – 06/01/1981) là một tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch, tác giả truyện người thật việc thật, nhà văn người Scotland. Ông là một trong những người viết truyện nổi tiếng của thế kỷ XX. Các tác phẩm nổi tiếng của ông là: The Stars Look Down, The Citadel (Thành trì), The Keys of the Kingdom và The Green Years (Những năm ảo mộng). Tất cả các tác phẩm này đều đã được dựng thành phim. Ông cũng dựng nên nhân vật Dr. Finlay, người hùng của một bộ truyện dùng cho phim nhiều tập của đài phát thanh và truyền hình BBC dưới tên Dr. Finlay's Casebook. *** TRỜI MÙA ĐÔNG GIÁ LẠNH, ĐÃ SÁU GIỜ sáng mà còn tối như nửa đêm. Khu truyền nhiễm bệnh viện Shereford im ắng, sự yên tĩnh đặc biệt của phòng bệnh. Một hơi thở yếu ớt, khò khè vang lên từ chiếc giường trẻ con, khuất sau tấm bình phong. Ngồi yên ở đầu giường của đứa bé, y tá Lee không rời mắt khỏi khuôn mặt bé nhỏ, tiều tụy. Cô đã thức canh suốt đêm và dù rất mệt nhọc, cô vẫn kiên nhẫn trông coi người bệnh nhỏ bé. Phiếu định bệnh treo ở thanh ngang trên giường ghi: "Bệnh bạch hầu" nét chữ sắc sảo. Đó là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, một ca bệnh nghiêm trọng. Đứa bé được mang tới tối qua sau một cuộc giải phẫu yết hầu thực hiện khẩn cấp. Lee đã phụ giúp bác sĩ Hassal trong suốt ca mổ, cứu sống đứa bé. Bây giờ một ống bạc nho nhỏ lấp lánh giữa lớp vải băng đã giúp đứa bé thở được. Hai ngàn đơn vị huyết thanh chống bạch hầu được bơm vào máu để chống chọi với vi trùng. Bệnh nhân nhỏ bé đã khá hơn, đang ngoi lên từ vực sâu cõi chết. Với cử chỉ nhẹ nhàng và chuẩn xác, Lee rút ống bạc khỏi cái bao nhét trong cổ họng bệnh nhân, lau chùi sạch sẽ. Vài giây sau cô nhét lại vào chỗ cũ, đứa bé thở dễ dàng hơn. Lee vặn nhỏ ngọn lửa của bếp dầu đặt sau tấm rèm, tia hơi nước thoát ra từ vòi của ấm nước bắt đầu sôi. Cô liếc nhìn đồng hồ đeo tay, chuẩn bị chích cho đứa bé. Qua mấy động tác bình tĩnh và chính xác của cô, bệnh nhân đã nhận đủ số lượng mã tiền (Strychnine) chích vào đùi. Kim đâm vào, đứa bé chỉ phản ứng bằng cái rùng mình nhẹ, khó nhận biết. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu và Ước Vọng của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Phía Sau Một Cô Gái - Ploy Ngọc Bích
Từ những bước chân dọc biển ấy, tôi bắt đầu hành trình tìm kiếm những gì ở phía sau một cô gái, từ các cô gái sống quanh tôi. Đa phần những câu truyện trong Phía sau một cô gái bắt nguồn từ chất liệu cuộc sống thật thà. Vì: Cuộc sống trong nhân dáng và tâm tính của một cô gái hiện đại tuy vất vả nhưng độc đáo. Sự dịu dàng, đằm thắm, yêu ghét khó phân minh và hay suy nghĩ chất đầy trong tâm tính. Đồng thời, cái mạnh mẽ, thông minh và tham vọng cũng chi phối nhiều mặt cuộc sống. Chính những kéo co của trái tim và khối óc trong