Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thiên Đường Tiền Xu Tập 1

Bánh kẹo ở Thiên đường tiền xu ẩn chứa một sức hút vô cùng kỳ lạ, chẳng ai cưỡng lại được! Nào Kẹo dẻo người cá, Bánh quy mãnh thú, Kem ma ám, Cần câu bánh cá nướng…, thứ nào cũng lấp lánh mời gọi. Để rồi, khách cứ thế bước vào tiệm, vui vẻ trao cho bà chủ Beniko một đồng xu và nhận lại món bánh kẹo nào đó mà họ ngỡ như chính định mệnh của đời mình. Nhưng họ chẳng hề hay biết, rằng chính những món đồ ngọt nhỏ bé đó sẽ dẫn họ bước vào một con đường, nơi ranh giới giữa hạnh phúc và bất hạnh thì vô cùng mong manh… *** Mayumi rầu ơi là rầu, chả là từ ngày mai cô bé sẽ phải học bơi trong giờ thể dục. Bơi trong bể bơi. Mới nghĩ thế thôi Mayumi đã toát mồ hôi lạnh, dù trời thì đang nóng hầm hập. Mayumi nào có biết bơi đâu. Cô bé còn sợ nước muốn chết ấy chứ. Mỗi lần phải xuống nước là y như rằng Mayumi lại cuống cả lên. Mayumi sẽ bị nước lạnh nuốt chửng lấy, sẽ chìm như đá, không nổi lên được. Ngộ nhớ chết đuối luôn thì làm sao! Những suy nghĩ ấy sẽ ào ào kéo tới và Mayumi sẽ quẫy đạp loạn xạ. Rồi sau khi đã uống no cả bụng nước thầy giáo mới cứu cô bé lên. Từ ngày mai Mayumi sẽ lại phải chưng cái bộ dạng đáng xấu hổ đó ra cho bạn bè chê cười. Ôi, ghét quá đi. Hay nhờ mẹ viết thư gửi cho thầy giáo, nói là mình không được khỏe nên xin miễn vụ tập bơi kia nhỉ. Nhưng chắc chắn mẹ sẽ quạt lại ngay: “Con nói linh tinh gì thế hả? Năm nay cố mà bơi được đi chứ!” Mayumi mà bơi được thì đã tốt. Hoặc chỉ cần hết bệnh sợ nước thôi cũng được. Miễn không bị hoảng lên thế kia, kiểu gì Mayumi cũng sẽ bơi được, vậy mà... Mayumi chậm chạp bước đi trên con đường trở về nhà, đầu mông lung suy nghĩ. Bỗng dưng thấy như có ai gọi mình, Mayumi bèn ngẩng mặt lên. Lúc này cô bé đang đi qua con phố mua sắm nằm ở đoạn giữa trường học và nhà. Đường này gần, mà Mayumi lại thích náo nhiệt nên toàn chọn đi lối này thôi. Gì chứ mấy cửa tiệm ở đây cô bé nằm lòng cả rồi. Thế nhưng hôm đó, Mayumi lại bắt gặp một cửa tiệm cô bé chưa thấy bao giờ. Ở tận sâu trong cùng con ngõ nhỏ nằm giữa tiệm bánh khoai tây chiên giòn và tiệm đồ khô có một tiệm bánh kẹo. Cửa tiệm ấy dính lấy bức tường của con hẻm hệt như muốn giấu mình khỏi khu phố. Vậy nhưng trước của tiệm lại bày la liệt những viên kẹo đủ sắc màu. Mayumi nghiêng đầu thắc mắc. Có cả tiệm bánh kẹo ở chỗ đó sao? Con đường này cô bé đã đi qua cả trăm lần nhưng chưa hề thấy nó bao giờ. Ngay sáng nay thôi cô bé cũng chẳng hề thấy. Có khi hôm nay mới mở cửa cũng nên. Cô bé nghĩ bụng. Nhưng cửa tiệm nhìn khá cũ, như thể đã buôn bán từ lâu lắm rồi. Thấy là lạ, Mayumi bước vào con ngõ nhỏ định bụng sẽ ghé thử xem sao. Những ồn ào của con phố ngoài kia biến mất dần sau mỗi bước chân. Thay vào đó sự tĩnh mịch bao trùm lấy Mayumi. Vậy nhưng Mayumi không hề cảm thấy kỳ lạ. Trong đầu cô bé khi ấy chỉ toàn hình ảnh tiệm bánh kẹo trước mặt kia thôi. Những tiệm bánh kẹo đúng là luôn có một sức hút thật kỳ lạ. Nào thạch, kẹo dẻo xanh đỏ trông đến là độc hại lèn cứng trong những chiếc hũ, nào những chiếc bánh gạo đơn điệu, tảo bẹ khô vị muối, hay những chiếc bánh bột đường đen sì sì nằm lộn xộn. Nhưng hàng hóa ở tiệm bánh kẹo Thiên đường tiền xu mà Mayumi bắt gặp lại không giống thế. Nói sao nhỉ. Trông chúng giống y những viên kẹo bình thường nhưng lại có gì đó rất khác. Chúng ẩn giấu một năng lực đặc biệt, không giống kẹo ở những nơi khác. Từng chiếc từng chiếc đều toát lên cái vẻ đó. Đến cả chiếc kẹo cao su bé tí cũng thấy đặc biệt. Nhìn kỹ đến cả tên bọn chúng cũng kỳ cục. Nào là Kẹo mắt mèo, Kẹo sủi chanh hình xương - mê tới tận xương tủy, Caramen lương thảo, Cốc-tai hoa quả bóng đêm, Kẹo gôm yêu quái, Sô cô la đồng tiền, Bánh giầy mèo may mắn, Kẹo mạch nha cầu vồng, Thạch ma run rẩy, Bánh xốp que con nít, Kẹo mai rùa, Hộp du ngoạn, Bánh bao trứng chim nhạn, Bánh gạo dơi, v.v. Bao nhiêu là thứ kẹo lạ lẫm tranh nhau lọt vào mắt, Mayumi phấn khích tột độ. Ôi, cái gì đây, hay thế! Bim bim hên xui, Bánh mì oán hận! Sô cô la cuộn mì vị xã hội đen là cái gì! Người Ả Rập vị gạo Scheherazade ! Oa, cái này là sao! Mayumi đang say sưa ngắm nhìn thì bỗng nhiên, một người phụ nữ bước ra từ trong bóng tối góc sâu cửa tiệm. Người phụ nữ vận chiếc kimono màu đỏ tía in hoa văn tiền xu cổ, tạng người đẫy đà, khí thế như lực sĩ sumo. Búi tóc to tướng trên đầu đã bạc trắng. Thế nhưng đó không phải một bà lão. Khuôn mặt người phụ nữ không có lấy một nếp nhăn, môi thì tô son đỏ chót, lại cài vô số những chiếc trạm đính cườm rực rỡ, trông vô cùng bóng bẩy. Cơ mà người này cũng không còn trẻ. Gọi là cô chắc được, Mayumi quyết định. Người phụ nữ mỉm cười tiến tới cất tiếng gọi. Giọng nói quyến rũ nhưng lại khiến người nghe thấy gai gai lạnh. “Xin chào. Đây là tiệm Thiên đường tiền xu. Chỉ những người đang tìm kiếm vận may vô cùng may mắn mới có thể bắt gặp tiệm ta. Beniko ta nhất định sẽ mang may mắn tới cho quý khách hoặc giúp ước nguyện của quý khách thành hiện thực.” Người ấy nói bằng giọng du dương như hát. Chắc hẳn Beniko là tên người này và cô ta cũng là chủ nhân ở đây. Cơ mà cô này nói chuyện kỳ quá. Vận may là sao? Beniko chăm chú nhìn Mayumi đang bối rối. “Thế