Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đừng Chết Vì Yêu

Tình yêu cũng giống như một viên thuốc đắng tẩm đường, lớp đầu bao giờ cũng ngọt, hết lớp ngọt, chắc chắn sẽ đến một lớp đắng chát. Trong tình yêu, kẻ làm cho ta hạnh phúc nhiều nhất, thì cũng có thể, chính kẻ đó sẽ là người khiến ta đau khổ nhất. Bạn thường nghĩ gì khi bắt đầu yêu một người? Bạn sẽ phản ứng như thế nào, khi bỗng nhiên người yêu của bạn đề nghị chia tay? Bạn sẽ dùng tâm trạng gì để đối diện với một tình yêu tan vỡ ? Bạn sẽ làm gì khi phát hiện ra người yêu của mình ngủ với một người đàn bà khác? Bạn có thái độ như thế nào khi một ngày bạn phát hiện ra người bạn coi như gia đình ruột thịt lại đem lòng yêu mình? Bạn có sẵn sàng chết cho tình yêu của mình hay không? *** [Review sách] Đừng Chết Vì Yêu - Mèo Xù 'Đừng chết vì yêu' là quyển sách đầu tay của Mèo Xù, đưa tên tuổi cô đến gần hơn với độc giả yêu thích văn học trẻ Việt Nam Chọn con tim hay nghe theo lí trí.. "Từ những nhân vật, những số phận trong cuốn sách" Đừng chết vì yêu ", hi vọng rằng mỗi người sẽ tự tìm thấy câu trả lời đúng đắn. Thay vì phải lựa chọn giữa tình yêu và lý trí, hãy để cả hai nhân tố ấy hòa quyện cùng nhau, làm ánh sáng chỉ đường để mỗi chúng ta sẽ không còn lạc lối, sẽ không một ai phải chịu tổn thương day dứt như nhân vật của Mèo Xù."   "Đừng chết vì yêu" là quyển sách đầu tay của Mèo Xù, đưa tên tuổi cô đến gần hơn với độc giả yêu thích văn học trẻ Việt Nam. Nhưng nội dung cuốn sách này cũng chính là nguyên nhân khiến cô bị mang ra chỉ trích vô cùng dữ dội. Chúng ta đang sống ở thời đại mà mọi nguyên tắc cứng nhắc lỗi thời bị đào thải, thay vào đó là dòng chảy mới phóng khoáng, tự do. Thậm chí trong giới trẻ đã xuất hiện không ít những trào lưu xem tình yêu là tất cả hay vì yêu mà bất chấp. Nhưng ở Đừng chết vì yêu, Mèo Xù lại đưa ra một góc nhìn hoàn toàn khác, cô đã thức tỉnh người đọc bằng thông điệp đầy lý trí "Đừng chết vì yêu".  Đây là cuốn truyện dài xoay quanh cuộc sống của nhân vật Thụy – một cô gái có vẻ ngoài phóng khoáng hiện đại nhưng lại mang những suy nghĩ vô cùng truyền thống. Thậm chí cô bị chỉ trích là lạc hậu lỗi thời trong tình yêu, đặc biệt là vấn đề tình dục trước hôn nhân. Thụy là mẫu hình phụ nữ cá tính và bản lĩnh, cô sống rất lý trí đến mức người ta sẽ đánh giá cô là con người thực dụng. Đối với cô, tình yêu có thể quan trọng nhưng không phải là duy nhất. Chúng ta có thể yêu chân thật nhưng không nhất thiết phải trao trọn niềm tin vào nó, càng không nên xuẩn ngốc tin tưởng quá nhiều vào những lời hứa của đàn ông. Hay nói một cách ngắn gọn như lời tác giả, là đừng chết vì yêu. Như những câu trích dẫn ngay phần đầu cuốn sách "Đàn ông trở nên tốt đẹp hơn khi họ bắt đầu yêu một người phụ nữ, còn phụ nữ bắt đầu bất hạnh kể từ giây phút họ chấp nhận lời cầu hôn của một gã đàn ông".  Người ta vẫn truyền tai nhau câu nói "theo tình tình phụ, buông tình tình theo". Nhân vật Thụy trong câu chuyện của Mèo Xù chính là chứng minh cho điều đó. Trong mỗi cuộc tình, ta vẫn thấy những cô gái yếu đuối, dễ tổn thương thường rơi vào bi lụy. Ngược lại, những cô nàng tự tôn cá tính, thậm chí bất cần một chút lại có sức hấp dẫn đàn ông. Đơn giản, vì đàn ông là phái mạnh, bản năng của họ là ghét bị thuần phục nhưng lại hào hứng với những cuộc chinh phục. Và nhân vật Thụy, có thể là hữu ý có khi là vô tình, sức hấp dẫn tự nhiên từ của một cô gái cá tính, không xem tình yêu là tất cả lại khiến rất nhiều gã trai mê mệt. Đó là Quân – một chàng họa sĩ tâm huyết và tài năng, tuy anh không dư giả vật chất nhưng bù lại anh hiền lành tốt bụng, điều đáng quý nhất ở anh có lẽ là trái tim lãng mạn, si mê của một người nghệ sĩ. Là Việt người đàn ông thành đạt, giàu có và tất nhiên để trở thành một doanh nhân có vị thế trong xã hội, anh ta mang trong mình sự tỉnh táo và lý trí, đôi khi trở thành cứng nhắc. Và người thứ ba, cũng là nhân vật khiến độc giả tâm đắc nhất, đồng cảm nhất và trăn trở nhiều nhất chính là Linh – một chàng trai có vẻ bề ngoài như một cậu trai mới lớn nhưng tâm hồn lại sâu sắc, dám sống, dám yêu và sẵn sàng hy sinh vì tình yêu ấy.  Nội dung cuốn sách đã khắc họa rất thành công bức chân dung những người trẻ tuổi, họ đại diện cho cả một thế hệ đang quay cuồng chao đảo trước ngưỡng cửa cuộc đời. Họ loay hoay trong chính cuộc sống của mình với những nghĩ suy, những quan điểm sống và yêu còn quá nhiều mâu thuẫn. Đúng sai lẫn lộn, thật giả không thể phân minh. Như một ngã tư đường quá nhiều lối rẽ và chọn lựa là ở mỗi người. Có những kẻ chọn con đường bằng phẳng dễ đi, họ sống khôn ngoan và thực tế như Thụy, như Quân, như Việt. Họ chọn cách yêu chừng mực, đặt bản thân mình lên trên hết. Họ không bao giờ thất vọng vì vốn dĩ chưa từng kì vọng. Họ ít khi cam chịu đau đớn bởi những trái tim khôn ngoan ấy luôn biết tạo ra khoảng cách an toàn. Nhưng lại có những người quá ngây thơ khờ dại, dù đã nhìn thấy bão giông đang ập đến ngay trước mắt, nhưng họ vẫn dấn thân bước vào con đường đầy sóng gió phủ vây. Như nhân vật Linh trong câu chuyện của Mèo Xù, ngay từ buổi đầu tiên quen biết Thụy trong vai trò ứng cử viên và người phỏng vấn. Anh đã có những linh cảm thật lạ kì. Nhưng cô gái ấy luôn tỏa ra sức hút không thể nào cưỡng lại. Và như một trò đùa của số phận, anh vẫn rơi vào lưới tình với người con gái ấy để cuối cùng nhận lấy kết cục không thể xót xa hơn.  Trọng tâm cuốn sách xoáy sâu vào những tam giác tình yêu, những mối quan hệ chồng chéo, những ngã rẽ trái ngang mà ở đó không có ai là người chiến thắng. Kết thúc câu chuyện là cái chết bi thảm của Linh và nỗi ân hận muộn màng của những người ở lại. Có lẽ nhiều độc giả sẽ có chung cảm nhận như tôi, câu nói cuối cùng của Linh chắc hẳn đã để lại trong chúng ta niềm ám ảnh: "Đã yêu thì không được mặc cả bất cứ điều gì, kể cả cái chết". Chúng ta sẽ tự hỏi liệu trong câu chuyện này, ai là kẻ đáng thương ai là người đáng trách? Vậy rút cuộc quan niệm nào là đúng đắn để giới trẻ noi theo? Và tác giả Mèo Xù đã cho chúng ta câu trả lời xác đáng. Khi yêu đừng quá tàn nhẫn lạnh lùng như Thụy, nhưng tuyệt nhiên cũng không nên dại dột, bi lụy như Linh. Hãy để cả lý trí và trái tim cùng lên tiếng, hãy can đảm vượt qua nỗi sợ hãi và thành kiến để mở lòng mình. Sống thực tế nhưng không có nghĩa là thực dụng, nếu tồn tại giữa một xã hội mà không thể đặt niềm tin vào bất kì ai, chúng ta đối xử với nhau bằng chiếc mặt nạ lạnh lùng vô cảm, cuộc sống này không phải sẽ rất mệt mỏi sao? Và phải chăng chính sự lạnh lùng cố chấp của người đời mới là nguồn cội đẩy Linh vào cái chết xót xa, cùng quẫn?  