một cô gái tự thân đã cho nhiều cái hay, lạ làm xuất phát điểm của những câu chuyện. Phía sau một cô gái, dù ngọt hay đắng, dù ghét hay thương, thì nếu quay đầu lại cũng nên dành cho quá khứ cái chớp mắt biết ơn. Vì bước ra khỏi những ngày ấy, mới có được cô gái của thời hiện tại. Phía sau một cô gái là những cái kết mở, vì truyện cũng như sống, hiếm khi kết bằng một dấu chấm tròn trĩnh, vẹn toàn. Chia tay đấy, có khi mai gặp lại. Bên nhau đấy, có khi mai rời xa. Cười và khóc, vui và buồn - cái ranh giới ấy rất mong manh... *** Giáng Sinh Về Nhà. Hayden gọi chỉ vài tiếng sau khi tôi gửi thư trả lời. Chúng tôi hẹn nhau trong một cái nhà sách. Chúng tôi tường thuật lại những sự vụ đã khiến khoảng cách giữa hai lần gặp là sáu năm. Chúng tôi cùng cười. Rồi cứ mỗi cuối tuần, rồi bất cứ khi nào rảnh … Chúng tôi cùng nhau ngắm hoàng hôn trong một quán cà phê kiểu Pháp. Chúng tôi đi xem phim. Chúng tôi cùng săm soi một chiếc bánh, cố tìm xem có sợi tóc nào dính vào hay không. Chúng tôi cùng đi shopping. Tóm lại, chúng tôi hẹn hò. Giáng sinh đến ngày một gần. — Hai đêm trước giáng sinh, tôi và Hayden tay trong tay thả bộ trên những con phố trung tâm lấp lánh đèn. Tôi tựa vào vai anh, hít nhẹ mùi nước hoa rất lạ. Những ngày chờ đợi giáng sinh thật tuyệt. Trong không gian như có tiếng tíc tắc của một quả bom hẹn giờ đang nô nức chờ nổ: Vài chục cú nhích kim đồng hồ nữa thôi thì sẽ tưng bừng một niềm hạnh phúc, một sự đẹp đẽ lớn lao. Chúng tôi cứ thế bước đi trong làn hương giáng sinh thơm phưng phức. Hết con phố này sang con phố khác. Tôi trực giác rằng Hayden muốn nói với mình một chuyện, nhưng cứ lần lữa mãi. Dường như anh đang tự nhủ hãy để yên cảm giác lãng mạn này thêm một chút, thêm một chút, rồi lại thêm một chút. Tôi bên anh, im lặng chờ đợi. Trên con phố cuối cùng của lộ trình đi bộ hôm ấy, anh siết tay tôi một cái: - Nga, ngày mai anh phải quay lại Đức. Cha anh bệnh. Ông lại đã ly dị lần nữa. Anh e giáng sinh này ông chỉ một mình. Giáng sinh một mình, anh biết nó … - Giáng sinh là để về nhà. – Tôi vẫn tựa đầu vào vai anh, nhẹ nhàng cắt lời. — Đồng hồ gần 11 giờ đêm. Trên chuyến bay Hồ Chí Minh – Berlin, Hayden một tay nâng lon coca, một tay cầm chiếc bánh bông lan lạnh. Lòng anh hồi hộp ngóng đợi. Đã mười lăm cái giáng sinh anh vắng nhà. “Giáng sinh là để về nhà” – Nga đã lặp lại câu này khi tiễn anh ở sân bay. Chất giọng trầm và lạnh của cô bỗng trở nên ấm áp như một que diêm bật sáng giữa trời đông khi nói câu này. Và nó khiến anh muốn về nhà, thật sự là muốn về nhà. Hayden nâng cao lon coca hơn một chút: “Merry Christmas, em yêu!” — Tôi áp má vào tấm kiếng cửa sổ mát lạnh, nhìn dòng người hoan hỉ ngoài phố. Em trai, em gái đã cùng bạn bè hòa vào biển người đó ngay sau buổi tiệc gia đình. Chỉ mình tôi ở nhà cùng cha mẹ. Tôi quay đầu, nhìn về phía cái tivi đang oang oang. Trên ghế sô-pha, cha mẹ đang tranh nhau bấm liên tục cái điều khiển để chuyển kênh. Cha đòi xem chương trình ca nhạc giáng sinh. Mẹ lại đòi kênh đang chiếu phim The Holiday. Người già giống như trẻ con. Tôi mỉm cười, lòng dễ chịu như trong lồng ngực đang có một que diêm sưởi ấm. Hayden không biết giờ này đang làm gì. Nhưng chắc chắn là anh, sau rất nhiều năm, đã có cho mình một giáng sinh đúng nghĩa – Giáng sinh về nhà. Bận rộn, hiểu lầm, bất hòa, dù xảy ra chuyện gì đi nữa thì giáng sinh vẫn là ngày để về nhà. ... Mời các bạn đón đọc Phía Sau Một Cô Gái của tác giả Ploy Ngọc Bích.
Những Ngày Xanh - Archibald Joseph Cronin
 Archibald Joseph Cronin sinh tại Tô Cách Lan năm 1896.  Ông học Y khoa ở đại học Glasgow.  1916, thế chiến thứ nhất ông tình nguyện gia nhập hải quân với cấp bậc Trung úy Y sĩ.    Chiến tranh kết thúc, ông trở lại tiếp tục học Y khoa.  Rồi ông tập sự bốn năm trong những khu vực hầm mỏ phía nam vùng Wales.    Thời gian này ông thu thập được rất nhiều tài liệu về đời sống cơ cực của dân lao động nghèo, nhất là đời sống của thợ thuyền trong hầm mỏ.  Sau đó, ông chuyển hẳn về Luân Đôn và mở phòng mạch tại khu vực phía Tây khá nhiều năm.  Kế đến, vì sức khỏe kém ông buộc phải ngừng làm việc để dưỡng bệnh.    Là bác sĩ, A. J. Cronin có nhiều dịp tiếp xúc với đủ hạng người, đầu óc tinh nhạy không chỉ trong lĩnh vực nghề nghiệp nên ông hiểu rõ tâm tình, cá tính, mặt tốt cũng như mặt xấu của từng người. Nhờ vậy, ông đã tích lũy được số vốn lớn, rất quý cho việc trước tác về sau, khi phải bỏ nghề y, vào năm 1930.    Văn nghiệp của ông bắt đầu… và vừa đặt bút, ông thành công ngay ở tác phẩm thứ nhất: “Lâu đài người bán nón” (1931). Những tác phẩm khác kế tiếp ra đời cũng đều được đón tiếp nồng nhiệt, không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài.    Tại Việt Nam, chúng ta được đọc khá nhiều sách ông qua các bản dịch, tiêu biểu nhất, ngoài “Lâu đài người bán nón” còn có “Thành trì”, “Gươm công lý”, “Số phận của Robert Shannon” v.v…  Ông có lối viết giản dị, chân thật, chính xác, đầy hấp lực. Từ kẻ hung bạo, vô lương, thâm độc đến người thuần phác, đôn hậu, vị tha, qua ngòi bút tinh sắc của ông họ đều như sống thật, đi lại, nói năng, hành động… Cá tính họ nổi bật rất tự nhiên, không chút gượng ép. Văn ông giàu tình tiết, hết sức lôi cuốn mà không sa đà. Ông tả hạng người thế nào thì phong cách biểu hiện đúng như thế. Điều đáng kể nhất là tác phẩm ông chan chứa lòng nhân mà không hề có giọng dạy đời, công thức.  Hiển nhiên, chúng tôi không xác quyết là văn ông hay nhất. Tuy vậy, có một điều quan trọng để người thưởng ngoạn đánh giá tác phẩm, ấy là sau khi đọc xong ta cảm thấy yêu đời hơn lên, muốn phấn đấu chớ không nản lòng, bỏ cuộc.    