quý khách mong ước gì nào? Hay quý khách muốn hóa giải nỗi ưu phiền gì đó chăng?” Người phụ nữ không hề mời Mayumi mua kẹo. Lạ hơn nữa là những lời ấy lại đi thẳng vào tâm can Mayumi. Cô bé thật thà đáp lại người phụ nữ. “Cháu muốn biết bơi.” Beniko mỉm cười. “Ồ, nếu vậy có một loại kẹo phù hợp đấy. Chờ ta chút.” Rồi từ trên giá xếp đầy những hũ kẹo, bà chủ tiệm lấy xuống một cái hộp cỡ hộp bút đưa cho Mayumi xem. Trên đó đề dòng chữ “Kẹo dẻo người cá”, mặt trên của hộp còn vẽ hình những người cá dễ thương đang bơi. Vừa nhìn thấy nó, Mayumi liền choáng váng như bị sét đánh. Mắt cô bé không thể rời khỏi chiếc hộp ấy. Mình muốn cái này. Cái này là của mình. Nhất định mình phải có nó. “Cái này bao nhiêu thế ạ?” “Mười yên. Quý khách có đồng mười yên không?” Mayumi chẳng hề để ý tới ánh mắt lấp lánh đáng ngờ của Beniko. Cô bé vội vàng mở cặp lấy hộp bút ra. Vì Mayumi không có điện thoại di động nên lúc nào cũng để sẵn tiền xu lẻ trong hộp bút phòng khi cấp bách cần gọi điện. Đây rồi! Mười yên! Beniko nhận đồng mười yên, chăm chú ngắm nghía rồi gật đầu hài lòng. “Đồng mười yên của năm Chiêu Hòa thứ bốn mươi hai. Đúng nó rồi. Cảm ơn quý khách. Hộp kẹo này giờ là của quý khách.” Mayumi ôm chặt lấy chiếc hộp. Niềm vui sướng khi có được thứ mình muốn làm Mayumi mụ cả đầu. Giọng Beniko ma mị vang vọng trong đầu Mayumi. “Nhớ đọc kỹ tờ giấy bên trong nhé. Tuyệt đối không được quên đâu đấy!” “Vâng.” Mayumi gật gật trong khi vẫn còn nửa tỉnh nửa mơ. Đến khi nhận ra thì cô bé đã về đến nhà. Mayumi còn nghĩ hay là mình vừa mơ? Nhưng tay cô bé vẫn đang cầm chặt hộp Kẹo dẻo người cá đây mà. Không phải mơ! Cô bé mở ngay chiếc hộp ra. Bên trong có một gói bột nho nhỏ và một khay nhựa hơi dày. Trên khay là những khuôn in chìm đúng hình người cá. Ngoài ra còn có một tờ giấy gấp gọn gàng. Mayumi mở ra thì thấy bên trong ghi cách làm kẹo dẻo người cá. Cách làm kẹo dẻo người cá: Hòa bột kẹo với 40cc nước, sau đó đổ vào khuôn. Để một giờ cho kẹo cứng lại rồi gỡ ra ăn. Đằng sau còn một đống chữ nữa nhưng Mayumi quyết định bỏ qua. Vì cô bé đang nôn nóng làm kẹo ngay. Mayumi phi thẳng vào bếp, lấy cốc đong đúng 40cc nước đổ vào bát. Sau đó trút hết bột kẹo vào, lấy thìa khuấy. Chẳng mấy chốc đã được thứ chất lỏng màu xanh trong veo. Lại sền sệt. Cô bé đổ phần chất lỏng vào khuôn, háo hức chờ đợi suốt một giờ đồng hồ. Đúng một giờ sau, Mayumi nhẹ nhàng lấy phần kẹo đã cứng lại ra khỏi khuôn. Một người cá hoàn hảo ra đời. Kỳ lạ ở chỗ phần người của người cá thì màu trắng, còn phần cá lại màu xanh. Tóc người cá cũng xanh mát cả mắt. Rõ ràng chất lỏng ban nãy tuyền một màu xanh, làm sao mà màu lại thành ra thế này được nhỉ? Nhưng dẫu sao người cá cũng rất đẹp, đến nỗi Mayumi đang tiếc hùi hụi vì phải ăn nó đây. Không nỡ nhai, Mayumi thử liếm một ít. “Oa, ngon quá!” Kẹo ngon kinh khủng. Vừa tê tê kích thích như thể có ga, lại ngọt đậm vị xoài. Mayumi không thể nhịn nổi nữa. Nỗi tiếc rẻ ban nãy đã biến đi đâu mất, Mayumi chóp chép chén sạch chỗ kẹo dẻo người cá. Đêm đó Mayumi mơ thấy mình hóa thành người cá bơi vòng vòng dưới đại dương sâu trong vắt. Hôm sau, Mayumi thấy cổ họng khô không khốc. Cô bé uống nào là sữa, nước nhưng cũng chẳng ích gì. Mayumi khát tới nỗi quên luôn cả chuyện bể bơi. Rồi giờ thể dục tới, thay xong đồ đứng trước bể bơi, Mayumi chỉ muốn nhảy ngay xuống nước. Những sóng nước rung rinh trước kia đáng sợ thì nay đang dịu dàng mời gọi Mayumi. Không xong rồi! Cô bé chẳng đủ kiên nhẫn mà khởi động hay tắm trắng nữa. Mayumi nhảy ùm xuống bể bơi. Vừa đằm mình xuống nước, cô bé liền thấy cơn khát kinh khủng kia dịu hẳn đi. Nước mát và dịu êm khiến cô bé thấy vô cùng dễ chịu. Chính là nó. Điều mà Mayumi vẫn luôn ao ước. Các thầy cô lớn tiếng, ào xuống bể bơi những muốn kéo Mayumi lại. Nhưng làm sao mà bắt được cô bé, Mayumi nhanh nhẹn như một chú cá, bơi đi mất. Cô bé luồn lách qua vòng vây của thầy cô dễ như bỡn. Tụi bạn cùng lớp cũng tròn mắt ngạc nhiên. Mayumi vịt cạn mà bơi giỏi thế cơ à! Cuối cùng các thầy cô đành bỏ cuộc, mặc kệ Mayumi. Trong khi chúng bạn tập đạp chân, Mayumi thỏa sức vẫy vùng trong nước. Kiểu nào cô bé cũng bơi được. Bơi sấp, bơi ếch, cả bơi bướm nữa. Còn dễ hơn cả đi bộ hay chạy trên mặt đất. Hết giờ thể dục, Mayumi đành miễn cưỡng ra khỏi bể bơi. Ngay lúc ấy cơn khát lại kéo đến. Lần này còn kinh khủng hơn cả lúc nãy. Cô bé thấy cả người cứ khô không khốc. Đám bạn lại gần Mayumi, không ngớt lời khen ngợi, song chẳng lời nào lọt vào tai Mayumi cả. Ôi da mình khô đét, khó chịu quá. Sao lại khô khốc thế này. Đến giờ nghỉ trưa cô bé thực sự không chịu nổi nữa. Đã vậy chân lại cứ ngứa ran. Rồi cô bé bất giác đưa tay gãi thật mạnh. Soạt. Một tiếng động lạ vang lên, có thứ gì đó rơi xuống sàn. Một thứ mỏng tang màu xanh, y hệt mảnh thủy tinh vỡ, song nhìn kỹ thì giống vảy cá. Vảy cá? Mayumi giật nẩy mình, phi ngay vào nhà vệ sinh, chui vào một phòng, đóng kín cửa lại để không ai nhìn thấy rồi mới vén váy lên xem thử. “Không thể nào...” Đùi cô bé đã xuất hiện những vảy cá màu xanh xanh. Đám vảy cá mới chỉ mọc ở một chỗ thôi nhưng tốc độ lan rất nhanh. Mayumi vội vã tìm cách cạo hết chúng đi. Đám vảy cá vừa mới nổi lên còn