Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vết Nhơ Của Người

Coleman Silk, một giáo sư đại học đáng kính, hẳn đã không bao giờ ngờ được rằng sau gần nửa thế kỷ qua mặt cả thế giới với một bí mật vĩ đại, cuộc đời ông lại bị hủy hoại bắt đầu từ một lời buộc tội ngớ ngẩn và dối trá: tội phân biệt chủng tộc. Vết nhơ của người là một bi kịch lạ thường, một kiệt tác đầy trăn trở về con người bị nghiền nát bởi những nỗi ám ảnh đạo đức và thanh tẩy của kẻ khác. Tràn ngập những hồi tưởng, những đối thoại, những suy nghĩ đẩy cốt truyện xuống hàng hầu như thứ yếu, nhạo báng pha trộn với trắc ẩn, lạnh lùng đặt kế bên cuồng nộ, Vết nhơ của người đã viết về thân phận con người với một sự mãnh liệt có thể khiến người đọc nghẹt thở. Lần theo cuộc đời đáng kinh ngạc của giáo sư Silk, Philip Roth, bằng một bút lực chưa bao giờ thất bại trong việc biến tác phẩm của mình trở thành một trải nghiệm đọc vừa thử thách vừa khoan khoái, đã đặt ra những câu hỏi quyết liệt về những thứ nhãn dán mà xã hội áp đặt lên con người, thậm chí cả về cái ranh giới phân chia thiện-ác mà từ lâu đã hằn sâu trong nhận thức nói chung. *** AI CŨNG BIẾT Chính vào mùa hè năm 1998 ấy mà ông hàng xóm Coleman Silk của tôi - ông này, trước khi nghỉ hưu cách nay hai năm, vốn là giáo sư môn văn học Hy La ở Đại học Athena trong thị trấn suốt hơn hai chục năm sau đó làm chủ tịch hội đồng giảng viên thêm mười sáu năm nữa - tâm sự với tôi rằng, ở tuổi bảy mốt, ông đang dan díu với một cô lao công ba mươi tư tuổi đang làm việc ở trường. Ngoài ra hai lần một tuần cô còn lau dọn trạm bưu điện thị trấn, một căn chòi gỗ nhỏ xám xịt trông cứ như nó từng che chở một gia đình dân ngụ cư tới từ Oklahoma khỏi những cơn bão cát hồi thập niên 1930 và, đứng một mình lẻ loi đối diện trạm xăng và cửa hàng tạp hóa bên kia đường, nó giương cao lá cờ Mỹ tại giao lộ của hai con đường sầm uất nhất cái thị trấn phố núi này. Coleman thấy cô lần đầu tiên khi cô đang lau sàn trạm bưu điện một ngày nọ ông ghé vào, vài phút trước giờ đóng cửa, để nhận thư từ - một phụ nữ gầy, cao, góc cạnh với mái tóc vàng nhuốm bạc cột gọn thành túm đuôi ngựa sau gáy và có nét mặt như tạc, kiểu tạc thô, thường đi liền với những bà vợ lam lũ, sùng đạo đã nếm trải những buổi đầu vất vả của miền New England, mẫu phụ nữ thuộc địa khắc khổ bị khóa chặt trong nền luân lý thống trị thời đó và tuân theo nó. Tên cô là Faunia Farley, và dù những nỗi khốn khổ mà cô phải chịu đựng là gì đi chăng nữa thì cô cũng giấu kín chúng đằng sau cái kiểu mặt xương xương vô hồn như thể nó che chẳng giấu điều gì mà chỉ toát lên một nỗi cô đơn mênh mông. Faunia sống trong một căn phòng tại trại bò sữa địa phương nơi cô phụ việc vắt sữa để trừ tiền thuê trọ. Cô từng theo học trung học trong hai năm. Mùa hè mà Coleman tâm sự với tôi về Faunia Farley và bí mật của họ cũng là mùa hè mà, khá trùng hợp, bí mật của Bill Clinton được hé lộ tới từng chi tiết đáng xấu hổ cuối cùng - từng chi tiết đời thực cuối cùng, sự sống động, giống như sự nhục nhã, ứa ra từ sự cay độc của cái dữ kiện cụ thể. Chúng ta chưa từng có quãng thời gian nào như thế kể từ vụ người ta vớ được ảnh khỏa thân của tân Hoa hậu Mỹ trên một số báo Penthouse cũ, những bức ảnh chụp cô ta tao nhã tạo dáng trong tư thế quỳ và nằm ngửa đã buộc cô thiếu nữ bị ô danh đó phải trả lại vương miện mà tiến bước trở thành một ngôi sao nhạc pop lớn. Năm chín mươi tám ở New England là một mùa hè của hơi ấm và ánh nắng tuyệt vời, còn ở môn bóng chày là một mùa hè của trận chiến huyền thoại giữa một nam thần home run da trắng với một nam thần home run da nâu*, còn trên cả nước Mỹ thì là mùa hè hơi nồng lòng mộ đạo, hơi nồng sự thanh khiết, khi chủ nghĩa khủng bố - vốn đã trở thành mối đe dọa bao trùm đối với an ninh quốc gia - được nối tiếp bằng trò mút c.., và một ông tổng thống trung niên trẻ trung, sung mãn với một nhân viên hăm mốt tuổi trơ tráo, đắm đuối chơi nhau trong Phòng Bầu dục như hai đứa mới lớn trong bãi đậu xe làm sống lại niềm đam mê cộng đồng cổ xưa nhất của nước Mỹ, về mặt lịch sử có lẽ là lạc thú bội bạc và tai hại nhất: sự đê mê của thói cao đạo. Trong quốc hội, trên báo chí, và trên các trang mạng, đám tởm lợm công chính thích gây chú ý, điên cuồng kết tội, lên án, và trừng phạt, hùng hồn lớn tiếng dạy đời khắp nơi: tất cả chìm trong một cơn cuồng loạn có tính toán với cái tinh thần mà Hawthorne (người, hồi thập niên 1860, sống cách chỗ tôi chẳng mấy dặm) đã nhận ra từ buổi đầu non trẻ của đất nước rất lâu về trước, chính là “sự ngược đãi”; tất cả bọn họ đều hăm hở tiến hành những nghi thức thanh tẩy khắc nghiệt sẽ cắt đứt con cu chổng ngược ra khỏi ngành hành pháp, nhờ đó khiến mọi chuyện trở nên thoải mái và an toàn đủ cho cô con gái mười tuổi của Thượng nghị sĩ Lieberman lại có thể ngồi xem ti vi với ông bố xấu hổ của nó. Không, nếu bạn chưa sống qua năm 1998, bạn không hiểu được thói cao đạo nghĩa là gì đâu. William F. Buckley, nhà bình luận cánh hữu được in ở một loạt các báo, viết, “Khi Abelard* làm điều đó, người ta có thể ngăn không cho nó tái diễn,” bóng gió rằng việc làm sai trái của tổng thống - ở chỗ khác Buckley lại gọi đó là “thói dâm dục vô độ” của Clinton - có thể được cứu vãn tốt nhất không phải bằng một biện pháp hiền lành như luận tội mà, tốt hơn là, bằng kiểu trừng phạt thời trung cổ đã được dành cho giáo sĩ Abelard do đám đồng sự thích giương dao của tay bạn đồng tu với Abelard, giáo sĩ Fulbert, thực hiện, vì cái tội lén lút quyến