Với niềm tin ấy, chúng tôi gửi đến bạn đọc quyển sách nhỏ này.                                                    MINH QUÂN – MỸ LAN *** Nhiều năm kế tiếp trôi qua... Mấy cây anh đào trước nhà xum xuê hơn trước. Buổi chiều tháng 4 năm 1910, tôi rời trường, lòng vui vẻ, hãnh diện. Mặt trời hồng rực rỡ lặn sau ngọn Ben. Chiều nay tôi cảm thấy tôi chính là tôi, bởi đôi lúc tôi ngờ ngợ như mình là kẻ nào khác, vâng! Đôi lúc tôi xa lạ với chính tôi. Sáng hôm kia ở hiệu Baxter ra, tôi chợt nhìn trong tủ kính, giật mình vì hình ảnh phản chiếu cho tôi thấy một thiếu niên 15 xanh xao, gầy ốm, tay chân dài ngoằng, nét mặt u trầm, buồn bã... Tôi đã giật mình tự hỏi: mình đó sao, trời? Nhưng hôm nay thì tôi hết sức phấn khởi, sung sướng vì câu chuyện thầy Reid nói với tôi lúc tôi ra về. Số là chúng tôi sắp được nghỉ lễ Phục Sinh, trước khi tan học thầy đã giữ tôi lại (thầy còn trẻ, khoảng 30, dáng cao lớn, khỏe mạnh, một cái sẹo dài nằm vắt ngang ở môi trên và vì nó, chiếc mũi thầy hơi thấp xuống, khiến người ta thấy đôi mắt xanh thầy to hơn, lộ hơn dưới mái tóc óng ả vàng hoe. Da thầy trắng và hơi nhờn. Râu luôn luôn được cạo nhẵn, hình như ông không cần che giấu vết sẹo trên môi). Thầy ôn tồn bảo tôi: - Robert Shannon! Trò không giống như các bạn cho nên... – ông gõ gõ tay lên bàn trong khi tôi nhìn chăm chú vào ông – ta muốn đề nghị với trò một điều này... Trở về đến nhà, tôi vẫn còn bàng hoàng xúc động vì câu chuyện thầy nói với tôi. Tôi muốn được một mình nghiền ngẫm bí mật này. Song ông tôi đã chờ tôi trước cửa sổ mở rộng, bàn cờ "dame" trước mặt. Giọng nóng nảy, ông hỏi: - Sao con về trễ thế? Có gì hở? -Thưa ông, không có gì. Ít lâu nay tôi trở nên khép kín đối với ông, vả chăng ông khôngcòn là bậc anh hùng đối với tôi và bí mật quý báu này tôi không muốn chia sẻ với ông. Phải công bình mà nhận rằng ông ít thay đổi hơn tôi: vẫn còn khỏe mạnh, tuy râu ông ngả bạc và chiếc áo ghi lê càng ngày càng nhiều vết bẩn hơn. Gần đây, bạn ông, ông Peter-Dickie đã vào Viện dưỡng lão. Song về phần ông, ông rất ghét nghe ai nói đến chết chóc cũng như nhắc đến tuổi tác đè nặng người ông. Càng lúc ông càng tỏ ra yêu đời, vui vẻ nhất là trong lúc này, theo lệ thường, bà cố tôi đã đi Kilmarnoch. Ông không vui vì cảm thấy tôi không hăng say chơi cờ với mình, cái thú ông vẫn say mê: - Robert, con làm sao vậy? Y như ngồi trên lửa... Tôi nén lòng đến ngồi trước mặt ông, ông cúi đầu nhíu mày nhìn bàn cờ, chú chú chăm chăm tính nước và ông giăng bẫy tôi bằng cách đi một nước cờ với vẻ hết sức lơ đãng, tay còn gõ gõ ống điếu nữa chớ. Còn tôi, tôi đầu óc đâu mà nghĩ đến trò chơi: tôi đang bị ám ảnh về cái đề nghị tốt đẹp của thầy Reid. Trước mắt tôi tương lai rộng mở. Như tất cả các bạn