Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nghĩa Địa Praha

Sau Tên của đóa hồng và Con lắc Foucault, độc giả văn chương thế giới đã rất sốt ruột chờ đợi một đại tác phẩm nữa của Umberto Eco. Và rốt cuộc, Eco đã xuất bản Nghĩa địa Praha, một tác phẩm không phụ lòng trông đợi của bất kỳ ai say mê những cuốn tiểu thuyết hòa trộn lịch sử với văn chương theo một cách thức độc đáo vô cùng. Simone Simonini là người Ý sinh ra ở Turin, nhưng hoạt động rộng khắp châu Âu vào nửa sau thế kỷ 19. Simone can dự vào hầu hết vụ việc chính trị quan trọng một thời: Những cuộc hành quân của Garibaldi, vụ án Dreyfus, những cuộc thanh trừng thầy tu dòng Tên và thành viên Hội Tam Điểm… lúc nào Simone cũng ở trong bóng tối, là nhân vật mà cơ quan mật vụ tất cả các nước châu Âu đều thèm muốn. Nhưng “sứ mệnh” quan trọng nhất của Simone Simonini là đối đầu với người Do Thái. Suốt đời mình, Simone đã thực hiện công việc này một cách không mệt mỏi, có lúc còn sát cánh bên Edouard Drumont, lãnh tụ phong trào bài Do Thái của châu Âu. Với Nghĩa địa Praha, Umberto Eco đã đưa ra một cách lý giải độc đáo, thậm chí thiên tài, về tai họa bài trừ người Do Thái ở châu Âu, mà hậu quả tất yếu là nạn diệt chủng trong Thế chiến thứ hai. Nghĩa địa Praha là cuốn tiểu thuyết thứ 6 của nhà văn Umberto Eco ra mắt ngày 29 tháng Mười năm 2010 tại nhà xuất bản Bompiani (Ý). Ngay khi vừa xuất hiện, cuốn sách đã bán được 450.000 bản trong vòng chưa đầy hai tuần lễ. Tính tới thời điểm hiện tại, Nghĩa địa Praha đã được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ khác nhau trên toàn thế giới. Nhận định “Umberto Eco đã đánh dấu Nghĩa địa Praha là tác phẩm “quỷ ám” nhất của mình, một bức chân dung xen lẫn giữa hận thù và tài diễn tấu của mình.” (L'Express) *** Tôi đến với “Nghĩa địa Praha” vì quá mê mẩn chất Umberto Eco qua “Tên của đóa hồng”. Thế nhưng vì vốn từ hạn hẹp không đủ để diễn đạt được cảm xúc của tôi với “Tên của đóa hồng” nên đành dùng thời gian để bày tỏ về một tác phẩm khiến tôi khá ngổn ngang. Tất nhiên đây hoàn toàn là cảm nhận cá nhân, tôi xin phép chia sẻ vài dòng coi như tâm sự hơn là đánh giá, nhận xét về một tác phẩm vĩ mô. Bối cảnh trong “Nghĩa địa Praha” rộng hơn “Tên của đóa hồng” rất nhiều. Điều đó là một lợi thế vì nó đẩy nhanh nhịp truyện hơn, tạo nhiều tình huống bất ngờ và cao trào được đưa lên mạnh nhất có thể. Một phần khác vì yếu tố nội dung là cuộc hành trình bài Do Thái của Simone Simonini nên cốt truyện cũng gấp khúc và hạn chế hẳn sự tám chuyện đặc trưng của các tác giả Ý. Thế nhưng chính điều đó, với tôi, cũng là điểm yếu chết người cho tác phẩm này. Tất nhiên là vì cảm xúc cá nhân thôi nhưng do bối cảnh rộng (nếu không phải quá rộng), Umberto khó lòng kiểm soát toàn bộ hệ thống nhân vật, sự kiện, chi tiết nên dẫn tới sự thiếu thống nhất, nhất là ở nhân vật Simone. Ban đầu anh chàng là một gã Ý, như bao gã Ý khác, lãng tử, tự do, cố chấp, điên rồ nhưng rồi có lẽ chuyến hành trình dài đằng đẵng cộng thêm thứ định kiến kiên định đến mức ám ảnh khiến cái chất đẹp đẽ đó, thứ dòng máu chảy trong anh chàng ta thui chột. Cuối cùng chàng ta là ai tôi cũng chẳng biết nữa, thật ngỡ ngàng làm sao! Đó không phải là sự tha hóa dần, một chuyển biến rõ ràng của tính cách, hành xử, quan niệm cũng không phải là cái hình tượng đa nhân cách (tự nói chuyện với chính mình) hay hoang tưởng đến tột cùng, nếu là thế tôi đã chấp nhận con người của anh ta. Ở đây, Umberto ở đây quẳng một Simone này, ở kia quẳng một Simone nọ, như những nhân vật khác nhau bị gán cho cùng một cái tên, và tôi cứ ngỡ đang xem một cuốn tiểu thuyết gộp lại từ các câu chuyện ngắn với các nhân vật chính khác nhau. Tính thống nhất, liên kết từ đó bị vỡ vụn, nhất là khi nó dày đặc những sự kiện lịch sử mà chỉ cần lơi là một tí là chẳng thể hiểu nổi vì sao Umberto đặt chúng cạnh nhau. So với “Tên của đóa hồng” thì đỡ lan man hơn, nhưng thiếu bí ẩn, gay cấy hơn nhưng loãng đi. Umberto chọn lấy nhân vật làm tâm, tất cả xoay vần bên người đó, và còn gì buồn hơn khi bản thân nhân vật ấy đã là tổng hợp những gì vỡ vụn. Điều tiếp theo là về văn phong, điều này tôi không biết là do người dịch hay do bản thân Umberto. Hồi trước tôi đã từng cãi nhau với một người vì người đó bảo, bỏ đi tình tiết, cốt truyện và lượng tri thức phong phú thì Umberto viết chẳng có gì hay, lan man, dài dòng và quá tỉ mỉ. Tôi thì cho rằng như bao kẻ không hiểu được dòng văn học Ý, người đó không thể hiểu cái việc các bác thích dàn trải một đống chi tiết, lan man tận trời cuối đất, đọc vừa chán vừa ứ liên quan nhưng một khi vào guồng, những thứ tưởng chừng không là gì lại liên kết chặt chẽ với nội dung, hòa hợp đến mức sững sờ. Umberto là một người thích viết câu dài và may thay ông ấy không tiết kiệm dấu phẩy, nhưng thay vì liên miên, mềm mại thì những câu dài của ông ấy lại tạo một ấn tượng ngược lại, nó rắn rỏi, mạnh mẽ và phóng khoáng, như gió trên thảo nguyên bạt ngàn vậy. Nhưng lần này, vẫn là những câu dài miên man nhưng nó cụt quá, kiểu cố ghép thành câu dài, ngắt quãng liên tục và “góp phần” không nhỏ khiến nội dung đã vỡ vụn thêm chấp vá. Đọc, thật sự rất nản và vì lí do không đọc được hàng gốc nên tôi cũng không rõ là do ông hay do dịch giả. Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, “Nghĩa địa Praha” phá rõ cái định kiến Umberto Eco thì chỉ có thể viết về Trung cổ và nhấn mạnh thêm Umberto Eco là một tiểu thuyết gia sử học tài ba đến cỡ nào với lượng tri thức hùng vĩ và bạt ngàn, không gò bó mà thổi vào đó những cách nhìn mới và logic. Những sự kiện lịch sử Châu Âu được nối kết tuyệt vời, khó tìm được lỗ hỏng, cộng thêm nói về những bước tiến của nghiên cứu tâm lý và khởi đầu của phân tâm học. Một cuốn sách hay nếu bạn hứng thú với thời kì thế kỉ XIX của Châu Âu. Tôi hơi hối tiếc khi đọc “Nghĩa địa Praha” sau “Tên của đóa hồng”, nó là một sự hụt hẫng không hề nhẹ với một đứa lỡ lòng tương tư cái bức tranh tranh tối tranh sáng của thánh địa tri thức, tôn giáo và của một William với đầy rẫy mâu thuẫn. Một điều nhận xét đặc biệt là nhân vật của Umberto luôn kiên địch với tư tưởng đến mức nó trở thành một sự ám ảnh điên rồ, với William thì là thông tuệ đến mức lênh đênh giữa sáng tối còn với Simone thì là một bể sâu hoắm, nặng nề. ***   UMBERTO ECO Sinh ngày 5 tháng 1 năm 1932 tại Alessandria, Ý, hiện sống ở Milan. Thiên hướng đã thôi thúc ông làm trái ý cha, từ bỏ khoa Luật, chuyển sang nghiên cứu triết học và văn học Trung cổ tại Đại học Turin. Trong thời gian này UMBERTO ECO trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin, trở thành người vô thần và từ bỏ Giáo hội Công giáo. Năm 1954, ông bảo vệ luận văn về Thomas xứ Aquino (Nhà thần học Công giáo nổi tiếng nhất thời Trung cổ), đạt học vị tiến sĩ triết học. UMBERTO ECO là nhà văn, nhà lý luận, triết gia, nhà ký hiệu học lừng danh - người từng là biên tập viên các chương trình văn hóa của Đài truyền hình quốc gia Ý (RAI), là người viết bình luận của tờ báo lớn nhất nước Ý L’Espresso, là giáo sư ký hiệu học của Đại học Bologne, dạy mỹ học và văn hóa học tại các trường đại học Milan, Florence, Turin, tiến sĩ danh dự của nhiều trường đại học nước ngoài. Tờ Los Angeles Times đánh giá ông là “một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất trong thời đại của chúng ta.” Những tiểu thuyết đã vinh danh cho tên tuổi của ông: Tên của đóa hồng (Il nome della rosa -1980); Con lắc của Foucault (Il pendolo di Foucault - 1988); Hòn đảo ngày xưa (L’isola del giorno prima - 1994); Baudolino (2000); Ngọn lửa bí ẩn của nữ hoàng Loana (La misteriosa fiamma della regina Loana - 2004); NGHĨA ĐỊA PRAHA (Il cimitero di Praga - 2010). *** Truyện: Người Kể chuyện bắt đầu theo dõi cuốn nhật ký của Simonini (Đây là phần “Một vài giải thích không cần thiết” cho từng chương ở cuối sách. Người làm eBook đã đưa vào làm thành chú thích, để các bạn tiện theo dõi câu chuyện). Người bộ hành trong buổi sáng âm u đó của tháng Ba năm 1897 hẳn sẽ phải mạo hiểm đi qua quảng trường Maubert, hay còn gọi là quảng trường Maub như cách nói của những kẻ đầu đường xó chợ (nơi đây từng là trung tâm của cuộc sống đại học thời Trung cổ, khi nó còn đón tiếp đám sinh viên đông đúc của Trường Nghệ thuật nằm tại Vicus Stramineus, chính là phố Fouarre ngày nay, và sau đó trở thành nơi hành quyết những vị tông đồ theo tư tưởng tự do như Étienne Dolet). Vị lữ khách sẽ tới một trong số ít các xó xỉnh Paris tránh được những nhát mổ xẻ của nam tước Haussmann*, nằm tại điểm giao thoa chằng chịt những phố xá hôi hám được chia thành hai khu bởi con sông Bièvre đổ ra từ trong lòng thành phố nơi nó vẫn bị kè bờ để rồi ném mình hổn hển, nóng rực sốt ký sinh trùng vào dòng Seine kề cận. Từ quảng trường Maubert, nay đã bị rạch chằng chịt bởi đại lộ Saint- Germain, còn tỏa ra một mạng nhện tạo bởi những con đường nho nhỏ như đường Maître-Albert, đường Saint-Séverin, đường Galande, đường Bûcherie, đường Saint-Julien-le-Pauvre, cho tới tận đường Huchette, các khách sạn bẩn thỉu do đám người vùng Auvergne cai quản nằm rải rác: những tay quản lý khách sạn nổi tiếng tham lam, đòi một franc cho đêm trọ đầu tiên và bốn mươi xu cho những ngày tiếp sau (cộng thêm hai mươi xu nếu muốn có ga trải giường). Georges-Eugène Haussmann (1809-1891) là tỉnh trưởng tỉnh Seine, người quy hoạch lại Paris vào những năm sáu mươi của thế kỷ 19. (các chú thích trong sách đều của người dịch) Nếu sau đó rẽ vào đường Sauton (thời ấy còn gọi là đường Amboise) hẳn anh ta sẽ thấy, nằm giữa một nhà thổ cải trang thành quán bia và một lữ quán nơi người ta lấy hai xu một bữa chính với chút rượu tồi tệ (từ thời ấy như thế cũng chẳng đắt đỏ gì, nhưng những sinh viên trường Sorbonne cũng chỉ cho phép mình chi tiêu đến thế thôi), là một ngõ cụt, thuở ấy được gọi Maubert, nhưng trước năm 1865 mang tên cul-de-sac d’Amboise. Tại ngõ cụt ấy, những năm trước đó nữa, có một tapis-franc (trong ngôn ngữ đường phố nó chỉ loại nhà trọ tồi tàn, loại hàng ăn hạ đẳng, thường được một cựu tù nhân trông coi và chỉ những kẻ tù khổ sai chân ướt chân ráo vừa bước ra khỏi vũng lầy tù tội mới hay lai vãng đến đây). Ngõ cụt này trở nên nổi tiếng theo một cách đáng buồn vào thế kỷ 18 khi tại đây mọc lên một phòng thí nghiệm của ba nữ pha chế độc dược lừng danh, một hôm họ được tìm thấy đã chết ngạt vì khí của các chất độc đang chưng cất trên mấy cái lò. Tận cùng ngõ hẻm này, hầu như rất khó nhận thấy một cửa hiệu có tấm biển đã bợt màu ghi Brocantage de Qualité (Tiệm đồ cổ chất lượng cao) của một tay chuyên mua bán đồ cũ. Phía ngoài cửa hiệu đã mờ đi vì lớp bụi dày phủ kín mấy tấm kính vốn đã chẳng cho ta thấy rõ hàng hóa bên trong cửa hiệu bởi chúng chỉ dài rộng hai mươi xăng ti mét mỗi cạnh, được gắn với nhau bằng một khung gỗ. Bên cạnh cửa kính, người ta có thể nhìn thấy một cánh cửa luôn đóng, và cạnh dây kéo chiếc chuông cửa là tấm biển báo chủ nhân đang đi vắng. Nếu cánh cửa này mở (điều rất hiếm khi xảy ra), thì ai vào sẽ có thể thấy được, trong ánh sáng rất lờ mờ, một đống lộn xộn những thứ mà mới nhìn qua thì có vẻ ngon nghẻ, nhưng xem kỹ hơn sẽ nhận ra toàn những đồ hoàn toàn không phù hợp với một cuộc trao đổi kinh doanh thành thực, ngay cả nếu như chúng được mời gọi với cái giá giẻ rách tương xứng, được bày biện trên một vài cái giá lung lay và vài chiếc bàn cũng chung chiêng không kém. Ví như vài thanh gác củi sẽ làm hổ thẹn bất cứ cái lò sưởi nào, một cái đồng hồ mạ xanh đã tróc sơn, những chiếc gối dựa ngày trước có lẽ đã được thêu màu sặc sỡ, những chiếc bình gốm cao cổ trang trí bởi những thiên thần bằng sứ nay đã bong tróc vài mảng, những chiếc bàn con lung lay không rõ được thiết kế theo trường phái nào, một chiếc giỏ đựng thư từ đủ loại bằng sắt han gỉ, những chiếc hộp chạm trổ hoa văn không rõ ràng, những chiếc quạt đáng ghê tởm làm bằng ốc xà cừ trang trí với những hình vẽ theo lối Trung Hoa, một chiếc vòng cổ màu hổ phách, hai chiếc giày nhỏ nhắn bằng len trắng, khóa giày gắn những viên đá giả kim tí xíu Ailen, một bức tượng bán thân Napoléon đã sứt mẻ, những con bươm bướm dưới tấm kính đã rạn, hoa quả bằng đá cẩm thạch nhiều màu dưới cái chuông hẳn một thời trong suốt, những quả dừa khô, album ảnh cũ kỹ chứa tranh vẽ hoa bằng chút màu nước khiêm tốn, vài tấm hình in tráng được đóng khung (thời ấy chúng không hề mang vẻ cổ xưa chút nào). Thế cho nên kẻ nào mà say mê cuồng dại một trong những thứ đồ đáng xấu hổ còn sót lại sau những vụ tịch biên tài sản để thế nợ của những gia đình bị lầm vào cảnh bất hạnh này, sẽ thấy mình đứng trước gã chủ tiệm đáng ngờ, sẽ hỏi giá cả và sẽ bị yêu cầu một con số khiến ngay cả kẻ máu mê nhất trong số những gã sưu tầm dị vật cũng phải chùn bước. Nếu như người khách, nhờ có tấm giấy thông hành nào đó, được bước qua cánh cửa thứ hai ngăn gian trong cửa hàng với các tầng trên của tòa nhà, và trèo lên bậc thang của một trong những cầu thang chung chiêng hình xoáy ốc đặc trưng của những ngôi nhà Paris có mặt tiền rộng ngang bằng cửa ra vào (nơi chúng đứng dựa xiêu vẹo vào nhau), anh ta sẽ tới một căn phòng rộng nơi không trưng bày những thứ đồ tầm phào như ở dưới tầng trệt mà là một bộ sưu tập những món đồ chủng loại hoàn toàn khác: một chiếc bàn nhỏ theo phong cách hoàng đế, ba chân trang trí hình đầu đại bàng, một chiếc bàn chân quỳ được đỡ bởi quái vật Sphinx có cánh, một chiếc từ thế kỷ 17, một chiếc tủ sách bằng gỗ dái ngựa đựng hàng trăm cuốn đóng bìa da dê, một chiếc bàn làm việc theo lối Hoa Kỳ, với nhiều ngăn kéo đóng mở theo ray trượt giống như một cái bàn viết thực thụ. Nếu tiếp tục bước qua căn phòng liền kề, anh ta sẽ thấy một chiếc giường treo màn trướng xa hoa, một chiếc giá kiểu điền viên đựng đồ sứ Sèvres, một ống điếu Thổ Nhĩ Kỳ, một chiếc cốc bằng thạch cao tuyết hoa, một chiếc bình pha lê, và trên bức tường cuối phòng là những tấm tranh to bản với những điển tích thần thoại, hai bức vẽ nữ thần Lịch sử và nữ thần Hài kịch, vài chiếc áo trùm Ả Rập treo trên tường và vài bộ quần áo phương Đông bằng sợi casơmia, một chiếc hũ cổ kiểu của dân hành hương; tiếp đó là một chiếc kệ chất đầy các vật dụng trong buồng tắm bằng chất liệu quý - tóm lại là một đống đồ vật kỳ cục, cầu kỳ và tốn kém, có lẽ không phải là nhân chứng cho khiếu thẩm mỹ đồng nhất và tinh tế, mà hẳn là lòng mong mỏi được khoe mẽ của cải. Quay trở lại phòng khách gần lối vào, người khách sẽ nhận ra một cụ già trong bộ đồ ở nhà ngồi bên chiếc bàn đối diện cánh cửa sổ duy nhất mà từ đó nguồn ánh sáng ít ỏi chiếu sáng ngõ cụt len lỏi vào đây. Cụ già đó, nếu người khách có thể nhìn thoáng qua vai, đang viết những điều mà chúng ta sắp sửa đọc đến, và đôi khi Người Kể chuyện cũng sẽ tóm tắt lại để không gây mệt mỏi cho Độc giả. Mời các bạn đón đọc Nghĩa Địa Praha của tác giả Umberto Eco.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Anh Chồng Stockholm, Người Tình Paris và Cậu Bạn Thân Bangkok - Travelling Kat
Nhiều khả năng ngay khi bạn lật giở những trang đầu tiên của Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok, bạn sẽ có cảm giác rằng bạn đang gặp môt cô gái, một người mà bạn đã quen từ lâu, vẫn hay nhỏ to và đi cà phê với bạn, khoác tay bạn tung tăng đi khắp nơi và ngồi cạnh cho bạn tựa vào những khi ánh mặt trời trong bạn chợt tắt, cô gái với nước da rám nắng, đôi mắt nâu thẳm long lanh, cái miệng luôn cười và đôi chân thì nhẹ nhàng như gió. Bạn cũng sẽ mỉm cười, lắc lư bờ vai và chớp nhẹ đôi mắt, như thể nhìn thấy chính bản thân mình trong cuốn sách, ở thì quá khứ, hiện tại, hoặc tương lai. Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok là một hành trình đi qua rất nhiều thành phố và rất nhiều cung bậc của cảm xúc. Theo những trang viết, bạn sẽ đến thăm một khu rừng kì lạ nằm giữa con phố trung tâm của Bali, những sân ga - minh chứng lịch sử ở Berlin, những kiến trúc xinh xắn uốn lượn theo những con đường trên bề mặt gập ghềnh của Oslo, những xưởng thủy tinh, thêu ren tinh xảo ít người biết tới ở Venice, khu phố đèn đỏ ở Amsterdam, những con phố ở Bangkok hồ hởi trong sự đan xen giữa những khu nhà sang trọng, những đền chùa cổ kính và những xe hàng dạo…; bạn sẽ gặp gỡ những con người Thụy Điển vẻ ngoài xa cách nhưng kì thực lại mang một trái tim ấm áp vô cùng, những cô gái Marimekko rực rỡ và quyến rũ, những “nàng Juliet” của Câu lạc bộ Juliet ở Verona.. Bạn cũng sẽ gặp ở đó những chàng trai, những khoảnh khắc lãng mạn, những rung động chớm nở và cả nỗi nhớ nhung day dứt, tình yêu thương và mối gắn kết gia đình, những niềm thân thương hướng về quê hương…  Trong cuốn sách còn có những phần ghi chú nhỏ rất dễ thương được tác giả góp nhặt từ cuốn sổ tay trong mỗi chuyến hành trình, đó có thể là một vài đều thú vị mà người viết vừa đọc được trong một cuốn sách nào đó, công thức nấu một món ăn, công thức đắp mặt nạ dưỡng da hoặc những bí kíp và chú ý khi đi du lịch . Giống như cái tên Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok, mỗi địa danh mà người viết đi qua không chỉ đơn thuần là Paris, Venice, Bangkok, Praha, Amsterdam, Prague…, mà tác giả đặt cho nó những cá tính - như những gì cô cảm nhận về nó, đó là Venice đỏng đảnh, Amsterdam bỡn cợt, Nora nhỏ xinh, Milan đỏm dáng, Helsinki rạng rỡ, Oslo kiêu hãnh, Prague mong manh… Tất cả, đều giống như những cô gái, hoặc, những phần tính cách trong một cô gái “Đây là một cuốn sách tình yêu hơn là một cuốn sách du lịch.” Tác giả đã tự nhận xét như vậy. Và có lẽ vì thế, không giống như những cuốn sách hành trình khác, trong Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok, bạn sẽ không có những bức ảnh chụp về những địa danh mà tác giả nhắc tới trong cuốn sách, mà thay vào đó, bạn sẽ có những bức tranh. Bởi cảm xúc chẳng bao giờ rõ ràng được như những ô màu pixel,  mà đó là những gì chúng ta vẽ lại trong trái tim và ký ức của mình. Travelling Kat trẻ, và đầy nữ tính. Cái nữ tính nguyên thủy, chứ không phải thứ nữ tính bó buộc trong khuôn phép của truyền thống, trong lề thói và trong khối óc của xã hội. Cái nữ tính ấy len lỏi trong từng dòng chữ của cuốn sách, làm nên một hương vị rất khác, một màu sắc rất khác của Anh chồng Stockholm, người tình Paris và cậu bạn thân Bangkok. Bạn có thể chọn giữa việc đọc hoặc không đọc cuốn sách này. Nhưng nếu phần nữ tính trong bạn thôi thúc bạn hãy giữ cho mình một cuốn, thì hãy đọc cuốn sách vào những lúc bạn hoàn toàn thư thả, có thể là dịp cuối tuần hoặc những buổi sáng sớm, bên chiếc bàn và khung cửa sổ của bạn. Không cần, và đừng đọc hết một lèo, hãy nhâm nhi từng chút một, đọc nó xen kẽ với những cuốn sách khác, như thể thỉnh thoảng lại hẹn hò với cô bạn thân của mình vậy. *** Tôi thường bỏ qua trang “Lời nói đầu” khi đọc sách. Tôi thích đọc một cuốn sách trần trụi như cách nó được viết ra chứ không cần lời giải thích của tác giả. Sau khi đọc hết cuốn sách, tôi mới trở lại phần “Lời nói đầu” để đọc xem mình có cảm giống tác giả không. Tôi sẽ hoặc là gật gù đồng ý với tác giả, hoặc bĩu môi bất bình. Tôi nghĩ chắc không ít bạn đọc cũng có thói quen tương tự. Thế nên, tôi sẽ viết lời nói đầu này để trình bày “ý đồ” của mình trong cuốn sách; nhưng tôi không lấy làm phiền lòng nếu bạn đọc nó cuối cùng. Câu hỏi đầu tiên: Cuốn sách của tôi dành cho ai? Tôi không dùng những tham số thường gặp như độ tuổi, nghề nghiệp, môi trường để xác định đối tượng độc giả của mì nh bởi lẽ nhìn qua thống kê Insight của trang Facebook, tôi nhận ra tôi có bạn đọc từ 13 đến trên 65 tuổi, còn nghề nghiệp, nơi sống thì đủ cả. Trò chuyện với một vài người trong số họ và theo dõi phản hồi, tôi nhận ra, họ lãng mạn, nữ tính, có máu phiêu lưu (có thể không quá nhiều hoặc rất nhiều). Họ có khi cũng nghiêm túc và có khi cũng điệu đà. Một số nghiêm túc một cách điệu đà và số khác điệu đà một cách nghiêm túc. Một số trong họ khá mơ mộng; một số lại hơi bi quan và suy nghĩ nhiều. Họ đơn giản là rất phụ nữ hay ít ra là quan tâm nhiều đến cái chất phụ nữ. Tôi yêu thích cái suy nghĩ đó (suy nghĩ thiên về cảm tính hơn là dựa trên những con số – cũng rất phụ nữ). Vì thế, tôi chọn đối tượng bạn đọc của tôi là phụ nữ và những người quan tâm đến cái chất phụ nữ ấy. Tôi đã nghĩ sẽ sắp xếp những bài viết trong cuốn sách này theo thứ tự nào: khu vực địa lý, thời gian đi, hay thời gian viết? Tôi quyết định “tuân” theo thời gian viết bởi cuốn sách này không phải một cuốn sách hướng dẫn du lịch hay nhật ký hành trình. Đây là cuốn sách ghi lại hành trình cảm nhận của tôi: cảm nhận một thành phố, một đất nước, một nền văn hóa lẫn với xúc cảm về những chàng trai và những mối quan hệ. Bạn có thể thấy tôi hờn ghét Venice đỏng đảnh, yêu mù quáng Paris, ngơ ngác trước vẻ bỡn cợt của Amsterdam hay mong manh như Prague... Bạn cũng gặp ở đây anh bạn thân của tôi, người tình tôi yêu đơn phương, những anh chàng tôi cảm nắng, những người đàn ông tôi ngưỡng mộ nhưng không muốn cặp kè, những người đàn ông tôi muốn cặp kè mà không được, người đàn ông tôi sẽ lấy làm chồng và cả những anh chàng, hmm... không ra gì. Họ đến rồi đi. Tôi hờn ghen, yêu thương rồi thay đổi. Với tôi, trình tự cảm nhận như vậy còn quan trọng hơn ngày tôi đến thành phố hay khu vực