Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lễ Vật Kinh Hoàng

Câu chuyện mở đầu bằng cái chết của một bé gái sơ sinh cùng những phản ứng kỳ lạ của gia đình đứa trẻ. Ban đầu nguyên nhân tử vong được cho là do hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS), nhưng một dấu hiệu đáng ngờ xuất hiện trên mặt bé dẫn cảnh sát đi đến kết luận: đây là một vụ giết người. Cha của bé gái bị bắt khi đang cố mang xác bé chạy trốn và cụ ngoại của bé khăng khăng rằng hung thủ là “Inguma” – một ác ma trong thần thoại xứ Basque, tước đoạt mạng sống của con người trong lúc họ đang ngủ. Qua 1500 trang sách, nhân vật chính Amaia Sazalar đã để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc yêu thương và ngưỡng mộ về một nữ thanh tra tài năng, gan góc nhưng lại có tuổi thơ bất hạnh đến ám ảnh. Chính những trải nghiệm của bản thân đã làm nên một Amaia quyết đoán và luôn hành động độc lập, và nó khiến cho các đồng nghiệp của chị cảm thấy không hài lòng. Khi Amaia quyết định mở rộng điều tra các trường hợp trẻ sơ sinh dưới hai tuổi chết do SIDS trong thung lũng Baztan những năm gần đây, chị nhanh chóng tìm ra điểm tương đồng đáng ngờ và khiến cuộc điều tra rơi vào mớ rắc rối đáng lo ngại. Sự dối trá, phản bội và nghi kỵ nhau bắt đầu len lỏi bên trong từng thành viên của đội điều tra án mạng. Tạm xa vai trò của một người vợ, người mẹ, Amaia trở về nơi mọi sự bắt đầu để đối mặt với bóng ma quá khứ của mình và khám phá ra sự thật khủng khiếp đã hủy hoại thung lũng Elizondo xinh đẹp trong nhiều năm qua. *** Sau Vệ sĩ vô hình và Mối bất hòa truyền kiếp, tác giả Dolores Redondo cho ra mắt bạn đọc tập tiếp theo và cũng là tập cuối cùng trong xê ri tiểu thuyết hình sự về thung lũng Baztán. Câu chuyện mở đầu bằng cái chết của một bé gái sơ sinh cùng những phản ứng kỳ lạ của gia đình đứa trẻ. Ban đầu nguyên nhân tử vong được cho là do hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS), nhưng một dấu hiệu đáng ngờ xuất hiện trên mặt bé dẫn cảnh sát đi đến kết luận: đây là một vụ giết người. Cha của bé gái bị bắt khi đang cố mang xác bé chạy trốn và cụ ngoại của bé khăng khăng rằng hung thủ là “Inguma” – một ác ma trong thần thoại xứ Basque, tước đoạt mạng sống của con người trong lúc họ đang ngủ. Qua 1500 trang sách, nhân vật chính Amaia Sazalar đã để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc yêu thương và ngưỡng mộ về một nữ thanh tra tài năng, gan góc nhưng lại có tuổi thơ bất hạnh đến ám ảnh. Chính những trải nghiệm của bản thân đã làm nên một Amaia quyết đoán và luôn hành động độc lập, và nó khiến cho các đồng nghiệp của chị cảm thấy không hài lòng. Khi Amaia quyết định mở rộng điều tra các trường hợp trẻ sơ sinh dưới hai tuổi chết do SIDS trong thung lũng Baztan những năm gần đây, chị nhanh chóng tìm ra điểm tương đồng đáng ngờ và khiến cuộc điều tra rơi vào mớ rắc rối đáng lo ngại. Sự dối trá, phản bội và nghi kỵ nhau bắt đầu len lỏi bên trong từng thành viên của đội điều tra án mạng. Tạm xa vai trò của một người vợ, người mẹ, Amaia trở về nơi mọi sự bắt đầu để đối mặt với bóng ma quá khứ của mình và khám phá ra sự thật khủng khiếp đã hủy hoại thung lũng Elizondo xinh đẹp trong nhiều năm qua.  Tác giả Dolores Redondo sinh năm 1969, tại Saint-Sébastien, một tỉnh thuộc xứ Basque, Tây Ban Nha. Bà từng học chuyên ngành Luật, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực thương mại trước khi trở thành tiểu thuyết gia. Với thành công của bộ ba tiểu thuyết hình sự đặc sắc về thung lũng Baztan, Redondo trở thành tác giả trinh thám được đọc nhiều nhất tại Tây Ban Nha năm 2017 Bà là một trong số ít tác giả Tây Ban Nha được đề cử giải thưởng CWA International Dagger 2015. Nhận xét của báo chí: Một tác phẩm bộ ba xuất sắc… một cuốn tiểu thuyết nổi bật… vô cùng lôi cuốn.                                                             (Sunday Times – Sách trong tháng ) Nhiều khía cạnh trong nhân cách được miêu tả rất hấp dẫn và đầy sức thuyết phục.                                                                         (Publishing Perspectives) Văn phong rất đẹp, uyển chuyển và duyên dáng.                                                                         (Raven Crime Read blog) Trích đoạn hay: Trích đoạn 1: [Sau khi chọn rượu vang, James và Amaia hài lòng thưởng thức không khí trong nhà hàng một lát. Họ không đả động đến đề tài tang lễ, và tránh làm tăng thêm sự căng thẳng hiển hiện giữa họ chiều hôm ấy. Họ biết là cần nói chuyện, nhưng có một thỏa thuận ngầm là đợi cho đến khi chỉ còn hai người. – Cuộc điều tra thế nào rồi? – James hỏi thăm. Chị nhìn anh, cân nhắc nên trả lời ra sao. Từ khi gia nhập lực lượng cảnh sát, chị thận trọng không bao giờ bàn bạc công việc của mình với gia đình, và họ biết không nên hỏi. Chị không muốn nói chuyện với James về những khía cạnh đáng sợ trong nghề nghiệp của mình, cũng như tốt hơn hết là không nhắc tới những sự kiện trong quá khứ của mình, dù James đã biết. Chị thấy khó nói về thời thơ ấu, và trong nhiều năm chị chôn vùi sự thật dưới vỏ ngoài giả dối. Khi các rào chắn kìm giữ mọi nỗi kinh hoàng mở toang, đưa chị tới ngưỡng lành mạnh, có thể thổ lộ với James về kẽ nứt trên bức tường sợ hãi cho phép ánh sáng tràn vào, tạo ra một chỗ cho họ sát bên nhau, một chỗ đưa chị trở lại cõi đời mà nếu thận trọng, những bóng ma cũ có thể không chạm được đến chị. Song, Amaia luôn biết rằng nỗi sợ không bao giờ mất đi hoàn toàn, nó chỉ co lại vào một nơi tối tăm, nhớp nháp và chờ đợi, giảm bớt thành một tia sáng màu đỏ nhỏ xíu có thể vẫn trông thấy dù không muốn, dù ta không thừa nhận sự tồn tại của nó, vì nó cản trở ta khỏi cuộc sống. Chị cũng biết nỗi sợ là việc cá nhân, dù có nói đến đâu hoặc đặt tên nó là gì đi nữa, nó cũng không ra đi; câu nói cũ, sáo mòn “gánh nặng chia đôi sẽ còn một nửa” không áp dụng ở nơi dính líu đến nỗi sợ. Chị luôn tin rằng tình yêu sẽ chiến thắng mọi thứ, sẽ mở toang cánh cửa và chị sẽ tự bộc lộ với James mọi gánh nặng trong quá khứ. Giờ đây, ngồi đối diện với anh, chị vẫn nhận ra anh chàng điển trai mà chị yêu say đắm. Người nghệ sĩ tự tin, lạc quan không bị ai muốn giết, nhìn nhận mọi sự việc với cung cách đơn giản gần như trẻ thơ, cho phép anh đi theo một con đường không thay đổi, chắc chắn không bị những hành động tàn ác tấn công. Nó cho phép anh tin rằng chỉ cần lật sang trang, chôn vùi quá khứ hoặc nói chuyện với một bác sĩ tâm thần trong nhiều tháng về việc mẹ đẻ thèm ăn thịt mình là sẽ giúp chị vượt qua nỗi sợ, sống trong một cõi đời có những đồng cỏ xanh tươi và bầu trời xanh biếc, chống đỡ bằng những thiện ý đơn giản là nó phải như thế. Kỳ vọng hạnh phúc là một lựa chọn khiến chị ngỡ ngàng vì nó ngây thơ, gần như là xúc phạm.] Trích đoạn 2: [Toàn thân Amaia run rẩy. Chị cảm thấy các cơ lưng căng cứng, sự căng thẳng chạy suốt hệ thần kinh như một dòng điện, đổ về các