đồng học, tôi hết sức lo lắng, bối rối khi sắp rời trường để chọn nghề. Tôi có tham vọng, muốn trở thành một nhân vật đặc biệt, nhưng hoàn cảnh tôi chỉ cho tôi rất ít hy vọng để trở thành mẫu người tôi ao ước. Ở trung học tôi luôn luôn nhất lớp và các giáo sư đều tiên đoán tôi sẽ tiến xa. Song chưa một vị giáo sư nào, trừ thầy Reid để ý đến tôi đặc biệt. Thầy là người chú ý đến năng khiếu tôi, đứa học trò say mê sinh vật có cái gì khác hơn là sự giải trí suông. Tóm lại, thầy có biệt nhãn đối với tôi. Tôi còn nhớ rõ... Một hôm vào mùa hè, một đôi bướm xanh loại thông thường nhất bay qua khung cửa sổ mở rộng, vào lớp. Cả lớp đều ngẩng lên, nhìn. Giọng mơ màng như là đặt câu hỏi cho chính mình chứ không phải cho bọn môn sinh, thầy Reid nói: - Tại sao chúng bay thành cặp, nhỉ? Im lặng giây lâu và rồi, tôi rụt rè đáp: - Thưa thầy, vì bây giờ là mùa chúng ghép đôi. Thầy nhìn tôi hỏi thêm: - Có phải trò nghĩ rằng bướm cũng biết yêu nhau không? - Thưa thầy, vâng! Chúng nhận ra nhau cách xa hàng dặm nhờ một mùi thơm do chúng tiết ra. - Chuyện khá lý thú đấy! – Thầy tiếp, vẻ nghi ngờ về sự hiểu biết của tôi – Này, Robert! Trả lời tôi câu nữa: làm sao chúng nhận ra mùi của nhau? - Thưa, nhờ những gai thịt ở đầu mấy sợi râu... Thấy thầy nhìn tôi, mỉm cười có vẻ tán thưởng và khuyến khích, tôi thêm: - Thưa thầy, điều này cũng chưa có gì là mới lạ, so với loại Amrial pourpre, giống này ngửi bằng cẳng kia... Bạn học tôi cười lên như phá, nhưng chúng bị thầy cắt ngang: - Im đi, lũ ngu! Ít nhất trò ấy còn khá hơn các trò. Này, Robert! – Ông tiếp tục hỏi tôi. – Trò có thể cho biết chúng có thể nhận ra nhau không, nếu không có cái mùi đặc biệt kể trên? - Thưa thầy, mắt của loài bướm lạ lắm: nó gồm khoảng ba ngàn phần tử, mỗi phần gồm có đủ giác mô, võng mô, thủy tinh thể, nhưng dù chúng có tài phân biệt màu sắc, chúng chỉ có thể thấy rất gần, không quá một thước hai. Khi tôi dứt lời, nét mặt thầy rạng rỡ hẳn lên song thầy không hỏi tiếp gì nữa. Cuối giờ học, trong khi sắp hàng, thầy mỉm cười với tôi. (Ôi chao! Làm sao quên được cái cười thân mật đó!). Kể từ ấy, không những khuyến khích tôi tiếp tục học thêm về Sinh vật học, thầy còn dạy tôi Vật lý, trình độ cao hơn các bạn tôi. Vài tháng kế đó, thầy dắt tôi vào phòng thí nghiệm, hướng dẫn tôi thêm. Nhờ vậy, tôi thường rất cô đơn, trở nên mến phục thầy rất mau và những lời thầy dạy trong lớp, tôi xem ngang như Kinh Thánh. Gavin đã theo lời cha vào trường nội trú Larchfield năm ngoái. Điều này làm tôi đau đớn không ít. Đó là một trường Trung học trưởng giả nổi tiếng, học phí rất đắt, khó có con nhà trung lưu nào học nổi. Tôi chỉ còn một điều an ủi là: tuy Gavin được cảm tình của nhiều bạn mới, nó vẫn quý mến nhất có mình tôi không thay đổi. Mỗi trưa hè, mượn xe đạp