địa lý đó bởi nếu tôi không ghi lại, sẽ chẳng có một cuốn lịch hay tập bản đồ nào nhớ hộ tôi. Rồi, tôi quyết định chia cuốn sách thành hai phần. Tôi gọi tên nhóm bài viết trong phần 1 là “Anh chàng Stockholm, Người tình Paris và Cậu bạn thân Bangkok”. Với tôi, mỗi thành phố là một thực thể sống. Mà thực thể ấy nhất định phải có cảm xúc. Yêu ghét thôi chưa đủ, có khi còn bay bổng, hờn giận, phụ bạc, lạnh lùng, cuồng nhiệt, chán nản hay ủy mị. Những tính cách ấy được tạo dựng nên bằng thời tiết, kiến trúc, món ăn, con người... Mà có khi được “đơm đặt” bởi chính tôi với đám cảm xúc tôi đeo vào người trước và trong suốt chuyến đi. Thông qua câu chuyện về các chuyến đi, các thành phố, bạn thấy tôi dại khờ, háo hức, sai lầm, can đảm và trưởng thành. Mà tôi là một cô gái Việt điển hình, không hay ho hơn, không cực đoan hơn nên rất có thể bạn sẽ tìm thấy mình trong đó. Phần 2, tôi lấy tên của một bài viết “Trên con đường phiêu lưu, phụ nữ vẫn là phụ nữ.” Chúng ta vi vút trên những nẻo đường, cầm máy ảnh kiên cường giữa sa mạc cát nhưng chúng ta vẫn là phụ nữ. Chúng ta đi du lịch với những nỗi nhớ nhà ngày Tết, với chút ấm áp trong căn bếp mùa Đông của quế, hồi, thảo quả và vẫn có vài lấn cấn nhỏ rất phụ nữ. Sổ tay ghi lại những công thức món ăn nếm thử trên đường, vài công thức làm đẹp của những người bạn đồng hành. Chúng ta – nói thẳng ra – không bao giờ đi du lịch một mình bởi đồng hành cùng chúng ta là cái chất phụ nữ đó. Có lẽ vì thế, cuộc hành trình trở nên mềm mại như trái tim chúng ta. Tôi mong bạn thích cuốn sách này. Tham lam hơn, tôi mong bạn cất lại nó trên giá sách hay trên bàn cà phê để thi thoảng đọc lại. Chính vì thế, tôi và những người bạn của Travelling Kat đã bỏ công đầu tư những thêm thắt ở phần bìa, bưu ảnh, hay những trang ngắn để khi bạn nhìn thấy là mỉm cười. Tôi nghĩ bạn cũng giống tôi và những người phụ nữ nói chung: hạnh phúc vì những điều nhỏ nhoi nhưng tinh tế. Thân, Travelling Kat Mời các bạn đón đọc Anh Chồng Stockholm, Người Tình Paris và Cậu Bạn Thân Bangkok của tác giả Travelling Kat.
Những Mảnh Đời Đen Trắng - Nguyễn Quang Lập
Những mảnh đời đen trắng là một tác phẩm mạnh và dứt khoát. Là cuộc xung đột giữa hai tầng lớp xã hội, hai quan điểm sống khác nhau. Giữa hai thế hệ già và trẻ, giữa lớp người có quá khứ oai hùng và lớp ngưới không được quyền có quá khứ. Giữa lớp bần cố nông làm chủ tập thể, làm chủ tình thế và lớp trí thức tiểu tư sản “đầu thai nhầm thế kỷ, bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh”. Cả hai giai tầng đều đáng thương mà không đáng trách. Một bên có khả năng nhận thức mà không được sử dụng. Một bên không có khả năng mà phải gánh vác những công việc quá sức mình. “Họa sĩ Tư và Thùy Linh đứng cúi đầu trước nấm mồ trắng lạnh, hương trầm đang nghi ngút. Dưới nấm mồ kia là đại úy Thìn, con người vừa đáng trọng vừa đáng khinh, vừa đáng thương vừa đáng ghét… … Thùy Linh rơm rớm nước mắt. Cô quỳ xuống vái. Nắng chiều đã nhạt, từng đụn cát trắng sẫm màu hoàng hôn. Họ ra về, cả hai cúi đầu bước, thổn thức về một thời họ đã sống với con người ấy dưới nấm mồ kia…” *** Năm truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Quang Lập thì ba truyện (Cây sến lửa, Tiếng lục lạc, và Đò ơi) đều được trao giải thưởng, cho đến nay vẫn thuộc về những truyện ngắn hay trong vài ba năm trở lại đây. Từ đó đến này, Nguyễn Quang Lập đã in hai tập truyện ngắn, viết và phóng tác hai vở kịch, xong bản thảo tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng, tất cả đều nhất quán trong một thế giới hình tượng và tư tưởng, khiến cho Nguyễn Quang Lập nổi lên như một cây bút viết về chiến tranh sâu sắc và mới lạ, được công chúng tìm đọc với lòng yêu mến.   Đọc Nguyễn Quang Lập, thoạt đầu người ta đều tưởng rằng tác giả phải là một người lính già đã từng trải trận mạc, và chất chứa bên trong biết bao nhiêu kỷ niệm đau đớn về chiến tranh thì mới viết như thế. Té ra Nguyễn Quang Lập chỉ mới trên ba mươi tuổi, và chỉ sống những năm nghĩa vụ quân sự trong binh chủng bộ đội tên lửa để trở thành nhà văn. Và chính vì thế, để phát hiện ra những nhân vật của mình, Lập đã không nhìn lên bầu trời, mà cúi xuống lòng mình, đào bới ở đó những điều thấy cần nói với mọi người và quả nhiên, công chúng đều chăm chú nghe Lập nói. Trước đó chưa ai nói về chiến tranh giống như Nguyễn Quang Lập cả.   Chính cái tuổi cầm bút mới mẻ này của Nguyễn Quang Lập đã mang dấu ấn riêng cho cả một thế hệ nhà văn trẻ lớn lên sau chiến tranh: họ bắt đầu cầm bút ở thời điểm bản lề của lịch sử đất nước vừa chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, và trên tất cả những gì đổ nát mà cuộc chiến còn để lại, họ tìm cách kiểm nhận lại quá khứ, không phải dưới con mắt của người lính đánh giặc, mà bằng cái nhìn thao thức của những người trẻ khao khát hòa bình, nhân phẩm và hạnh phúc chân thật.   Nguyễn Quang Lập viết về chiến tranh, nhưng không để ca ngợi chiến công, mà để bày tỏ nỗi lo lắng về vết thương. Dưới con mắt của nhà văn trẻ này, mỗi nhân vật đều mang theo trong bản thân nỗi bất hạnh mà chiến tranh để lại cho con người: sự mất mát về hạnh phúc, nỗi cô đơn khi trở lại cuộc sống bằng hào quang của lửa bom, và nhiều trạng thái méo mó về nhân cách, bằng cái nhìn phân tích khá sắc bén và mang giọng hài hước dân giã để chế ngự bớt nỗi đau đớn, tác giả đã soi mói tận gan của từng nhân vật của mình để chỉ ra những thương tật chiến tranh để lại trong tâm hồn, những thương tật mà dù trong truyện hoặc ngoài đời người ta vẫn muốn giấu kín.   