Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tử Tế Đáng Giá Bao Nhiêu?

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Tử Tế Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Bernadette Russell & Thanh Thảo (dịch) Trước hết, tôi muốn kể về lý do khiến tôi viết quyển sách này. Tháng Tám năm 2011, tôi mang vở hài kịch Etherdome của mình đến dự Lễ hội Nghệ thuật Edinburgh. Vở kịch Etherdome xoay quanh sự phát triển của ngành gây mê ở Mỹ trong thế kỷ 19. (Tôi biết, nghe chẳng có vẻ gì là hài hước cả. Nhưng tin tôi đi, vở kịch ấy hài thật đấy.) Vào sáng ngày thứ bảy của lễ hội, tôi đến quán City Café trên phố Blair để ăn sáng và trò chuyện với mấy người bạn về kế hoạch trong ngày. Lúc đó chiếc ti-vi đằng sau chúng tôi đang phát chương trình thời sự. Đập vào mắt chúng tôi là những hình ảnh vô cùng gây sốc. Thủ đô Luân Đôn đang chìm trong hỗn loạn: một chiếc xe buýt hai tầng đang bốc cháy, hàng trăm người đạp vỡ kính cửa sổ của các cửa hàng và xông vào cướp bóc, cảnh sát chống bạo động có mặt tại hiện trường, mảnh kính vỡ vương vãi khắp nơi, nhiều nhóm người tràn xuống đường, vừa đi vừa đập phá mọi thứ trên đường và phóng hỏa đốt nhà. Bạo động lan rộng từ Tottenham đến Brixton, Peckham và những nơi thân thuộc, yêu quý đối với tôi, những nơi bạn bè tôi đang sinh sống. Sau đó, cuộc bạo động còn lan sang cả Birmingham, Manchester và Bristol, khiến người dân ở đó hoặc là sợ hãi khóa chặt cửa trốn trong nhà, hoặc tức giận đổ xuống đường. Cuộc bạo động kéo dài năm ngày. Chúng tôi không sao rời mắt khỏi màn hình ti-vi. Chúng tôi đã khóc vì quá đỗi kinh ngạc khi chứng kiến những gì đang diễn ra. Chúng tôi đã bàn xem nên làm gì, có thể làm gì và vì sao chuyện này lại xảy ra. Chúng tôi gọi điện về nhà để hỏi thăm người thân, bạn bè và những người chúng tôi quan tâm. Trong khi đó, Mark Duggan, người thanh niên bị giết ở Tottenham, người mà cái chết của anh đã châm ngòi cho cuộc bạo động này, gần như bị quên lãng khi các phóng viên tường thuật bản tin chuyển sang lý giải về những vụ việc này. Mọi việc sau đó còn diễn biến theo chiều hướng đáng sợ hơn. Một đám đông hoảng loạn yêu cầu nhà chức trách sử dụng vòi rồng để đàn áp cuộc bạo động. Một số nhà báo đề nghị những kẻ bạo động nên bị đập bằng dùi cui, những bình luận mang tính phân biệt chủng tộc tràn lan trên các chương trình phỏng vấn, hầu hết đều chĩa mũi dùi vào giới trẻ và người nghèo. Tuy nhiên, vẫn có những tia sáng lóe lên trong tình cảnh tăm tối ấy. Monika Konczyk, một cư dân mới chuyển tới Luân Đôn, người đang vô cùng sợ hãi vì bị mắc kẹt trên sân thượng của một tòa nhà đang cháy, đã nhảy xuống và được những người dưới đất đỡ an toàn. Mọi người đã chung tay gây quỹ cho Maurice Reeves ở Croydon để giúp anh gầy dựng lại việc kinh doanh sau khi cửa hiệu đồ nội thất của gia đình anh bị nhóm người bạo loạn phá hủy. Tại quận Peckham gần đó, người dân địa phương dán hàng ngàn mẩu giấy nhỏ lên tường để kêu gọi hòa bình, thể hiện tình yêu dành cho cộng đồng mình đang sống cũng như yêu cầu chấm dứt sự tàn phá đang diễn ra. Trên Twitter, Dan Thompson khởi xướng chiến dịch #riotcleanup kêu gọi mọi người góp sức dọn dẹp những đống đổ nát do cuộc bạo động gây ra. Kết quả là hàng trăm người đã mang theo chổi và túi đựng rác để tham gia chiến dịch. Chúng tôi cũng đã chứng kiến những hành động đẹp ấy. Tôi rời Edinburgh để trở về Luân Đôn, tự hỏi không biết điều gì đang chờ đợi mình ở đó. Mọi thứ trông thì vẫn vậy, nhưng tất cả không còn được như trước nữa. Tôi đến thăm ông Patel, ông chủ cửa hàng cạnh nhà tôi. Ông kể cửa hàng của em họ ông ở Croydon đã bị phá hủy. Tôi buồn cho ông và những người khác. Tôi cứ nghĩ mãi về sự hỗn loạn đang diễn ra trên thế giới này, từ vấn đề môi trường đến chiến tranh, xung đột, nạn đói, những loài động vật đang có nguy cơ tuyệt chủng, v.v. Tôi băn khoăn không biết trong khi thế giới còn quá nhiều nỗi bất an thế kia, thì tôi viết các vở kịch về mấy nha sĩ thời Nữ hoàng Victoria để làm gì? Tôi tự hỏi mình có thể làm gì khi đối diện với những việc này. Nhưng ngày hôm đó, câu trả lời của tôi là “Mình chẳng làm được gì cả” . Thật sự tôi không thể làm được gì để tạo nên sự khác biệt cho thế giới. Ai chỉ cần thử làm điều đó thôi cũng sẽ chẳng khác nào kẻ ngốc. Ngày hôm sau, ngày 18 tháng Tám năm 2011, tôi đứng xếp hàng tại bưu điện địa phương, và đứng trước tôi là một chàng trai trẻ. Anh bước đến quầy tính tiền, và tôi vô tình nghe anh nói anh muốn gửi hồ sơ xin cấp bằng lái xe nhưng lại để quên tiền ở nhà. Bỗng nhiên lúc đó tôi nói không một chút do dự, “Để tôi trả tiền cho cậu. Giá một con tem cũng rẻ thôi, không thành vấn đề đâu”. Chàng trai rối rít cảm ơn tôi trước khi rời đi. Tôi suy nghĩ về việc vừa xảy ra. Có lẽ tôi đã làm chàng trai ấy phấn chấn lên một chút, và thật ra tôi cũng vui, vì tôi đã tạo được sự khác biệt nho nhỏ cho cuộc sống của người khác. Về đến nhà, tôi tâm sự với chồng, “Em biết mình phải làm gì rồi”. “Về chuyện gì vậy em?” “Về mọi chuyện.” “Ồ…” “Mỗi ngày em sẽ làm một việc tốt cho một người lạ. Em sẽ duy trì điều đó trong vòng 366 ngày (trừ hao cho năm nhuận), để xem sự tử tế có thể thay đổi thế giới này không nhé.” Mọi chuyện đã bắt đầu như vậy đó. Kết quả là “kẻ ngốc” này đã trải qua một năm đầy cảm hứng, tràn ngập niềm vui, đong đầy sức sống, tuy cũng có những lúc hồi hộp và căng thẳng, nhưng nhìn chung, đó là một năm đáng sống nhất đời tôi. Không hề quá lời khi nói một năm ấy đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời tôi. Trong suốt một năm đó, tôi đã học được rất nhiều bài học giá trị mà tôi sắp chia sẻ với bạn trong quyển sách này. Nhưng trước khi chúng ta bắt đầu, tôi xin nói một cách ngắn gọn rằng bạn hãy tin tôi, việc tận dụng cơ hội mỗi ngày để đối xử tử tế với bản thân, với những người xa lạ, với người bạn yêu thương và với cả thế giới sẽ làm bạn cảm thấy hạnh phúc và gắn kết với mọi người, mọi sự hơn bao giờ hết. Sống tử tế còn mang đến cho bạn cảm giác an yên, thoải mái và cả bánh ngọt nữa (bật mí với bạn là tôi từng được nhận nhiều bánh ngọt lắm đấy). Thời đại nào cũng cần sự tử tế. Nhưng tôi tin rằng ngay lúc này đây, sự tử tế quan trọng hơn bao giờ hết. Chúng ta luôn cần sự tử tế. Nhưng tôi tin rằng ngay lúc này, khi