Mặc dù không phải nhà văn chuyên nghiệp, nhưng kinh nghiệm viết lách của một nhân viên sản xuất chương trình truyền hình đã giúp Mèo Xù rất vững tay khi chuyển sang nghề sáng tác. Cô luôn biết cách xây dựng hình tượng nhân vật đa chiều. Đằng sau một cô gái nguyên tắc và lạnh lùng như Thụy là nỗi lo sợ ám ảnh đầy yếu đuối khi đối diện tình yêu. Chúng ta có thể chỉ trích Linh vì hành vi tiêu cực coi thường mạng sống, nhưng nguyên do của hành vi dại dột ấy lại xuất phát từ một trái tim cao thượng, một tình yêu quá đỗi chân thành. Những nhân vật của Mèo Xù cứ thế hiện lên rất trần tục, rất đời thường, họ vừa đáng thương lại vừa đáng trách, vừa đáng giận lại vừa xứng đáng được bao dung. Mèo Xù khiến độc giả trải qua mọi cung bậc cảm xúc, có khi yêu, khi ghét, có khi phủ định, có lúc đồng tình. Ta có thể gật đầu tâm đắc với Thụy khi cô luôn sống nguyên tắc và biết cách giữ mình, đó là đức tính thực sự rất cần với những cô gái trẻ. Nhưng sự lạnh lùng đến mức khiên cưỡng lại gây ra những hậu quả quá đau lòng, và cụ thể là cái chết của Linh khiến cô phải sống trong ân hận. Ta có thể đồng cảm với sự hi sinh cao thượng của Linh, nhưng tìm đến cái chết vì bất cứ lý do gì cũng chưa bao giờ là đúng đắn.  Trong thời gian "Đừng chết vì yêu" vừa ra mắt, có một số ý kiến cho rằng, nội dung cuốn sách chỉ là những lời sáo rỗng tự an ủi chính mình của một cô gái nhan sắc tầm thường, thậm chí là xấu xí. Tôi cũng từng hoài nghi về điều đó cho đến khi gấp lại cuốn sách này. "Đừng chết vì yêu", nếu chỉ nhìn vào nhan đề ấy, ta dễ cảm thấy sự lên gân trong quan điểm, một chút khiên cưỡng ở ngôn từ khiến người đọc dễ nhận thấy như tác giả đang cố tình dồn ép tư tưởng vào đầu độc giả. Nhưng thực ra, Mèo Xù không dạy đời ai cả, cô chỉ đưa ra quan điểm cá nhân, không cổ xúy, không kì thị. Tác giả đóng vai trò như một người trung chuyển, qua câu chuyện mà cô chắp bút, từ những nhân vật, những số phận trong cuốn sách "Đừng chết vì yêu", hi vọng rằng mỗi người đọc chúng ta sẽ tự tìm thấy câu trả lời đúng đắn. Thay vì phải lựa chọn giữa tình yêu và lý trí, hãy để cả hai nhân tố ấy hòa quyện cùng nhau, làm ánh sáng chỉ đường để mỗi chúng ta sẽ không còn lạc lối, sẽ không một ai phải chịu tổn thương day dứt như nhân vật trong cuốn sách của Mèo Xù. *** “Đàn ông trở nên tốt đẹp hơn khi họ bắt đầu yêu một người phụ nữ, còn phụ nữ bắt đầu bất hạnh kể từ giây phút họ chấp nhận lời cầu hôn của một gã đàn ông”. Đó là chân lý, là tôn chỉ của những cô nàng độc thân thông thái. Các cô nàng bảo nhau: “Đừng tự đào mồ chôn đi nhan sắc và tuổi trẻ của mình bằng một chiếc nhẫn đeo ngón áp út”. Vậy thì đừng kết hôn, chỉ yêu thôi? Nhưng mấy cô nàng thông thái lại bảo: “Tình yêu cũng giống như một viên thuốc đắng tẩm đường, lớp đầu bao giờ cũng ngọt, hết lớp ngọt, chắc chắn sẽ đến một lớp đắng chát. Trong tình yêu, kẻ làm cho ta hạnh phúc nhiều nhất, thì cũng có thể chính kẻ đó sẽ là người khiến ta đau khổ nhất”. Liệu những điều này có là đúng? *** Giới thiệu “Nếu mình chia tay em có buồn không? Đương nhiên là có. Buồn đến mức độ nào? Đương nhiên là không đến mức độ có thể chết. Vậy mình chia tay đi!” “Hóa ra tình yêu chưa hẳn kỳ diệu và tốt đẹp như chúng ta vẫn tưởng tượng. Người thông minh nói: “Không phải cứ tình yêu thì phải vĩnh cửu, phải sống chết ở bên nhau, người ta yêu nhau là để được hạnh phúc bên nhau, chứ không phải để chết bên nhau, nếu chết vì yêu thì không những kẻ đó thật bất hạnh mà còn là kẻ ngu ngốc nhất trên đời”. Kẻ ngu ngốc nào đó lại nói: “Không phải mọi tình yêu đều vĩnh cửu, nhưng không phải không có tình yêu vĩnh cửu, không ai muốn vì tình yêu mà chết, nhưng nếu chết là cách duy nhất để bảo vệ người mình yêu thì sẽ sẵn sàng làm như vậy”.... Không ai có quyền lựa chọn việc mình được sinh ra trông như thế nào, nhưng mỗi người đều có quyền lựa chọn cách mình SỐNG hay mình chỉ đang TỒN TẠI. Trong tình yêu ai cũng có quyền lựa chọn làm kẻ thông minh hay kẻ ngốc. Người thông minh nói “Đừng chết vì yêu” nhé ! Kẻ ngốc lại nói “Đã yêu thì không được mặc cả bất cứ điều gì, kể cả cái chết”. … “Đừng chết vì yêu” là câu chuyện tình yêu của những người trẻ tuổi sống trong xã hội hiện đại,. Họ loay hoay trong hạnh phúc, trong những yêu thương, trong những quan niệm, những giá trị sống. Có cả những ám ảnh sợ hãi, chạy trốn. Thụy - Một cô gái tài giỏi, có cách sống hiện đại, nhưng trong đầu chứa đầy những quan niệm “cổ hủ” lạc hậu, hoàn toàn không bao giờ cho phép trái tim mình tin vào tình yêu. Cô ấy luôn dùng lí trí để sống… Quân - Một người đàn ông tốt, nhưng luôn tự ti vì cảm thấy không thể mang lại cho người mình yêu cuộc sống tốt nhất, vì thế luôn nuông chiều người yêu để bù đắp sự thiếu hụt về vật chất. Việt - Một người đàn ông giàu có, thành đạt. Là một người yêu nhưng không bao giờ thỏa hiệp, chiều chuộng người yêu bằng mọi cách. Và chỉ vì một sai lầm nhất thời Việt đã đánh mất đi người yêu, tình yêu... Ba người họ đều coi mình là người thông minh trong tình yêu, chỉ có Linh tình nguyện làm kẻ ngốc trong tình yêu. Liệu người thông minh hay kẻ ngốc sẽ hạnh phúc trong tình yêu? Còn bạn, bạn cho rằng mình là kẻ thông minh hay ngu ngốc trong tình yêu? “Đừng chết vì yêu?” là câu hỏi tôi muốn dành cho bạn. Bạn có đồng ý sẵn sàng chết cho tình yêu của mình hay không? Mèo Xù Mời các bạn đón đọc Đừng Chết Vì Yêu của tác giả Mèo Xù.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bố Già
Bố Già là tên một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Mỹ gốc Ý Mario Puzo được xuất bản lần đầu vào năm 1969 bởi nhà xuất bản G. P. Putnam's Sons. Bố Già là câu chuyện về một gia đình mafia gốc Sicilia tại Mỹ được tạo lập và lãnh đạo bởi một nhân vật được gọi là Bố Già-Godfather, Don Vito Corleone. Các sự kiện chính của tiểu thuyết xảy ra từ năm 1945 đến 1955 ngoài ra cũng đề cập đến thời thơ ấu và giai đoạn thanh niên của Vito Corleone vào đầu thế kỉ 20. Thế giới ngầm được phản ánh trong tiểu thuyết Bố già là sự gặp gỡ giữa một bên là ý chí cương cường và nền tảng gia tộc chặt chẽ theo truyền thống Mafia xứ Sicily với một bên là xã hội Mỹ nhập nhằng đen trắng, mảnh đất màu mỡ cho những cơ hội làm ăn bất chính hứa hẹn những món lợi kếch xù. Trong thế giới ấy, hình tượng Bố già được tác giả dày công khắc họa đã trở thành bức chân dung bất hủ trong lòng người đọc. Từ một kẻ nhập cư tay trắng đến ông trùm tột đỉnh quyền uy, Don Vito Corleone là con rắn hổ mang thâm trầm, nguy hiểm khiến kẻ thù phải kiềng nể, e dè, nhưng cũng được bạn bè, thân quyến xem như một đấng toàn năng đầy nghĩa khí. Nhân vật trung tâm ấy đồng thời cũng là hiện thân của một pho triết lí rất “đời” được nhào nặn từ vốn sống của hàng chục năm lăn lộn giữa chốn giang hồ bao phen vào sinh ra tử. Với kết cấu hoàn hảo, cốt truyện không thiếu những pha hành động gay cấn, tình tiết bất ngờ và không khí kình địch đến nghẹt thở, Bố già xứng đáng là đỉnh cao trong sự nghiệp văn chương của Mario Puzo. Nhận định “Bố già là sự tổng hòa của mọi hiểu biết. Bố già là đáp án cho mọi câu hỏi.” (Diễn viên Tom Hanks) “Bạn không thể dừng đọc nó và khó lòng ngừng mơ về nó.” (New York Times Magazine) “Một tác phẩm kinh điển về mafia… Tự bản thân nó đã tạo ra một thứ bùa mê hoặc độc giả.” (The Times) *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu trường u ám (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (tựa bản dịch khác Cha Con Giáo Hoàng) *** Lão Amerigo Bonasera ngồi tại tòa đại hình số 3 ở New York mà chờ đợi, lão chờ đợi công lý trả thù cho lão, trả thù những thằng quá tàn bạo với con gái lão, định xâm phạm tiết hạnh con bé. Ngài chánh án đường bộ xắn hai tay áo chùng đen lên, cứ như