rũ và kết hôn với cháu gái của Fulbert, trinh nữ Héloise. Không như giáo lệnh của Khomeini kết án tử cho Salman Rushdie, ước muốn thiết tha của Buckley mong được thấy đòn trừng phạt bằng thiến hoạn nhằm răn đe này không kèm theo mối lợi tiền bạc cho bất kỳ thủ phạm tương lai nào. Tuy nhiên, nó được thúc đẩy bởi một tinh thần nghiêm nhặt không kém tinh thần của vị đại lão giáo chủ nọ, và nhân danh những lý tưởng không kém phần cao đạo. Đó là mùa hè ở Mỹ khi mà cảm giác buồn nôn trở lại, khi mà trò đùa cợt không ngừng lại, khi mà những suy đoán và đặt giả thuyết này nọ và lối nói cường điệu không ngừng lại, khi mà nghĩa vụ giải thích cho con cái về cuộc sống của người lớn bị gác lại để duy trì trong đầu óc chúng mọi ảo tưởng về cuộc sống người lớn, khi mà sự nhỏ mọn của con người đơn giản là nghiền nát tất cả, khi mà một thứ ma quỷ đã sổng chuồng trong đất nước và, ở cả hai phe, người ta ai nấy đều băn khoăn “Tại sao chúng ta lại điên đến thế?” khi đàn ông cũng như đàn bà, lúc thức dậy vào buổi sáng, khám phá ra rằng hồi đêm, trong một giấc ngủ đã đưa họ đi xa hơn nỗi ghen tị và thù ghét, họ đã mơ tới vẻ trơ tráo của Bill Clinton. Còn tôi thì mơ thấy một biểu ngữ khổng lồ được quấn theo kiểu trào lưu Dada, như một tác phẩm bao gói của Christo*, từ đầu này tới đầu kia của Nhà Trắng và mang dòng chữ MỘT CON NGƯỜI BẰNG XƯƠNG BẰNG THỊT SỐNG Ở ĐÂY. Đó là mùa hè khi mà - lần thứ một tỉ - sự lộn xộn, hổ lốn, hỗn độn đó cho thấy nó còn tinh tế hơn ý thức hệ của kẻ này và hệ đạo lý của kẻ khác. Đó là mùa hè khi mà con cu của một tổng thống hiện diện trong tâm trí của từng người một, và cuộc sống, với tất cả sự bẩn thỉu trơ tráo của nó, một lần nữa làm cả nước Mỹ rối loạn. Đôi khi vào một thứ Bảy, Coleman Silk sẽ gọi điện và mời tôi chạy xe từ chỗ tôi ở phía bên này núi sang chỗ ông sau bữa tối để nghe nhạc, hoặc để chơi bài gin rummy*, một điểm ăn một xu, hoặc ngồi trong phòng khách vài giờ và nhâm nhi ít cognac và giúp ông vượt qua cái mà với ông luôn là buổi tối tồi tệ nhất trong tuần. Đến mùa hè 1998, ông sống một mình trên đó - một mình trong căn nhà cũ lớn lát ván ghép sơn trắng nơi ông đã cùng bà vợ Iris nuôi lớn bốn đứa con - đã được gần hai năm, kể từ khi Iris bị đột quỵ và qua đời đột ngột trong khi ông đang mải chiến đấu với trường đại học về cáo buộc phân biệt chủng tộc do hai sinh viên trong lớp nhắm vào ông. Đến thời điểm đó Coleman đã ở Athena gần hết cuộc đời hàn lâm của mình, một lãng tử thành thị ngọt lịm như mía, cởi mở, sắc sảo, có chút gì đó của một chiến binh, chút gì đó của một nhà điều hành, chứ chẳng có mấy tí của một giáo sư mô phạm kiểu mẫu dạy tiếng Hy Lạp và La tinh (thể hiện qua Câu lạc bộ Hy La Thường đàm mà ông khởi xướng, theo kiểu tinh thần dị giáo, khi còn là một giảng viên trẻ). Khóa học tổng quan đáng nể của ông về văn học Hy Lạp cổ qua bản dịch - được gọi là GHM, viết tắt của Gods (thần linh), Heroes (anh hùng) và Myth (thần thoại) - rất được lòng đám sinh viên chính bởi nhờ tất cả những sự trực tiếp, thẳng thắn và đầy thuyết phục theo kiểu phi hàn lâm trong cách ứng xử của ông. “Các bạn biết văn học châu Âu khởi đầu thế nào không?” ông thường hỏi, sau khi điểm danh ở buổi học đầu tiên của lớp. “Bằng một cuộc cãi cọ. Toàn bộ văn học Âu châu nảy sinh từ một cuộc tranh luận.” Rồi ông cầm cuốn Iliad lên và đọc cho cả lớp nghe những câu thơ mở đầu. “ ‘Hỡi thần thi ca, hãy hát về nỗi uất hận tàn hại của Achilles... Khởi sự nơi họ lần đầu tranh cãi, Agamemnon vua của loài người, và Achilles vĩ đại.’ Và họ tranh cãi nhau về cái gì, hai tâm hồn bạo liệt, dũng mãnh ấy? Nó cũng tầm thường như một trận cãi cọ trong quán rượu. Họ cãi nhau về phụ nữ. Cụ thể là một thiếu nữ. Một thiếu nữ bị tước khỏi cha cô ta. Một thiếu nữ bị bắt cóc trong chiến trận. Mia kouri - cô ta được tả như thế trong cuốn sử thi này. Mia, như trong tiếng Hy Lạp hiện đại, là mạo từ không xác định ‘một’; kouri, tức cô gái, trong tiếng Hy Lạp hiện đại đã chuyển thành kori,có nghĩa là con gái ruột. Lúc này, Agamemnon mê thiếu nữ ấy hơn vợ mình, Clytemnestra. ‘Clytemnestra không đẹp bằng cô ấy,’ ông ta nói, ‘ở khuôn mặt cũng như vóc dáng.’ Điều đó chỉ ra rất rõ tại sao ông ta không muốn từ bỏ thiếu nữ này, phải vậy không? Khi Achilles yêu cầu Agamemnon trả cô gái lại cho cha cô ta để vuốt giận Apollo, vị thần vốn đang vì việc cô gái bị bắt cóc mà nổi đóa lên giết người đến nơi, Agamemnon từ chối: ông ta sẽ chỉ đồng ý nếu Achilles giao cho ông ta cô gái của anh để bù lại. Thế là Achilles bốc hỏa. Achilles bừng bừng sát khí: người đàn ông dễ nổi giận nhất trong số những gã man di dễ nổi khùng mà một nhà văn từng được sung sướng mô tả lại; đặc biệt khi chuyện đó lại liên quan đến uy tín và dục vọng của anh ta, cỗ máy giết người siêu nhạy cảm nhất trong lịch sử chiến tranh. Achilles lừng danh: cảm thấy cô độc và bị ruồng bỏ bởi một sự xúc phạm tới danh dự. Achilles anh hùng vĩ đại, người, bằng sức mạnh cơn thịnh nộ trước sự lăng mạ - sự lăng mạ vì không cứu được cô gái - đã tự cô lập mình, tự đặt mình một cách ngang bướng bên ngoài chính cái xã hội mà anh ta là người bảo vệ đầy vinh quang và sự hiện diện của anh là vô cùng cần thiết. Cuộc cãi cọ ngày ấy, một cuộc cãi cọ hung bạo về một thiếu nữ và thân xác trẻ trung của cô ta cùng những niềm khoái lạc của sự mê đắm tình dục: nó, dù xấu dù tốt, trong cái hành động xúc phạm quyền lợi của dương vật, phẩm giá của dương vật, của nguồn sinh lực sung mãn nơi một ông hoàng chiến binh, chính