chúng ta tuy kết nối chặt chẽ với nhau, nhưng lại xa cách nhau hơn bao giờ hết, khi xung quanh ta tràn ngập những hình ảnh và thông tin tiêu cực về con người, khi chúng ta đang rất cần lắng nghe nhau để tìm cách dàn xếp các mâu thuẫn, khi tất cả chúng ta đều muốn kết thúc chiến tranh và ngừng hủy hoại trái đất - ngôi nhà chung của chúng ta, khi chúng ta cần xây dựng tương lai tươi sáng hơn và tin vào bản thân cũng như người khác, thì sự tử tế còn quan trọng hơn bao giờ hết. Bạn có thể đọc quyển sách này tuần tự từ đầu đến cuối, hoặc ưu tiên đọc trước những chương bạn quan tâm. Đừng quên chia sẻ với tôi những gì bạn đã làm và khám phá được sau khi đọc quyển sách này. Bạn có thể nhắn tin cho tôi trên Twitter qua địa chỉ @betterrussel, hoặc gắn hashtag #bekind vào bài viết của mình. Nhưng trước khi đi vào nội dung chính của quyển sách, tôi xin nêu một số ví dụ về cách sự tử tế có thể khiến cuộc sống của bạn trở nên tốt đẹp hơn. Sống tử tế làm bạn hạnh phúc Nói một cách đơn giản, khi bạn làm một việc tử tế, nồng độ dopamine trong não bạn sẽ tăng lên, tạo cho bạn một cảm giác hưng phấn tự nhiên. Người ta gọi đó là “cảm giác ấm áp trong lòng”. Bạn có thể tự thử nghiệm điều này và để ý xem làm việc tốt khiến bạn cảm thấy thế nào. Bạn cảm thấy vui, một phần vì bạn có thể tự nhủ, “Mình đã làm được một việc tốt. Mình là một người tốt bụng” và cảm thấy tự hào về bản thân. Bạn sẽ thấy bản thân mình và người khác tốt đẹp hơn, vì bạn bắt đầu để ý xung quanh mình có rất nhiều điều tử tế. Bạn sẽ suy nghĩ tích cực hơn về con người nói chung, và bạn sẽ thấy như mình được tiếp thêm sức mạnh. Cuộc sống của bạn sẽ trở nên thú vị và vui tươi hơn. Sống tử tế có lợi cho trái tim của bạn Sự thật là vậy đấy. Sống tử tế góp phần tạo ra hoóc-môn oxytocin trong não và khắp cơ thể. Oxytocin giải phóng oxit nitric trong mạch máu, từ đó mở rộng các mạch máu, giảm huyết áp và bảo vệ trái tim của bạn. Sống tử tế giúp bạn luôn tươi trẻ Nghiên cứu cho thấy lượng oxytocin được sản sinh bởi cảm giác ấm áp khi chúng ta làm điều tử tế sẽ làm giảm mức độ các gốc tự do cũng như sự viêm nhiễm ảnh hưởng đến hệ tim mạch. Đây là hai thủ phạm chính đẩy nhanh quá trình lão hóa. Vì vậy, người tử tế thường rất tươi trẻ, cả về tâm hồn lẫn ngoại hình. Sự tử tế cần thiết cho tất cả mọi người Khi đối xử tốt với ai đó, bạn cảm thấy mình được kết nối với họ, giữa bạn và họ hình thành một mối quan hệ gắn bó. Tổ tiên của chúng ta đã học cách hợp tác với nhau để sống sót, và một nhóm người có mối quan hệ bền chặt có cơ hội sống sót cao hơn. Đó là chân lý tồn tại hàng ngàn năm nay. Con người chúng ta vốn đã tử tế từ trong gien rồi. Sự tử tế có thể lan tỏa đến người khác Khi sống tử tế, chúng ta truyền cảm hứng cho người khác làm điều tương tự. Trải nghiệm của tôi chính là minh chứng cho điều này. Từ khi tôi bắt đầu dự án này cho đến nay, ngày nào cũng có người liên hệ với tôi và kể cho tôi nghe về một điều tử tế họ đã làm hoặc nhận được. Vì vậy, hãy sống tử tế, chia sẻ câu chuyện của bạn và quan sát xem bạn đã khơi nguồn cảm hứng ở người khác như thế nào. Hãy bắt đầu làm điều tử tế ngay