sắp thẳng tay trừng trị hai thằng nhóc đang đứng trước tòa. Mặt ngài lạnh lùng, nghiêm nghị. Nhưng lão Amerigo Bonasera cảm thấy tất cả cái màn này có cái gì đó có vẻ giả tạo, mà lão chưa đoán ra được là trò gì. Ngài chánh án gay gắt cất tiếng: – Các ngươi hành động như những kẻ mạt hạng, tồi bại nhất. Đúng vậy, lão Amerigo Bonasera nghĩ, đúng là đồ thú vật. Hai thằng ranh con tóc tai thẳng thớm, mặt mày sáng sủa, đầu cúi gục đầy vẻ ăn năn, hối hận. – Các ngươi hành động như thú dữ trong rừng, cũng may là các ngươi đã không xâm phạm tiết hạnh của cô bé tội nghiệp kia, chứ nếu có chuyện đó thì tòa phải xử các ngươi hai chục năm tù. Ngài ngừng lại, cặp mắt dưới đôi lông mày rậm rì thoáng nhìn khuôn mặt thiểu não của lão Amerigo Bonasera, rồi cúi xuống chồng hồ sơ xin được tại ngoại, cải tạo tại gia. Ngài nhăn mặt, nhún vai, cứ như phải ép lòng làm một chuyện ngoài ý muốn. Ngài lên tiếng: – Xét vì các người còn trẻ người, non dạ, lý lịch sạch, con nhà tử tế, và xét vì tính nghiêm minh của luật pháp không phải nhằm trả thù, do đó, tòa tuyên án mỗi đứa ba năm tù. Được hưởng án treo. Suốt 40 năm làm nghề mai táng, lão Amerigo Bonasera biết cách không để lộ mối hờn căm lộ ra ngoài mặt. Chứ đứa con xinh đẹp của lão vẫn phải đang nằm viện với cái cằm vỡ nát, phải kẹp bằng dây, mà hai con thú vật kia lại được tự do thoải mái như vậy sao? Tất cả màn xử án vừa qua là trò hề sao? Cha mẹ hai thằng khốn đang xoắn xuýt lấy chúng. Tất cả bọn chúng đang hớn hở, vui cười với nhau. Cảnh đó làm lão Amerigo Bonasera điên tiết, tim gan phèo phổi lão như sắp phọt ra khỏi hai hàm răng nghiến chặt. Lão phải móc cái khăn mùi xoa trắng, bịt lên miệng. Lão đứng thận ra mà nhìn hai thằng nhóc phản phơ, trơ tráo, không thèm liếc tới lão, tỉnh bơ ra về thơ thới hân hoan. Lão cứ câm như hến khi chúng đi qua mặt lão, tay lão vẫn ghì chặt cái khăn lên miệng. Cha mẹ chúng, hai thằng đàn ông, hai mụ đàn bà trạc tuổi lão, nhưng quần áo có vẻ Mỹ hơn lão; khi đi qua mặt, chúng thoáng nhìn lão, mặt có vẻ sượng sùng, nhưng ánh mắt chúng vẫn thấp thoáng sự đắc thắng ngạo mạn. Không nín nổi nữa, Bonasera xông ra lối đi, gào theo: – Chúng mày sẽ phải khóc như tao đã khóc. Con tụi bây làm tao phải khóc, tao cũng sẽ bắt tụi bây phải khóc, rồi lão đưa khăn lên mắt. Đám luật sư bào chữa vội tiến lên cùng thân chủ, bao bọc lấy hai thằng nhóc, vì cả hai thằng đều chớm quay lại như để bảo vệ cha mẹ chúng. Một tay thừa phát lại to đùng mau mắn chạy lại chặn lối Bonasera. Nhưng rồi chẳng có gì ầm ĩ xảy ra. Suốt bấy nhiêu năm sống trên đất Mỹ, lão Amerigo Bonasera đã tin tưởng vào trật tự và luật pháp. Và cũng nhờ vậy mà lão làm ăn khấm khá lên. Thế mà lúc này đây, đầu lão bốc cháy căm hờn, lão chỉ muốn mua ngay một khẩu súng, bắn vỡ sọ hai thằng nhãi kia, nhưng Bonasera vẫn phải quay lại mụ vợ đang ngẩn tò te, chẳng hiểu có sự thế này là thế nào, mà cắt nghĩa: Mình bị tụi nó gạt rồi. Lão ngừng lại rồi đi đến quyết định, dù giá nào cũng phải chơi. Lão bảo vợ: – Muốn có công lý, mình phải quỳ lết tới Ông Trùm Corleone thôi. ★ Trong căn hộ trang trí lòe loẹt của khách sạn Los Angeles, Johnny Fontane đang say, y như những anh chồng bình thường khác say xỉn trong cơn ghen. Nằm sõng soài trên cái đi văng đỏ, nó cầm nguyên chai rượu mà tu, rồi vục mồm vào cái xô pha lê đựng nước đá lạnh để chữa lửa. Bốn giờ sáng rồi, trong cái đầu phừng phừng hơi men của nó loay hoay ý định giết chết con vợ mất nết, khi ả về nhà. Nếu ả còn trở về. Gọi cho vợ cũ để hỏi thăm mấy đứa con thì giờ này quá trễ, mà gọi cho mấy thằng bạn trong lúc nghề nghiệp đang xuống dốc thế này thì xuống cấp quá. Thời hoàng kim của nó, thằng nào được nó gọi vào bốn giờ sáng thế này cứ là sướng rên rồi, còn bây giờ, gọi vào giờ này là quấy rầy chúng. Nó mỉm cười, nhớ lại, mới ngày nào, chỉ một rắc rối nhỏ của Johnny Fontane cũng đủ làm mấy nữ minh tinh lớn nhất nước Mỹ bấn cả người lên. Cuối cùng, đang ừng ực nốc rượu, nó cũng nghe thấy tiếng con vợ đang mở khóa cửa, nhưng nó vẫn tì tì uống cho đến khi ả bước vào phòng, đứng lù lù trước mặt nó. Ả đẹp quá, mặt như thiên thần, mắt tím sóng sánh tình tứ, thân hình mảnh mai, tuyệt mỹ. Trên màn ảnh, nhan sắc ả thật tinh khiết, diệu kỳ. Hàng trăm triệu anh đàn ông trên thế giới mê mệt tấm nhan sắc của Margot Ashton, đổ tiền ra mua vé để chiêm ngưỡng dung nhan đó trên màn bạc. Johnny Fontane hỏi vợ: – Cô đi chỗ chó nào về vậy? Vợ nó tỉnh bơ: – Đi nhảy đực. Ả không ngờ nó xỉn quá rồi. Nó phóng qua bàn rượu, nắm cổ ả. Nhưng khi cái khuôn mặt huyền hoặc kia, đôi mắt tím tình tứ kia sát gần mặt nó, thì cơn giận của nó, dũng khí của nó biến mất ráo. Thấy nó buông nắm đấm xuống, ả cười cười cợt nhả: – Johnny ôi, đừng uýnh vô mặt em. Em đang mắc đóng phim đó. Ả cười rũ ra. Nó thui cho ả một quả ngay bụng, làm ả té lăn đùng xuống sàn. Hắn nằm đè lên ả. Ả thở gấp, nó ngửi thấy hơi thở thơm thơm. Nó thui tới tấp, cánh tay, bắp vế, làn da mướt như lụa của cặp đùi ả. Nó dọng ả, như ngày còn là một thằng bé cà lơ trong những xó xỉnh tối tăm của thành phố New York, nó đã từng dọng những nhóc con nhỏ hơn nó... Cái kiểu hành hạ cho đau, nhưng không làm gãy răng, vỡ mũi. Nhưng nó cũng không đánh ả quá mạnh. Nó không nỡ. Thế là ả giở giọng cà chớn mà giễu nó. Ả nằm dạng háng ra, cái váy hếch lên khỏi vế, khinh miệt bỡn cợt: – Nào, cắm vào đi. Cắm vào đi Johnny, mày chỉ ham cái đó thôi mà. Johnny Fontane đứng dậy. Nó căm ghét con đàn bà đang nằm õng ra trên sàn kia, nhưng nhan sắc ả là tấm lá chắn tuyệt vời. Margot uốn mình, bật dậy như một vũ viên. Đứng trước mặt nó, ả nhún nhảy, ca hát như một đứa trẻ ngây thơ: "Anh Johnny chẳng bao giờ đánh mình, chẳng bao giờ làm mình đau đâu." Rồi ả đổi tông, sủa ngay vào mặt Johnny: – Thằng khốn nạn, mày kiềm tỏa, giam hãm tao như một đứa con nít. A ha, Johnny ơi, mãi mãi mày vẫn chỉ là một thằng mọi ngu đần. Cả chuyện làm tình, mày làm cũng như con nít. Mày tưởng làm tình cũng giống như ong ỏng mấy bài ca hạng bét của mày à? Ả lắc đầu ngao ngán: – Tội nghiệp mày quá, Johnny. Thôi, chào, ả vào phòng ngủ, khóa cửa lại. Johnny ngồi xuống sàn, hai tay ôm mặt. Thế rồi, sức mạnh đã từng giúp nó sống nổi tại Hollywood tàn bạo này làm nó bật dậy, nhấc điện thoại, gọi xe ra phi trường. Chỉ một người có thể cứu nó, phải trở về New York. Trở về với con người quyền lực, khôn ngoan đã từng là cứu cánh của nó, và một tình thương yêu mà nó vẫn hằng tin tưởng. Đó chính là cha đỡ đầu Corleone của nó. ★ Lão chủ lò bánh mì Nazorine tánh nết quạu quọ, vừa mập vừa lùn, giống hệt mấy ổ bánh mì Ý của lão, người ngợm dính đầy bột mì, gắt gỏng nhặng xị từ mụ vợ, đứa con gái vừa tuần cập kê, con Katherine, cho tới thằng thợ phụ Enzo. Thằng Enzo đã thay quần áo, tròng lên người bộ đồng phục tù binh, với những chữ xanh trên tay áo, phát hoảng lên vì sợ trễ giờ điểm danh. Nó là một trong hàng ngàn tù binh Ý được tại ngoại mỗi ngày để phục vụ cho nền kinh tế Mỹ, nó sống trong sự phập phồng lo sợ cái khế ước này bị hủy bỏ. Vì vậy màn hài kịch này đối với nó là một dịch vụ tối quan trọng. Mời các bạn đón đọc Bố Già của tác giả Mario Puzo & Đặng Phi Bằng (dịch).