đầu ngón tay, cho chị một cảm tưởng lạ lùng, bất cứ lúc nào chúng cũng có thể nổ tung, giải phóng sức sống mãnh liệt này. Bụng Amaia quặn thắt, miệng khô khốc, không khí trong xe không đủ rót đầy phổi chị. Chị đỗ xe bên ngoài nhà Markina, chắn lối ra, và trở lại con đường nhỏ lát đá, cảm thấy nôn nao theo từng bước, lúc tim chị đập thình thịch trong ngực, rộn ràng trong tai. Amaia bấm chuông, kiên quyết và ăn năn bằng nhau, chị hồi hộp đợi lúc cố làm dịu nỗi lo đang đe dọa nhấn chìm chị. Lúc Markina mở cửa, ông vẫn đi chân không, tóc ông đã khô, rối bù xõa xuống vầng trán. Ông không nói gì, chỉ đứng nhìn chị, mỉm cười bí ẩn. Chị cũng không nói gì, nhưng giơ bàn tay lạnh giá cho đến lúc những ngón tay chị chạm vào miệng ông, vào đôi môi mềm mại, ấm áp của ông. Dường như khóe miệng ông trở thành mục tiêu của chị, định mệnh của chị, nơi nghỉ ngơi duy nhất của chị. Ông siết chặt tay chị, như sợ bỏ lỡ mối kết nối này, rồi đẩy cửa khép lại sau chị, đưa chị vào trong nhà. Đứng trước mặt ông, những ngón tay chị ép vào môi ông, chị ngập ngừng vài giây, tìm lời có nghĩa để nói, nhưng chị biết lúc này không thể cất nên lời, chị phải chịu thua một giọng nói khác, một ngôn ngữ khác, và như một người ngoài cuộc, chị chưa bao giờ có thể chia sẻ với ai. Rút tay khỏi môi ông, chị soi mình trong mắt ông, nó nhìn lại chị với vẻ sợ hãi và phấn khích. Chị táo bạo tiến tới, cơ thể họ bùng nổ, mắt nhắm lại, ông ôm chị, run rẩy. Ngước nhìn Markina, Amaia biết rằng chị có thể yêu người đàn ông này… Chị tuột chiếc áo khoác ướt và nắm tay ông, đưa ông tới phòng ngủ. Ánh sáng lọt qua tấm rèm chỉ đủ để nhận ra đường nét của đồ đạc nặng nề; chị kéo rèm, để bầu trời u ám chiếu sáng cả phòng. Lúc đứng cạnh giường, ông ngắm chị với một vẻ khiến chị phát điên, song ông vẫn không mỉm cười. Chị cũng thế. Mặt chị để lộ vẻ bứt rứt vì biết mình đang bầu bạn với một người ngang sức ngang tài. Chị đến gần hơn, đăm đăm nhìn ông, bị sự thống khổ mới mẻ chiếm lĩnh. Chị ngượng nghịu mơn trớn ông, mất tự tin khi nhận ra mình trong ông, nhận biết rằng chị ở đó vì lần đầu tiên trong đời, chị có thể thực sự bộc lộ bản thân, không chỉ trút bỏ quần áo mà cả gánh nặng cuộc sống ngượng ngùng, và lúc làm thế chị thấy mình phản chiếu trong ông như trong một tấm gương vậy. Chị biết mình chưa bao giờ khao khát bất cứ người nào theo kiểu này, chưa bao giờ trải qua sự mong mỏi nung nấu này với cơ thể một người đàn ông…] Trích đoạn 3: [Jonan Etxaide, Jonan, người bạn thân nhất của chị, có lẽ là người tinh tế nhất mà chị biết, đang nằm ngửa, tay chân dang rộng giữa một vũng máu lớn. Anh bị bắn hai phát. Một vào ngực như Montes nói, ngay dưới xương ức. Vết đạn đen ngòm và tương đối sạch, hầu hết máu chảy từ chỗ thoát ra. Phát đạn kia vào trán, để lại một vết tròn, làm mớ tóc màu hạt dẻ trên đỉnh đầu anh bết lại thành một đống đông cứng. Amaia tới gần, vẫn nắm chặt vũ khí và sửng sốt thấy nhiều cảnh sát khác trong phòng khách. Vào lúc đó, Amaia đã cố hết sức không thở, song không thể giữ lâu hơn được nữa. Chị hít vào, đem lại sự sống cho sinh vật đó, nó dâng lên tận cổ họng, làm chị nghẹn thở lúc há miệng và đành để nỗi kinh hoàng trong lòng mình thoát ra. Amaia cảm thấy đang bị ngạt thở. Nỗi đau mãnh liệt đến mức làm mắt chị ngứa ngáy lúc ngụm không khí cuối cùng rời khỏi phổi chị, nung đốt cổ họng chị. Đầu chị quay cuồng, và chị quỵ xuống cạnh tấm thân không còn sự sống của Jonan Etxaide. Rồi, nỗi đau nặng trĩu trong lòng chị đã thoát. Khi những giọt lệ trào ra, Amaia ngả người, mở mắt và trông thấy bàn tay nhợt nhạt của Jonan đặt trong vũng máu đen ngòm, gương mặt tuấn tú của anh đeo mặt nạ của người chết, khuôn miệng tái nhợt của anh hé mở, đôi môi không còn màu sắc. Cơn đau nhói khiến chị siết chặt tay vào ngực. Chỉ đến lúc đó, Amaia mới nhận ra mình vẫn đang cầm súng. Chị nhìn xuống, không biết nên để vào đâu… Chúng ta không có kinh nghiệm để nhận ra điều đó. Có một khoảnh khắc, một sự kiện, một lời nói, một cử chỉ, một cuộc điện thoại làm thay đổi mọi thứ. Khi nó xuất hiện, khi nó xảy ra, khi được nói nên lời, nó phá vỡ nguyên tắc chúng ta tưởng đang dẫn dắt cuộc sống của mình, khiến ta phải đối mặt với thực tế, phá hủy mọi dự định ngây thơ cho tương lai. Mọi thứ ta ngỡ là vững chắc đã sụp đổ, mọi nỗi lo toan trên đời dường như ngớ ngẩn, vì thứ bất biến duy nhất là sự hỗn loạn buộc ta phải chịu thua một cách nhún nhường trước uy quyền tối thượng của thần chết. Amaia không thể ngừng nhìn cái xác, nếu không trí lực của chị sẽ ngay lập tức phủ nhận và gào lên: không, không, không! Vì thế, chị bắt mình phải nhìn, dằn vặt mình bằng cảnh tượng mắt Jonan nhắm nghiền, da anh, môi anh tái nhợt, lúc này khô nứt, những cái lỗ đen sì khủng khiếp, nơi cái chết lọt vào, thứ máu quý giá của anh đông bết lại thành vũng đen sì, nhầy nhụa. Chị vẫn quỳ cạnh anh, không nhúc nhích, ngắm gương mặt của người bạn thân nhất, chịu thua cảm giác đau thương đã bắt chị làm con tin, chị nhận ra mình sẽ không bao giờ phục hồi vì cái chết của Jonan, nỗi đau mất anh sẽ vĩnh viễn như một cái gai nhọn trong tim chị. Nhận thức này giống như một gánh nặng, song chị phải tiếp nhận tai họa, cảm kích vì đã quen biết anh một thời gian và nuối tiếc vì anh đã ra đi mãi mãi.  NXB Phụ Nữ Mời các bạn đón đọc Lễ Vật Kinh Hoàng của tác giả Dolores Redondo & Đinh Thanh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nàng Betty Đen
Với những người Mỹ da đen, thời điểm lúc này là trông chờ một tín hiệu lạc quan. Thế nhưng chàng cựu thám tử Easy Rawlins lại nhìn thấy hiện tại đen tối, tương lai mù mịt. Bình thường gã phải ném quăng trả lại hai tờ trăm đô la vô mặt tên cớm nhếch nhác này, hắn là một tên cớm da trắng đang cần gã truy tìm tung tích nàng Betty đen kiều diễm nước da ngăm đen, quyến rũ như một phụ nữ đa tình mơ ước được giàu sang và chiếm đoạt bọn đàn ông. Nàng giã từ khu phố Fifth Ward ở Huston để đến đô thị sang trọng của giới thượng lưu ở Beverly Hills. Còn nhiều bí ẩn Easy chưa nghe kể, thế mà gã không thể từ bỏ ý định gặp lại nàng Betty cho dù phải liều mạng. *** Bộ sách về Easy Rawlins gồm có:  Con Quỷ Áo Xanh Bướm Trắng Nàng Betty Đen ... *** Walter Mosley là nhà văn Mỹ da đen, tác giả nhiều tập truyện trinh thám huyền ảo. Ông là một tác giả được tổng thống Bill Clinton ưa chuộng nhất với lối viết trang nhã, lôi cuốn người đọc. Nhân vật chính trong những tập truyện trinh thám của ông là nhà thám tử Easy Rawlins. Ông đã từng được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn trinh thám Mỹ, thành viên Ban giám khảo giải sách hàng năm, sáng lập viên Hội sách Trung tâm văn bút Mỹ. Hiện ông là nhà văn trinh thám hàng đầu ở Mỹ, tác phẩm của ông được báo New York Times xếp hạng bestseller. Liền sau đó các tác phẩm nổi tiếng ra đời: Cái chết đỏ; Nàng Betty đen; Bướm trắng; Thủ lĩnh Jones v.v... *** Bọn chúng đang đứng chờ dưới ánh đèn vàng trong ngõ hẻm phía sau quán rượu John. Gã Bruno Ingram, biệt danh Bàn Tay Lớn, thân hình vạm vỡ đang đứng im với vẻ mặt vênh váo. Gã mặc bộ đồ vét may bằng hàng mohair, phía trong không có áo sơ mi, đầu để trần. Tay đứng gần bên dáng người nhỏ con, trông bộ đồ bó sát người sáng như bạc, tôi đoán loại hàng nhập của Ý. Tôi đứng núp sau lối của ra vào lắng nghe bọn chúng trao đổi một lúc. “…Dodge thua cuộc” - Mouse - tên nhỏ con vừa nói. Trông hắn có vẻ hài lòng. - Cậu còn nợ mình hai lăm cent. “Đến đây, Sooky” - một giọng nói vô hình vẳng lên từ giữa đường phố. Giọng nói một chàng thanh niên. “Đâu có, Alfred” - một giọng nói của phụ nữ trả lời nghe rõ từng tiếng. Nhưng đoạn sau, tôi không nghe được nàng nói gì. Gã Bruno đổi giọng: - “Cút đi ngay, đồ âm binh”. Tôi quay lại, một cảm giác sợ hãi trỗi dậy trong người - Mẹ kiếp! Mi bú con… đen thui của tao đây nè. Tôi muốn la lên một tiếng, nhưng cổ họng như nghẹn lại. Mouse xô đẩy Bruno, hắn chỉ muốn giữ một khoảng cách vừa đủ để rút khẩu súng ngắn nòng 41 ra. Bruno nhếch mép cười chợt vẻ mặt gã biến sắc như đứa trẻ lên tám có tội. Phát súng vừa vang lên gã đã lùi lại phía sau cả thước, hai bàn tay chìa ra phía trước y như gã mộng du trong truyện tranh. Người gã muốn ngã nhào xuống đất, khẩu súng trên tay Mouse, tiếp tục nhả đạn đẩy lùi Bruno dạt về phía cửa sau nhà hàng. Chợt nghe một tiếng thét vang lên, tôi bước đi loạng choạng giật lùi về phía cửa ra vào. *** Tôi giật mình choàng dậy giữa đêm khuya. Tôi ngỡ ngàng không rõ mình đang ở đâu. Tôi đang nằm trên tấm nệm thật êm, giương tay tìm chiếc đồng hồ nhưng bàn để đầu giường đâu mất. Tôi té ngã từ trên chiếc ghế ở bên ngoài bãi cỏ xuống thềm nhà. Rồi tôi nhớ lại không khí bên trong nhà nóng nực. Bọn trẻ Jesus và Feather phải cho chạy chiếc quạt gió từ ngoài cửa sổ thổi vào buồng ngủ của Jesus. Tôi hay thức giấc lúc hai giờ sáng, và lúc nào người tôi cũng ướt nhem mồ hôi. Tôi ngồi ngay dậy cố xua đi cơn ác mộng. Chuyện đó đã qua năm năm, cứ mỗi tháng tôi nằm mơ thấy cái chết của Bruno một lần, nhưng dạo sau này lại thường hơn. Tôi không thể quên được hình ảnh thằng bạn thân nhất, không thể quên được giây phút khi súng dồn Bruno vào chân tường. Tôi muốn nghĩ đến những chuyện tốt đẹp hơn. Đó là hình ảnh ngài Tổng thống người Ai- len, chuyện ngài Mục sư Martin Luther King, tình hình thế giới đang đổi thay và chuyện một anh chàng da đen sống ở đất Mỹ được công nhận là một người công dân chân chính trải qua mấy trăm năm nay. Trong cái thế giới đó, đang rung chuyển mỗi ngày vì các vụ thử hạt nhân ngầm dưới đất và chiến tranh chực chờ bùng nổ. Tôi đi ra phố, chợt thấy thằng bạn cũ Martin Smith nằm chết phơi thấy trên đường. Hắn là đứa học trò được thầy giáo quan tâm nhất. Tôi định đến thăm hắn từ lâu nhưng không hiểu vì sao tôi cứ tránh mãi. Tôi đang đứng giữa trời. Gió tháng chín càng thổi gắt. Gió mỗi lúc một nóng bức như đang thiêu đốt tâm hồn tôi. Tôi tưởng chừng như nghẹt thở hơn nhưng chẳng ai ngó ngàng tới - tất cả đều bỏ mặc tôi với cái xác chết vô tội kia nằm ngoài đường phố tối om. Nhìn về phía trên kia đường, vệt nắng sớm mai trải dài lấp lánh trên nóc, dãy nhà. Thật là một ngày tươi đẹp lại đến, nhưng không phải ai cũng được diễm phúc đón nhận. Gã Bruno đã yên phần dưới nấm mồ năm năm rồi, còn Mouse thì đang rên siết trong nhà tù ở Chino vì can tội ngộ sát. Tôi cũng là một tù nhân đây. Tù nhân của tội lỗi, tù nhân của vô thức. “Có phải ông Rawlins?” - giọng nói lạ vừa cất lên. Tôi lại giương tay tìm khẩu súng ngắn để trên bàn tại đầu giường. Nhìn lại tôi không còn ở trong phòng ngủ. Tôi đang trần truồng, không có chăn đắp, nằm một mình trong bóng đêm ngoài trời. Tay tôi nắm lấy cái gạt tàn bằng đất sét Jesus nắn nót làm ra trong những ngày đi trại hè. “Ai vậy kìa?” - tôi cố giữ vẻ bình thản. Tôi nhìn rõ bóng hình in trên tấm màn cửa là một gã đàn ông. Tôi giật lấy tấm drap dưới sàn quấn vào thắt lưng mình. “Saul Lynx đây! Thưa ông Rawlins” - Tôi biết hắn là một tên da trắng. - “Ông có thể nói chuyện một chút được chứ?”. “Hở? Sao?” - Tay tôi nắm chặt cái gạt tàn đất sét đến nỗi bể vụn nghe răng rắc. “Tôi biết giờ này còn sớm” - tên da trắng vừa nói “Nhưng tôi cần phải gặp ông. Tối qua mới biết được tên ông. Tôi đứng chờ bên ngoài lần theo địa chỉ từng nhà, lúc tìm ra được thì ông đã lên giường ngủ. Ông biết đó, cho đến bây giờ tôi mới nói cho ông nghe được”. “Vậy sao ông không cút đi sáng mai trở lại đây có được không?”. Tôi dồn tất cả sức mạnh vào cánh tay để ném cái gạt tàn qua tới chỗ màn cửa. Nếu thò tay đẩy then cửa thì chỉ có nước chết. Gã không tỏ vẻ giận dữ, gã lại nói “Tôi đến đây giới thiệu cho ông một chỗ làm. Nội bữa nay - sáng hôm nay. Ông có thể mở đèn cho sáng sủa được chứ?”. Tôi không muốn ai nhìn thấy mình đang trần truồng. Tôi rất dị ứng nếu có ai nhìn thấy được da thịt tôi. Tôi muốn nằm im một chỗ trong bóng tối tôi chợt hiểu ra tôi không thể im lặng một khi có ai đó đã biết mình đang ở đâu. Tôi quân tấm drap quanh người như chiếc áo choàng dân châu Phi rồi bước tới sau cánh cửa và bật đèn. Tôi nhìn thấy Lynx đứng núp dưới ánh đèn mờ nhạt phía ngoài tấm màn che. “Cho phép tôi vô nhà được chứ?” - Gã vừa cất tiếng. “Ông vô đây”. - Tôi gắt giọng Người gã nhỏ thó mặc bộ đồ vét màu nâu nhạt, thắt cà vạt nâu để hờ. Chiếc mũi to nổi bật trên khuôn mặt xấu xí, nhô lên một đống. Hắn đội mũ màu nâu, mặc bên trong chiếc áo sơ mi trắng tiệp với nước da nhợt nhạt. Đôi mắt hắn xanh sáng rỡ. Thấy tôi, Saul Lynx cười gật đầu, tôi không thèm bắt tay hắn. “Ông không cần phải bắt tay”. - Gã đứng nhìn theo chiếc gạt tàn. - “Tôi không ngạc nhiên khi ông ngủ ngoài trời. Hồi còn nhỏ, những ngày hè nóng bức tôi ngủ ngoài cầu thang thoát hiểm thích hơn là ở trong nhà”. “Ông cần việc gì đây?”. - Tôi gắt giọng vì tôi không còn kiên nhẫn để nói chuyện vớ vẫn. “Như tôi đã nói” - gã nhắc lại, giọng lạnh tanh. “Tôi đến đây giới thiệu ông một việc làm. Tôi có một thân chủ đang cần gấp người đi tìm một phụ nữ mất tích”. Ngoài đường phố Genesee, trời đã sáng tỏ. Tôi nhìn thấy rõ bóng cây minh quyết bên kia đường và bãi cỏ cắt xén gọn của nhà hàng xóm. “Ta ngồi xuống nói chuyện được không?” - Saul Lynx gợi ý với tôi. “Có việc gì quan trọng, ông nói cho hết rồi ra về. Tôi có con nhỏ nên không thích người lạ vào nhà như thế này”. Nhìn Saul Lynx cười tôi ngỡ đâu hắn là nhân viên mai táng thành tâm cười tiễn đưa người chết. “Ông có nghe nói tên một người phụ nữ là Elizabeth Eady bao giờ chưa?” - gã hỏi. Nghe qua, tôi chợt nhớ lại từ cõi vô thức. Nó trùng hợp với thời điểm tháng Chín mùa ẩm thấp cùng với những giấc mơ hàng đêm. “Bà sống ở L.A. hai mươi lăm năm nay, quê quán thì ở Houston”, gã kể lại. - “Hình như là hàng xóm với ông. Tôi còn giữ một tấm ảnh đây”. - Gã chìa ra một tấm ảnh cũ mèm. Tấm ảnh sẫm màu nâu nhạt thay vì ảnh đen