bây giờ. Chúc bạn nhiều niềm vui. Bernadette Russell *** Tóm tắt Cuốn sách "Tử tế đáng giá bao nhiêu?" của tác giả Bernadette Russell là một câu chuyện kể về hành trình thực hiện 365 ngày làm việc tử tế cho người lạ của tác giả. Từ trải nghiệm của bản thân, tác giả đã rút ra nhiều bài học quý giá về sự tử tế, và chia sẻ những điều đó với người đọc. Review Cuốn sách được viết với giọng văn nhẹ nhàng, dễ hiểu, giàu cảm xúc. Tác giả sử dụng nhiều câu chuyện và ví dụ thực tế để minh họa cho những luận điểm của mình. Nội dung cuốn sách được chia thành 10 chương, mỗi chương sẽ đề cập đến một khía cạnh khác nhau của sự tử tế. Trong chương đầu tiên, tác giả giới thiệu khái niệm về sự tử tế và giải thích tầm quan trọng của nó trong cuộc sống. Các chương tiếp theo sẽ đi sâu vào phân tích những lợi ích của sự tử tế đối với bản thân, đối với cộng đồng và đối với thế giới. Tác giả cũng chia sẻ những cách thức cụ thể để thực hiện sự tử tế trong cuộc sống hàng ngày. Những nội dung chính của cuốn sách bao gồm: Sự tử tế là một hành động đơn giản nhưng có sức mạnh to lớn. Nó có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta, của người khác và của cả thế giới. Sống tử tế mang lại nhiều lợi ích cho bản thân, bao gồm: hạnh phúc, sức khỏe, sự tươi trẻ, và các mối quan hệ tốt đẹp. Sự tử tế cần thiết cho tất cả mọi người, bởi nó giúp chúng ta kết nối với nhau và tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn. Sự tử tế có thể lan tỏa đến người khác, truyền cảm hứng cho họ làm điều tương tự. Đánh giá chung Cuốn sách "Tử tế đáng giá bao nhiêu?" là một cuốn sách hay và bổ ích, đặc biệt là đối với những người đang tìm kiếm cách để sống một cuộc sống hạnh phúc và ý nghĩa hơn. Cuốn sách sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về sự tử tế, và truyền cảm hứng cho bạn bắt đầu thực hiện những hành động tử tế trong cuộc sống hàng ngày. Mời các bạn mượn đọc sách Tử Tế Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Bernadette Russell & Thanh Thảo (dịch)

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mạnh Tử - Tinh Hoa Trí Tuệ Qua Danh Ngôn - Giang Bội Trân
Trình Y Xuyên, một nhà Nho đời Tống, nói: “Kẻ đi học nên lấy hai quyển sách Luận ngữ và Mạnh Tử làm cốt. Đã học được hai bộ sách này rồi thì không cần học Ngũ Kinh cũng rõ thông được cái đạo của thánh hiền”. Kế thừa rất nhiều tư tưởng của Khổng Tử, đồng thời có những kiến giải rất riêng của chính mình, Mạnh Tử và các học trò đã biên soạn cuốn sách Mạnh Tử nhằm mục đích giáo dục cũng như giúp người đời sau hiểu rõ tư tưởng chủ yếu của ông. Quan niệm của Mạnh Tử về giáo dục, truyền thống hiếu học, con đường tự tu dưỡng, trí tuệ của con người, quan hệ giao tế và cách đối nhân xử thế… đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Sách Mạnh Tử - tinh hoa trí tuệ qua danh ngôn chắt lọc những lời dạy khôn ngoan của Mạnh Tử trong cuốn sách trên, khai mở cho người đọc nhiều tư tưởng tiến bộ cũng như nhiều điều bổ ích để chúng ta biết cách đối nhân xử thế trong thời đại ngày nay. Mời các bạn đón đọc Mạnh Tử - Tinh Hoa Trí Tuệ Qua Danh Ngôn của tác giả Giang Bội Trân.