Có thể nhìn thấy cách đặt vấn đề như vậy trong từng truyện ngắn Nguyễn Quang Lập, và ngay trong một vở kịch đang gây xúc động cũng của Lập: vở “Mùa hạ cay đắng”, trong đó một Chủ tịch thị trấn đào nhiệm, một người lính đào ngũ, một cô gái bội tình và một gã cán bộ Đoàn dùng mọi thủ đoạn gian trá để ngoi lên địa vị, tất cả bốn con người đó đã gặp nhau trong một túp lều nhỏ trong khói lửa, qua đó, tác giả lần lượt lột trần bộ mặt thật của họ một cách không thương xót.   Có điều quan trọng là Nguyễn Quang Lập đã không dừng lại trong thái độ của một người tố cáo chiến tranh, qua cách giải bảy của một người muốn nhìn thẳng sự thật, người ta vẫn cảm nhận được cái tâm của tác giả: đó là nỗi căm ghét cái ác, sự đòi hỏi về nhân phẩm và lòng khát khao hòa bình và hạnh phúc cuộc sống. Cách viết của Nguyễn Quang Lập là như vậy, là làm thương tổn lương tâm trong ý đồ làm cho lương tâm trở nên hoàn thiện hơn.   Quê hương của Lập là một mảnh đất đã phải gánh chịu quá nặng cuộc chiến tranh, và có nhiều thương binh trở về sau chiến tranh. Có lẽ vì thế mảnh đất đau đớn này đã sinh ra một cây bút đau đáu về vết thương chiến tranh, bằng cách nêu lên những đạo lý mà con người phải nhận ra và sống theo, để xứng đáng với sự hy sinh của nhân dân, xứng đáng với những thương tích có thật của những người đã chiến đấu cho Tổ quốc.   Luôn luôn là thế, người đọc cám ơn nhà văn và nhà văn cám ơn quê hương của mình.   Huế, 1988   HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi   Câu trả lời thật không dễ dàng chi!   NGUYỄN TRỌNG TẠO   Mời các bạn đón đọc Những Mảnh Đời Đen Trắng của tác giả Nguyễn Quang Lập.
Thiên Đường Có Thể Đợi - Cally Taylor
Cally Taylor đang sống tại Brighton. Cô bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2005. Chỉ trong năm 2006, cô đã đoạt được nhiều giải thưởng như: giải nhì trong cuộc thi viết truyện ngắn của báo Woman’s own, giải thưởng Helen Mullin và cây bút Bank Street trong cuộc thi viết truyện ngắn. Các tác phẩm của cô được đăng tải trên tạp chí Take a Break’s Fiction Feast và My Weekly. Heaven là tiểu thuyết đầu tay của Cally Taylor. Bạn sẽ làm gì nếu bạn nghĩ mình sắp chết? - Lập tức la lên và báo cho mọi người xung quanh? - Chẳng nói với ai và tự suy diễn? - Vờ như việc đó sẽ chẳng xảy ra? Còn tôi, thì giật quần chẽn ra và khóc òa lên. *** Bạn sẽ làm gì nếu bạn nghĩ mình sắp chết? a/ Lập tức la lên và báo cho mọi người xung quanh? b/ Chẳng nói với ai và tự suy diễn? c/ Vờ như việc đó sẽ chẳng xảy ra? Còn tôi, thì giật quần chẽn ra và khóc òa lên. Cả tuần qua, tôi lo cho sức khỏe của mình. Tôi mệt mỏi, mắt cá chân bị phù, nước tiểu thì sủi bọt như cà phê cappuccino[1]. Theo thông tin trên mạng mà tôi in ra và đang cầm trên tay thì như thế chỉ có một cách lý giải duy nhất: tôi mắc bệnh nan y, có thể không chữa được. Lễ cưới của tôi sẽ cử hành trong vòng bốn mươi tám tiếng nữa và báo hủy với chồng chưa cưới là điều duy nhất không nằm trong danh sách ‘việc cần làm’ dài dằng dặc của tôi. Nhưng tôi phải nói với Dan. Theo như thông tin trên mạng thì trong vòng hai tuần tôi sẽ phải nhập viện, chạy thận, thậm chí có khi phải cấy ghép. Dù là ai mắc bệnh đi chăng nữa, thì cũng có rất nhiều thứ phải làm. Mạnh mẽ lên nào Lucy, tôi tự khích lệ mình lúc mở cửa phòng khách. Mày có thể làm được điều này. Chỉ cần mạnh mẽ lên. Dan đang nằm dài trên xô-pha xem phim tài liệu nói về thói quen kết bạn tình của loài nhện vàng. Hai tay anh kê dưới đầu, mái tóc đen rối bù, quai hàm lởm chởm râu. Anh đang mặc quần jean cạp trễ và áo T-shirt Jimi Hendrix màu đen cũ mèm ưa thích khoe bờ vai rộng và cánh tay khỏe khoắn. Dan lúc nào cũng thế, anh có thể khoác bất cứ món đồ cũ kỹ nào lên người mà vẫn trông hết sức bảnh bao. Chẳng hề để tâm đến điều đó, anh là một trong những người ít tự phụ nhất mà tôi từng gặp - điểm khiến tôi yêu anh nhiều hơn. Anh đổi chân để có thêm chỗ trống trên xô-pha khi thấy tôi bước vào phòng, nhưng tôi chỉ ngồi trên tay ghế. Khi con nhện cái cắn đầu con nhện đực và ăn nó, Dan cười toe toét với tôi, sự thích thú nhảy múa trong đôi mắt nâu. “Nếu phải lựa chọn giữa việc đó và ba tiếng liền chuyện trò sau khi quan hệ, dứt khoát là anh chọn chết vì đầu bị nhai rào rạo.” Dan có vẻ ngơ ngác khi tôi không cười trước câu pha trò của anh, mà lại nhìn xuống đôi tay và xoay tròn chiếc nhẫn đính hôn. Ôi, Chúa ơi, anh sẽ phản ứng như thế nào trước điều tôi sắp nói? Anh sẽ khóc? Hay kêu gào? Hay ngất? Hay còn tệ hơn thế? “Dan, em có chuyện rất quan trọng muốn nói với anh.” “Chuyện gì thế?” Anh đáp mà mắt vẫn không rời màn hình ti vi. “Đó là một tin xấu.” “Có phải về lễ cưới không?” Anh tắt ti vi, xoay qua một bên, và nhìn thẳng vào tôi. “Giờ thì có chuyện gì xảy ra? Thợ làm bánh kem đặt hoa ly trên mặt bánh thay vì hoa hồng à?” Tôi hít một hơi thật sâu. “Em nghĩ em bị suy thận giai đoạn cuối [2].” Điều khiên ti vi rớt xuống sàn nhà khi Dan đứng bật dậy, vồ lấy tay tôi, vò nhàu tờ giấy in tôi đang cầm. “Em nói cái gì?” Anh hỏi lại, mắt rà khắp mặt tôi. “Em chẳng hề