trắng. Ảnh chụp theo kiểu lấy liền. Người phụ nữ trẻ đứng trước thềm cửa ngôi nhà nhỏ hẹp. Nàng cười đứng tựa lưng một bên cửa có vẻ ngượng nghịu. Thân hình nàng cao ráo, nước da ngăm ngăm, cho dù có tô một lớp phấn hồng cũng không che được màu da sạm của nàng Betty. Môi miệng nàng hé mở như muốn trêu ghẹo anh chàng phó nhòm. Black Betty không phải là mẫu người phụ nữ đảm đang, mà là mẫu người thích chơi bạo. Nhiều tay đã gục ngã dưới chân nàng. Nếu ai có một người bạn theo tán tỉnh nàng Betty thì hãy khóc giùm cho hắn, bởi nếu không chết thì cũng bị thương. Nàng có ma lực dìm đắm đàn ông và nàng không che giấu cái ma lực đó. Nếu gặp một tay chơi mời nàng đi ăn uống, nàng ít khi từ chối. Bất kỳ ngày nào, thứ Hai, Ba, Tư, Năm - chơi suốt đêm. Betty không thích ngồi lì một chỗ, nếu qua ngày thứ Sáu túi tiền hắn rỗng tuếch - y như rằng Betty bỏ đi ngay. Từ trước đến giờ ít có tay chơi người da màu nào dám bao nàng ăn chơi xả láng. Tại nhà nàng ong bướm dập dìu hàng đêm. Nàng có thể làm tình với bọn da đen một tuần ba đêm là chuyện thường. Tôi đã từng nhìn thấy nàng lê bước chệnh choạng trên hè phố lát gỗ ở khu Houston Fifth Ward. Thuở đó tôi là một thằng nhóc mười hai tuổi ăn mặc lôi thôi, còn nàng đã là một phụ nữ chững chạc. Nàng mặc áo viền đăng ten màu đen, mang găng tay áo choàng lông thú. Đứng gần bên nàng, ngửi thấy mùi hương thơm nồng nàn tôi quên mất mình là ai. Hôm đó tôi đang đứng bên ngoài quán bar Corcheran ở phố Blanford Street. Lúc đó tôi cảm thấy thật khó chịu, lỗ mũi nóng ran. “Mày nhìn gì đó, nhóc kia?” - nàng quay hỏi tôi. “Nhìn bà đó”. “Mày thích nhìn cái gì?” Tôi phải lấy giọng mới nói ra được “Ờ… ờ… phải. Có lẽ bà đẹp nhất trên đời này”. “Có lẽ?”. Tôi chới với. Đáng lý tôi phải khen nàng là người đẹp nhất trần gian. Chỉ có nàng đẹp nhất thôi. Tôi đã bỏ lỡ dịp may được nói chuyện với nàng một lần nữa. “Lại đây, cưng” - người tình nàng vừa cất tiếng. Thay vì nghe theo, nàng bước lại hôn tôi - quanh môi. Nàng thè lưỡi ra khi tôi chưa kịp há miệng. Nàng buông ra lùi lại, tôi té nhào xuống đất. Bọn chúng đứng cười nhìn theo tôi, chỉ riêng Betty không thèm cười. Nàng đắm đuối vì đã áp đảo được tôi. Có một lúc nào đó tôi sẽ té nhào vì nàng một phen nữa, hoặc có khi lọt ra ngoài cửa sổ vì được nàng hôn. “Ông biết nàng chứ, ông Rawlins” - Saul Lynx hỏi. Tôi đang ngắm bức ảnh thì Dawn vừa tới. Tôi nhìn thấy chiếc xe chạy ngang qua bỏ báo ngoài sân và nhà bên cạnh. Vừa lúc đó một người đàn bà da trắng nhanh chân bước ra nhặt tờ báo. Đó là bà Horn, bà thường mất ngủ nên tính hay bồn chồn nôn nóng. Có lẽ bà ngồi chờ xe đưa báo chạy ngang qua từ nãy giờ. “Tôi không nhớ ra nàng”, - tôi đáp. “Được rồi…” - Gã nói giọng dề dà như thể không tin. - “Thôi được, chẳng sao cả. Ông chỉ cần tìm quanh trong khu phố người da màu thôi. Chúng tôi chỉ cần có vậy”. “Chúng tôi là ai vậy?” “Ông chỉ cần biết tôi là đủ rồi”. “Nàng làm nghề gì?” “Chả có nghề gì cả. Theo tôi biết, nàng giúp việc cho một bà suốt thời gian còn ở đây. Nhưng rồi câu chuyện bắt đầu từ đấy. Nàng Eady xin nghỉ việc, nay người chủ cũ gọi về lại”. - Saul Lynx nhếch mép cười đưa tay sờ mũi theo thói quen. - “Nàng không để lại địa chỉ liên lạc và trong danh bạ điện thoại không có tên Elizabeth Eady”. “Nàng làm việc cho ai?” “Tôi không cho phép tự nói ra được”. “Ơ… ơ… Ông tính trả công tìm được nàng là bao nhiêu?” “Hai trăm đô la đưa trước, tìm được nàng lãnh thêm hai trăm nữa”. Gã chỉ tay về phía tôi “Ông phải tiến hành ngay”. Theo tôi biết, người phụ nữ đứng ra trả tiền đang nôn nóng tìm cho được nàng Eady”. “Lấy gì làm bằng chứng ông biết rõ chuyện đó?” “Đấy, ông thấy chưa”, gã nói như muốn được thông cảm. “Tôi chưa hề gặp bà ấy. Bà ấy không quan hệ với các nhà thám tử. Luật sư riêng của bà ấy đứng ra nhờ tôi”. - Nói xong gã rút ra một xấp bạc đưa qua tôi. Tay tôi đang giữ cái gạt tàn còn tay kia cầm tấm ảnh. “Hai trăm đô la ứng trước”, gã vừa nói. Số tiền lớn hơn cả tài khoản tôi gửi trong băng. Đã có lúc tôi mừng vì có được thu nhập từ việc cho thuê một căn hộ chung cư. Năm 1948 nhờ món tiền trời cho, tôi tậu được cơ ngơi. Nhưng do lao vào mua bán nhà đất nên bị phá sản. Tôi cho thuê căn nhà đang ở. Mỗi tuần lễ ăn uống kham khổ thắt lưng buộc bụng cũng vừa đủ sống. Tôi buông cái gạt tàn xuống đỡ lấy xấp tiền. Tôi sờ thấy hơi ẩm vì gã vừa rút trong túi quần ra. “Tôi sẽ lo cho”, - tôi nói cho có. - “Tôi phải đi gặp ông luật sư đó trước rồi sẽ báo cho ông hay sau. Tên ông ta là gì nhỉ?”. “Chờ khi nào ông làm được việc rồi mới nói chuyện đó sau. Tôi sẽ cho ông ta hay là ông cần gặp có chút việc”. - Gã chẳng cần quan tâm đến ý kiến tôi vừa nêu, gã nói tiếp - “Nếu luật sư đồng ý gặp thì liên lạc với ông bằng cách nào?”. Tôi đọc số máy điện thoại gã nghe xong gật đầu. “Làm sao ông tìm ra tôi, ông Lynx. Địa chỉ tôi không nằm trong sổ danh bạ?” “Tên tuổi ông ai mà không biết, thưa ông Rawlins”. Gã móc ở túi sau chiếc ví cũ mèm ra. Gã lôi ra một tấm danh thiếp nhăn nheo cáu bẩn. Chỉ nhìn thấy số điện thoại, địa chỉ bờ biển ở Venise in nét chữ đen lấm tấm dấu mốc meo. Còn tên tuổi không thấy đâu. “Tên chỉ có vậy L- Y- N- X”, gã nói. “Khi nào tìm được cho tôi hay. Càng sớm càng tốt”. “Ông sẽ nghĩ sao nếu tôi không nhận số tiền này? Và vì vậy nên ông còn nợ tôi một việc”. Saul Lynx nhìn thẳng vào mắt tôi, nụ cười điềm nhiên trên gương mặt gã vụt biến. - “Biết đâu tôi nghĩ sai, nhưng tôi dám cuộc ông là mẫu người nói là làm. Dù sao còn có thêm hai trăm đô la nữa kia mà”. “Thế được rồi, nhưng làm sao ông dám tin tôi có thể tìm ra được một người phụ nữ lẫn trong số hai triệu rưỡi người kia? Ông nên cho tôi biết đôi diều về đối tượng đang tìm kiếm chứ”. - Tuy nói vậy nhưng tôi đã biết mọi ngõ ngách tìm ra nàng Betty, tôi chỉ muốn dò la gã da trắng này đã biết được những gì. Gã biết ý tôi định nói gì. Nụ cười thoáng hiện trên gương mặt gã. Chợt gã lắc đầu. “Tiếc là, ông Rawlins, tôi chỉ biết nàng có bạn bè trong xóm dân Negro. Biết đâu có người sẽ nhận ra nàng qua tấm ảnh ông đưa ra”. Tôi định trả tiền lại, chợt tôi nghĩ biết đâu gã sẽ đoán được ý đồ rằng tôi cũng đang khao khát nhìn lại nàng Betty, khi đã là một chàng trai chững chạc. “Tôi sẽ nói chuyện đó sau” - tôi đáp. Lynx đưa tay sờ trán giả vờ thân mật đáp chào. “Nhờ đấy”, gã nói. - “Tôi mong được tin sớm”. Gã nhếch mép cười rồi bước ra. Tôi dưng nhìn theo cho đến lúc gã ngồi vào trong chiếc xe ô tô nhỏ xíu sơn màu nâu. Gã vừa phóng xe đi, bà Horn bước ra - mặt mũi có vẻ bàng hoàng. Lúc nhìn thấy tôi quàng tấm drap quanh mình đứng ngoài trời vẻ mặt bà chợt biến sắc. Tôi không biết bà nghĩ gì trong đầu. Tôi cười gọi với theo, bà không nghe vội vã chạy vào nhà. Tôi cúi xuống nhặt từ báo lên liếc qua mấy hàng tin trên đầu. Nước Nga vừa cho nổ vụ thứ hạt nhân lần thứ ba trong một tháng. Mời các bạn đón đọc Nàng Betty Đen của tác giả Walter Mosley.