thầy Reid, tôi vượt 15 dặm đến để xem bạn tranh giải cho trường. Thoạt thấy tôi, tức thì Gavin bỏ hết đám bạn vây quanh, can đảm chạy lại với tôi. Tôi, kẻ phá đám, khép nép đứng chờ bạn ở một góc sân thể thao, cái sân sang trọng, Gavin, áo thun sọc, quần nỉ mềm trắng, buông mình xuống cỏ cạnh tôi, bứt cọng cỏ đưa lên miệng, hỏi: - Sao? Ở Lenvenford có gì lạ không? Và nhìn sâu vào mắt nhau, chúng tôi biết rằng không gì chia rẽ được chúng tôi, trừ cái chết, nhưng chúng tôi còn trẻ quá, lo gì? Song dù tình bạn chúng tôi khăng khít, mãnh liệt, dù suốt ngày nghỉ nào cũng có mặt bên nhau, chúng tôi vẫn cam chịu xa nhau hàng tháng dài vì bận học. Phần tôi, đáng lẽ thay vì bằng lòng với một thằng bạn kém hơn Gavin đôi chút, tôi thà cô độc thui thủi một mình. Một mình, tôi rong ruổi khắp các vùng quanh tỉnh, tôi quen thuộc từng tổ chim, từng phiến đá, từng lối mòn trên các ngọn đồi Winton. Cho đến nỗi mấy bác gác rừng quen mặt và cho phép tôi tự do đi lại, đó là một đặc ân hiếm có. Bộ sưu tập của tôi tăng dần. Tôi có cả những loại sâu bọ hiếm nhất, như con chuồn chuồn đặc biệt thuộc loại Pantala flavescens, theo tôi biết thì chưa bao giờ được thấy ở Tô Cách Lan này, trước đây. Nhờ tìm tòi thám hiểm, tôi không hề ao ước "nghỉ hè trên bãi bể" như các bạn. Trí tưởng tượng mang tôi ra xa hơn mấy bờ bể nhỏ. Đồng hoang đối với tôi trở thành rừng hoang vu, nơi tôi mạo hiểm xông pha với nhiều thận trọng. Nhưng thưa các bạn, đừng ngỡ là ngoài giờ học tôi được tự do theo đuổi đàn bướm suốt ngày đâu. Ba tôi luôn luôn trông coi cho giờ rảnh rỗi của tôi trở thành hữu ích. Từ lúc ông cho là tôi đã đến tuổi có thể làm việc được, ông kiếm việc cho tôi ngay. Hiện nay, sáng sáng tôi phải đến lò bánh mì Baxter, lấy xe ba bánh đạp đi giao bánh nóng cho thành phố đang còn ngái ngủ. Số tiền kiếm được, ba tôi cất hết, viện lý do chính đáng: để trang trải một phần phí tổn nuôi tôi. Ông không ngừng thúc bách mẹ tôi giảm chi, dù bà đã giảm chi đến mức tối đa. Thời gian gần đây, ba tôi đích thân thanh toán mọi chi phí trong tháng, ông luôn luôn đòi bớt, bớt, bớt cho đến nỗi người bán phát khùng lên; mua bất cứ vật gì ông cũng cò kè lâu lắc. Mỗi khi nghe bán đấu giá, bán xôn một vật gì xem ra có ích (theo ý ông) ông liền quyết định đi mua. Nhưng tính hà tiện của ông thường thắng: trở về với hai tay không, ông vui vẻ reo lên rằng tiền vẫn còn nguyên! Một tiếng kêu thích thú làm tôi chợt tỉnh, tiếng kêu của ông tôi. Đầu óc bay bổng đâu đâu nên tôi đã thua nốt hai con cờ chót. Ông tôi cười hả hê: - Ta thắng được con rồi, thấy chưa? Thắng cậu học trò thông minh nhất tỉnh đâu phải chuyện chơi? Tôi vội vàng rời ông ngay, chỉ nơm nớp sợ ông giữ lại bày ván nữa. ... Mời các bạn đón đọc Những Ngày Xanh của tác giả Archibald Joseph Cronin.