có thể xoay xở cạo đi được chứ để lâu rồi thì không tài nào cạo nổi. Chúng dính chặt ơi là chặt. Cứ cố cạo đi chỉ tổ đau ghê gớm. Chết rồi. Làm sao bây giờ. Cứ đà này mọi người sẽ nhìn thấy đám vảy cá mất. Gần hết giờ nghỉ trưa rồi. Chắc phải trốn đi thôi. Mayumi cũng sợ cúp học lắm nhưng bị ai đó nhìn thấy đám vảy cá này còn kinh khủng hơn. Chắc chắn bên ngoài không có ai rồi, Mayumi mới phóng như bay ra khỏi nhà vệ sinh, lướt qua hành lang trốn khỏi trường. Rồi cô bé chạy thục mạng. May mà mẹ cô bé không có nhà, chắc bà đang đi mua đồ. Mayumi thở phào nhẹ nhõm, nhìn xuống chân thì thấy đám vảy cá đã lan ra tới tận đầu gối. Cảm giác khô khốc càng lúc càng kinh khủng. Nhưng không phải do khát nước mà chính đám vảy cá bị khô kia đang hành hạ cô bé. Mayumi nhảy vào bồn tắm mà chẳng buồn cởi quần áo. Cuối cùng cũng dễ chịu hơn rồi. Đằm mình trong nước, Mayumi vắt óc suy nghĩ. Tại sao mình lại thành ra thế này nhỉ? Nguyên nhân... chỉ có một. Tại chiếc kẹo dẻo người cá đó. Mayumi ăn nó nên mới không sợ nước và bơi giỏi như cá thế. Cũng chính vì ăn chiếc kẹo đó mà cô bé mọc cả vảy cá, không có nước thì không chịu nổi. Chỉ có thể là tại nó thôi. *** Hiroshima Reiko, sinh tại tỉnh Kanagawa, Nhật Bản và là một tác giả sách thiếu nhi lừng danh. Năm 2005, bà đoạt giải Juniorboukenshousetsu với tác phẩm Suiyou no mori. Bà cũng là tác giả của vô số các tác phẩm văn học thiếu nhi, kỳ ảo nổi tiếng khác. jyajya, sinh tại Fukuoka, từng làm nhân viên cho một công ty phát triển các ứng dụng trên điện thoại. Năm 2011, jyajya bắt đầu ra làm thiết kế tự do và hiện đã lấn sân sang cả lĩnh vực vẽ minh họa.   Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Tiền Xu Tập 1 của tác giả Hiroshima Reiko.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khải Hoàn Môn - Erich Maria Remarque
Tinh hoa văn học của nhân loại nào cũng cần được khám phá và tái khám phá. Mỗi tác phẩm lớn là một sự kỳ diệu và mỗi lần ta tìm đến là thực hiện những cuộc phiêu lưu hoan lạc. Đến với tác phẩm “Khải hoàn môn” là chúng ta đang bước vào cánh cửa thứ nhất của Tủ sách tinh hoa văn học  - cánh cửa với những tác phẩm được dịch trọn vẹn và giới thiệu cả tác giả lẫn tác phẩm trong bối cảnh văn hoá những đặc điểm thiết yếu - cánh cửa Kiệt Tác. *** Khải Hoàn Môn là một trong những thiên tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn Đức hiện đại Eric Maria Remarque (1896-1970), mà các bạn đọc ở nước ta đã có dịp làm quen qua các bản dịch như phía Tây không có gì lạ, Một thời để yêu và một thời để chết, Chiến hữu (tức Ba người bạn), v.v... Cũng như nhiều tác phẩm lớn khác của Remarque, Khải Hoàn Môn là một thiên tự sự hiện thực chủ nghĩa đầy cảm xúc và suy tư sâu sắc về thân phận của con người trong xã hội phương Tây hiện đại, với những cuộc chiến tranh đế quốc đẫm máu và những hậu quả có tính hủy hoại sâu xa đối với cơ cấu xã hội và đối với tâm hồn con người, với những tấm bi kịch và những cảnh sa đọa tiêu biểu của “Buổi hoàng hôn Chư Thần” (Gotterdam-merung), như tác giả thường gọi thời kỳ suy sụp của nền văn minh tư sản Tây Âu. Khải Hoàn Môn chính là tác phẩm chứa đựng ở mức tập trung nhất những đặc trưng của nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa trong văn nghiệp của Remarque. Ở đây tác giả đã chọn một đối tượng miêu tả có thể coi là tối ưu đối với chủ đề của ông: thân phận của người trí thức Đức chống phát xít phải trốn ra nước ngoài sống vất vưởng trong tình trạng bất hợp pháp. Bác sĩ Ravic là một nhân cách được un đúc nên bằng những phẩm chất tiêu biểu của Tiền văn minh Tây phương hiện đại. Anh mang trong người những đức tính tốt đẹp và những nhược điểm tai hại mà người trí thức thừa hưởng của một Tiền văn hóa dựa trên tinh thần dân chủ tư sản. Anh là một người thầy thuốc có tài năng tìm thấy lẽ sống chính của mình trong lao động nghề nghiệp. Trong hoàn cảnh cư trú bất hợp pháp, anh phải làm thuê cho một giáo sư nổi tiếng về phẫu thuật nhưng bất tài và vô liêm sỉ, chịu nhận một số tiền thù lao rẻ mạt, miễn sao được làm cái nghề mà anh yêu thích. Hoàn cảnh này càng làm tăng thêm cái thế cô độc, bơ vơ và cái tâm trạng cay đắng của con người tứ cố vô thân ấy giữa cái xã hội tư bản đang bước vào cuộc thế chiến thứ hai. Anh sống thầm lặng chờ ngày thất bại của phát xít Đức, cái ngày anh sẽ có thể trở về nước để làm một người công dân hữu ích như cũ, nhưng anh không biết mình phải làm gì để cho ngày ấy chóng đến hơn, mặc dầu anh coi chế độ Quốc xã như kẻ thù riêng của anh, một kẻ thù không đội trời chung mà anh căm thù sâu sắc. Tình cờ gặp lại tên Gestapo đã từng giết chết bạn bè anh và tra tấn anh dã man, Ravic quyết tâm tìm cách giết hắn. Nhưng khi đã thực hiện được ý đồ, anh không biết còn phải làm gì nữa: cuộc phục thù dừng phắt lại ở bình diện cá nhân. Trong cảnh lưu lạc, anh đã tìm thấy một tình bạn và một tình yêu - cũng là những con người cô đơn, lạc loài như anh. Và tâm hồn nhân hậu, giàu tình thương xót của anh cũng đã tìm thấy chút hạnh phúc trong khi anh đem mình hiến dâng một cách hào phóng và vô tư cho những tình cảm đó, cũng như trong khi anh tự hiến dâng cho những bệnh nhân nghèo hèn mà anh bao giờ cũng tận tình cứu chữa. Nhưng