Thiên Nga Bạc
Với Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học người Dublin từng xuất hiện trong tiểu thuyết Bạc Mệnh, thời thế đã thay đổi. Khi Billy Hunt, người quen từ hồi học đại học, tìm đến nhờ Quirke đừng khám nghiệm tử thi người vợ đã chết của gã, ông biết có điều bất ổn. Dần dà, ông dấn sâu vào một thế giới đen tối của tệ nạn ma túy, của ám ảnh tình dục, tống tiền và giết chóc, một thế giới mà ngay cả thanh tra Hackett đáng gờm cũng chỉ có thể cho ông một dúm manh mối. Theo sau cuốn tiểu thuyết Bạc Mệnh được giới phê bình hoan nghênh nhiệt liệt, cuốn Thiên Nga Bạc đầy cuốn hút này càng khẳng định Benjamin Black là một trong những cây viết vô cùng đặc sắc và hấp dẫn của làng tiểu thuyết trinh thám đương thời. *** Tác giả Benjamin Black là bút danh của John Banville, nhà văn nổi tiếng người Ailen. Các tác phẩm của ông đã giành được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Man Booker Prize 2005 cho cuốn Biển Cả (The Sea). Hiện ông sống ở Dublin. Bộ 3 tác phẩm: Bạc Mệnh, Thiên Nga Bạc, Vượn Cáo Bạc Mệnh Lần đầu sáng tác với bút danh Benjamin Black, John Banville - tác giả từng đoạt giải thưởng Man Booker Prize - giới thiệu với bạn đọc nhân vật Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học hay cáu kỉnh đồng thời là một thám tử khó quên của thế giới tiểu thuyết trinh thám. Khoa nghiên cứu bệnh học của Quirke nằm ở tầng hầm một bệnh viện giữa trung tâm thành phố. Lãnh địa u buồn của ông là đấy: luôn yên tĩnh, tối tăm và chưa bao giờ vượt tầm kiểm soát của ông cho đến một ngày, giữa đêm hôm khuya khoắt, ông tình cờ bắt gặp một xác chết lạ xuất hiện ngay trong khoa của mình. Hơn thế nữa, chính người anh "cột chèo" của ông đang cố tình xuyên tạc nguyên nhân tử vong của nạn nhân... Thiên Nga Bạc Với Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học người Dublin từng xuất hiện trong tiểu thuyết Bạc Mệnh, thời thế đã thay đổi. Khi Billy Hunt, người quen từ hồi học đại học, tìm đến nhờ Quirke đừng mổ xác khám nghiệm tử thi người vợ đã chết của gã, ông biết có điều bất ổn. Cũng như mọi khi, ông nhất định phải tìm cho ra nguyên nhân bất ổn ấy. Dần dà, ông dấn sâu vào một thế giới đen tối của tệ nạn ma túy, của ám ảnh tình dục, của tống tiền vàichết chóc, một thế giới mà ngay cả thanh tra Hackett đáng gờm cũng chỉ có thể cho ông một dúm manh mối. Vượn cáo John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mulholland hay còn gọi là Bill Lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mulholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ quãng đời trước, nhưng nói chung Glass hài lòng với hiện tại. Để có được thông tin về người bố vợ, Glass đã thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là "Vượn Cáo". Từ lúc ấy, cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, "Vượn Cáo" bị sát hại, Glass quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** Quirke mở mắt nhìn bình mình màu xám. Ông đang nằm giữa thiên nhiên, dưới tán cây xanh ngắt. Người ông lạnh cóng, còn da mặt ẩm ướt vì sương mai. Cảm giác đau đớn, buồn bã mơ hồ lan tỏa trong ông. Ông tự hỏi trước khi nằm đây, phải chăng ông bị tai nạn, té ngã hay bị đánh cho bất tỉnh nhân sự. Một người cao lớn đứng lù lù trước mặt ông đang nói câu gì đó. Ông không hiểu anh ta nói gì. Đầu ông hoàn toàn mít đặc. Ông đang nằm ỳ trên ghế băng bằng thép. Phải, ông nằm trên ghế công cộng ở bờ kênh đào. Ông nhận ra điều đó nhờ nhìn thấy cây cầu Huband cong vồng trên nền trời u ám. Anh chàng cao lớn giơ bàn tay to tướng chộp lấy vai ông mà lắc. Lập tức đầu ông nhức buốt như có cục sắt nằm trong hộp sọ lăn từ bên này qua bên kia. Người kia hỏi: - Ông làm sao thế? Hóa ra đó là viên cảnh sát có thân hình cao lớn, vạm vở và khuôn mặt tròn, trắng bệch. Thái độ anh ta cứng rắn như người làm ngành này phải có, hoàn toàn không giống Hackett. Thấy Quirke cố ngồi lên, anh ta lùi xuống rụt tay lại. - Ông có sao không? Miệng Quirke khô đắng, bỏng rát. Ông phải cử động hàm một chút để tiết ít nước bọt dưới lưỡi rồi mới trả lời được. Ông bảo mình không sao, có lẽ chỉ ngủ quên mà thôi. Viên cảnh sát cộc cằn: - Tôi lay mãi mà ông không tỉnh. Ai bảo tối qua nốc rượu cho lắm vào. Quirke tự hỏi tại sao cảnh sát hay khiến người ta khó chịu. Thậm chí chỉ cần nghe ai đó nhờ chỉ đường, họ cũng nhíu mày, dữ tợn lạ thường như thể bị lăng nhục vậy. Muốn anh ta đi cho rảnh nợ, Quirke vờ nhắm tịt mắt lại. Quả nhiên, khi ông mở mắt không còn ai đứng đó. Ánh sáng cũng thay đổi: ông thấy chói mắt hơn khi nãy. Ông vẫn nằm dài trên ghế. Chắc ông ngủ quên hoặc bị ngất. Ông ngồi dậy, lục túi tìm thuốc lá nhưng không thấy. Ông dần nhớ lại mọi chuyện. Hôm qua thứ ba, đáng lẽ tối ông phải đưa Phoebe đi ăn nhưng con bé đang ở nhà Mal, và ông không dám gọi điện cho nó. Ông đành một mình dùng bữa tại nhà hàng Russell và uống hết một chai rượu vang. Sau đó, ông sang quán rượu McGonagle’s mê mải uống whisky. Ông không nhớ là bao nhiêu ly nữa. Ông hoàn toàn không nhớ những gì xảy ra sau đó và không biết đã đến bờ kênh bằng cách nào. Ông ngất ngưởng đứng dậy, đầu nặng như chì. Có việc ông phải làm gấp. Nhưng đó là việc gì? Phoebe, phải rồi! Ông phải làm gì đó cho con. Dù không biết là việc gì, nhưng ông cứ phải làm cho bằng được. Phải cứu lấy con. Nó là máu thịt của ông. Nhất định ông phải tìm cách ổn định cuộc sống cho nó. Những từ ấy vang mãi trong đầu ông: phải che chở cho con, phải tạo dựng cuộc đời tốt đẹp cho con. Ông nhìn bao quát con đường trước mặt: tịnh không một bóng người. Nghĩ đến một ngày âm u dài lê thê đón đợi phía trước, ông thấy nản lòng. Ông cố nhúc nhích, lê chân bước, thoát ra khỏi chỗ này nhưng vô vọng: cơ thể bất tuân ý chí. Ông đứng chôn chân tại chỗ. Đi về đâu và làm gì lúc này là hai câu hỏi lớn lơ lửng trên đầu ông. Mời các bạn đón đọc Thiên Nga Bạc của tác giả Benjamin Black.