Tình Yêu là Cố Chấp
Bảy năm trước, anh là cảnh sát đặc biệt được quốc gia huấn luyện đặc biệt để cài vào một bang phái xã hội đen lớn ở thành phố A. Bảy năm trước, anh là đại ca của những anh em trong bang Hồng Dã, đã từng biết bao lần cùng nhau vào sinh ra tử, cùng sống cùng chết, thương như máu như thịt. Bảy năm trước, anh khắp người đầy máu rơi từ trên đỉnh núi xuống, vốn dĩ tưởng đã hóa hết một kiếp người... thế nhưng không ngờ diêm vương lại một lần nữa từ chối anh, để anh có thể tiếp tục sống từ trong cái chết. Cũng vào bảy năm trước, anh yêu một người con gái, cô gái ấy sau này không những oán hận anh, mà còn làm tổn thương anh sâu sắc không cách nào quên được. Bảy năm sau, anh đã không còn là cảnh sát, cũng không còn là xã hội đen. Hai người tình cờ gặp nhau ở một thành phố khác trong một thân phận hoàn toàn khác, và một lần nữa duyên phận lại khiến họ phải bắt đầu lại từ đầu. Đi đến cuối cùng, sau bảy năm dài đằng đẵng anh mới hiểu ra rằng: Hóa ra con người anh vốn dĩ cực kỳ cố chấp, cố chấp đến nỗi vì một tình yêu đầy khổ đau như vậy mà trái tim vẫn mãi mãi không thay đổi. Vẫn vĩnh viễn không oán không hối, vĩnh viễn cố chấp yêu cô!!! (Ngoại truyện của Bảy năm không oán không hối viết về BẢY NĂM HAI NGƯỜI XA NHAU. Còn lúc gặp lại chính là ở trong truyện TÌNH YÊU LÀ CỐ CHẤP này. Ngoại truyện in sách - vẫn post lên FB nhưng phải chờ đợi khá lâu. Truyện mới sẽ up lên Facebook bình thường. *** Hiện tại mới chỉ bốn giờ sáng. An Nhã cùng mấy người đồng nghiệp trong công ty tổ chức sự kiện ARF đang tất bật chuẩn bị cho lễ nhậm chức của tân tổng giám đốc của công ty Hàn Thiên diễn ra vào vài tiếng sắp tới. Cô vừa dụi dụi mắt, vừa cúi người kéo phẳng lại vải bọc của mấy chiếc ghế trong sảnh hội nghị, đôi mắt vì thiếu ngủ mà xuất hiện vài sợi tơ máu đỏ thẫm. Quản lý đang tỉ mỉ chỉnh sửa lại mấy cành hoa trong bình ở gần đó, trông thấy cảnh này liền mở miệng hỏi: "Mỗi ngày em ngủ mấy tiếng mà nhìn thảm hại thế kia?" An Nhã liếc quản lý, hơi mỉm cười trả lời: "Đêm qua em đi làm về muộn, mới ngủ được ba tiếng" "Em cũng giỏi thật đấy. Ngày làm hết tám tiếng ở công ty, đêm còn đi tiếp thị rượu, nếu chị cũng làm việc với tần suất như em, chắc kiệt sức lâu rồi". Nét mặt An Nhã bất chợt phảng phất ra một nỗi cô đơn tịch mịch, cô cúi thấp đầu phủi sạch tấm vải trắng ở gần đó, cố che đi một tiếng thở dài trong lòng. Đã gần một năm đặt chân đến thành phố B phồn hoa này, cô vẫn chưa thể nào tìm được một công việc đàng hoàng dù bản thân có bằng cấp vô cùng sáng sủa. Hai mẹ con cô thuê một căn nhà nhỏ ở gần rìa thành phố để sinh sống, nơi này dù đi làm có xa một chút nhưng lại có thể tiết kiệm tiền, còn thuận tiện đến trại giam thăm ba hàng tháng. Mẹ của cô năm nay cũng đã nhiều tuổi, cuộc đời lại trải qua quá nhiều biến cố cho nên thường xuyên bệnh tật, An Nhã làm một công việc đương nhiên không thể đủ tiền để lo cho mẹ nên mới phải làm thêm cả tiếp thị rượu vào buổi đêm. "Nhìn em vậy thôi mà em khỏe lắm đấy" "Mau kiếm lấy anh nào tốt tốt rồi mà cưới đi. Có người nuôi cho đỡ vất vả" "Em như thế này, không ai thèm cưới đâu" "Em xinh xắn như thế, chịu khó đi làm mấy sự kiện lớn như thế này nhiều vào, kiểu gì cũng gặp được mấy anh soái ca con nhà giàu. Ví dụ như tổng giám đốc công ty này này". Những ngón tay An Nhã chạm đến mấy cánh hoa hồng sweet avalanche được nhập khẩu từ nước ngoài về, ánh ngọc trai đính trên bình hoa bỗng dưng làm làm mắt cô đau nhói: "Em chỉ mong kiếm đủ tiền nuôi được mẹ là tốt lắm rồi" Thực ra, kể từ sau khi Dương Kiến Thành ra đi, trái tim cô đã hoàn toàn nguội lạnh. Thời gian trôi đi tựa như dòng nước, chớp mắt cái mà đã bảy năm rồi... Bảy năm trôi qua thứ gì cũng đều thay đổi, chỉ có tình yêu trong cô là mãi mãi vẫn vậy, vẫn mãi mãi vì anh mà si tâm tuyệt đối, không có cách nào chấp nhận thêm được người nào!!! "Ừ. Nghe nói tổng giám đốc công ty này cực kỳ hào phóng. Ngoài tiền tổ chức sự kiện ra còn cho thêm công ty mình một khoản tiền nữa. Chúng ta vất vả mấy ngày hôm nay rồi, cố gắng xong nốt hôm nay, kiểu gì cũng được thưởng thêm chút tiền" An Nhã khẽ thở dài: "Công ty này giàu thật đấy" "Còn phải hỏi à? Cả thành phố B này có ai là không biết tập đoàn Hàn Thiên, tiền nhà họ có tiêu tám đời không hết. Đây nhìn xem, toàn bộ những đồ vật này đều là đồ đặc biệt cao cấp, mà dùng xong cũng chỉ ném đi chứ có làm gì đâu. Mấy tỉ bạc đối với họ chỉ như mấy ngàn lẻ" Ánh mắt quản lý không giấu được sự ngưỡng mộ, chị ta xoay xoay chiếc bình hoa ngọc cao cấp mấy lần: "Thế nên chị mới bảo em chăm chỉ đến mấy sự kiện lớn nhiều vào. Biết đâu người ta để ý đến mình, thức dậy sau một đêm lại đổi đời" An Nhã chỉ cười không đáp. Mấy người bọn họ bận rộn làm việc đến hơn sáu giờ sáng mới xong, cả một sảnh hội nghị sau khi được trang hoàng liền trở nên nguy nga tráng lệ không khác gì một cung điện thu nhỏ. Hoa hồng pink o'hara, hồng Sweet Avalanche, hồng White Avalanche, Tulip, mao lương, ngọc trai, thảm đỏ cao cấp, đến cả mấy chiếc ly uống nước đặt trên bàn cũng là loại pha lê trong veo, có nhìn thế nào cũng thấy nơi này đặc biệt lấp lánh. Thế giới của người giàu. Thế giới này đối với cô mà nói đã rơi vào lãng quên bảy năm rồi!!! An Nhã xoay xoay cổ tay đã mỏi nhừ mấy cái, sau đó nhân lúc quản lý đi kiểm tra lại mọi thứ một vòng liền bước tới phía sau khu hội nghị, tìm chỗ ngả lưng một lát. Cô đi đến một căn phòng nhỏ ở cuối hành lang, sau khi gõ cửa mấy tiếng không thấy ai trả lời mới rón rén mở cửa bước vào. Căn phòng này rất tối, rèm cửa dày đến nỗi ánh sáng ở bên ngoài không thể xuyên qua được, khi An Nhã vừa đặt chân vào liền ngửi thấy mùi thuốc lá thơm thơm. "Xin lỗi, có ai ở đây không?"   Mời các bạn đón đọc Tình Yêu là Cố Chấp của tác giả Phạm Kiều Trang.