cuộc tình dang dở của anh chỉ đem lại cho anh một bến ghé tạm thời, và con dao mổ của anh có cứu sống được sinh mệnh của những con người nghèo khổ thì cũng chỉ để trả họ về với kiếp sống đọa đày mà anh không thấy có cách gì làm thay đổi. Bị giam cầm trong chủ nghĩa cá nhân, anh không thấy được cội nguồn sâu xa của những tệ nạn mà anh ghê tởm, của những nỗi khổ của dân nghèo mà anh chân thành thương xót: anh ngại ngần và tự thấy mình xa lạ đối với cái lý tưởng duy nhất có thể cứu vớt họ và đem lại cho anh một lẽ sống thực sự, có thể giải thoát anh ra khỏi cảnh cô đơn vô hy vọng: lý tưởng cách mạng vô sản. Lẽ ra, anh có đủ những phẩm cách để tìm thấy con đường đó: anh là một người lao động chân chính, là một người có tinh thần nhân đạo sâu sắc, lại là một con người bị khủng bố ở tổ quốc và bị bóc lột tàn tệ ở nơi đất khách quê người. Nhưng cũng như phần đông những người trí thức tiểu tư sản, anh không phân biệt được thực chất của những nền chuyên chính khác hẳn nhau về cơ bản. Những con người thuộc giới anh e sợ mọi sự chuyên chính có thể xung đột với sự tự do cá nhân vốn là nguyên nhân chính dựa đến tình trạng cô đơn đáng buồn của họ. Thân phận và tâm trạng của cả một tầng lớp trí thức Tây Âu trong những tháng ngày hòa bình cuối cùng trước cuộc thế chiến thứ hai đã được mô tả một cách hết sức chân xác và sinh động trong Khải Hoàn Môn. Thật ra, bản thân tác giả cũng bất lực trước việc tìm ra lối thoát cho mình và cho những nhân vật mà mình xây dựng để gửi gắm tâm sự của mình vào đấy. Nhưng tinh thần nhân đạo chân thành của ông, tình thương không bờ bến của ông đối với những con người hèn mọn bị xã hội tư bản chủ nghĩa đày đọa, và thái độ trung thực trong trẻo như pha lê của ông đã làm cho ông tạo nên được một áng văn hiện thực chủ nghĩa sâu xa có sức làm rung chuyển những cảm xúc sâu xa nhất của người đọc, mà đồng thời cũng cho phép ta hiểu đúng tâm trạng của những con người bị chủ nghĩa cá nhân đẩy vào tình trạng cô đơn không có lối thoát. *** Tác giả Erich Maria Remarque (1898 – 1970), sinh ra trong một gia đình bình dân tại Osnabrũck, miền Tây nước Đức. Từ nhỏ, Remarque luôn ngưỡng mô mẹ - bà Ana Maria, trong khi lại tỏ ra xa lánh cha – ông Peter Remarque. Ông Peter Remarque bình sinh chỉ là người thợ đóng sách nghèo. Sự vất vả, túng bẩn của gia đình đã khiến cậu bé Remarque mới hơn mười tuổi đã phải tự kiếm sống bằng việc dạy kèm piano. Và cậu phải luôn làm cật lực để bù vào khoản thù lao mà hầu như tháng nào cậu cũng phải xin ứng trước. Dấu ấn những năm tháng cơ cực sau này được nhà văn ghi lại trong nhiều tác phẩm của ông. Tốt nghiệp trung học, Remarque vào đại học Munster , nhưng chưa học xong ông đã bị gọi nhập ngũ và chiến đấu ở mặt trận phía tây. Khoảng thời gian giàu sinh ra tử trong lửa đạn này là nguồn tư liệu quý giá cho ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tay. Những điều ông đã kinh qua ít nhiều đều được miêu tả trong cuốn sách ấy. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết … Hầu hết các tác phẩm đều mang khuynh hướng phê phán và tố cáo xã hội mãnh liệt đồng thời miêu tả sức hủy hoại kinh hoàng của cuộc chiến tranh đế quốc đối với thể chất và tinh thần của con người. *** TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC Tinh hoa văn học của nhân loại nào cũng cần được khám phá và tái khám phá. Mỗi tác phẩm lớn là một xứ sở kỳ diệu và mỗi lần ta tìm đến là thực hiện một cuộc phiêu lưu hoan lạc. Dịch thuật, giới thiệu và biên khảo về những tác phẩm tinh hoa sẽ mở ra các lối cổng dẫn vào những cảnh tượng văn chương khác nhau, qua những không gian và thời gian vừa hiện thực vừa kỳ ảo. Khát vọng hiểu biết và vui thú trong đời là bản tính của con người ở mọi nơi và mọi thời. Các tác phẩm văn chương thật sự vĩ đại đều mang lại hai điều đó: vui thú và hiểu biết. Nhưng hiểu biết là niềm vui hiếm khi tự đến một cách dễ dãi. Cần đón đợi và hồi đáp. Mọi tác phẩm tinh hoa cần được đón đợi và hồi đáp trong niềm hân hoan có tên là “ĐỌC”. ĐỌC. Cầm sách lên và đọc. Trong sách có bạn hiền, có người đẹp, có mọi thứ. Do vậy, chúng tôi chủ trương TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC, xem đó như cửa ngõ của hiểu biết và niềm vui. CÓ NĂM CỬA: • Kiệt Tác: Mỗi Kiệt tác sẽ được dịch trọn vẹn và giới thiệu cả tác giả lẫn tác phẩm trong phối cảnh văn hóa những đặc điểm thiết yếu. • Tuyển: Tuyển chọn những tác phẩm ngắn của một tác giả, một nền văn học hay một chủ đề mang tính điển mẫu (thuộc vòng đời hay vòng mùa) • Kiến Thức: Những kiến thức mà người đọc hiện đại cần có: trào lưu văn học, các nền văn học, thể loại... được trình bày gọn nhẹ, dễ tiếp nhận. • Nghiên Cứu: Các công trình chuyên sâu về một vấn đề văn học, một tác giả thiên tài, lý luận phê bình... • Mới: Về các hiện tượng văn học mới xuất hiện của nước ngoài đang gây chú ý hoặc đoạt các giải thưởng lớn... Mong ước chúng tôi là TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC sẽ tiến bước bền vững và được đón nhận thân tình. Tủ sách được biên soạn và dịch thuật từ những nhà giáo, dịch giả và nhà nghiên cứu có uy tín và tâm huyết với văn chương.   Mời các bạn đón đọc Khải Hoàn Môn của tác giả Erich Maria Remarque.