Phong Thanh
Phong Thanh là sự biến đổi của dòng "Tiểu thuyết mật thất", cũng là một trò ảo thuật nguy hiểm, nó có một sức mạnh kể chuyện to lớn... Đây là cuốn tiểu thuyết viết về những con người bình thường nhưng đã làm được những việc phi thường, là một bi ca về một ý chí của nhân loại. Truyện lấy bối cảnh năm 1942, khi Trung Quốc chịu sự xâm lược của Nhật Bản. Sau một loạt vụ ám sát nhằm vào các quan chức của chính phủ bù nhìn do Nhật Bản dựng lên. Kawa Hihara - Trưởng cơ quan đặc vụ nghi ngờ có nội gián trong nội bộ đã ra lệnh cho Tư lệnh Trương Nhất Đỉnh của ngụy quân triệu tập 5 người bị tình nghi về biệt thự Cầu Trang để tra xét. Nhóm 5 người đó (ba nam, hai nữ) đều là bộ hạ cũ của Tiền Hổ Dực, quan quân ngụy cả trước khi Trương Nhất Đỉnh lên thay: Ngô Chí Quốc – Trưởng ban tham mưu quân sự dưới trướng Tư lệnh Trương; Kim Sinh Hỏa – Trưởng ban cơ yếu quân sự, nắm cơ mật nòng cốt của toàn quân; Lý Ninh Ngọc, nữ, Tổ trưởng tổ dịch điện Ban quân cơ; nhân vật thứ tư là Bạch Tiểu Niên – quan tháp tùng của Tư lệnh Trương Nhất Đỉnh; cuối cùng là Cố Ninh Ngọc, nữ, là nhân viên của Lý Ninh Ngọc. Những kẻ tình nghi bị canh giữ cẩn mật, được đưa đi thẩm vấn riêng biệt. Trò chơi mèo vờn chuột dần dần được đẩy đến cao trào. Những đòn tra tấn tấm lý và thể xác lần lượt được Kawa Hihara tung ra. Cuộc đấu trí để lật mặt “Lão Quỷ” ngày càng hồi hộp nghẹt thở, sự mưu trí của nhân vật nằm vùng cũng được thể hiện sâu sắc. Ngôn ngữ trong tác phẩm của Mạch Gia cao thâm khó lường, mỗi khi bạn tưởng rằng đã biết được sự thật, lại luôn cảm thấy nghi hoặc khi câu đố cuối cùng đã được giải mới cảm giác nút thắt như được mở ra. Tính cách nhân vật dưới ngòi bút của Mạch Gia vô cùng phong phú, không có những hạn chế như ở các nhân vật trong tiểu thuyết cùng loại, dường như mỗi nhân vật đều đáng để chúng ta suy nghĩ. Tác giả Mạch Gia sinh năm 1964 tại Phú Dương, Chiết Giang. Năm 1986 ông bắt đầu nghiệp sáng tác, nối tiếng với các tiểu thuyết dài kỳ như Giải mật, Lắng nghe trong gió, và Phong Thanh. *** 1 0 năm đã sắp trôi qua, cuộc sống của tôi vẫn giới hạn trong một vòng tròn nhỏ hẹp, không đến cơ quan làm việc, người thân và bạn bè đa số đều ở xa, chỉ có vài người bạn ở gần nhưng thường cũng rất ít giao du. Tôi khá thích cuộc sống cô độc này. Thực ra thì cũng không phải là thích mà là đành phải chịu. Một mình ở nhà cũng đã đủ khó chịu, nhưng ra ngoài phải chịu đựng những thói thường của người khác, hay để người khác nhường nhịn mình thì càng thấy khó chịu hơn. Tôi không uống rượu, sợ cãi cọ, cũng không bài bạc, đúng hơn là không biết, mà hễ ngồi xuống là chỉ thích đàm đạo chuyện văn chương, muốn tìm một người cùng sở thích như vậy có lẽ còn khó hơn tìm đồng chí. Đồng chí còn có thể gặp ở câu lạc bộ hay những nơi hoạt động cố định nào đó, ở Thành Đô, nghe nói chỗ bảng đọc báo ở trước cổng Tòa soạn Nhật báo Tứ Xuyên là nơi hoạt động của cánh đồng chí, cũng chỉ là có chút ước định mà thành. Cảm giác như salon kiểu Anh trước đây. Thành Đô là một thành phố hưởng lạc, đâu đâu cũng thấy quầy rượu, phòng trà, quán ăn từ hạng bét đến hạng sang đều có cả. Lương thấp lương cao, công nhân, trí thức đều có nơi tụ tập của riêng mình. Tôi đã từng sống ở bảy thành phố, vì vậy tôi có thể khẳng định rằng cuộc sống của người Thành Đô rất xa hoa, xa hoa giống như bông hoa anh túc, có phần phung phí, có phần lạ đời. Vậy mà tôi vẫn thấy rất tẻ nhạt, cùng con trai đánh bài, bói bài (kiểu chơi do tôi tự nghĩ ra), đánh cờ vua, cờ tướng đã trở thành thú vui chính của tôi. Thời gian của tôi ư? Ngoài thời gian nghỉ ngơi bình thường và dành cho cái gọi là công việc như đọc sách hay viết lách một thứ gì đó ra thì tôi không biết làm gì nữa. Nếu như nhất định phải nói thì đành chịu, có khi còn suy nghĩ lung tung. Lắng nghe trong gió (Âm mưu đen tối) chính là do nghĩ ngợi lung tung mà thành. Thực ra tiểu thuyết của tôi đa số là như vậy, chỉ dựa vào một chút sự thật rồi tưởng tượng thêm, không có tư liệu gì, cũng không có bất kỳ trải nghiệm thực tế nào. Cứ ngỡ như vậy sẽ chẳng có ai bắt bẻ hay phạt vạ mình, cũng chẳng sợ bị lịch sử lên án. Thế nhưng kỳ lạ là mấy bộ tiểu thuyết hơi có chút ảnh hưởng của tôi mấy năm gần đây, luôn có người bắt bẻ phạt vạ, họ tìm mọi cách để liên lạc với tôi, chỉ ra vô vàn những điều phi thực tế và sai lầm trong tác phẩm của tôi. Có người còn kỳ lạ hơn, nói rằng cuốn Giải mã của tôi viết về vị cha đẻ của kỹ thuật tên lửa Trung Quốc, Tiền Học Sâm. Sự kỳ lạ theo suốt hành trình và chắc chắn sẽ còn ở phía sau. Cuốn Nốt ruồi (Hắc ký) viết về một cô gái, trên ngực cô ấy có một nốt ruồi thần bí, đầy gợi cảm. Khi chạm vào nó còn khiến cô ấy bị kích thích hơn là sờ vào đầu nhũ hoa. Đây hoàn toàn là những thứ tưởng tượng, vậy mà vẫn có người tìm đến bắt bẻ, còn tìm ra một vị bác sỹ giống thế ngoài đời, tố cáo ông ấy đã tiết lộ bí mật. Thật là có lỗi với vị bác sĩ ấy, tôi là đàn ông hay đàn bà, ông ấy còn chả biết thì làm sao có thể tiết lộ bí mật cho tôi chứ? Cuốn Lắng nghe trong gió thì càng không cần phải nói, do sự bùng nổ phim truyền hình, số người đến tìm tôi kiếm chuyện thị phi càng nhiều, đến nỗi trong một thời gian dài tôi phải trốn về quê. Bởi vì người ta tìm tôi quá nhiều, đã làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của tôi. Trong số những người đó có một vị tướng quân đội quyền cao chức trọng, cũng có những nhân vật kiểu A Bỉnh, Hoàng Y Y, Trần Nhị Hồ trong cơ quan 701[1] hoặc là những hậu bối của họ. Trong số họ, có người đến với tư cách cá nhân, gia đình, có người đại diện cho cơ quan, đơn vị, có người đến cảm ơn tôi, có người đến lên án tôi. Thôi thì cảm ơn cũng tốt, lên án cũng được, tôi đều tiếp cả, muốn gặp, muốn giải đáp tất cả thắc mắc. Thực ra những điều tôi nói đều giống như nhau, chẳng thế mà một dạo tôi giống như chị Tường Lâm[2], không ít lần chỉ toàn là “chuyện cũ nói lại”. [1] Các nhân vật trong cuốn Lắng nghe trong gió của cùng tác giả Mạch Gia (Chú thích trong cuốn sách là của người dịch). [2] Một nhân vật vật trong truyện ngắn Chị Tường Lâm của Lỗ Tấn. Trong số những người đến tìm tôi có một người tìm tôi với mục đích có chút mơ hồ, không hẳn là cảm ơn cũng không phải là lên án tôi. Nói theo một ý nghĩa nào đó, ông ấy không phải đến nghe tôi nói mà là đến để nói với tôi. Ông ấy đến từ Thượng Hải, họ Phan, tên Hướng Tân, là một giáo sư hóa học của một trường đại học, năm trước vừa nghỉ hưu, giờ thơ thẩn và nhàn rỗi ở nhà. Ông ấy tự đến, nhưng lưu lại trong cuộc đời tôi một dấu ấn thật đậm. Vào tuần đầu tháng