là cách mà nền văn học hư cấu vĩ đại của châu Âu khởi đầu, và đó là lý do mà hôm nay, sau gần ba ngàn năm, chúng ta sẽ bắt đầu ở câu chuyện của hai bọn họ…” Coleman nằm trong nhóm thiểu số người Do Thái trong đội ngũ giảng dạy ở Athena khi ông được nhận vào làm và có lẽ cũng là một trong những người Do Thái đầu tiên được phép dạy tại khoa văn học Hy La ở bất cứ đâu trên nước Mỹ; một vài năm trước đó, người Do Thái duy nhất của Athena là E. I. Lonoff, nhà văn viết truyện ngắn hầu như đã bị quên lãng và cũng là người mà, từ hồi tôi còn là một tác giả tập sự mới được xuất bản, vẫn còn chật vật và đang hăm hở tìm kiếm sự công nhận của một bậc thầy, tôi đã từng có một chuyến viếng thăm đáng nhớ. Trong suốt những năm tám mươi và lẹm cả vào thập niên chín mươi, Coleman cũng là người Do Thái đầu tiên và duy nhất từng công tác tại Athena trong vai trò chủ tịch hội đồng giảng viên; rồi, vào năm 1995, sau khi từ chức chủ tịch để quay lại sự nghiệp giảng đường, ông quay lại dạy hai lớp trực thuộc chương trình ngôn ngữ và văn chương tích hợp vốn đã nuốt trọn cả khoa văn học cổ điển Hy La và được giáo sư Delphine Roux điều hành. Trong vai trò chủ tịch hội đồng giảng viên, và với sự ủng hộ hết lòng của vị hiệu trưởng mới đầy tham vọng, Coleman đã dẫn dắt trường đại học cổ hủ, tù hãm, Lờ Đờ Trũng Thấp này và, không phải là không mạnh tay nghiền nát, đặt dấu chấm hết cho cái vai trò trang trại giải khuây cho các quý ông của nơi này bằng cách huỵch toẹt khuyến khích những người vô dụng trong số vệ binh già của hội đồng giáo sư tính chuyện về hưu sớm, và tuyển mộ những phó giáo sư trẻ nhiều tham vọng, đồng thời cách mạng hóa chương trình giảng dạy. Hầu như chắc chắn rằng đến lúc ông về hưu, tại bất cứ thời điểm nào mà ông muốn, và nếu không có rắc rối gì, thì hẳn sẽ có một tuyển tập những bài viết được xuất bản để vinh danh ông, hẳn sẽ ra đời một chuỗi Bài giảng Coleman Silk mở cửa cho công chúng, sẽ có một cái ghế trong khoa văn học cổ điển mang tên ông, và có lẽ - xét đến tầm quan trọng của ông đối với việc phục hưng nơi này trong thế kỷ hai mươi - cả tòa nhà dạy các môn khoa học xã hội hoặc thậm chí giảng đường North Hall, công trình trọng điểm của trường, cũng sẽ được đổi tên để vinh danh ông sau khi ông mất. Trong thế giới hàn lâm nhỏ bé này, nơi ông đã sống phần lớn cuộc đời mình, đáng ra ông đã thôi không còn bị ghét bỏ hoặc thậm chí sợ hãi hoặc trở thành chủ đề đàm tiếu, mà thay vào đó là được chính thức xiển dương mãi mãi. Mời bạn đón đọc Vết Nhơ Của Người của tác giả Philip Roth & Phạm Viên Phương(dịch) & Huỳnh Kim Oanh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đôi Điều Về Anh - Julie James
“Anh nói với ba mươi triệu người rằng em là người ngu xuẩn. Thật khôi hài, việc đó khiến một cô gái không còn hứng thú gì để trò chuyện một cách nghiêm túc.” “Đúng thế. Vậy bây giờ, chúng ta thế nào nhỉ?” “Em nghĩ chúng ta nên thảo luận về những quy tắc cho hoàn cảnh bây giờ. Anh sống trong ngôi nhà này cùng em.” “Đúng rồi, những ranh giới. Ý hay đấy!” … “Tôi xin lỗi! Tôi đã không nghĩ gì khi để máy yên lặng. Tôi xin lỗi vì đã để anh phải đi cả quãng đường đến đây chẳng vì cái gì cả. Cứ trừng mắt nhìn tôi như anh muốn, lần này anh thắng rồi!” Jack ngồi xuống ghế đối diện với Cameron. Cameron tiếp tục nói. “Tôi cũng muốn anh biết là cảnh sát Zuckerman đã ở quán bar đằng kia canh chừng tôi suốt buổi tối, vì thế, tôi chẳng có lí do gì mà nghĩ mình đang gặp nguy hiểm cả. Và tôi cũng muốn nói rằng, chẳng có thỏa thuận nào về việc tôi lúc nào cũng phải bật máy cả. Nếu anh muốn đó là một phần của việc bảo vệ thì anh nên nói rõ từ trước để tránh tình huống như thế này.” Ồ, có lẽ cô còn một tí chút sức lực cho lượt cuối này. Jack đặt tay lên bàn. “Đó là lời xin lỗi tệ nhất mà tôi từng nghe.” “Tôi có quyền để suy xét kĩ mọi việc. Dựa vào việc tôi chỉ có lỗi khoảng ba mươi phần trăm trong việc này, anh chỉ nhận được ba mươi phần trăm lời xin lỗi thôi.” “Tôi hiểu.” Cameron chờ anh ta nói thêm điều gì đó. “Thế thôi à? Tôi đã mong chờ nhiều hơn thế. Anh biết rồi đấy, càu nhàu và giận dữ.” “Tôi có thể thêm vào đó một số từ chửi thề, nếu cô muốn.”Cameron cười tươi. “Không cần thiết, nhưng cám ơn vì lời đề nghị.” ... Cho dù Cameron tỏ ra mạnh mẽ và đối đáp sắc sảo với Jack nhưng cô thật sự có tình cảm với anh. Chỉ mới hôm qua thôi - Chúa ơi, có thật sự là vừa mới hôm qua thôi không? Cô nói với Collin rằng giữa cô và Jack chỉ là sự hấp dẫn về thể xác. Đúng thế, cô đã lừa dối bản thân. Rồi rất nhiều chuyện xảy ra kể từ lúc ấy. Cô giao phó mạng sống của mình cho anh nhưng liệu có thể giao phó trái tim mình cho anh? *** “Có người muốn gặp cô, Cameron.” Cameron liếc nhìn đồng hồ trên máy tính để bàn. Mới hơn hai giờ, điều đó làm cô ngạc nhiên. Cô đã quá chú ý vào việc ghi chép các lưu ý trong đống dữ liệu của các vụ án đang đọc nên cô đã làm việc quên cả bữa trưa. “Cảm ơn, Elaine.Thế người này có nói tên không?” Cameron kiểm tra lại lịch làm việc của mình, cô không thấy bất cứ một cuộc hẹn nào cho buổi chiều hôm đó cả. Qua ống nghe, người lễ tân ở bàn ngoài hạ giọng thì thầm. “Tôi không được phép nói với cô.” Sau tất cả những gì xảy ra gần đây, Cameron không chắc là cô thích cái kiểu bí hiểm đó. Cô nhấc điện thoại lên. “Thế tôi có biết người đó không?” “Có! Chắc chắn rồi!” Elaine nói. “Thế tại sao tôi lại không thể đóan được người đó là ai?” “Tôi không biết, ông ta chỉ nhắn tôi gọi cô ra ngoài này. Ối trời, ông ta đang nhìn về phía