Hoàng Tử Rắn - Elizabeth Hoyt
“Ôi, thiên thần tàn nhẫn” “Sao ông lại gọi tôi như thế? Đó có phải là tên mà ông đặt cho nhiều quý bà của ông ở London không?” Lucy nói. “Không, chỉ có nàng thôi”. Hắn chạm đầu ngón tay - chỉ một đầu ngón tay – vào má nàng. Làn da nàng ấm áp, ngay cả trong không khí ban đêm, và mịn, rất mịn màng. Nàng bước tránh ra ngay. “Tôi không tin ông”. Nàng có nghe thấy hơi thở hổn hển của mình? Hắn nhe răng cười như con quỷ trong bóng đêm, nhưng không trả lời. Chúa ơi, hắn ước có thể đơn giản là kéo nàng vào vòng tay, mở đôi môi ngọt ngào của nàng ra, cảm nhận hơi thở nàng trong miệng hắn, và ngực nàng tì vào ngực hắn. Hắn đứng lại và liều bước một bước về hướng nàng, cho đến khi họ gần như chạm vào nhau và nàng phải quay khuôn mặt tái nhợt ra nhìn hắn. Một lọn tóc nàng xổ ra vượt qua khoảng cách một vài inch giữa họ và vuốt ve cổ họng hắn. Nàng với tay ra, ngập ngừng, rồi chạm nhẹ nhàng một đầu ngón tay vào má hắn. Hắn cảm nhận được luồng run rẩy từ cơ thể truyền xuống tận những đầu ngón chân. *** Bộ sách Princess Trilogy gồm có: The Raven Prince (Hoàng tử quạ), The Leopard Prince (Hoàng tử báo), The Serpent Prince (Hoàng tử rắn),   The Ice Princess (Công chúa Băng). *** Maiden Hill, Anh Quốc Tháng 11/1760 Người đàn ông chết trên chân của Lucinda Craddock-Hayes có vẻ giống như một vị thần tử nạn. Apollo, hay giống Mars hơn, một kẻ gây chiến, giấu mình dưới hình hài một con người, bị đẩy xuống từ thiên đường và được một cô gái tìm thấy trên đường về nhà. Ngoài trừ việc các vị thần hiếm khi chảy máu. Hoặc trong trường hợp này là chết. “Ông Hedge,” Lucy gọi to. Nàng liếc nhanh quanh con đường chính độc nhất từ thị trấn Maiden Hill tới nhà của Craddock-Hayes. Nó vẫn giống như lúc trước khi nàng tìm thấy anh ta: hoang vắng, chẳng có ai ngoài nàng; người đầy tớ nam của nàng đã đi khuất sau nàng; và thi thể kia đang nằm trên cái hào. Bầu trời sà xuống thấp và ảm đạm màu xám mùa đông. Ánh sáng đã bắt đầu tắt, dù vẫn chưa đến 5 giờ. Những hàng cây trụi lá bên đường, tĩnh lặng và lạnh lẽo. Lucy rùng mình và cố gắng khép chặt áo choàng sát vào vai hơn. Người chết nằm sõng xoài, trần truồng, và úp mặt xuống. Đường rạch dài trên lưng đọng lại thành khối máu trên vai phải anh ta. Bên dưới là cặp mông rắn chắc; đôi chân cơ bắp rậm lông; và có vẻ thanh lịch kỳ lạ, với bàn chân khoẻ mạnh. Nàng chớp mắt và quay lại nhìn chằm chặp vào mặt anh ta. Ngay cả khi chết anh ta cũng vẫn đẹp trai. Đầu anh quay sang một bên, để lộ một phần gương mặt nam tính: mũi dài, gò má cao, và chiếc miệng rộng. Một đường rạch chia đôi hàng lông mày trên con mắt khép lại của anh ta. Mái tóc cắt ngắn áp sát vào da đầu, chỉ trừ những chỗ bết lại vì máu. Tay trái đặt thõng trên đầu, và trên ngón tay trỏ có cảm giác là đã có một chiếc nhẫn ở đó. Kẻ giết người hẳn đã lấy đi nó cùng với mọi thứ khác. Xung quanh thi thể bùn đã vẹt đi, dấu vết của gót ủng đóng sâu xuống ngay cạnh bên mông của người chết. Ngoài cái đó ra thì hề chẳng có dấu hiệu của người nào đó đã liệng vứt anh ta như rác thải. Lucy cảm thấy dòng nước mắt khờ khạo nhỏ ra từ mắt nàng. Điều gì đó về cái cách mà anh ta bị kẻ giết người bỏ lại, trần truồng và mất danh giá, có vẻ là một sự sỉ nhục kinh khủng với người đàn ông. Chuyện này thật đau buồn đến không thể chịu đựng nổi. Cô nàng ngu ngốc, nàng tự khiển trách mình. Nàng nhận ra mình phải trở nên kiên quyết, bình tĩnh hơn. Vội vàng, nàng gạt nước mắt ẩm ướt trên má đi. “Đầu tiên cô phải tới thăm nhà Joneses và tất cả những người bé nhỏ nhà Joneses, những kẻ làm bộ làm tịch đáng ghét. Sau đó chúng ta phải leo lên đồi tới nhà Bà Già Hardy – mụ già bẩn thỉu, không hiểu vì sao mụ ta vẫn còn chưa lên giường với một cái xẻng. Và đã hết chưa? Chưa, đó chỉ mới là một nửa thôi. Rồi, rồi cô sẽ cần phải gọi cửa nhà linh mục. Và còn tôi thì lôi cái của đông cứng này trong suốt thời gian đó.” Lucy ngăn lại thôi thúc dụi mắt. Hedge, người giúp việc của nàng, đội một chiếc mũ ba sừng dính mỡ lệch lạc trên mái tóc bạc sửng sốt. Cái áo choàng đầy bụi của ông và cái áo chẽn đều nhơ nhuốc như nhau, và ông ta đã chọn đôi vớ dài với đường chỉ viền màu đỏ tươi để làm nổi bật hai đầu gối lệch ra ngoài, không nghi ngờ gì đó là đồ thải ra của cha. Ông ta thốt lên một cách kiềm chế bên cạnh nàng: “Ôi trời, vẫn chưa chết!” ... Mời các bạn đón đọc Hoàng Tử Rắn của tác giả Elizabeth Hoyt.
Gia Đình Penderwick Ở Phố Gardam - Jeanne Birdsall
Sau màu hè sôi động ở Arundel, gia đình Penderwick lại trở về tổ ấm của mình trên phố Gardam. Nhưng, một cuộc phiêu lưu mới đã chờ sẵn các cô gái nhà Penderwick: lá thư màu xanh bí ẩn của người mẹ quá cố, thái độ kỳ cục của người dì thân yêu, những cuộc hẹn hò úp úp mở mở của bố, sự xuất hiện của những người hàng xóm mới vô cùng thú vị và cả một gã Người - Bọ rình rập quanh khu phố…Và trên tất cả là Kế-Hoạch-Cứu-Bố với những tình huống dở khóc dở cười… Nhẹ hàng, hài hước, trong sáng và hấp dẫn, Gia đình Penderwick ở phố Gardam có thể coi như làn gió mát mùa hè và ngọn lửa ấm áp mùa đông. *** “Một cuốn sách để yêu qúy và để giữ ở gần giống như tấm chăn ấm áp thân thương bạn quấn quanh người cho khỏi lạnh.” - School Library Journal “Thật vô cùng thú vị khi được dành thời gian cho những nhân vật có sức lôi cuốn mạnh mẽ này, những cô gái sinh động đến nỗi người đọc sẽ cảm thấy được cả làn gió thổi bay mái tóc họ khi họ tung hoành trên sân bóng.” - Publisher Weekly “Cuốn sách thứ hai này còn hay hơn cuốn đầu tiên. Đối với các bậc phụ huynh đang tìm kiếm những cuốn sách giống như những cuốn họ đã đọc thời thơ ấu và đối với các bạn trẻ tìm cách thoát khỏi thế giới hư cấu đầy bạo lực để đến với một thế giới ngọt ngào và giản dị hơn, thì đây là lựa chọn sáng suốt.” - Matt Berman *** Gia đình