Trái Tim Bạc Nhược
Trái tim bạc nhược đã đặt những giá trị vốn bắt rễ vững chắc trong nền văn hóa phương Tây vào tình trạng khủng hoảng. Cuộc xung đột bùng nổ trong lĩnh vực hôn nhân, một cơ cấu xã hội vốn có nhiệm vụ khó khăn là quy chuẩn hóa mối quan hệ yêu đương mà về mặt lý thuyết là người ta hoàn toàn được tự do lựa chọn. Juan, thông dịch viên cho các tổ chức quốc tế, kết hôn với Luisa, một nữ đồng nghiệp. Hai người quen biết nhau khi cùng làm phiên dịch trong một cuộc gặp gỡ giữa hai chính khách cao cấp: một quý bà người Anh và một quý ông người Tây Ban Nha...Trong năm đầu tiên sau khi kết hôn với Luisa, ngay từ buổi hôn lễ anh đã cảm thấy một nỗi lo sợ mơ hồ, khi Ranz, người cha xuất sắc, kẻ đã làm giàu trên cương vị một nhà phê bình nghệ thuật dưới thời chế độ độc tài Franco, khuyên nhủ anh ta rằng: đừng bao giờ kể bất cứ điều bí mật nào với người phụ nữ vừa làm lễ thành hôn. Người cha, vốn rất tự tin, đặt một bàn tay lên vai con, và đã đưa ra lời khuyên nhủ kỳ quặc này cho người con vốn đã chất chứa trong lòng đầy những nghi ngờ. Lời cảnh báo vừa dịu dàng vừa bí hiểm, lại không thể đối đáp lại, cùng cử chỉ mơ hồ kia, một thứ cử chỉ vừa có nghĩa là bảo vệ vừa là đe dọa. Nghi ngại về thái độ này của người cha, từ hôm đó Juan bắt đầu công việc thám tử đầy vất vả nhằm vào người cha, và phát hiện ra một câu chuyện kinh hoàng... Mặt khác, với câu nói nổi tiếng "Tôi không muốn biết nhưng rồi đã biết" dùng để bắt đầu câu chuyện của mình, Juan ám chỉ rằng mình không hề muốn là chính mình, cũng không muốn kể điều mà đang kể, cho thấy một cuộc đấu tranh nội tâm day dứt giữa việc nói ra hay là im lặng. *** Lời cảnh báo “Nếu như con đã có một bí mật nào đó, thì đừng bao giờ tiết lộ với ai” luôn là nỗi ám ảnh đối với bất cứ ai. Bởi ai cũng sẽ có một bí mật nào đó trong đời không muốn tiết lộ, mà bản tính con người luôn nghi ngờ, tò mò, dằn vặt khiến cho trái tim trở nên bạc nhược. Và khi bí mật đó được tiết lộ thì rất có thể họ trút được gánh nặng, cũng có thể họ suy sụp… Đó là nội dung cuốn sách “Trái tim bạc nhược” mà nhà văn Javier Marías muốn đề cập đến. Câu chuyện xung quanh nhân vật - Juan làm nghề thông dịch viên trong các hội nghị cao cấp quốc tế, anh yêu và sau đó cưới Luisa, đồng nghiệp. Ngay từ buổi hôn nhân, Juan đã xuất hiện trong lòng một  mối linh cảm xấu, một mối linh cảm thảm họa. Trong lễ thành hôn, người cha đã đặt tay lên vai Juan và nhẹ  nhàng đặt câu hỏi mà Juan đang băn khoăn bao nhiêu lâu: Và bây giờ thì sẽ ra sao đây? Lời cảnh báo đó đã thực sự ám ảnh Juan, và anh bắt đầu muốn tìm hiểu nó. Cùng với quá trình tìm hiểu câu chuyện bí mật về cuộc hôn nhân của bố. Anh luôn cảm thấy một linh cảm, dường như chính mình đang tiến gần hơn đến thảm họa trong cuộc hôn nhân của mình. Trong lần đi hưởng tuần trăng mật ở La Habana, Juan và Luisa đã nghe được một cuộc nói chuyện của người đàn ông với người phụ nữ ở phòng kế  bên, họ đang mưu đồ giết hại người vợ của người đàn ông, người vợ đang ở Tây Ban Nha, để được đến với nhau. Câu chuyện này mở ra như một móc nối với các cặp đôi về sau: Berta (một người bạn gái của anh ở New York) và Bill (một kẻ lạ mặt làm quen với Berta qua chương trình quảng cáo), Ranz - bố của Juan - và người vợ đầu tiên, mà Juan luôn tưởng tượng ra. Tất cả những gì Juan biết về cuộc hôn nhân của bố mình là cuộc tự sát của người bác gái và cái chết của ông ngoại vì bị bệnh tim mà chỉ một số người biết nguyên nhân, ngoài ra không một ai, tất nhiên là cả anh. Mọi chuyện bí mật được hé lộ phần nào khi hai vợ chồng Juan và Luisa ngồi nói chuyện với một vị giáo sư, người bạn của bố Juan. Khiến cho hai vợ chồng cùng quyết định sẽ tìm hiểu ra câu chuyện của bố. Và đặt trách nhiệm đó vào Luisa, như một điều hiển nhiên, không thể khác, bởi cô là người duy nhất có thể gần gũi và nói chuyện một cách vui vẻ, thân mật được với Ranz, bố Juan. Khi Ranz trở về nhà sau một chuyến công tác, anh trở về mà không báo trước cho vợ. Và anh đã được chứng kiến cuộc nói chuyện đã được chính Luisa sắp xếp cho Juan có thể nghe thấy được. Ngồi ở mép giường trong phòng ngủ, cánh cửa khép hờ nhìn ra phòng khách, Juan đã được nghe toàn bộ câu chuyện của người bố với vợ mình, một câu chuyện kinh hoàng mà anh không bao giờ muốn biết, cuối cùng cũng đã phải biết. Đó là người bố anh đã giết chết người vợ đầu, một người phụ nữ Cuba, vì tình yêu với bác gái của anh, Teresa. Sau khi đã kết hôn với người phụ nữ Cuba, một cuộc hôn nhân không có tình yêu, ông gặp Teresa và hai người yêu nhau, bắt đầu những cuộc hẹn hò bí mật. Vì yêu Terera, và muốn kết thúc sớm cuộc hôn nhân với người phụ nữ Cuba kia, ông đã giết chết vợ, trong một lần khi mà suy nghĩ bệnh hoạn thoáng hiện trong đầu, và ông đã thực hiện luôn ngay lúc đó. Sau đó ông cưới Teresa, nhưng không lâu, trong một lần trên giường ngủ, ông đã tiết lộ bí mật ấy, bí mật về một việc đã âm thầm làm, không một ai biết cho Teresa. Sau khi biết câu chuyện kinh khủng mà chồng mình đã làm, Teresa cảm thấy kinh tởm ông, sợ hãi ông, và vì thời đó, họ không được phép ly hôn, bà đã tìm đến cái chết, bằng một cuộc tự sát trong phòng tắm, bằng chính khẩu súng của cha mình, ngay sau khi đi hưởng tuần trăng mật trở về. Một cái chết trong hoảng loạn, sợ hãi. Sau đó ông lấy người em gái của Teresa: Juana, mẹ của Juan sau này. Và bà đã im lặng, không hỏi đến nguyên nhân cái chết của chị gái mình cho đến hết cuộc đời. Ông bố của bà, sau cái chết của người vợ đầu người Cuba, đến cái chết của cô con gái thứ nhất của mình, Teresa, bây giờ lại đến đứa con gái thứ hai trở thành vợ của Ranz, ông luôn sống trong lo lắng, sợ hãi, ông lo cho đứa con gái thứ hai của mình, sẽ bị lặp lại thảm họa giống như hai người vợ trước, vừa là một nỗi ám ảnh mê tín, vừa là sợ hãi chính Ranz, người con rể của mình. Cuộc sống luôn trong phấp phỏng, lo âu đã khiến ông nhanh chóng bị kết thúc cuộc đời. Câu chuyện