nói với anh em đã đi khám bác sĩ.” “Em chưa đi.” “Vậy thì làm sao mà em biết là em bị suy thận?” Tôi siết tay anh, dùng ngón tay cái cạ lên những ngón tay anh. Rõ ràng là anh không tin. Thông tin trên mạng đã cảnh báo trước với tôi là có thể anh sẽ phản ứng như thế. “Vì em đã thấy các triệu chứng của mình trên mạng.” Anh cau mày, một tay chà xát quai hàm. “Những triệu chứng gì?” Tôi nhìn chằm chằm vào ti vi. Đi thảo luận chuyện tiểu tiện của mình với bạn trai thật chẳng bình thường chút nào. Đó là điều bạn sẽ chẳng bao giờ thật sự cởi mở, cho dù hai người đã yêu nhau bảy năm đi nữa. “Nước tiêu của em có bọt. Chúng nổi bọt và trên mạng nói nước tiểu có bọt là một triệu chứng của suy thận.” Dan cười rũ rượi đến nỗi rớt từ xô-pha xuống sàn nhà. Tôi há hốc miệng nhìn anh, rồi cúi người tới trước, thụi vào cánh tay cứng như thép của anh. “Sao anh cười hả Dan? Ngừng ngay, anh làm em trông giống một con ngốc tự suy diễn.” Anh chống người trên khuỷu tay và với nắm tay tôi. “Anh xin lỗi, Lucy. Anh không nên cười, không nên làm thế khi em đang đứng ở cửa tử. Em đã bị những thứ có-thể- xem-là-triệu-chứng này bao lâu rồi?” Tôi nhẩm đếm trong đầu. “Khoảng một tuần. Không, đúng một tuần. Tính từ thứ Sáu tuần trước.” “Thế thứ Sáu tuần trước chúng ta đã mua cái gì, thứ mà em bảo là rất cần đấy?” Tôi vặn vẹo rút tay ra và trừng mắt nhìn Dan. Tôi chứ không phải ai khác, đang bộc bạch cõi lòng, vậy mà anh lại đang nói với tôi về chuyện mua sắm. Dan bị sao thế? “Em không nhớ, Dan. Chúng ta đã mua cái gì?” “Một chất làm sạch toa lét mới có thể khử trùng trong giây lát.” “Thì sao?” Anh nhướng chân mày. “Em không phải là người duy nhất thấy nước tiêu sủi bọt suốt tuần qua.” “Cái gì cơ?” “Lucy, em đúng là chậm tiêu.” Dan vừa nói vừa hích vào hông tôi. “Em đang tiểu vào chất làm sạch toa lét. Đó là lý do mà nước tiểu của em sủi bọt.” Tôi ngạc nhiên, nhìn anh không chớp mắt. “Vậy là em không bị suy thận à?” “Không, Lucy.” Dan đảo tròn mắt. “Em không bị suy thận.” ... Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Có Thể Đợi của tác giả Cally Taylor.
Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle - Jules Verne
Câu chuyện được khởi đầu từ hai bức thư có nội dung mâu thuẫn nhau mà kỹ sư James Starr nhận được trong cùng một ngày. Một là của người thợ mỏ già Simon Ford kêu gọi ông tới ngay mỏ than Aberfoyle nơi ông đã từng làm việc mấy chục năm về trước để chứng kiến những điều kỳ diệu đang xảy ra, hai là một bức thư nặc danh không người gửi với nội dung đe dọa và ngăn cản việc kỹ sư tới đó. Từ hai bức thư đó đã thôi thúc trí tò mò của ông và ông đã quyết định tới mỏ than theo lời mời gọi của người bạn già. Điều gì sẽ xảy ra... Với một quyết tâm sắt đá, kỹ sư James Starr cùng gia đình nhà Simon Ford lao vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, cuộc phiêu lưu mà họ có thể phải trả giá bằng mạng sống của mình, để khám phá ra những điều bí ẩn nói trên. Liệu họ có đạt tới mục đích cao cả sau cùng? Với văn tài riêng biệt của ông về thể loại tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, viễn tưởng, Jules Verne lại một lần nữa dẫn dắt chúng ta vào thế giới kỳ vĩ ẩn sâu trong lòng đất của vùng than Aberfoyle, một vùng mỏ giàu có của xứ Scotland thuộc vương quốc Anh. *** Kính gửi kỹ sư J. R. Starr K Số 30 Canortgate - Edimbourg Nếu ngày mai, ông kỹ sư James Starr trở về khu mỏ Aberfoyle, hố Dochart, giếng Yarow, ông sẽ được biết một tin quan trọng. Ông kỹ sư sẽ được đón tại nhà ga Callander, trong suốt cả ngày. Người ra đón ngài là anh Harry Ford, con trai của người cựu đốc công Simon Ford. Chúng tôi kính mong ngài giữ kín lời mời này đứng để người khác biết. Trên đây là nội dung bức thư thứ nhất mà kỹ sư James Starr, nhận được ngày mùng 3 tháng Chạp năm 18... Ngoài bì thư có đóng dấu bưu cục Aberfoyle, quận Stirling, xứ Scotland. Trí tò mò của ông kỹ sư được kích thích cao độ. Ông không hề nghĩ là lá thư này chứa đựng một chuyện lừa phỉnh. Đã nhiều năm nay, ông quen biết Simon Ford, một trong những cựu đốc công của vùng mỏ Aberfoyle, nơi mà trong hai chục năm, ông từng làm giám đốc, hay còn gọi là quản đốc, theo cách gọi ở các mỏ than Anh quốc. James Starr là một con người có thể tạng vững chắc, vì vậy, mặc dù đã năm mươi nhăm tuổi mà trông ông cứ như đang tuổi bốn mươi. Ông thuộc một dòng họ cổ xưa vùng Edimbourg, lại là lớp người ưu tú của dòng họ. Công việc của ông đã làm vẻ vang cho toàn thể các kỹ sư khai thác mỏ than ở Vương quốc Anh, cũng như ở Cardiff, từ New Castle cho đến các quận vùng Hạ Scotland. Tuy nhiên, chính ở trong lòng các mỏ than bí ẩn vùng Aberfoyle, tiếp giáp với vùng mỏ Alloa và chiếm gần hết diện tích quận Stirling, tên tuổi của kỹ sư James Starr mới được nhiều người nhắc đến. Chính tại vùng này, ông đã sống gần hết cuộc đời mình. Người Anh đã gọi toàn thể các mỏ than rộng lớn của họ bằng một cái tên rất có ý nghĩa: “Các xứ Ấn Độ đen” ; và các xứ Ấn Độ này có thể đã đem lại cho Vương quốc Anh sự giàu có khủng khiếp còn hơn sự đóng góp của nước Ấn Độ phương Đông. Tuy nhiên sự tiêu thụ năng lượng đã gia tăng một cách đáng kể trong những năm cuối của thế kỷ. Điều này dẫn tới sự khai thác đến mức kiệt quệ của vỉa than. Giờ đây các mỏ than gần như bị bỏ trống, trơ ra những lỗ giếng toang