này. Tôi phải dừng đây.” Elaine nhanh chóng cúp điện thoại. Cameron đặt điện thoại xuống. Cô xem xét các khả năng. Jack hay Collin? Dù là ai trong số họ thì người đó cũng sẽ phải đưa cô đi ăn trưa. Cô đang đói muốn chết rồi đây. Cameron đứng dậy và đi ra phía hành lang, tự hỏi không biết sự bí hiểm này là thế nào. Linh tính mách bảo cô rằng đó là Jack. Trong vòng một vài tuần qua, anh ghé thăm văn phòng của cô thường xuyên cả vì công việc lẫn lí do cá nhân. Mỗi khi nghĩ về Jack, Cameron lại mỉm cười. Từ khi Lombard bị bắt, hầu như mỗi tối, anh đã ở lại nhà cô, chỉ trừ một vài đêm cô ngủ lại căn hộ của anh. Họ bận rộn cả tuần, cả hai người đều bị cuốn trở lại công việc sau cái đêm xảy ra vụ tấn công, nhưng họ đã bù đắp lại bằng cách dành thời gian cho nhau vào các buổi tối và cuối tuần. Jack đã quyết định nhận sửa cái lan can cầu thang cùng một vài sự đổi mới cho ngôi nhà của Cameron, còn cô cũng quyết định hỗ trợ anh - nghĩa là cô ngồi trong góc, uống rượu và đọc một quyển sách trong bộ sưu tập của anh mà có vẻ như chúng đang từ từ chạy về nhà cô. Thỉnh thoảng cô ngó đầu lên và phá tan sự im lặng bằng những lời bình phẩm và sau đó, chỉ mới uống có hai chén nhưng cô đã bắt đầu chú ý tới những cơ bắp rắn chắc của Jack đang đanh lên dưới chiếc áo phông anh mặc và sự cuốn hút khó cưỡng lại khi mồ hôi nhễ nhại trên cơ thể anh và… ối trời, đột nhiên họ nằm trên sàn, mồ hôi ướt át, lấm lem mà chẳng hề động tới búa hay đinh. Tuy nhiên, Cameron rất thích được nói chuyện cùng anh, dù khi vừa ra khỏi rạp chiếu phim, ở một nhà hàng ăn tối hay nằm trên ghế sô pha và đầu cô tựa vào ngực anh khi anh kể về những vụ án trước đó còn cô thì chia sẻ với anh những ký ức về bố. May mắn thay, sự chú ý của các phương tiện thông tin đại chúng xung quanh họ có vẻ như đang lắng xuống - điều mà cả hai đều mong muốn. Câu chuyện giật gân nhất trong vòng hai tuần vừa qua trên tất cả các mặt báo là việc truy tố một luật sư liên bang và kéo theo đó là sự từ chức của ông ta. Xét một cách tổng quan, Cameron cho rằng việc bắt giữ Silas đã diễn ra khá êm ả. Buổi sáng thứ Hai sau vụ tấn công của Lombard, cô “ tình cờ” đứng bên ngoài đại sảnh khi Jack và Wilkins cầm lệnh bắt tới. Đã có rất nhiều tiếng la hét và chửi thề của Silas, đặc biệt là khi anh còng tay ông ta lại. Đứng ở phía xa cùng một vài trợ lý công tố viên, Cameron quan sát Jack khi anh làm việc một cách chuyên nghiệp và bình thản. Anh đã thì thầm điều gì đó chỉ đủ cho Silas nghe thấy, rồi ông ta gật đầu, môi dưới như đang run lên. Lạ thay, sau đó Silas đã hợp tác một cách ngoan ngoãn. Ngay sau vụ bê bối liên quan tới Silas là vụ của Grant Lombard, chung quy lại thì chẳng phải ngày nào cũng xảy ra việc vệ sĩ của một Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ bị bắt giữ vì tội giết hại một cô gái gọi trong khách sạn sang trọng bậc nhất Chicago. Việc bắt giữ này, không may đã đẩy Cameron và Jack vào tâm điểm chú ý: sau vụ tấn công, khó mà giữ kín việc cô chính là nhân chứng của vụ giết người. Cánh nhà báo đã nhanh chóng nhìn ra một mối liên hệ giữa Cameron và Jack từ lời nhận xét rõ ràng không-bao-giờ-có-thể-quên của Jack về cô ba năm trước đây. Mặc dù việc phát lại lời nhận xét của Jack thường dẫn đến những cái nhìn trừng trừng của anh, cá nhân Cameron thấy nó thú vị mỗi khi xem lại. Cameron thậm chí còn trượt ngã một lần khi anh cố gắng vật lộn để lấy cái điều khiển từ xa khỏi tay cô nhằm tắt bản tin lúc mười giờ. Lúc đó, cô đã trêu chọc anh một ngày nào đó họ nên cho con mình xem những thước phim này như là vật chứng nói lên tình yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên của họ. Khi Jack không lập tức bật dậy khỏi chiếc sô pha mà thay vào đó lại tỏ vẻ khá tình tứ sau lời nhận xét của cô, cô xem đó như một dấu hiệu rằng cô đã không làm anh điên tiết. ... Mời các bạn đón đọc Đôi Điều Về Anh của tác giả Julie James.
Chuyện Tình Một Đêm - Chi Xuyên
"Những điều được kể trong cuốn sách đều là những "Câu chuyện tình một đêm" có liên quan tới phụ nữ. Chỉ chọn viết về phụ nữ vì tôi cho rằng nguyên nhân đàn ông lựa chọn "chuyện tình một đêm" là quá đơn giản. Tình dục là xuất phát điểm và cũng là điểm quy tụ của đàn ông. Nhưng đối với phụ nữ lại khác. Những người phụ nữ đã từng được tôi phỏng vấn đều nói rằng nguyên nhân và cảm giác khiến họ nảy sinh "chuyện tình một đêm" rất phong phú, đa dạng. Có người thích buông thả, có người do nhất thời không kiềm chế nổi. Có người sau khi phóng túng lại ân hận hoặc vô cảm. Vì thế cuốn sách này là những ghi chép từng sự việc có thật, chứ không hề đưa ra bất kỳ một đánh giá nào đối với "chuyện tình một đêm". Trong quá trình viết, tôi cũng không hề đem tình cảm cá nhân lồng vào đó, mà chỉ cố hết sức thuật lại những điều được nghe một cách chân thực... ". (Tác giả Chi Xuyên - một phóng viên kinh tế). Trên thực tế, số người Trung Quốc đã từng trải qua "chuyện tình một đêm" cũng gia tăng nhanh chóng. Trong các phòng làm việc tập trung giới trí thức đẳng cấp cao ở Bắc Kinh, chỉ cần nhắc tới "chuyện tình một đêm", mọi người hầu như đều có thể kể ra những ví dụ có thật của bạn bè hoặc được nghe kể lại. Hiện tượng "chuyện tình một đêm" của phụ nữ rất đáng quan tâm. Vì từ những chuyện phỏng vấn được, có thể thấy phần lớn phụ nữ đều rơi vào trạng thái đau khổ dằn vặt. Có lẽ ở một số người, biểu hiện bề ngoài của họ rất "phớt đời", rằng thế nào cũng được, nhưng thẳm sâu trong lòng họ là xiết bao đau khô khôn nguôi. Nhưng tác giả hiếm khi nghe