Penderwicks là một trong những bộ truyện yêu thích nhất, một trong những câu chuyện về tình cảm gia đình đáng yêu nhất. Nói chung đây là một tập truyện với nhiều thông điệp và cảm xúc. Gia đình Penderwicks gồm có: Lũ trẻ nhà Penderwicks Gia đình Penderwicks ở phố Graham The Penderwicks at Point Mouette The Penderwicks in Springs ... *** Tác giả: • Giải thưởng Sách quốc gia Mỹ cho Văn chương dành cho thiếu nhi. • Giải Sự lựa chọn của Goodreads cho Sách thiếu niên & Nhi đồng hay nhất. Jeanne Birdsall sinh 1951, Philadelphia, Pennsylvania, Hoa Kỳ. Là một trong những nhà văn thiếu nhi được yêu mến nhất trong những năm gần đây. Bà hiện sống tại Bang Massachussetts, cùng với chồng, bốn con mèo, một con thỏ, một chú sên cảnh, và một chú chó tên là Cagney. Jeanne Birdsallđã viết về tác phẩm của mình: "Khi lên mười hay mười một tuổi gì đó, tôi đã hết cả sách đọc. Tuần nào tôi cũng đến thư viện, hy vọng các tác giả yêu thích của mình vừa cho ra lò một tác phẩm mới. Hay thậm chí tuyệt hơn cả là tôi sẽ tìm được một tác giả mới trong thể loại sách mà tôi ưa thích nhất. Nhưng hầu như tuần nào tôi cũng phải đem về nhà những quyển sách đã đọc rồi, nhiều cuốn đã được đọc đến tám, chín, hay mười lần. Khi ấy tôi đã tự hứa với chính mình rằng một ngày kia tôi sẽ trở thành một nhà văn, để cho những bạn đọc như tôi có thêm một vài cuốn sách mới để khám phá và thưởng thức. “Lũ Trẻ Nhà Penderwick" chính là tác phẩm đầu tay của tôi." — The Penderwicks: A Summer Tale of Four Sisters, Two Rabbits, and a Very Interesting Boy (2005) — The Penderwicks on Gardam Street (2008) — Flora's Very Windy Day (2010) — The Penderwicks at Point Mouette (2011) — Lucky and Squash (2012) — The Penderwicks in Spring ( 2015) *** Mẹ ở trong bệnh viện với em bé mới sinh gần một tuần nay rồi. Mặc dù ba cô bé nhà Penderwick vẫn đến thăm mẹ hàng ngày - có khi hai lần một ngày - nhưng như thế vẫn không đủ. Chúng muốn bà về nhà. “Khi nào hả mẹ?”, Jane, đứa nhỏ nhất, hỏi. “Em đã hỏi mẹ năm lần rồi và mẹ không biết”, Rosalind nói, em là chị cả và cảm thấy rõ trọng trách nặng nề của mình, dù em mới lên tám. “Cho cháu bế Batty được không, dì Claire?”. Dì Claire, em gái của bố, cẩn thận trao em bé cho Rosalind, và cô bé nghĩ được ôm các bé sơ sinh quả là một trong những niềm vui tuyệt vời nhất trên đời, ngay cả khi em bé đang ngủ và không biết mình đang được bế. “Mẹ ơi, ít nhất thì mẹ về thăm nhà thôi có được không? Mẹ không cần phải đem em bé theo đâu”. Skye là con thứ, giữa Rosalind và Jane, và là đứa con duy nhất được thừa hưởng mái tóc vàng và cặp mắt xanh của mẹ. Hai đứa kia đều có mái tóc quăn sẫm màu và mắt nâu giống bố - giống cả dì Claire nữa. Còn em bé thì dù mới chỉ có một mớ tóc lơ phơ nhưng có vẻ như khi lớn lên tóc cũng sẽ sẫm màu. “Khi mẹ về nhà, cưng à, thì mẹ e là em Batty sẽ về cùng mẹ đấy”, mẹ chúng cười đáp. Rồi bà đột nhiên ngưng cười và áp tay bào bên sườn. “Cửa hàng lưu niệm nào!”, dì Claire kêu lên, nhảy ra khỏi ghế. “Sao ba đứa không chạy đến cửa hàng lưu niệm và mua cho mình món quà gì đó đi?”. “Chúng cháu không có tiền”, Jane nói. “Dì sẽ cho các cháu”. Dì Claire lấy một tờ giấy bạc trong ví ra đưa cho Skye. “Rosalind, tốt hơn hết là cháu để Batty lại đây. Em bé còn nhỏ quá, chưa đến hàng lưu niệm được”. “Dù sao thì có lẽ chúng cháu sẽ mua quà cho em bé”. Rosalind miễn cưỡng đặt em bé vào cái nôi màu trắng cạnh giường của mẹ. “Không đủ tiền cho cả nó đâu”, Skye nói. “Cư xử cho khéo nào!”, mẹ em nói. Nhưng dì Claire mỉm cười và đưa cho Skye thêm ít tiền nữa. “Giờ thì đi đi, lũ cướp biển tham lam của dì!”. Dì Claire là mẫu người họ hàng hoàn hảo nhất trên đời - dì yêu và hiểu trẻ con, nhưng lại không có con để khiến dì phải sao nhãng mấy cô cháu gái. Vì vậy không đứa nào trong số mấy chị em bận tâm khi bị dì gọi bằng đủ thứ tên. Thật ra, Skye còn có vẻ hãnh diện vì được gọi là cướp biển, thẳng tiến đến cửa hàng lưu niệm với dáng vẻ oai phong của người thủy thủ. Rosalind nắm tay Jane bám theo sau, vẻ kém hùng dũng hơn, vừa đi vừa chào những cô y tá mà mấy chị em đã trở nên thân thiết trong suốt tuần vừa rồi. Cửa hàng nằm ngay cuối hành lang, sau một khúc quanh - mấy chị em biết rõ đường, vì chúng đã đến đó nhiều lần, nhưng chưa lần nào có nhiều tiền như thế này. Dì Claire thật hào phóng. Đủ để mỗi cô gái kiếm được ít nhất là một báu vật nho nhỏ. Skye đi thẳng đến chỗ bán đồng hồ đeo tay, vì em luôn ao ước có được một chiếc màu đen. Jane ngắm nghía các thứ - lần nào em cũng làm như vậy - rồi dừng lại ở chỗ bán búp bê, hệt như mọi lần. Rosalind chọn một chú chó đen nhồi bông cho Batty, rồi tiến về tủ đồ trang sức. Anna, cô bạn thân nhất của em, vừa mới có một chiếc nhẫn màu ngọc lam, và Rosalind nghĩ sẽ không gì bằng nếu em cũng có một chiếc y như thế. Nhưng khi đến chỗ đồ trang sức thì mắt em không bị hút về phía những chiếc nhẫn, mà lại hướng về sợi dây chuyền vàng mỏng mảnh treo năm trái tim - trái tim lớn nhất ở giữa, mỗi bên là hai trái tim nhỏ hơn. Em nhìn giá tiền, nhẩm tính trên đầu ngón tay, nhẩm lại lần nữa cho chắc, rồi gọi hai đứa em đến. “Mình nên mua cái dây chuyền kia cho mẹ”, em nói. “Nhưng như thế thì sẽ tốn hết chỗ tiền bọn mình có”, Skye đã đeo một cái đồng hồ màu đen ở cổ tay. “Chị biết, nhưng mẹ sẽ thích nó. Trái tim lớn là mẹ, còn bốn trái tim nhỏ là ba đứa bọn mình và em bé”. “Trái tim này là em”, Jane nói, chỉ vào một trong bốn trái tim nhỏ. “Chị Rosalind ơi, có phải mẹ vẫn đang ốm không?”. “Ừ”. “Vì Batty à?”. “Vì bệnh ung thư”, Rosalind trả lời. Em ghét cái từ đó, ung thư. “Có nhớ bố đã giải thích cho bọn mình thế nào không? Nhưng mẹ sẽ chóng khỏi thôi”. “Tất nhiên là thế rồi”, Skye dữ dằn nói. “Bố nói các bác sĩ đang làm tất cả những gì có thể, và họ là những bác sĩ giỏi nhất trên toàn vũ trụ”. “Được rồi”, Jane nói. “Em biểu quyết là chúng mình mua sợi dây chuyền cho mẹ”. “Tầm bậy thật!”