Giêng năm ngoái, giáo sư Phan nhận lời mời đến giảng bài tại trường Đại học Sư phạm Tứ Xuyên, trong thời gian đó nhờ bạn bè của tôi liên lạc với tôi, và bạn tôi đã đứng ra mời chúng tôi cùng ra ngoại ô ăn một bữa cơm dã ngoại. Trong bữa ăn, giáo sư đàm luận chuyện văn chương, lời hay ý đẹp nhiều vô kể, ông đã để lại cho tôi ấn tượng sâu đậm. Thậm chí ông ấy còn tài tình và khéo léo gắn nghề viết tiểu thuyết của tôi với nghề hóa học của ông ấy, hai thứ khác nhau một trời một vực. Ông nói rằng, tiểu thuyết hay cũng chính là hóa học, là xử lý cuộc sống theo hóa học. Ngược lại, tiểu thuyết dở thì là vật lý, nghiêng về sự thật, rập khuôn cuộc sống vân vân. Đúng sai không bàn tới, nhưng cách nói mới mẻ, khiến người nghe khó quên. Trong bữa ăn, chúng tôi cũng nói về bộ phim truyền hình Lắng nghe trong gió, ông bảo rằng ông vừa xem Đài Truyền hình Thượng Hải chiếu xong, mỗi ngày ba tập, ông xem liền một mạch không bỏ tập nào, sau đó còn mua đĩa xem lại phần ba Người bắt gió, với học vấn và kiến thức của ông, một thứ mà đã xem đến hai lần thì thứ đó cơ bản đã thành của ông ấy, tình tiết lớn bé, cả chi tiết nội dung đều thông hiểu hết. Ông không đưa ra bình luận tốt xấu, chỉ hỏi tôi câu truyện đó có xuất xứ không và khẩn cầu tôi nói thật. Với người bình thường tôi không cần phải nói thật, nhưng với một người trí thức như ông ấy, tôi lo rằng nếu nói dối và lừa bịp sẽ bị ông ấy nhận ra ngay, thêm nữa lại vướng tình cảm bạn bè, tôi không tiện nói bừa, đành phải nói thật. Thẳng thắn mà nói, câu chuyện trong phần đầu Kẻ nghe gió và phần hai Kẻ xem gió của cuốn Lắng nghe trong gió không có nguyên mẫu nhất định, ví dụ như gã mù A Bỉnh trong phần một, nguyên mẫu là một thằng ngốc ở quê tôi, tên gã là Lâm Hải, 40 tuổi vẫn chưa biết gọi bố mẹ, không thể tự lo liệu cuộc sống, nhưng thị lực của gã thì đáng kinh ngạc, mang tính bẩm sinh đặc biệt, đến cả vuông tròn cách xa mấy km, tính cách và gia cảnh của hàng chục nghìn người, gã đều có thể đoán được thông qua con mắt, đọc ra vanh vách. Công việc mà tôi đã làm chẳng qua chỉ là chọc mù mắt đôi mắt kỳ diệu của gã, để cho đôi tai của gã trở nên vô cùng thần kỳ. Còn về câu chuyện trong phần ba Người bắt gió, quả thực hoàn toàn là hư cấu, nếu như nhất định phải biết về xuất xứ, thì tôi miễn cưỡng đưa ra hai phương án: Một là từ bộ phim Thảm án trên sông Nile đọng lại trong ký ức tôi, hai là trò chơi giết người một thời thịnh hành tại Bắc Kinh. Cả hai kỳ thực chỉ là một, đều là cuộc tìm kiếm hung thủ trong một môi trường khép kín, thậm chí tôi còn hoài nghi bản thân cái sau bắt nguồn từ cái trước. Nói cho cùng là năm 2001, cơ quan tôi, đài Truyền hình Thành Đô muốn làm một phim mừng dịp 80 năm thành lập Đảng, phần tôi thì đảm nhiệm viết kịch bản, tôi đã lôi kéo anh bạn thân Hà Đại Thảo cùng viết hai tập phim ngắn mang tên Bầu trời dưới lòng đất, cần phải nói cảm hứng sáng tác chính là từ bộ phim Thảm án trên sông Nile, đó chính là lịch sử cách mạng hóa cốt truyện mà thôi. Hai năm sau, tôi học tại Học viện Văn học Lỗ Tấn, trong đám sinh viên rộ lên trò chơi giết người, tôi thấy rất thú vị, nổi hứng viết lại cuốn Bầu trời dưới lòng đất. Câu chuyện Người bắt gió thực ra là như vậy. Là tôi mượn cốt truyện kinh điển, dựa vào sở trường tư duy lôgic và niềm đam mê với công việc điệp báo, mà viết nên câu chuyện này. Giáo sư Phan nghe song, trầm ngâm khá lâu. Tôi đoán im lặng như vậy không phải là ông ấy không có gì để nói mà ông ấy có điều quan trọng muốn nói. Quả nhiên, sau một hồi trầm ngâm ông bắt đầu chầm chậm nói, bởi vì qua trầm ngâm ‐ trầm ngâm suy nghĩ, lời nói của ông quả nhiên đầy triết lý và có sức thuyết phục vô cùng, ông nói với tôi như thế này: “Trên thế giới này không có hai chiếc lá giống nhau, càng không thể có hai câu chuyện giống nhau, nhưng… Nói sao nhỉ, nếu anh hứng thú, tôi không ngại kể cho anh nghe một câu chuyện, thật một trăm phần trăm, có ghi chép lại trong lịch sử. Tôi không dám khẳng định, câu chuyện tôi kể hay hơn của anh, nhưng tôi tin rằng anh nghe xong sẽ rất ngạc nhiên. Có thể nói như thế này, trước khi anh viết nên câu chuyện ấy, Thượng đế đã thảo xong rồi. Tôi từng cho rằng, anh dựa vào tài liệu lịch sử để rồi thay hình đổi dạng viết nên câu chuyện của anh, nhưng nghĩ kỹ lại thì không phải như vậy, bởi vì anh đã vứt bỏ hết những thứ tinh hoa nhất, xuất sắc nhất trong tư liệu lịch sử. Xin lỗi anh, hãy thứ lỗi cho tôi nói một câu mạo phạm, cá nhân tôi cho rằng, tay nghề của anh còn kém Thượng đế rất nhiều.” Sau đó, trong vòng nửa tiếng đồng hồ, giáo sư đã kể cho tôi nghe câu chuyện của ông, nghe xong quả thực tôi cứ ngây ra. Đúng như vậy, câu chuyện ông kể hay hơn chuyện của tôi rất nhiều, hay gấp mười lần, gấp một trăm lần. Ngay lúc ấy, tôi yêu cầu ông kể lại tường tận một lần nữa. Ông bảo, người có tư cách nhất kể câu chuyện này nhất chính là đương sự của câu chuyện, rất nhiều người trong số họ hiện vẫn còn sống, trong đó có bố của ông. Ông nói với tôi, nếu như tôi thực sự hứng thú thì hãy đi cùng ông một chuyến, chắc chắn sẽ không uổng công vô ích. Hơn cả mong đợi, tôi đã thu hoạch được rất nhiều. Tôi tìm được nguyên mẫu của câu chuyện Người bắt gió. Cùng với niềm vui, tôi luôn miệng khen kỳ diệu: Một câu chuyện hư cấu hóa ra lại có nguyên mẫu! Chẳng trách có người đem tiểu thuyết của tôi ra để bắt bẻ. Trước đó, tôi luôn thấy kỳ quái, một người hầu như không bước chân ra khỏi nhà như tôi, chỉ trong lúc bột phát, nghĩ vẩn vơ viết ra câu chuyện mà lại có người tìm đến bắt bẻ? Bây giờ thì tôi đã hiểu, đó là do cuộc sống mênh mông hơn hư cấu. Tôi nghĩ quan hệ giữa hư cấu và cuộc sống giống như quan hệ giữa phép Cân đẩu vân của Tôn Ngộ Không với lòng bàn tay của Phật tổ Như Lai, anh cứ chạy đi, xem anh có thể chạy được đến đâu. Sau vụ này, tôi có lý do để tin rằng giáo sư Phan không đến với tôi một cách ngẫu nhiên, mà là có chủ ý, và dùng cách của riêng mình để đạt được mục đích: để tôi tự dựng lại cốt truyện về hình tượng Người bắt gió. Tôi phải thừa nhận, so với câu chuyện mà tôi đã hư cấu, câu chuyện này phức tạp hơn, ly kỳ hơn và cũng chân thực hơn. Bố của giáo sư Phan, cụ Phan cùng năm người khác nữa như cụ, sau nửa thế kỷ, với thời gian và địa điểm khác nhau, nhưng đều cung cấp cho tôi những nội dung giống như nhau, giống nhau đến mức như là chỉ có một người kể vậy. Trong trải nghiệm của tôi, đây là lần đầu tiên có chuyện ngoại lệ như vậy. Cho nên tôi cũng ngoại lệ tin tưởng và thản nhiên với tính chân thực của nó. Mời các bạn đón đọc Phong Thanh của tác giả Mạch Gia.