nói sau khi xảy ra "chuyện tình một đêm", đàn ông lại trở nên đau khổ và ân hận. Điều đáng phải nhấn mạnh là "chuyện tình một đêm" luôn đem lại cho phụ nữ những hậu quả nghiêm trọng. Vì một khi "sự việc" xảy ra, đương sự đa phần ở trong trạng thái cực kỳ hưng phấn và xúc động, nên luôn thiếu mất những biện pháp tránh thai cần thiết. Do vậy, hậu quả để lại khôn lường. Hơn nữa những hậu quả này đa phần đều do phụ nữ gánh chịu, đàn ông đã có ưu thế trời sinh. Để đạt được khoái cảm, họ gieo rắc tinh trùng vô lối, không thèm suy tính tới việc chúng có đâm hoa kết trái hay không. Sau khi giải quyết xong, họ thường tránh né trách nhiệm một cách nhẹ nhàng. Vì vậy đã có không ít các chuyên gia cho rằng, trong chuyện tình dục, đàn ông và đàn bà không hề bình đẳng. Nếu xảy ra "chuyện tình một đêm", phụ nữ thường rơi vào thế bị động. Trong thực tế đã chứng minh rằng, trong ấn tượng của mọi người, ngoại trừ khoái cảm và hưng phấn nhất thời ra, còn tồn tại một số vấn đề nghiêm trọng khác. *** Dư Lam, 26 tuổi, tài vụ công ty Đã rất lâu rồi nhưng tôi vẫn nhớ tới một cô gái có tên là Dư Lam. Cô không hút thuốc, không uống rượu-một cô gái hiếm có trong số những người tôi phỏng vấn. Hôm đó, cô mặc một chiếc váy liền màu trắng. Màu trắng tinh khiết khiến tôi cảm động. "Vẫn biết mặc đẹp thế". Cô cười khẽ, cười rất yếu ớt. Tôi nghĩ, chắc cô không quen cười. Ấn tượng sâu nhất đối với tôi là ánh mắt của cô, y hệt một đứa trẻ bất hạnh. Tinh khiết, yếu đuối, bất hạnh-đó là tất cả những từ ngữ miêu tả Dư Lam khi lần đầu nhìn thấy cô. Có lẽ mọi người thấy tôi là một cô gái nội tâm . Không phải vậy. Rất nhiều người không hiểu tôi. Khi ở nhà và ở cơ quan, tôi tương đối đúng mực. Nhưng về mặt tình cảm, tôi không phải là một cô gái khỏe mạnh" Dư Lam cúi đầu, mặt đỏ bừng, có vẻ hơi khó nói. Tôi có thể hiểu những tâm trạng của một cô gái khi phải tâm sự những tình cảm riêng tư cho một người đàn ông lạ. Đúng vậy, lòng tin cũng cần được bồi dưỡng dần theo thời gian. Nhưng tôi không có nhiều thời gian để giúp cô dần thích nghi với tôi. Về điểm này phải nói là hơi tàn khốc. Tôi cười, hỏi một số chuyện không có liên quan như công việc, sở thích để cô thoải mái hơn. Nhưng thời gian trôi qua đã lâu mà cô vẫn chưa “thực sự nhập đề". Tôi nghĩ, cô gọi điện tìm tôi cũng nhất định không phải muốn nói những thứ này. Vì thế, tôi góp ý lần gặp mặt sau, hãy kể về chuyện tình cảm của cô. Thoạt đầu, cô gật đầu, lúng túng giải thích rằng rất muốn kể nhưng không nói ra được. Tôi hiểu, những chuyện như vậy không phải là lần đầu. Nhưng khi tôi đứng dậy cáo từ, cô lại gọi tôi lại, nói rằng muôn kể vì giấu mãi trong lòng cũng không vui vẻ gì. Bố là toàn bộ cuộc đời Tôi không biết anh có thể hiểu được tôi chăng. Nhưng tôi cảm thấy mình là một cô gái phát triển không bình thường. Cũng không rõ vì sao, tôi đặc biệt mê đắm những người đàn ông nhiều tuổi, ngang tầm bố tôi. Đối với những thanh niên trạc tuổi tôi, tôi hoàn toàn không có cảm giác. Bố tôi trông không đẹp trai, thân hình cũng thấp. Năm nay ông 50 tuổi, làm giáo viên ngữ văn của một trường cấp ba, cũng không phải là người lanh lợi. Làm giáo viên nhiều năm như vậy nhưng vẫn chưa làm được giáo viên chủ nhiệm. Mọi người nói ông quá thật thà, không biết đưa đón. Trong con mắt nhiều người, ông là một người đàn ông không có sức hấp dẫn. Nhưng đối với tôi ông rất đặc biệt. Tôi luôn có cảm giác ỷ lại rất mạnh mẽ vào bố mình. Năm nay tôi đã 26 nhưng vẫn thích ở cùng bố. Những lúc ông không có nhà, cuộc sống tôi trở nên lộn xộn, mất phương hướng. Đúng là tôi đã được ông chiều quá đâm hư, tất cả mọi việc trong nhà đều không phải làm. Mãi tới bây giờ, thậm chí bố tôi vẫn giặt cả quần áo lót cho tôi. Nhưng bố tôi quá yêu chiều tôi cũng có lý do. Năm tôi ba tuổi, mẹ tôi bị tai nạn xe hơi qua đời. Những kỷ niệm về mẹ mỏng mảnh như sương mù, chỉ nhìn thấy hình dáng trên tấm hình, nhưng cảm thấy rất xa lạ. Thế là ngay từ nhỏ, bố đã trở thành toàn bộ cuộc sống của tôi. Mọi tình yêu và tình thân mà tôi cảm nhận được đều từ bố. Tuy trưởng thành trong một gia đình không trọn vẹn, nhưng tôi không hề có cảm giác thiếu hụt tình yêu. Bố tôi đã đem lại cho tôi quá nhiều. Ông thường nhìn tôi bằng con mắt hiền từ, rất lâu sau và rất khẽ khàng, tôi nhìn thấy mắt ông ẩm ướt tồi lại lặng lẽ quệt đi. Không cần nói bất cứ câu gì, nhưng tôi có thể cảm nhận được, tôi là tình yêu duy nhất trong cuộc đời bố tôi. ... Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Một Đêm của tác giả Chi Xuyên.
Cái Cớ Để Yêu Em - Phong Hạ
Triệu Tuyết Vinh đang du học ở nước ngoài, vì một số lý do phải trở về nước. Vô tình cô được xếp vào lớp toàn những "nam thần" của trường. Cô vô tình đối mặt với bốn người được gọi là "trùm", những tình huống trớ trêu dở khóc dở cười liên tục xảy ra giữa cô và bọn họ. *** con nhỏ nhìn Trung vs ánh mắt đầy tội lỗi - tôi cảm ơn vì cậu đã giải đáp hết thắc mắc trong lòng tôi nhìn cái thái độ mong chờ của Trung nó chẳng dám nói tiếp vì biết chắc sẽ khiến cậu thất vọng nhưng buộc lòng nó vẫn phải nói - tôi xin lỗ vì đã nói dối cậu ngay từ đầu tôi không hề có ý định sẽ ở lại Việt Nam Trung tỏ ra thất vọng trước câu trả lời ấy nhưng chỉ lát sau thôi cậu vực dậy được tinh thần liền quay ra nói với nó - không sao chuyện đó bây giờ không quan trọng. điều cần quan tâm đối với tôi lúc này là tình cảm thực sự của em dành cho tôi để tôi hỏi em nha em thích tôi chứ - hả tôi...   Mời các bạn đón đọc Cái Cớ Để Yêu Em của tác giả Phong Hạ.