Tuổi Già Tập 2 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 2 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuyệt Mật Trong Buồng Lái - Patrick Smith
Hơn bao giờ hết, đi máy bay là tâm điểm của sự tò mò, thích thú, lo lắng, và tức giận. Trong các chương sau đây, tôi sẽ cố gắng hết sức để đưa ra câu trả lời cho những ai tò mò, làm yên lòng những ai lo lắng, và những sự thật không ngờ dành cho những ai bị đánh lừa. Có lẽ các bạn khi cầm trên tay cuốn sách này đều nhận biết rõ đây là một tác phẩm kiến thức phổ thông, bình thường như mọi cuốn sách giáo khoa hay cẩm nang khoa học thường thức. Nhưng tôi tin là cuốn sách này phi thường hơn thế. Để làm được điều vĩ đại trên, cần nhiều hơn những năm miệt mài thực tập căng thẳng trong buồng lái và những chuyến bay thực nghiệm nguy hiểm, nhiều hơn những tố chất cần có của một phi công, nhiều hơn cả một cái đầu lạnh và một trái tim gan dạ, và thật nhiều hơn những may mắn không tên. Không thể hiểu rõ được những điều trên nếu ta chưa từng đọc qua cuốn sách này. *** “Tuyệt mật trong buồng lái là tài liệu nên nằm trong túi lưới đằng sau mỗi ghế ngồi.” —David Pogue, thông tín viên tờ The New York Times và tổng biên tập chương trình PBS “Là một cây viết xuất sắc, Patrick Smith mang đến một chuyến du lịch đầy tiếng cười trong một ngành vốn bị hiểu lầm—một chuyến đi vào thế giới hàng không, chẳng hề có những thuật ngữ rắc rối mà đầy ắp sự hài hước và hiểu biết sâu sắc.” —Christine Negroni, nhà văn chuyên viết về hàng không và tác giả của cuốn sách Flying Lessons “Đặc sắc và cung cấp kiến thức tuyệt vời. Một thành tựu cao xa, một cuốn sách không thể thiếu được dành cho bất kỳ ai di chuyển bằng đường hàng không, nghĩa là tất cả mọi người. —James Kaplan “Patrick Smith cực kỳ thông hiểu về ngành hàng không hiện đại và truyền tải thông tin xuất sắc bằng tiếng Anh, chứ không bằng tiếng phi công. Smith là người bạn cùng buồng lái, bạn đồng hành, cây viết, và người giải thích lý tưởng.” —Alex Beam, Boston Globe “Thật vui thích làm sao khi được đọc những lời giải thích và bình luận tao nhã đến ngạc nhiên của Patrick Smith. Thế giới cần có một người viết thật đơn giản và hợp lý kiểu E. B. White về chủ đề mà tất cả mọi người đều thắc mắc.” —Berke Breathed “Thực tế một cách xuất sắc và thật khiến người ta vững tâm.” —Cath Urquhart, The Times (London) “Giá mà tôi có thể gấp gọn Patrick Smith rồi cất anh ta vào vali của mình. Dường như anh ta biết mọi điều đáng để biết về ngành hàng không.” —Stephen J. Dubner, đồng tác giả cuốn Kinh tế học hài hước “Sắc sảo và sâu sắc.” —Joe Sharkey, The New York Times “Tuyệt vời.” —Rudy Maxa, the Savvy Traveler “Ask the Pilot thực sự khiến cho việc đi máy bay trở nên vui vẻ. Patrict Smith làm sáng tỏ được trải nghiệm này và nhắc chúng ta nhớ đến sự kỳ diệu của hàng không. Anh cũng có óc hài hước tuyệt vời—đây là điều rất quan trọng khi mà bạn bị nhồi nhét vào ghế 14D trên một chiếc máy bay tầm khu vực.” —Chris Bohjalian, tác giả cuốn sách The Night Strangers và Midwives Mời các bạn đón đọc Tuyệt Mật Trong Buồng Lái của tác giả Patrick Smith.