Bóng Đen - Bóng Đen Của Vầng Ánh Dương
Một phụ nữ trẻ bị ám sát ở bồn hoa trong công viên lâu đài hoàng gia. Vài ngày sau, một người chết trong cung cầu nguyện. Cảnh sát trưởng Axel Beaumont chịu trách nhiệm điều tra, sẽ phải tìm ra hung thủ "giết người hàng loạt" này trước khi hắn tiếp tục gây thêm những nạn nhân mới. Phải chăng đó chỉ là tác phẩm của một kẻ khốn quẫn đơn thuần hay những án mạng này có liên quan đến lịch sử của tòa lâu đài? Những phiến đá cổ xưa lầm lũi kia chứa đựng điều bí mật ghê gớm gì kể từ thời kỳ tráng lệ xa hoa của vị Vua vĩ đại Louis XIV? *** Án mạng trong sân rồng của Vua-Mặt Trời. Một phụ nữ trẻ bị ám sát được tìm thấy tại một trong những bồn hoa trong công viên lâu đài hoàng gia. Vài ngày sau, lại một người nữa chết trong cung cầu nguyện. Cảnh sát trưởng Axel Beaumont, chịu trách nhiệm điều tra, sẽ phải tìm cho ra hung thủ “giết người hàng loạt” này trước khi hắn tiếp tục gây thêm những nạn nhân mới. Liệu chăng đó chỉ là tác phẩm của một kẻ khốn quẫn đơn thuần hay những án mạng này có mối liên quan với lịch sử của tòa lâu đài? Những phiến đá cổ xưa lầm lũi kia chứa đựng điều bí mật ghê gớm gì kể từ thời kỳ tráng lệ xa hoa của vị Vua Vĩ Đại Louis XIV? Được xuất bản tháng 11 năm 2005, Bóng đen của vầng ánh dương đã đạt giải của Quai des Orfèvres 2006. Giải thưởng này được trao cho cuốn tiểu thuyết trinh thám hay nhất trong năm của một nhà văn viết bằng Pháp ngữ. Năm nay, Christelle Maurin vinh dự được nhận giải này nhờ một tác phẩm mang đầy tính hiệu quả và thông thái. Nữ tiểu thuyết gia đã mang đến cho bạn đọc một sự hồi hộp, thú vị và nhất quán từ đầu đến cuối tác phẩm. Quá khứ – hiện tại, hiện tại cho bạn – quá khứ, Maurin luân chuyển nhuần nhuyễn những sự kiện phức tạp, đôi khi quá rối rắm thông qua các nhân vật của mình, thông qua những cuộc hội thoại say mê của họ, sự hiểu biết của họ về lịch sử cung đình, lịch sử nước Pháp. Chính vì thế, tác phẩm thu hút được tất cả những ai thích tìm hiểu về gia đình Hoàng gia và các đời Vua Pháp, ngoài ra nó còn nắm bắt được cả một lượng bạn đọc đông đảo nhờ lối viết đơn giản, súc tích và cách dẫn chuyện tài tình. Cũng giống như nữ hoàng tiểu thuyết trinh thám Pháp Fred Vargas hay Dan Brown, Christelle Maurin xem ra muốn xâm nhập vào làn sóng của những bí mật văn hoá truyền thống. Là người có khiếu viết văn từ khi còn rất trẻ, mới tám tuổi, Maurin đã cầm bút sáng tác truyện, nữ tiểu thuyết gia trẻ tuổi này đã đem đến một làn sóng mới cho làng trinh thám Pháp bằng câu chuyện mang màu sắc xã hội – chính trị của mình. Nhà xuất bản Công an nhân dân trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Paris ngày 12 tháng 06 năm 2006 Hiệu CONSTANT *** Sau nhiều cuộc thương thảo trên đảo Faisant giữa Hồng y giáo chủ Manzarin và Bộ trưởng Tây Ban Nha Don Luis de Haro, cuộc hôn lễ của Vua Louis thứ XIV với người em họ của mình là công chúa Tây Ban Nha Marie-Thérèse mới hoàn toàn ngã ngũ. Hôn lễ được cử hành vào tháng 6 năm 1960, tại nhà thờ Saint-Jean de Luz. Khắp nơi bàn tán xôn xao. Hai triều đình Pháp, Tây Ban Nha, cùng các vương tước kèm các lệnh bà ăn vận ngất trời đến chen chúc nhau vào tận các ngõ hẻm chật chội nhất của thành phố nhỏ bé xứ Basque. Nghi lễ được dự đoán là rất xa hoa. Cuộc hôn lễ theo uỷ quyền diễn ra ở San Sébastian, trên lãnh thổ Tây Ban Nha. Đám đông đổ dồn vào nhà thờ và các khu vực lân cận. Quốc vương Philippe Đệ Tứ, vẻ mặt bình thản, trịnh trọng bước về phía ban thờ, công chúa khoác nhẹ cánh tay cha. Nàng chỉ mặc độc một bộ xiêm y bằng len trắng khiến đám nữ hầu đài các của nước Pháp che quạt cười khẩy. Nàng cũng bận khung độn váy nhiều vòng, khiến chiếc váy vốn đã nặng nề của nàng mang vóc dáng thật ấn tượng. Đó là một thiếu nữ còn rất trẻ, nước da lóng lánh, mắt xanh lơ và mái tóc màu vàng nhạt. Một vẻ đẹp chẳng có gì đặc biệt, khuôn mặt nàng mang dấu ấn của kẻ cam chịu và hết sức bình thản. Vật thế chấp vì hoà bình, nàng sẽ cô đơn, một thân một mình trên đất khách, tựa như thần tượng được hiến tế cho vầng Ánh Dương. Ngày hôm sau, nghi lễ chính thức được cử hành trên đất Pháp. Đoàn tháp tùng hoàng tử ăn vận cực kỳ lộng lẫy tiến vào nhà thờ. Hồng y giáo chủ Manzarin, bận áo chùng tím trịnh trọng bước lên. Ngài hoan hỉ đắc thắng: hoà bình đạt được trên vùng Pyrénées là do cuộc hôn thú này, chủ yếu là công của ngài. Ngài đã lấy lại được quyền lực cho mình, những nỗi nhục của ngài trong suốt thời kỳ La Fronde đã được báo thù. Tiếp đó là nhà Vua tiến tới, tuyệt vời trong lớp xiêm gấm vàng đính đầy đăng ten. Hai bắp chân ngài chắc nịch, uốn cong, mái tóc tốt, đen xoắn thành từng múi khiến nhà vua không phải dùng đến món tóc giả – một thứ tóc nhân tạo rất phổ biến trong triều đình ở thời kỳ đó. Những tiếng thì thầm nổi lên khi công chúa, bà hoàng mới của nước Pháp xuất hiện, được em trai nhà vua tháp tùng. Nhân dịp này, nàng diện một chiếc váy gấm màu bạch kim và chiếc áo choàng bằng nhung điểm những bông huệ tây. Hai mệnh phụ giữ chiếc vương miện phía trên đầu nàng. Đi liền sau đó là Anne d’Autriche, mẫu hoàng diện chiếc váy đen, gồm nhiều lớp voan điểm bạch kim, cùng tiểu thư De Montpensier, thường gọi là “Đại tiểu thư”, cô em họ của đức Vua. Buổi lễ diễn ra theo những tập tục của nghi thức, và hai vị tân lang tân nương thề nguyền đính ước hệt như người ta thường làm để hoàn thành một nghi lễ. Sau các lễ tiệc đình đám kéo dài cả ngày, bắt đầu đến nghi lễ động phòng. Tất cả cận thần triều đình đến kính cẩn trước chiếc giường rộng mênh mông mà đức Vua Louis XVI và công chúa Marie-Thérèse đang ngự trên đó, bất động dưới những lớp drap bằng đăng ten. Tất cả đều tráng lệ, hai người cố làm ra vẻ trịnh trọng và không dám nhìn nhau giống như những kẻ xa lạ. Sau đó những cận thần lui ra, và những tấm ri đô nặng nề buông xuống quanh giường, che chở sự thân mật thầm kín của cặp vợ chồng trẻ. Đêm tân hôn của những cặp vợ chồng hoàng gia diễn ra như thế. ••• Tất cả bỗng trở nên đen ngòm và bối cảnh vụt thay đổi. Cửa Saint-Antoine xuất hiện, sừng sững tự hào trấn ngay ở cửa ngõ Paris. Hôm nay nhà Vua sẽ hoan hỉ đi dạo lòng vòng trong thủ đô của mình, dẫn theo bà hoàng mới của nước Pháp. Cuộc diễu hành bắt đầu dưới tiếng hô hào cổ vũ của đám đông. Xuất hiện đầu tiên là các giáo sĩ thuộc dòng thánh Francois, dòng thánh Dominique, thánh Ausgustin, và thánh Carme, đeo những cây thánh giá và vác những cây nến. Theo sau là giới tăng lữ, kế tiếp là ba trăm cảnh sát và Thống đốc. Tiếp đến là những đoàn thương gia, những nhà đại diện cho quyền lực, những cấp bậc hành chính và tài chính tiền tệ. Trời ngột ngạt và cơn kích động tăng dần lên trong đám dân chúng đang sốt sắng chờ đợi những người trị vì vương quốc. Hồng y giáo chủ Mazarin huy hoàng rực rỡ ló ra, rồi đến nhập hội với mẫu hoàng Anne d’Autrice đang đợi ông. Tiếng vỗ tay vang lên gấp bội, khi đến lượt những quan hầu của vua. Các công tước và hầu tước diễu hành trong điệu bộ xa hoa tráng lệ. Sau đó bất ngờ, người ta nghe thấy tiếng kèn ầm vang đến đinh tai nhức óc. Nhà Vua đang tiến đến, rốt cuộc thì ngài cũng xuất hiện! Rực rỡ, đường bệ, ngài đĩnh đạc bước, rồi nhảy lên mình một con ngựa đen tuyền, được những người lính cận vệ hộ tống. Dân chúng trầm trồ thán phục khi Ngài đi qua. Ngài ăn bận hết sức xa hoa và điệu bộ kiêu kỳ đem đến cho Ngài vẻ bề ngoài của một ông hoàng được đám thần dân ngưỡng mộ. Phía sau vị vua trị vì là hoàng tử De Condé và Ông Lớn, em trai nhà vua. Sau cùng xuất hiện hoàng hậu trẻ Marie-Thérèse, ngự trên một cỗ xe vàng rực do sáu chú ngựa được thắng cương sang trọng kéo đi. Hiện tại, nàng đã ăn vận và vấn đầu theo lối Pháp. Kiểu này không hợp với nàng bằng cách trang điểm theo lối Tây Ban Nha của mình. Dưới vẻ mặt bề ngoài thật bình thản, nàng đang che giấu một nỗi phiền muộn cực độ do sự có mặt của đám đông kia và của thế giới xa lạ này đang mở ra ở phía trước. Bất chợt, quang cảnh bắt đầu xoáy tròn. Lúc đầu nhẹ nhàng, sau đó càng ngày càng nhanh. Trong lúc đoàn diễu hành vẫn tiếp tục con đường của mình, một tiếng sấm rền vang. Một lớp sương mù dày đặc tràn ngập sân khấu che khuất đám đông trang phục loè loẹt và một màn đêm đen kịt lạnh giá bắt đầu sụp xuống. Tiếng chuông chói tai của chiếc đồng hồ-đài báo thức xé tan sự im lặng. Hai con mắt hé mở, vẫn còn tối sầm do những ảo mộng trong đêm. Đồng hồ chỉ bảy giờ. Lúc này, đã đến giờ hành động. Mời các bạn đón đọc Bóng Đen - Bóng Đen Của Vầng Ánh Dương của tác giả Christelle Maurin.