Những Chiếc Răng Cọp - Maurice Leblanc
Arsène Lupin là nhân vật huyền thoại của văn học Pháp, giống như Shelock Homlk của Anh. Cuốn sách này kể về những cuộc phiêu lưu của Lupin. Anh xuất hiện ở một vùng nào đó trong vai một người bạn hào hoa, rồi khám phá ra một vụ án mạng trong quá khứ, phá âm mưu tống tiền; lần khác anh cứu một người đẹp, giúp một tên nhà giàu tìm ra tên trộm nhưng lại cuỗm của hắn vật báu, làm hắn tức nghẹn họng mà vẫn phải cám ơn anh.... Trong những tác phẩm khác, Lupin còn vào vai cảnh sát trưởng để thoát khỏi sự truy lùng; dùng những mánh khóe thông minh vượt ngục... Tôi đã được nghe Arsene Lupin kể về tám vụ phá án này từ lâu trong đó anh nhường vai trò chính cho một trong những người bạn của mình - Hoàng tử Rénine. Với tôi đó như là đưa ra một cách xử thế, phương thức, những cử chỉ đẹp cũng như tính cách của một con người không có khả năng làm tôi lẫn lộn giữa hai người bạn, người này với người kia. Arsene Lupin là một người theo chủ nghĩa tuởng tượng cũng như có khả năng chối bỏ những cuộc phiêu lưu của chính mình bằng cách nhường một vài vụ mà trong đó anh không là nhân vật chính. Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, Maurice Leblanc chú ý phân tích khía cạnh tâm lý, tình cảm dưới ánh sáng của một tư tưởng đạo đức tiến bộ. Những nhân vật giang hồ Arsène Lupin vẫn giữ được trong mình những tư tưởng tình cảm lành mạnh, vẫn giữ được tính nhân đạo và lòng căm ghét bạo lực. Và những tư tưởng tình cảm đó lại được tăng thêm giá trị bởi quan điểm đề cao óc nhận thức lý trí sâu sắc của tác giả. Nhân vật thám tử của ông ít khi phải sử dụng vũ lực mà là một chuyên gia phân tích, làm việc bằng những phương pháp khoa học chứ không phải bằng kỹ xảo của đôi tay Arsène Lupin là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong loạt truyện thám tử, tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Pháp Maurice Leblanc, cũng như một số phần tiếp theo và rất nhiều phim truyền hình, phim điện ảnh như Night Hood, Arsène Lupin, các vở kịch và truyện tranh phỏng theo.   Cùng thời với Arthur Conan Doyle, Maurice Leblanc (1864-1941) đã sáng tạo ra nhân vật Arsène Lupin, một nhân vật có tầm phổ biến rộng khắp và lâu dài ở các nước nói tiếng Pháp, giống như Sherlock Holmes  ở các nước nói tiếng Anh. Serie Arsène Lupin gồm hai mươi tập truyện được viết bởi chính Leblanc cộng thêm năm phần tiếp đã được ủy quyền cho nhóm viết của Boileau-Narcejac thực hiện, cũng như nhiều tác phẩm khác phỏng theo. Nhân vật Lupin được giới thiệu lần đầu trên tạp chí Je Sais Tout qua một loạt truyện ngắn, bắt đầu từ số thứ 6, ngày 15 tháng 7 năm 1905. Ban đầu nhân vật mang tên Arsène Lopin, nhưng vấp phải sự phản đối từ một chính trị gia trùng tên, kết quả là "Lopin" đã bị đổi thành "Lupin". Arsène Lupin là một siêu đạo chích có tài hóa trang, một tên trộm quý tộc chuyên trộm đồ của nhà giàu trong khi núp bóng quý ông lịch thiệp. Nhân vật Lupin giống với Marius Jacob nên có khi được cho là dựa trên hình mẫu này.xuất hiện trong 12 tập truyện ngắn đã cho thấy đây là một nhân vật có thể sánh ngang cùng với các nhân vật khác như Holmes cua Conan Doyle, Hercule Poirot cuả Agatha. Hình tượng Lupin đã được nhiều bộ phim nổi tiếng lấy làm mẫu nhân vật như Kaito Kid trong bộ manga nổi tiếng Thám tử lừng danh Conan. Dưới đây là một số tác phẩm của Maurice Leblanc được dịch và xuất bản tại Việt Nam: - Arsène Lupin - Cái chết rình rập - Arsène Lupin đối đầu Sherlock Holmes - Arsène Lupin - Sa bẫy địa ngục - Những cú siêu lừa của Arsène Lupin - Những cuộc phiêu lưu của Arsène Lupin - Tám vụ phá án của Arsène Lupin - Ngôi nhà bí ẩn - Báo Thù - Nữ bá tước Cagliostro - Hòn Đảo 13 chiếc quan tài - Hai Nữ Tướng Cướp - Tam giác vàng ma quỷ - Arsene Lupin và Hồi Ức Bí Mật - ... *** Maurice Leblanc Émile Marie (11/11/1864 - 6/11/1941) là một tiểu thuyết gia và nhà văn viết truyện ngắn người Pháp, được người ta biết đến chủ yếu là tác giả của nhân vật hư cấu tên trộm lịch lãm và thám tử Arsène Lupin, được so sánh là đối trọng với nhân vật thám tử Sherlock Holmes của tác gia người Anh Conan Doyle. Leblanc sinh ra ở Rouen, Normandy, nơi ông đã theo học tại Lycée Pierre Corneille. Sau khi nghiên cứu ở một số nước và bỏ học luật, ông định cư tại Paris và bắt đầu sáng tác tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết phiêu lưu và khoa học huyễn tưởng. *** Một nhân vật trong Bản tuyên án, một thiên truyện tình của nhà văn Vlađimir Xôlôukhin, có tâm sự như sau nhân một lần phải đi nằm bệnh viện: «Mấy ngày đầu, chắc chẳng có gì đáng ngại; vì dẫu sao anh cũng đã trữ sẵn được ba tập trinh thám rất hấp dẫn rồi. Gay nhất có lẽ là những hôm chờ lên bàn mổ; chứ khi đã mổ xong thì chắc chẳng dại gì mà đi ngốn ba thứ sách lôi cuốn và dễ dãi kia”. Dề dãi  ! Tiếc thay, ngay cả những kẻ hâm mộ thể loại trinh thám (họ vốn thuộc đủ mọi nghề và đủ mọi giai tầng xã hội—học giả có, công nhân có, chính khách có, nghệ sĩ có, thậm chí còn gặp cả các nhà nghiên cứu văn học nữa  !), nhiều người vẫn cư xử với thể loại đó một cách khá kỳ quặc, đúng hơn là rất đáng bực mình, coi nó là loại sách dễ dãi, và vì thế, đã đẩy nó xuống hàng văn chương loại hai, thậm chí loại ba. Marietta Saghinyan (Nữ văn sĩ Nga xô-viết sinh năm 1888, người Armênva, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm khoa học Armênya. Bà là tác giả của nhiều bộ tiểu thuyết, ký sự và công trình khảo cứu nối tiếng, từng được tặng Giải thưởng quác gia (1951) và Giải thưởng Lê-nin (1972). Bã mất năm 1982) tác giả của một trong những sáng tác trinh thám xô-viết đâu tiên là Messe— Maind (Truyện vừa, sáng tác vào những năm 1923 — 1925, để cổ động tinh thền yêu nước và khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, ngay sau những ngày nước Cộng hòa Xô-viết vừa trải qua những năm nội chiến cực kỳ ác liệt.) có đưa ra một nhận định hơi ngược đời, nhưng đầy thú vị về thể loại này: chuyện trinh thám là loại sách có tính chất duy lý và có giá trị nhận thức sâu sắc nhất, nhưng lại ít có hại đến thần kinh và giúp bồi bổ sức khỏe nhiều hơn cả trong văn chương hiện thời... Truyện