. Skye biến đi, rồi quay lại, không đeo đồng hồ mà đi cùng một cô bán hàng, cô ấy đặt sợi dây chuyền vào một cái hộp có đính chiếc nơ con bướm. Giờ thì Rosalind sốt ruột muốn quay về với mẹ và Batty. Nhưng Skye và Jane đã trông thấy cô y tá chúng yêu quý nhất, cô Ruben, người lúc nào cũng có thời gian để cho chúng ngồi xe đẩy. Biết hai đứa sẽ không sao khi ở cùng cô Ruben, Rosalind vội vã đi xuôi hành lang, bước chậm lại khi đến gần phòng mẹ. Nhưng thay vì bước vào thì em lại chần chừ ở ngoài cửa, vì em có thể nghe thấy tiếng mẹ và dì đang rì rầm nói chuyện - nghe giống như một trong những cuộc trò chuyện của người lớn mà trẻ con không được phép lảng vảng xung quanh. Rosalind biết em có nghe thì cũng không phải là hư, vì tiếng rì rầm quá nhỏ, không thể hiểu được. Nhưng rồi hai người phụ nữ cất cao giọng, và Rosalind không thể không nghe rõ từng từ họ thốt ra. “Không, chị Lizzy, không”, dì Claire đang nói. “Nói đến chuyện này bây giờ là quá sớm. Như thể chị đã bỏ cuộc rồi ấy”. “Em biết là chị sẽ không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi không còn chút hi vọng nào nữa mà, Claire. Chỉ cần em hứa là nếu chị không qua khỏi, thì ba hay bốn năm nữa, em sẽ đưa lá thư của chị cho anh Martin. Em biết là anh ấy quá nhút nhát đến nỗi nếu không được động viên thì sẽ chẳng dám hẹn hò đâu, và chị thì không thể chịu đựng nổi khi nghĩ rằng anh ấy sẽ phải chịu cảnh cô độc”. “Anh ấy còn có bọn trẻ kia mà”. “Nhưng rồi một ngày kia chúng sẽ lớn lên và…”. Câu nói bị cắt nửa chừng, vì cô Ruben đã xuất hiện với Skye và Jane, hai cô bé đang chen chúc trên một chiếc xe đẩy, vừa hò hét vừa cười khúc khích. Hai đứa lao ra khỏi xe và chạy vào phòng trong khi Rosalind đi theo, chậm chạp hơn, cố gắng hiểu xem những điều mình vừa nghe thấy nghĩa là thế nào. Mẹ em nói nếu bà không qua khỏi nghĩa là sao? Và tại sao bố em lại phải hò hẹn? Em thấy trong người lạnh ngắt đi đến nỗi toàn thân run rẩy, và càng bủn rủn hơn khi thấy dì Claire lén bỏ một chiếc phong bì màu xanh vào túi. Đó có phải lá thư mẹ em đã nhắc đến không? Skye và Jane ồn ào phấn khích vì được đi xe đẩy lại được đem sợi dây chuyền tặng mẹ, mẹ rất thích sợi dây chuyền và khi đeo nó vào, trông mẹ thật đẹp, đến nỗi không ai nhận thấy Rosalind đang ngồi tránh sang một bên, tái nhợt, im lặng. Rồi sau đó, quá nhanh, một cô y tá vào phòng với cái xe đẩy nom rất đáng sợ, và nói rõ cả bà mẹ lẫn em bé đều cần được nghỉ ngơi. Mấy chị em đành miễn cưỡng hôn tạm biệt mẹ. Rosalind đợi đến cuối cùng. “Gặp lại mẹ ngày mai, mẹ nhé”, em thì thầm. Có lẽ đến mai em sẽ hỏi được những câu cần hỏi - về niềm hi vọng, về bố phải chịu cảnh cô đơn, và về lá thư màu xanh đáng sợ nọ. Nhưng Rosalind không bao giờ hỏi được những câu hỏi của mình, và chúng nhanh chóng bị đẩy sang bên và bị quên lãng, vì khi ngày mai đến, mẹ em đột ngột yếu đi thay vì khỏe lên. Bất chấp cố gắng hết mình của các bác sĩ giỏi nhất, chỉ trong vòng một tuần, mọi niềm hi vọng đã tiêu tan hết. Elizabeth Penderwick có đủ thời gian để tạm biệt chồng và các con gái trong một buổi tối hết sức đau đớn, nhưng chỉ vừa đủ mà thôi. Bà mất trước lúc bình minh ngày hôm sau, với bé Batty lặng lẽ nằm yên trong vòng tay. Mời các bạn đón đọc Gia Đình Penderwick Ở Phố Gardam của tác giả Jeanne Birdsall.
Biên Thành - Thẩm Tùng Văn
Truyện vừa - hay cũng có thể được coi là một đoản thiên tiểu thuyết xót xa buồn về cảnh vật và những con người Trung Hoa xưa cũ của nhà văn nổi tiếng Thẩm Tùng Văn. Câu chuyện diễn ra tại một bến đò lặng lẽ vùng biên thành miền Tây Hồ Nam - nơi cô bé Thúy Thúy sống với người ông quản đò sau cái chết của mẹ. Mặc dù chỉ mới 14 tuổi nhưng Thúy Thúy đã trở thành một thiếu nữ phổng phao, xinh đẹp, được nhiều chàng trai để ý, trong đó có hai anh em nhà ông chủ bến: cậu cả Thiên Bảo và cậu hai Na Tống. Trước tấm chân tình của hai anh em đối với cô cháu gái, ông ngoại cô bé cảm thấy vô cùng sung sướng nhưng cũng không giấu nổi những lo lắng cho tương lai. Đặc biệt là khi cô bé vẫn thờ ơ với chuyện cưới xin. Sự thực thì trái tim cô bé đã rung động trước tấm lòng và tiếng hát của cậu hai Na Tống nhưng Na Tống đang bị gia đình ép lấy một cô gái con nhà gia thế… Thẩm Tùng Văn được coi là “tiểu thuyết gia trữ tình lớn nhất của Trung Quốc hiện đại”. Biên thành như là một bài thơ mang giọng điệu hoài cổ với âm hưởng buồn man mác. Những cảnh vật đồng nội, những con người nhỏ bé trong tác phẩm của ông như những hình ảnh nhạt nhòa trôi dần đi và cuối cùng mất hút trong dòng chảy thời gian và nhịp điệu gấp gáp của cuộc sống hiện đại. Biên thành khiến người đọc ngậm ngùi bởi tác phẩm “tràn trề cái thiện nhưng đều không gặp may. Vì không gặp may nên cái thiện chất phác ấy cuối cùng khó tránh khỏi bi kịch” (Thẩm Tùng Văn). Dưới văn phong của ông, ngôn ngữ Trung Hoa đã tìm được vẻ đẹp của mình và vẻ đẹp ấy cũng đã được chuyển ngữ thành công bằng thứ tiếng Việt giản dị, trong sáng và khúc chiết của dịch giả Phạm Tú Châu. *** Nhận định “Vẻ đẹp tạo hình của Biên thành – thiên tiểu thuyết có nhân vật chính là một ông lão và cô cháu gái này luôn được giới phê bình nhấn mạnh; nó làm ta nghĩ tới một bức tranh Trung Hoa cổ điển, và mời gọi ta trở lại kiếm tìm một thế giới trữ tình đã mất của những ai chài, của đồng nội… Một kiệt tác của một tác giả quan trọng.”  - SDM - “Bị khuất đi nhiều bởi những đồng nghiệp nổi tiếng có lối viết thiên về chính trị như Lỗ Tấn hay Lão Xá… Tác phẩm của Thẩm Tùng Văn đan dệt phức tạp, giàu có tầng lớp và trữ tình. Trung Hoa của quá khứ và hiện tại sống động trong văn ông một cách tự nhiên như vốn thế. Nỗi buồn thấm qua nhưng cảnh đồng quê… có gì đó không chắc chắn và cũng nhiều hy vọng... Trong khi Lỗ Tấn là nhà ký sự của siêu ý thức xã hội thì Thẩm giống như một nhà nhân loại học, và trong ý nghĩa này, dương như ông gần với độc giả hiện đại hơn. Trong khi những người khác hướng đến một xã hội Trung Hoa của tự phê bình, của các thay đổi, thì Thẩm, một cách đẹp đẽ và giản dị, chỉ cho ta cuộc sống vốn dĩ vẫn hiện hữu như thế đó. Tác phẩm của ông là sự hoà quyện giữa nỗi buồn sâu xa cho quá khứ, hy vọng cho tương lai, và hơn tất cả, là vẻ đẹp và sự trong sáng của cõi sống hiện tại”.  - Matthew W.Baker - *** Thẩm Tùng Văn (1902 - 1988) là nhà văn hiện đại nổi tiếng của Trung Quốc. Ông sinh trưởng trong một gia đình quan võ đời Thanh; quê huyện Phượng Hoàng tỉnh Hồ Nam, bà nội là người dân tộc Miêu. Bắt đầu sáng tác từ năm 1924, kể từ đó cho tới những năm 40 của thế kỷ trước, ông đã viết một số lượng lớn đáng kinh ngạc về đủ các thể tài, từ tản văn, thơ, kịch, tùy bút, chính luận, truyện ký, truyện dài, song chủ yếu là truyện vừa và ngắn. Đề tài trong truyện của ông có diện rất rộng, từ nông thôn xa xôi, hẻo lánh tới đô thị phồn hoa, nội dung tư tưởng cũng cực kỳ phong phú. Trong số đó, những truyện viết về cuộc sống và số phận của dân tộc thiểu số vùng biên khu giữa bốn tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Quý Châu là giàu đặc sắc nghệ thuật nhất. Tiêu biểu trong số đó là truyện vừa Biên thành. Biên thành (Thành trên núi) làm nổi bật bi kịch của cái thiện. Khác hẳn với mẫu hình bi kịch huỷ diệt của cái vĩ đại và cái cao cả ở Phương Tây, xuất hiện trong truyện đều là những con người bình thường hiền lành, chất phác. Số phận của họ đúng như tác giả nói: “Mọi thứ đều tràn trề cái thiện nhưng đều không gặp may. Vì không gặp may nên cái thiện chất phác ấy cuối cùng khó tránh khỏi bi kịch”. Nhà văn Nhật Bản Takashi Shizuka thì nhận xét: “Xem ra dưới giọng văn hết sức bình tĩnh, e rằng đã ẩn giấu sự phê phán và phản kháng sâu sắc - ít nhất cũng là sự chán ghét nền văn minh hiện đại, đó chính là chủ ý của tác phẩm”. Biên thành, cũng như nhiều tác phẩm khác của Thẩm Tùng Văn, từ lâu đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, do đó được biết rộng rãi trong bạn đọc ngoài Trung Quốc. Ở Việt Nam, đây là lần đầu tiên Biên thành được dịch. *** Ngày Tết Đoan ngọ, đàn bà con trẻ nơi đây đều mặc áo mới, trên góc trán dùng rượu ngâm hùng Hoàng[15] viết một chữ Vương. Bất kỳ người nào đến ngày này cũng được ăn cá, ăn thịt. Khoảng mười một giờ sáng, toàn thể dân Trà Đồng đều đã ăn cơm trưa; ăn xong, mọi nhà trong thành đều khoá trái cửa, cả nhà ra khỏi thành tới bờ sông xem chèo thuyền. Ai có người quen ở cửa phố bờ sông, có thể đứng bên cửa gác sàn mà xem, nếu không thì đứng ở cửa Cục thuế quan hoặc ra bến đò mà xem. Thuyền rồng trên sông lấy một chỗ nào đó làm điểm xuất phát, trước Cục thuế quan là đích, bởi vì ngày này các sĩ quan, nhân viên thu thuế và những người có địa vị ở địa phương đều đứng xem ở trước Cục thuế quan. Trước đó mấy ngày, mọi người đã chuẩn bị cho cuộc đua thuyền. Chia tổ, chia bang xong, nhóm nào nhóm nấy tự chọn ra những trai tráng lanh lợi và chắc khoẻ nhất, tập tiến thoái ở chỗ nước sâu. Hình thức của thuyền cũng khác với thuyền gỗ thường ngày, hình thể nhất loạt phải dài và hẹp, hai đầu ngỏng cao, thân thuyền vẽ những đường chỉ dài màu hồng và đỏ thắm. Thường ngày, những thuyền này được gác trong hang khô ráo bên sông, khi dùng đến mới kéo xuống nước. Mỗi thuyền có thể ngồi từ mười hai đến mười tám tay chèo, một người dẫn đầu, một tay trống và một người đánh thanh la. Mỗi người chèo cầm trong tay một mái chèo ngắn, theo nhịp trống nhanh hay chậm mà chèo thuyền về phía trước. Người dẫn đầu ngồi ở mũi thuyền, đầu bịt một vuông khăn đỏ, tay cầm hai ngọn cờ lệnh nhỏ vẫy sang trái hoặc phải, chỉ huy thuyền tiến hoặc lùi. Tay trống và tay thanh la phần nhiều ngồi ở giữa thuyền, thuyền vừa khởi động bèn tùng tùng cheng cheng gõ trống và đánh thanh la theo nhịp đơn thuần để điều tiết nhịp chèo của các tay chèo. Thuyền chèo nhanh hay chậm không thể không dựa vào nhịp trống, cho nên khi hai thuyền đua nhau găng nhất thì trống đánh dồn như tiếng sấm, lại thêm người xem đứng hai bên bờ hò reo trợ oai, khiến ai nấy đều nghĩ tới tiếng trống trong trận thuỷ chiến trên sông Lão Hạc của Lương Hồng Ngọc[16]. Hồi Ngưu Cao[17] bắt sống Dương Ma trên sông cũng trong trận thủy chiến có trống đánh cầm trịch. Thuyền nào về trước một chút đều được lĩnh thưởng ở trước Cục thuế quan; một tấm lụa đỏ, một tấm ngân bài, bất kể treo hoặc chít trên đầu một người nào đó trên thuyền đều nói lên vinh dự nhờ cả thuyền biết hợp tác. Mỗi khi có thuyền về trước đều có một anh lính rách việc nào đó đứng bên bờ nước đốt một tràng pháo Ngũ bách hưởng để mừng thắng lợi. Đua thuyền xong, ngài Trưởng doanh lính thú trong thành muốn vui cùng dân chúng, tăng thêm niềm phấn khởi trong ngày Tết bèn cho thả xuống sông loài vịt đực lớn con, cổ dài, lông đầu xanh mướt, cổ buộc dải lụa đỏ, quân dân người nào bơi giỏi thì xuống sông đuổi vịt. Bất kể ai bắt được vịt thì vịt là của người ấy. Thế là một trò vui mới được thay đổi trên sông, trên mặt sông đâu đâu cũng là vịt, đâu đâu cũng có người bơi đuổi theo vịt. Cuộc đua tranh giữa thuyền và thuyền, giữa người và vịt kéo dài đến tối mới kết thúc. Ông quản bến - Long đầu đại ca Thuận Thuận, hồi trẻ là tay bơi lội cực giỏi, đã xuống sông đuổi vịt thì dù có thế nào cũng không chịu trở về tay không. Nhưng khi con trai thứ của ông là Na Tống ngoài mười hai tuổi đã biết xuống sông, lặn một hơi đến bên con vịt rồi bỗng chồm người từ dưới nước nhô lên tóm ngay lấy vịt thì người làm cha bèn nói như chữa thẹn. - Hay lắm, việc này đã có các con làm, cha bất tất phải xuống sông nữa! ... Mời các bạn đón đọc Biên Thành của tác giả Thẩm Tùng Văn.