tưởng như sẽ vĩnh viễn chìm vào im lặng, xóa mọi dấu vết của nó theo thời gian và sự im lặng của tất cả những người trong cuộc, nhưng rồi cuối cùng nó cũng phải quay trở lại, trong cuộc nói chuyện giữa người bố và người con dâu, và đây cũng là lần cuối cùng nó trở lại. Người bố sau bao nhiêu năm trời luôn tỏ ra là một con người phong độ, trẻ trung so với tuổi tác, luôn thanh lịch, hào hoa, như những gì ông cố tỏ ra, xí xóa toàn bộ mọi chuyện đã qua như chưa từng có gì để sống, nhưng sau cuộc nói chuyện này, như sau một lần quay lại đối diện với sự thật mình đã gây ra, ông đã thay đổi tất cả: trở nên già hơn, trầm tư hơn, buồn bã hơn. Điều đã làm và điều nghe thấy, điều được truyền đạt lại là hoàn toàn khác nhau. Một sự thật xảy ra với một sự thật được sắp xếp lại. Và điều đã xảy ra, một sự việc đã xảy ra, nếu như người ta im lặng, không nhắc tới nó, thì nó cũng không khác gì một việc chưa từng xảy ra, chưa từng có.  Đó là một chân lý mà tác giả đã xuyên suốt cả tác phẩm. Thảm họa đã xảy ra trong gia đình Juan, nó giống như một điều đã xảy ra, một điều đã làm. Nó gần như đã bị xí xóa hoàn toàn, không ai nhắc đến nữa, nghĩa là nó chưa từng tồn tại, cho đến một ngày câu chuyện được nhắc lại qua lời kể của người bố. Và sau khi tất cả nghi ngờ được hóa giải, tất cả bí mật được hé lộ, thì những mối linh cảm, lo sợ về một thảm họa cũng tan biến hoàn toàn trong Juan. Dù sau khi biết được sự thật kinh hoàng, có bất ngờ, có choáng váng, nhưng anh cũng cảm giác nhẹ nhàng hơn, như rũ bỏ được một gánh nặng. *** Một câu nói ám ảnh cả nhân vật lẫn người đọc: Nếu có một bí mật thì đừng bao giờ tiết lộ với ai. Những con người có thể sống với trái tim bạc nhược vì nghi ngờ, vì tò mò, vì dằn vặt, vì nỗ lực xóa bỏ quá khứ. Nhưng nếu bí mật được tiết lộ, có người sụp xuống mà cũng có người cảm thấy như vừa trút được gánh nặng... Người ta sống thế nào khi "trái tim bạc nhược"?... Juan làm nghề thông dịch viên trong các hội nghị cao cấp quốc tế, anh yêu và sau đó cưới Luisa, đồng nghiệp. Trong lễ thành hôn, người cha cảnh báo: Nếu như con đã có một bí mật nào đó, thì đừng bao giờ tiết lộ với ai. Lời cảnh báo đó đã thực sự ám ảnh Juan, và anh bắt đầu muốn tìm hiểu nó. Tất cả những gì Juan biết về cuộc hôn nhân của bố mình là cuộc tự sát của người bác gái và cái chết của ông ngoại vì bị bệnh tim mà chỉ một số người biết nguyên nhân. Ranz trở về nhà sau một chuyến công tác, không báo trước cho vợ. Anh đã được nghe toàn bộ câu chuyện mà bố kể với vợ mình, một câu chuyện kinh hoàng anh không bao giờ muốn biết nhưng cuối cùng cũng phải biết. Đó là bố anh đã giết chết người vợ đầu, một người phụ nữ Cuba, vì tình yêu với bác gái của anh, Teresa. Sau khi đã kết hôn với người phụ nữ Cuba, một cuộc hôn nhân không có tình yêu, ông gặp Teresa và hai người yêu nhau, bắt đầu những cuộc hẹn hò bí mật. Vì yêu Terera, muốn kết thúc sớm cuộc hôn nhân với người phụ nữ Cuba kia, ông đã giết chết vợ. Sau đó ông cưới Teresa, và ông đã tiết lộ bí mật về việc đã âm thầm làm cho Teresa biết. Sau khi biết câu chuyện kinh khủng, Teresa cảm thấy kinh tởm ông, sợ hãi ông, và bà đã tự sát trong phòng tắm, bằng khẩu súng của cha mình, ngay sau khi đi hưởng tuần trăng mật trở về. Sau đó ông lấy người em gái của Teresa: Juana, mẹ của Juan sau này. Và bà đã im lặng, không hỏi đến nguyên nhân cái chết của chị gái mình cho đến hết cuộc đời. Câu chuyện tưởng như sẽ vĩnh viễn chìm vào im lặng, xóa mọi dấu vết của nó theo thời gian và sự im lặng của tất cả những người trong cuộc, nhưng rồi cuối cùng nó quay trở lại, trong cuộc nói chuyện giữa người bố và con dâu. Người bố từ bao năm luôn tỏ ra phong độ, trẻ trung, thanh lịch nhằm xí xóa mọi chuyện đã qua để tiếp tục sống, nhưng sau cuộc nói chuyện này, ông trở nên già hơn, trầm tư hơn, buồn bã hơn. Một sự việc đã xảy ra, nếu như người ta im lặng, không nhắc tới nó, thì nó cũng không khác gì một việc chưa từng xảy ra, chưa từng có. Đó là một chân lý xuyên suốt cả tác phẩm. Sau khi tất cả nghi ngờ được hóa giải, tất cả bí mật được hé lộ, thì những mối linh cảm, lo sợ về một thảm họa cũng tan biến hoàn toàn trong Juan. Dù sau khi biết được sự thật kinh hoàng, có bất ngờ, có choáng váng, nhưng anh cũng cảm giác nhẹ nhàng hơn, như rũ bỏ được một gánh nặng. Nhưng bố anh thì khác... Cuốn sách này của Javier Marías - tác giả của Lãnh địa của Sói, Đường xuyên chân trời, Đấng Quân vương của thời đại, Thế kỷ, Người đàn ông đa cảm vừa đến với độc giả Việt Nam qua bản dịch của Lê Xuân Quỳnh. Gia Bách review     *** Nhà văn Javier Marías sinh năm 1951 tại Madrid (Tây Ban Nha). Ông vừa viết văn vừa giảng dạy tại các trường Đại học Oxford và trường Đại học Complutense Madrid. Ông đã được trao nhiều giải thưởng khu vực và quốc tế: Năm 1997, giải thưởng Sách Nelly ở Dortmund; năm 1998 giải thưởng Cộng đồng Madrid; năm 2000, giải thưởng Grizane Cavour ở Turín và giải thưởng Alberto Moravia ở Roma. Sách của Javier Marías đã được dịch sang ba mươi tư ngôn ngữ, xuất bản tại bốn mươi bốn nước với hơn năm triệu bản, gồm các thể loại:  Tiểu thuyết và truyện vừa như: Lãnh địa của Sói, Đường xuyên chân trời, Đấng Quân vương của thời đại, Thế kỷ, Người đàn ông đa cảm (giải thưởng quốc tế Ennio Flaiano), Hết thảy mọi linh hồn (giải thưởng thành phố Barcelona), Trái tim trong trắng (giải thưởng La Critica, giải thưởng l´Oeil et la Lettre, giải thưởng IMPAC international Dublín Literary), Ngày mai trên chiến trận anh hãy nhớ đến em (giải thưởng Fastenrath, giải thưởng quốc tế Rómulo Gallegos, giải thưởng Tổng giám mục Juan de San Clemente, giải thưởng Femenina Étranger và giải thưởng Mondillo Città di Palermo), Mặt tối của thời gian, Gương mặt ngày mai của em: sự cuồng nhiệt và ngọn giáo (giải thưởng Salambó) và Gương mặt ngày mai của em: vũ điệu và giấc mơ. Mời các bạn đón đọc Trái Tim Bạc Nhược của tác giả Javier Marías & Lê Xuân Quỳnh (dịch).
Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng
Khi cuộc nội chiến Hoa Kỳ gần kết thúc, những tay súng cuồng tín của Câu lạc bộ Súng ở Baltimore rất nhàn rỗi. Một ngày đẹp trời, chủ tịch Impey Barbicane đưa ra một đề xuất được chào đón một cách nhiệt tình. Đó là việc liên hệ với Mặt trăng bằng cách phóng một quả đạn khổng lồ bằng một khẩu pháo khổng lồ! Trong khi dự án đáng kinh ngạc này đang được thực hiện, một người Paris, Michel Ardan, gửi điện báo cho Barbicane: “Hãy thay thế quả đạn hình cầu bằng quả đạn hình nón. Tôi sẽ ngồi vào trong đó”... Với các nhân vật được xây dựng hoàn hảo, sự hài hước luôn hiện hữu, Từ Trái đất đến Mặt trăng là một trong những tác phẩm vĩ đại của Jules Verne, một trong những dự đoán táo bạo nhất của ông. Tác phẩm được Thanh Yên dịch từ bản dịch tiếng Anh. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. - Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, được coi là người khai sinh ra thể loại văn học Khoa học viễn tưởng. - Tác phẩm của ông được dịch nhiều thứ ba trên thế giới và được chuyển thể thành phim nhiều lần. - Danh tiếng ấy chắc hẳn đã là đẹp đẽ lắm rồi. Tuy nhiên ông còn xứng đáng được nhiều hơn thế. Và thật không công bằng khi chúng ta kể lại lịch sử văn học của thời đại này mà không đặt tiểu thuyết gia có lẽ là có tính sáng tạo bậc nhất vào một vị thế đúng đắn. - Ông đã dùng phòng thí nghiệm và kính viễn vọng để viết tiểu thuyết phiêu lưu. Ông không chỉ ghi lại quá trình các nhà bác học tạo nên những phát minh lớn, mà còn tiên đoán chúng. Đọc những tác phẩm cùa ông, ta có thể nhận thấy những mâu thuẫn vì trong số những ý tưởng khoa học còn có những kiến phát chưa thể xác minh. Và bỗng dưng năm sau, hoặc vài năm sau, những giả thuyết mà ông đặt ra mà đôi khi thậm chí ông còn không tin, đã trở thành sự thật, một cách hoàn toàn chính xác. Những nhà bác học đã hoàn toàn đồng tình với ý tưởng của ông, hay nói cách khác, ông đã đi trước họ!.. - Trước đây, người ta vẫn đặt câu hỏi liệu khoa học thực sự có đi ngược hướng với trí tưởng tượng văn chương hay không. Các nhà triết học thì đồng tình, lules Verne chứng minh điều ngược lại qua hành động. Ông dùng chất liệu khoa học để xây dựng nên những câu chuyện hấp dẫn, những cuộc phiêu lưu lôi cuốn. *** T rong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, hay còn gọi là cuộc chiến tranh giữa các tiểu bang (1861-1865), tại thành phố Baltimore, bang Maryland đã xuất hiện một câu lạc bộ mới và có sức ảnh hưởng ngoài mong đợi của những người sáng lập. Nó nổi lên cùng với nguồn năng lượng đến từ những tham vọng quân sự đang lớn dần giữa các nhóm chủ tàu, chủ hiệu và thợ cơ khí. Các nhà buôn thuần túy bỏ bàn tính để trở thành đại úy, đại tá và tướng lĩnh mà chưa hề có mặt dù chỉ một ngày ở Trường đào tạo West Point; thế mà, họ vẫn mau chóng sánh ngang với những kẻ đồng cấp nơi lục địa già và cũng như những kẻ kia, giành được thắng lợi nhờ các khoản chi vô tội vạ vào đạn dược, tiền bạc và con người. Nhưng lĩnh vực trong đó người Mỹ đặc biệt bỏ xa người châu Âu là khoa học chế tạo đại bác. Không phải vũ khí của họ có độ hoàn hảo cao hơn mà đơn giản chỉ là họ tạo ra các kích thước lớn hơn; lớn chưa từng thấy, thậm chí lớn tới mức xưa nay chưa từng thấy. Có người còn bạo mồm nói rằng kể cả mãi mãi về sau… Ở các khoản bắn quét, phóng, xiên, hay lia, hoặc bắn thẳng, người Anh, Pháp và Phổ chẳng có gì cần học hỏi; nhưng súng đại bác, bích kích pháo và súng cối của đám người này chỉ là thứ súng lục bỏ túi nếu so với những cỗ máy ghê gớm của pháo binh Mỹ. Sự thật này chẳng làm bất ngờ ai. Người Yankee, dù đây là theo cách gọi coi thường của người miền Nam trong thời kỳ nội chiến dành cho dân Bắc Mỹ, thì chính họ, những thợ cơ khí đầu tiên trên thế giới, là các kỹ sư – cũng như người Ý là nhạc công còn người Đức là các nhà siêu hình học bẩm sinh. Chẳng gì nghiễm nhiên hơn, thế đấy, việc nhìn họ ứng dụng tài hoa ấn tượng của mình vào khoa học chế tạo đại bác. Chứng kiến sự kỳ diệu của các loại súng Parrott, Dahlgren và Rodman, thì lục địa già với những súng Armstrong, Palliser và Beaulieu vang lừng tên tuổi một thời đã buộc phải cúi đầu trước những kình địch ở bên kia Đại Tây Dương. Giờ đây khi một người Mỹ có kế hoạch hành động, anh ta sẽ trực tiếp tìm một anh Mỹ thứ hai để bàn bạc và mời hợp tác. Nếu có ba, họ sẽ chọn ra một thủ lĩnh. Khi có bốn, họ sẽ chỉ định người quản lý hồ sơ và văn phòng sẵn sàng hoạt động. Nếu có năm, họ sẽ tiến hành mọi nghi lễ cần thiết để cho ra đời một câu lạc bộ. Chính là cái câu lạc bộ nói trên. Mọi thứ diễn ra tại Baltimore. Nhà sáng chế ra loại đại bác mới ủng hộ các thợ đúc và thợ khoan. Từ đó hình thành nên cốt lõi, nền tảng cho sự ra đời Câu lạc bộ Súng. Rồi, chỉ vẻn vẹn một tháng sau ngày thành lập, câu lạc bộ đã có tới 1.833 hội viên hợp thức và 30.565 hội viên thông tấn. Một điều kiện được coi như yếu tố tiên quyết đối với mỗi ứng viên khi gia nhập câu lạc bộ này, là phải đã hoặc đang thiết kế, hoặc (ít hay nhiều) từng hoàn thiện một khẩu đại bác; hoặc, nếu không đại bác, chí ít cũng là loại súng ngắn nào đó. Ấy thế mà, nghe nói, chỉ các tay sáng chế ra súng lục ổ quay, súng cạc bin khạc lửa và các vũ khí tương tự cỡ nhỏ, mới gặp ít soi xét nhất. Riêng lính pháo binh luôn được xếp hạng ưu trong điều khoản chiếu cố. Quy ước để tổ chức các quý ông này, theo một trong những diễn giải khoa học nhất và cũng mơ hồ nhất, của Câu lạc bộ Súng, là “tương ứng với số lượng súng của họ và tỷ lệ thuận với bình phương khoảng cách đạt được khi đạn bắn ra”. Khi Câu lạc bộ Súng được thành lập, tương lai về các thiên tài phát minh của người Mỹ thật quá dễ mường tượng. Vũ khí quân sự của họ đạt tới tầm vóc khổng lồ, còn đạn của họ, vượt mọi giới hạn quy chuẩn, thỉnh thoảng chẳng may cắt đôi vài khách bộ hành vô tội. Những sáng chế này, trên thực tế, bỏ xa các thiết bị nhút nhát của pháo binh châu Âu lại phía sau. Cũng là lẽ công bằng khi nói thêm rằng những người Yankee này, dũng cảm như họ từng thể hiện, đã không hạn chế chính mình trong các học thuyết và công thức, nhưng đã phải trả giá đắt, bằng chính bản thân, cho các sáng chế của họ. Trong số họ có đủ các cấp sĩ quan, từ trung úy tới cấp tướng; quân nhân thuộc mọi lứa tuổi, trong đó có người vừa mới gia nhập ngành vũ khí cho tới những người đã già đi cùng xe chở pháo. Phần còn lại của nhiều người được tìm thấy trên chiến trường và dòng tên viết in hoa trong Cuốn sách Danh vọng của Câu lạc bộ Súng, nhiều người khác tỏa ánh vinh quang mang theo những dấu tích của lòng dũng cảm không thể bàn cãi. Nạng đỡ, chân gỗ, tay giả, móc thép, hàm cao su, sọ bạc, mũi bạch kim, đều được tổng kết lại; và nhà thống kê xuất sắc Pitcairn tính toán rằng, suốt thời gian hoạt động của Câu lạc bộ Súng, cứ bốn người thì một thiếu đôi tay toàn vẹn và sáu người thì một không có đôi chân đủ đầy. Tuy nhiên, những pháo thủ can đảm này chẳng dành chút chú ý đặc biệt nào tới những thừa thiếu nhỏ nhoi này, mà chỉ cảm thấy niềm tự hào dâng tràn khi thông báo kết quả gửi về