trinh thám là loại sách sở dĩ giúp hồi bổ được sức khỏe, vì đọc nó, bao giờ bạn cũng được một xác tin vững chãi sau đấy trấn an: cái ác nhất định rồi sẽ bị phanh phui, hung thủ sớm muộn gì rồi cũng bị trừng phạt, và cái thiện, cũng như lẽ phải tất sẽ chiến thắng. Dĩ nhiên truyện trinh thám tôi muốn nói ở đây là loại truyện chân chính, chứ không phải ba thứ sách rẻ tiền về mấy gã găng-xtơ huênh hoang, hoặc bọn điệp viên khoác lác, vẫn đang cố len lỏi vào dòng văn chương chính thống thường được gọi là “tiểu thuyết trinh thám... hình sự». Quả tình là gần đây người ta đã viết khá nhiều về truyện trinh thám, cả của Liên Xô, lẫn của nước ngoài. Sở dĩ có tình hình đó trước hết là vì các sáng tác loại đang bàn hiện được in ra với một số lượng lớn chưa từng thấy. Ở phương Tây đã xuất hiện nhiều nhà xuất bản lớn, chuyên ấn hành truyện trinh thám các loại. Dĩ nhiên, chi phí sản xuất rất cao; ấy là chưa nói đến loại «văn chương» được Marietta Saghinyan gọi bằng cái tên hết sức chính xác đã nêu — «sách rẻ tiền về mấy gã găng-xtơ huênh hoang hoặc bọn điệp viên khoác lác» — hiện được giới tuyên truyền tư sản sử dụng như một phương tiện mê hoặc đông đảo công chúng trình độ trung bình. Đã từng có biết bao nhiêu nhận định khác nhau, lắm khi hoàn toàn bài bác nhau, về truyện trinh thám  ! Có nhiều nhà phê bình coi truyện trinh thám là một thứ trò chơi, hơn nữa lại là thứ trò chơi chỉ chơi được vỏn vẹn một lần, và cho rằng: không thể đọc các sáng tác trinh thám quá hai lần là một đặc trưng hệ trọng của thể loại này. Có nhiều nhà phê bình khác nuôi khát vọng ấn truyện Trinh thám vào chiếc giường Prôcuxt của họ- -một thứ lược đồ gồm ba thành tố hợp nhất thành bất biến: bí mật của tội ác — điều tra — minh chứng cho sự thật. Nhà phê bình văn học Mỹ Willam Hattington, nổi tiếng dưới hút danh S.s.van Deine, thậm chí còn đề xướng ra “Hai mươi qui tắc cho các tác giả viết tiểu thuyết trinh thám. Nhà văn và nhà học giả Hulgari nổi tiếng là Bogumil Rainov, trong một khảo cứu về thể loại trinh thám được mệnh danh là “Sách Đen» (Série noire) đã đánh giá rất chính xác như sau về lô qui tắc vừa nêu: «Những qui tắc của Hattington, một mặt, là con đẻ của cách cư xử mang tính chất chính thuyết đối với văn chương, nhưng mặt khác, lại đặc trưng một cách hết sức rõ nét cho quan điểm thương mại đối với văn chương ở Mỹ... Cụ thể là, trong mỗi ngành sản xuất đều có một qui trình công nghệ nhất định, và muốn cho sản phẩm văn chương ăn khách, nhà văn không thể không nắm vững cái qui trình ấy». Một trong những qui tắc của van Deine có ấn định: «Truyện hình sự (Roman policier) cần tránh miêu tả dài dòng, tránh những đoạn phân tích tâm lý chi li và những phán xét khái quát. Tất cả những thứ đó chỉ gây cản trở cho tiến trình thuật lại câu chuyện mà mục tiêu chủ chốt của nó chỉ là: kể lại thật vành rọt diễn biến của tội ác và tiến trình dò tìm hung thủ». Các tác phẩm xuất sắc của thể loại trinh thám rõ ràng đã bác bỏ hoàn toàn qui tắc trên đây. Không, không thể đem qui truyện trinh thám vào bất cứ một thứ khuôn mẫu hình thức nào và càng không thể nhận định đơn thuần rằng mục tiêu chính của nó chỉ là phơi bày các loại tội ác, và người viết không được đặt cho mình một mục tiêu nào khác hơn, ngoài mục tiêu vừa nêu. Vì lẽ gì ta lại không nghĩ rằng trong trường hợp này hoặc trường hợp khác, người cầm bút sở dĩ tỏ ra tâm đắc hơn với thể loại trinh thám chẳng qua chỉ vì hình thái sáng tác này giúp anh ta thể hiện thành công hơn nhiệm vụ nghệ thuật đang khiến mình xúc động  ? Balzac chẳng hạn, từng tuyên bố rằng chủ đích thực của thiên tiểu thuyết «vẻ hào hoa và sự cùng khốn của đám kỹ nữ thượng lưu” là cuộc độc chiến giữa thám tử và hung thủ. Theo tôi hình dung, định nghĩa đúng đắn nhất, giúp hiểu được thực chất của truyện trinh thám, là định nghĩa do một nhà phê bình Xô-viết đưa ra mấy năm trước đây: «Một truyện trinh thám chỉ thành công, khi việc tạo dựng một cốt truyện hấp dẫn không phải chỉ là mục đích tự thân, mà bị chi phối bởi cách giải quyết những mục tiêu chung đặt ra cho toàn hộ ngành văn học đó”. Quả vậy, truyện trinh thám là một thể loại hoàn toàn bình đẳng với tất cả các thể loại văn chương khác, và phải đánh giá nó trên quan điểm những yêu cầu chung của toàn ngành văn học. Các tác phẩm ưu tú của thể loại văn chương, thiên về hướng tạo dựng các cốt truyện lôi cuốn, được đông đảo công chúng hâm mộ, bao giờ cũng rất coi trọng việc khảo sát những vấn đề hệ trọng và nghiêm túc của cuộc đời. Trong những vấn đề vừa nêu, có tầm quan trọng hơn cả chắc hẳn là vấn đề cái thiện và cái ác. Nội dung của những sáng tác trinh thám xuất sắc không phải chỉ đóng khung ở việc truy tìm đầy hấp dẫn một hung thủ tinh ranh và xảo quyệt, ở những phân định hợp lô-gich cực kỳ rắc rối của một vị dự thẩm hay một chuyên gia điều tra hình sự. Trước hết, nó phải là một nghiên cứu thấu đáo của nhà văn về những cội nguồn sâu xa của tội ác. Khi mời bạn đọc cùng nhân vật chính dự phần vào việc phanh phui những hành vi phạm tội rắc rối và nguy hiểm của một hung thủ, nhà văn đồng thời cũng tạo cho bạn đọc một mảnh đất màu mỡ chẳng những để giải quyết cái nhiệm vụ muôn thuở — Ai là thủ phạm gây nên vụ án mạng kia, mà còn để dò tìm những tình huống trong đó tội phạm đã xảy ra và hành động phạm tội của hung thủ, nhìn rõ mặt những kẻ tuy không trực tiếp nhúng tay vào tội ác, nhưng lại tạo cho tội ác một môi trường sinh sống thuận lợi, làm sáng tỏ những nguyên nhân xã hội của tội ác và bọn thủ phạm cùng những kẻ tòng phạm. Đó là những vấn đề đạo lý nghiêm túc mà nhà văn cần khảo cứu. Hơn nữa, bản chất của thể loại trinh thám vẫn mở ra cho nhà văn những cơ hội hết sức thuận lợi. Chính vì thám tử hoặc nhà dự thẩm, hoặc một loại người rất hay gặp trong văn chương phương Tây dưới danh hiệu thám tử tư—nhân vật chính tất yếu của bất cứ cuốn sách trinh thám nào —trong tiến trình truy tìm hung thủ, tất phải chạm trán với đủ mọi tầng lớp xã hội; khi thì sục xuống dưới đáy xã hội để nghe những lời bộc bạch buồn lòng của một gã lang thang, khi thì đi sâu vào những nghịch cảnh bi đát của một viên kí lục quèn bị mất chỗ làm và do đó, cũng mất luôn cả mọi sinh kế. Anh ta cũng phải chạm trán cả với cái môi trường đầy rẫy những tính toán tỉnh táo và những mối hằn thù được che đậy dưới những nụ cười giả tạo, ngự trị trong các tầng lớp thượng lưu, trong khi đi tìm nguyên nhân của một vụ án mạng rối rắm thường tình, và bỗng dưng phải chứng kiến một cảnh tượng đáng ghê tởm: «bị máu tham làm cho mờ mắt», những kẻ thừa kế cứ mê mải với những món lợi lộc do phần gia tài vừa được hưởng mang lại, mà chẳng hề ngượng ngùng một mảy may nào với cái thi hài còn chưa kịp nguội lạnh của người quá cố đang nằm chơ chỏng ở phòng bên. Có thể có đầy đủ cơ sở để nêu ra đây như một dẫn chứng sáng chói về truyện trinh thám đậm đà tính chất xã hội: những thiên tiểu thuyết của hai nhà văn Thụy Điển tài hoa là Per Valiê và Mai Sêval. Nhân thể cần nói thêm rằng ngay tại Thụy Điển, sự nghiệp của hai ông hiện được không ít người kế tục: trong các tác phẩm của mình, họ cũng vạch trần không thương tiếc sự bất công của xã hội tư sản hiện đại. Yếu tố xã hội trong truyện trinh thám nhiều khi bộc lộ rất rõ nét, bất chấp ý muốn của người viết. Tuy không tự đặt cho mình nhiệm vụ bóc trần những thói hư tật xấu của cái xã hội trong đó nhân vật hành động, anh ta vẫn tình cờ phô bày ra tất cả, nếu trong thâm tâm, nhà văn không cố tình nhắm mắt đeo đuổi những mục đích trái ngược, vì tội ác tự thân nó vốn là một hiện tượng xã hội. Cũng tương tự như con dao mổ trong tay nhà phẫu thuật dày dạn, thể loại truyện trinh thám, truyện điều tra hình sự, trong tay một nhà văn tài năng và trung thực có thể trở thành một công cụ đắc lực, giúp nhà văn phơi bày cho độc giả tất cả các thứ ung nhọt, các vết lở loét thối tha của xã hội mà nhà văn đang sống... Nếu bản thân độc giả cũng là người có óc quan sát tinh tường và thích nghiền ngẫm, thì khi lần giở các trang sách, anh ta cũng sẽ không chỉ đơn thuần theo dõi cái vỏ bề ngoài của cốt truyện tả ở đây, mà còn háo hức sát cánh với thám tử ra công truy lùng những gã hung thủ gian ngoan. Tiếc thay, hiện có không ít độc giả nhìn chung vẫn còn hơi thiên về cái hình thức bên ngoài, tuy rất hệ trọng đối với thể loại, nhưng không thể nào phản ánh thật đầy đủ cái thực chất bên trong của truyện trinh thám. Dù có ngã sang chiều hướng «nghiêm túc» chăng nữa, truyện trinh thám vẫn không mất đi tính lôi cuốn ; trái lại, nó vẫn giữ được những đặc tính tiêu biểu vốn có của thể loại: là những áng văn chuyên miêu tả những hành động diễn biến hết sức nhanh chóng và những đoán định lôgic nghiêm ngặt, có khả năng giữ người đọc trong trạng thái căng thẳng hồi hộp trong suốt tiến trình diễn biến của câu chuyện. Truyện trinh thám là thể loại có thể khơi dậy và bồi bổ nơi người đọc lòng kính trọng những con người đang ngày đêm gìn giữ pháp luật, nếu người viết biết nêu lên trong các sáng tác của anh ta cuộc chiến đấu quên mình, đầy hiểm nguy, vốn đòi hỏi một đức ngoan cường và lòng tận tụy tối đa để chống lại tội ác các loại, một cuộc chiến đấu mà nền tảng của nó là tư tưởng nhân đạo. (Đoạn trên đây viết dựa theo bài Tựa của Tuyển tập Truyện trinh thám nước ngoài, của Xergây Vưxốtxki, Nhà xuất bản «Đội cận vệ thanh niên», Moskova, 1984). Bây giờ, chúng ta hãy xét truyện «Những chiếc răng cọp» của Maurice Leblanc trong sự đối sánh với những chuẩn mực trên đây về truyện trinh thám. Những chiếc răng cọp là câu chuyện điều tra hình sự, tìm thủ phạm về một vụ án «gia tài». Tội ác bạo hành là một đặc thù của xã hội tư sản phương Tây. Thường tội ác phát sinh là do mâu thuẫn, máu chiếm đoạt của cải, lòng tham không đáy dẫn đến những thủ đoạn tàn bạo và dã man. Ở đây, câu chuyện xoay quanh cái gia tài cực kỳ lớn của dòng họ Fauvin. Từ đó dẫn đến những vụ án mạng thảm khốc và quá trình «phá án» của Acxen Luypanh. Acxen Luypanh là một nhân vật nổi tiếng về tài điều tra các vụ án ly kỳ, bí mật. Anh ta là nhân vật chính trong các truyện trinh thám của Maurie Leblánc: trong một số truyện (chẳng hạn, trong Les-confidences d’Arsene Lupin), ta thấy anh ta xuất hiện trong những vai «ăn trộm», (một cách “quân tử»), nẫng tay trên của cảnh sát, tiến hành những vụ điều tra thông minh, vượt qua bộ máy chuyên nghiệp. Tác giả luôn luôn lý tưởng hóa nhân vật nầy, cấp cho nó những đức tính có phần «siêu», một đôi khi nhân vật cũng tự vỗ ngực khoe khoang về tài đức của mình, làm ta khó chịu. Acxen Luypanh chẳng hề là một nhân vật hiện thực. Nhưng nó phản ánh trong nó một vài vấn đề của xã hội tư sản phương Tây. Cái bất lực của cảnh sát đẻ ra anh thảm tử tư “tài ba» này, một nhân vật trên tài các cơ quan an ninh, cảnh sát, còn giới triệu phú, quí tộc thì sợ và ghét. Rồi cũng chính cái xã hội thối rữa đó với những tội ác cơm bữa nảy ra yêu cầu bức xúc trừng trị điều ác. Acxen Luypanh, với những mặt lương thiện, nhiều khi vô tư là cái hy vọng cuối cùng của người đọc trong hoàn cảnh đó. Mặc dù cách làm và cách nghĩ của anh ta vẫn không thoát ra khỏi cách nghĩ cách làm của cái xã hội đã sinh ra anh ta. Người đọc cũng hồi hộp cùng với anh ta, khuyến khích anh ta, đồng tình với anh ta. Cuối cùng, cái bí mật ghê gớm của tội ác được phơi bày, cái Thiện thêm một lần chiến thắng cái Ác. Tác giả thiên về việc ra những tình tiết hết sức ly kỳ; lắt léo, quá nhấn mạnh và chạy theo yêu cầu hấp dẫn mà còn nhẹ về mặt phát hiện những vấn đề xã hội, nhân sinh. Do đó, chúng tôi không nghĩ như một số người đã nghĩ rằng, Acxen Luypanh đó là Sai-lốc Hôm của Cônan Đoy, mặc dù Cônan Đoy, đến lượt mình, cũng không vượt qua tầm xã hội mà ông sống với những ưu điểm và nhược điểm của ông. Dù sao Acxen Luypanh cũng là một thành tựu nổi tiếng của truyện trinh thám mà người đọc nước ta cũng nên làm quen. Ở Liên Xô, một số tác phẩm của Maurcie Leblanc đã được dịch (so với bản gốc tiếng Pháp có bỏ đi một số đoạn không cần thiết). Bản dịch tiếng Việt này cũng đã cẩn trọng tước bớt đi hoặc tóm lược một số đoạn dài dòng mà không làm ảnh hưởng đến toàn bộ diễn biến của câu chuyện. NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ   Mời các bạn đón đọc Những Chiếc Răng Cọp của tác giả Maurice Leblanc.