từ trận chiến: Con số tử vong gấp mười lần lượng đạn tiêu hao. Một ngày nọ, ấy vậy mà lại là ngày u buồn! Hòa bình được ký kết giữa những kẻ sống sót sau cuộc chiến; tiếng gầm rú của đạn pháo dần vơi, súng cối trở nên câm lặng, bích kích pháo bị bịt kín miệng trong thời gian không hạn định, đại bác, với những họng súng rầu rĩ, bị kéo vào kho… những hồi ức đẫm máu cũng lu mờ; cây bông mọc sum suê trên những cánh đồng được bón phân cẩn thận, tất cả đồ tang lễ được xếp sang một bên, cùng với nỗi đau thương; còn Câu lạc bộ Súng bị đẩy xuống trạng thái trì trệ vô thời hạn. Dăm ba nhà lý luận cấp cao thâm căn cố đế quay lại với việc sửa đổi các trù tính về luật súng đạn. Họ khăng khăng lật lại vấn đề về đạn pháo khổng lồ và bích kích pháo ngoại cỡ. Nhưng thiếu thực tiễn, mớ lý thuyết này có giá trị gì? Và như vậy, các phòng trong câu lạc bộ trở nên vắng ngắt, những người phục vụ ngủ gà gật nơi tiền sảnh, báo chí mốc meo trên bàn, tiếng ngáy vọng ra từ góc tối, còn hội viên của Câu lạc bộ Súng, khi xưa ầm ĩ trong cả phiên họp lẫn giờ giải lao, nay tụt xuống im ắng vì thứ hòa bình tai họa này và buông bỏ toàn bộ bản thân vào những giấc mơ về một nền pháo binh thuần khiết. “Thật là tệ hại!” Tom Hunter nói khi chiều tối, trong lúc đang mau chóng tôi cacbon cặp chân giả trong lò sưởi phòng hút thuốc. “Chẳng có gì để làm!” anh nói, giọng hằn học. “Chẳng có gì để trông mong! Cái loại tồn tại ghê tởm này! Đến khi nào súng ống lại đánh thức chúng ta dậy buổi sáng bằng tiếng nổ dễ chịu của nó đây?” “Những ngày đó qua rồi,” Bilsby dễ mến nói, cố duỗi đôi tay đã mất. “Đã là ngày xưa vui vẻ rồi! Một người phát minh ra súng và khó khăn lắm mới đúc ra nó, một người vội vã thử dùng để đối đầu với kẻ thù! Sau đó một người quay về doanh trại cùng lời cổ vũ của Sherman hoặc cái bắt tay thân thiện với McClellan. Nhưng giờ các tướng đều quay lại với bàn tính; và thay vì súng đạn, họ gửi đi các kiện bông. Trời ơi, tương lai ngành chế tạo đại bác của nước Mỹ tiêu rồi!” “Ây! Còn chẳng có viễn cảnh chiến tranh nào!” James T. Maston nổi tiếng tiếp lời, cào cào cái sọ nhựa kết của mình bằng bàn tay móc thép. “Chẳng có nguy cơ nào trong tương lai! Mà lại còn ở cái giai đoạn then chốt trong sự phát triển của khoa học pháo binh! Đúng thế đấy, các quý ông! Tôi, người đang nói với các bạn đây, sáng nay đã hoàn thiện một mẫu, đủ cả, gồm bố trí, mặt cắt, góc nâng, vân vân và vân vân của loại súng cối sẽ thay đổi mọi tình thế chiến trận!” “Không… không! Có thể như vậy ư?” Tom Hunter kêu lên, vô tình nhớ lại sáng chế trước kia của ngài J. T. Maston, bằng cách nào đó, trong lần thử nghiệm đầu tiên, đã tiêu diệt ba trăm ba mươi bảy tên địch. Một thành công hơn cả mơ ước. “Nhưng mà,” anh nói tiếp, “tiến hành nhiều nghiên cứu, đánh bại nhiều khó khăn thì cũng có ích lợi gì đâu? Chỉ lãng phí thời giờ! Tân Thế Giới có vẻ đã quyết tâm sống trong hòa bình; còn vị lãnh đạo hiếu chiến của chúng ta dự đoán rằng một số thảm họa sắp phát sinh từ sự gia tăng dân số tồi tệ này.” “Tuy nhiên,” đại tá Blomsberry đáp lời, “ở châu Âu họ luôn phải vật lộn để duy trì nguyên tắc của các dân tộc.” “Thì sao?” “Thôi nào, có thể là vẫn có chỗ cho lòng can đảm ở bên đó và nếu họ chấp nhận sự phục vụ của chúng ta…” “Cậu mơ mộng cái gì đấy?” Bilsby hét lên, “chế tạo đại bác vì lợi ích của lũ ngoại quốc ư?” “Thế chả hơn là vô công rỗi nghề ở đây sao?” đại tá đáp trả. “Chính xác,” J. T. Matson nói, “nhưng chúng ta không cần tính đến cái kế đó.” “Tại sao không?” đại tá gặng hỏi. “Vì quan điểm về sự tiến bộ ở Cựu Thế Giới của họ trái ngược với thói quen tư duy của người Mỹ chúng ta. Những kẻ đó tin rằng không ai có thể trở thành tướng mà ban đầu không phục vụ với vai trò người cầm cờ; thế thì chẳng khác gì nói một người không thể chĩa súng nếu không tự làm ra một khẩu súng trước đó!” “Lố lăng!” Tom Hunter vừa nói vừa gọt đẽo tay ghế bành bằng một lưỡi mác, “nhưng nếu như vậy, tất cả những gì còn lại cho chúng ta chỉ là trồng thuốc lá và chưng dầu cá voi.” “Gì đây!” J. T. Maston gầm lên, “Sao chúng ta không tận dụng những năm còn lại của đời mình để hoàn thiện loại súng cầm tay? Chẳng lẽ không bao giờ có cơ hội tử tế để thử tầm đạn à? Chẳng lẽ ánh chói ngời từ súng của chúng ta sẽ không bao giờ làm bừng sáng không gian nữa à? Không có mâu thuẫn quốc tế nào nảy sinh để chúng ta tuyên bố chiến tranh chống lại các thế lực bên kia Đại Tây Dương hay sao? Chẳng lẽ không người Pháp nào đánh chìm tàu hơi nước của chúng ta, hay người Anh, bất chấp quyền lợi giữa hai dân tộc, treo cổ vài đồng hương của chúng ta hay sao?” “Không may mắn thế đâu,” đại tá Blomsberry đáp, “chẳng cái gì tương tự có khả năng xảy ra đâu, mà dù có, chúng ta cũng chả lợi dụng được gì từ nó. Tính nhạy cảm của người Mỹ đang sụt giảm mau chóng, rồi tất cả chúng ta đều sẽ lụn bại.” “Quá đúng,” J. T. Maston trả lời với giọng giận dữ chưa tan, “Có hàng ngàn chiến trường để chiến đấu, nhưng chúng ta không chiến đấu. Chúng ta hy sinh tay chân cho lợi ích của các dân tộc – những kẻ không biết phải làm gì với chúng! Nhưng khoan – khỏi tốn công tìm động cơ chiến tranh – chẳng phải Bắc Mỹ một lần nữa lại thuộc về người Anh?” “Chắc chắn thế rồi,” Tom Hunter đáp, giậm giậm nạng của mình trong cơn giận dữ. “Chà, nếu vậy,” J. T. Maston nói, “tại sao không đổi lại nước Anh thuộc về người Mỹ?” “Thế mới thích đáng và công bằng,” đại tá Blomsberry đáp lại. “Hãy kiến nghị với tổng thống Mỹ đi,” J. T. Maston ré lên, “và xem xem ông ta sẽ tiếp đón anh thế nào.” “Hừ!” Bilsby gầm gừ giữa bốn chiếc răng chiến tranh đã để lại cho mình, “Điều đó không bao xảy ra!” “Trời ơi!” J. T. Maston la lớn, “Thế thì ông ta hẳn không cần phiếu của tôi cho lần bầu cử tiếp rồi!” “Cũng không cần của chúng tôi luôn,” tất cả các thương binh hiếu chiến nhất trí đáp lời. “Trong lúc ấy,” J. T. Maston tiếp tục, “cho phép tôi nói điều này, nếu tôi không thể tóm được một cơ hội để thử nghiệm súng cối mới của mình trên chiến trường chân chính, tôi sẽ nói lời tạm biệt với tất cả thành viên của Câu lạc bộ Súng và đi chôn vùi bản thân trong các thảo nguyên ở Alaska!” “Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ đi theo anh,” những người khác kêu lên. Chuyện là trong tình cảnh đáng tiếc ấy, câu lạc bộ bị đe dọa trước nguy cơ giải tán, thì một tình huống bất ngờ đã xảy ra và ngăn chặn một kết thúc bi đát. Vào ngày tiếp theo sau cuộc trò chuyện này, mỗi thành viên của hội đều nhận được một giấy báo có niêm phong thuật lại nội dung sau: BALTIMORE, Ngày mùng ba tháng Mười, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng trân trọng thông báo tới các đồng sự rằng, tại buổi họp khẩn cấp lần thứ năm, ngài sẽ mang đến cho họ một tin tức vô cùng thú vị. Ngài yêu cầu, do đó, họ sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng để tham gia theo đúng lời mời này. Rất thân ái. IMPEY BARBICANE, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng. Mời các bạn đón đọc Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng của tác giả Jules Verne & Thanh Yên (dịch).