hoác và những đường hầm vắng lặng. Đó chính là tình trạng của khu mỏ than Aberfoyle. Mười năm về trước, chiếc xe ben cuối cùng đã bóc đi tấn than cuối của mỏ. Tất cả các công cụ dùng trong việc khai thác đã được kéo lên khỏi các giếng và được vứt chỏng trơ trên mặt đất. Mỏ than cạn kiệt nom giống như những bộ xương khủng long hóa thạch. Trong số những dụng cụ đó, nay chỉ còn sót lại những chiếc thang bằng gỗ, dùng để đi xuống những hầm than sâu qua lối giếng Yarow - đó là lối duy nhất có thể dẫn vào những ngách hầm phía trong của hố Dochart, kể từ sau khi công việc khai thác mỏ đã ngưng nghỉ. Phía bên ngoài mỏ, người ta còn thấy sót lại những ngôi nhà xưởng, nơi đặt những máy khoan, những cái giếng, miệng hố dẫn vào trong hầm. Những chỗ đó nay cũng bị bỏ hoang phế như toàn bộ khu mỏ Aberfoyle vậy. Năm ấy, vào một ngày buồn, những người thợ mỏ đã từ giã mỏ than, nơi họ đã sống và làm việc trong nhiều năm tháng. Vài ngàn người thợ mỏ đang tập trung, họ là những người tích cực và quả cảm nhất của khu mỏ. Những con người tốt bụng này, đã từ nhiều năm qua, cha truyền con nối, lao động tại đây, khu mỏ Aberfoyle. Giờ đây họ náu lại để nói lời từ biệt với ông kỹ sư, một lời từ giã không hẹn ngày tái ngộ. Kỹ sư James Starr lúc này đang đứng chờ họ trước cửa những gian nhà xưởng, nơi đã bao nhiêu năm ông điều hành các cỗ máy với áp suất hơi nước cực lớn, dùng cho công việc khai thác. Simon Ford, người đốc công của hố Dochart, năm đó đã năm mươi lăm tuổi, cùng vài người cai thợ đang đứng vây quanh ông kỹ sư. James Starr tiến về phía họ. Đám thợ mỏ, ngả mũ, đứng yên lặng chờ nghe ông nói. Cái cảnh chia tay này mới cảm động và cao cả làm sao. - Thưa toàn thể các bạn, - Ông kỹ sư nói - giờ phút chia tay của chúng ta đã tới. Khu mỏ than Aberfoyle, nơi mà trong nhiều năm qua đã tập họp chúng ta lại vì công việc chung, nay đã cạn kiệt. Chẳng những chúng ta không khám phá ra được một vỉa than mới nào mà lại còn tiếp tục khai thác chỗ than cuối cùng của hố Dochart này! Giờ đây, tất cả đã cạn kiệt! Lời nói cuối cùng mà tôi dành cho các bạn là lời chào từ biệt. Tất cả chúng ta đã từng sống nhờ vào công việc khai thác than, giờ đây than đã hết. Đại gia đình của chúng ta sẽ buộc phải phân tán và trong tương lai cũng khó lòng có cơ may để tập họp lại những đứa con ly tán. Nhưng dù các bạn có đi đến bất cứ nơi nào, chúng tôi vẫn để mắt dõi theo bước đi của các bạn, và những lời dặn dò, tiến cử của chúng tôi vẫn đi theo các bạn. Giờ đây, xin từ biệt các bạn và cầu Chúa luôn ở bên các bạn! Nói xong, mắt đẫm lệ, James Starr giang rộng vòng tay ôm lấy người thợ già nhất mỏ. Kế đó, những người đốc công của các giếng khác nhau, lần lượt đến siết chặt tay ông kỹ sư, trong lúc đám thợ mỏ, giơ cao nón và reo hò: - Từ biệt ông James Starr, người giám đốc và cũng là người bạn của chúng ta! Những lời từ biệt đó, rồi đây sẽ trở thành một kỷ niệm sâu sắc trong những trái tim quả cảm. Và lần lượt kẻ trước người sau, đám thợ rời khỏi mảnh sân rộng đó. Chỉ còn lại duy nhất một người ở lại bên James Starr. Người đó chính là đốc công Simon Ford. Bên cạnh ông già là một thiếu niên, tuổi chừng mười lăm, cậu bé đó chính là Harry, con trai ông, người đã từ vài năm qua, bắt đầu học việc trong mỏ. James Starr và Simon Ford quen biết nhau từ lâu, và càng hiểu nhau, họ càng quý trọng nhau. - Từ biệt nhé, Simon - Ông kỹ sư nói. - Từ biệt ông James, - Viên đốc công đáp lại - nhưng có lẽ ông cho phép tôi nói thêm. Tạm biệt ông! - Đúng vậy, tạm biệt Simon! - James Starr tiếp lời - Chắc ông cũng hiểu là tôi sẽ vui sướng chừng nào khi gặp lại ông để ta cùng trò chuyện về khu mỏ Aberfoyle của chúng ta! - Vâng tôi biết, thưa ông James. - Đừng quên là cánh cửa ngôi nhà tôi ở Edimbourg luôn mở rộng với ông! - Edimbourg quá xa vời! - Viên đốc công lắc đầu nói. - Vâng! Thế ông dự tính sẽ cư trú ở đâu? - Ngay nơi đây, thưa ông James! Chúng tôi sẽ không rời xa khu mỏ, nơi đã nuôi nâng đời tôi, dù cho nguồn sữa mẹ đó có cạn kiệt! Vợ tôi, con trai tôi và tôi, chúng tôi sẽ thu xếp sao cho mình luôn trung thành với khu mỏ này! - Vậy thì vĩnh biệt Simon - Ông kỹ sư nói mà giọng đã nghẹn ngào vì cảm động. - Không, không phải vĩnh biệt mà là tạm biệt, thưa ông! - Viên đốc công trả lời - Ông hãy tin lời Simon Ford này là vùng mỏ Aberfoyle sẽ gặp lại ông! Đây là toàn bộ những gì đã xảy ra mười năm về trước, mặc dù ý muốn của người đốc công là sẽ sớm gặp lại, nhưng kể từ đó James Starr đã không còn nghe nói đến người đốc công này nữa. Và thế là sau mười năm xa cách, lá thư của Simon Ford đã đến tay người kỹ sư, trong thư lại khẩn khoản mời ông tới ngay mỏ than Aberfoyle. Một tin quan trọng! Nhưng tin gì mới được chứ? Hố Dochart, giếng Yarow à? Ôi! biết bao nhiêu kỷ niệm của quá khứ đã ùa về trong tâm trí ông? James Starr đọc đi đọc lại bức thư. Ông tìm cách lật đi, lật lại vấn đề theo mọi chiều hướng có thể được. Tại sao Simon lại không viết rõ thêm một chút. Ông thầm trách Simon Ford quá tiết kiệm lời nói. Rất có thể là viên đốc công này đã khám phá ra một vỉa than mới có thể khai thác? Không! “Không, ông tự nhắc lại lần nữa, không! Làm sao có thể tưởng tượng những gì mà ta đã hoài công tìm kiếm, giờ đây lại được Simon Ford phát hiện? Tuy nhiên, viên đốc công già này thừa biết trên đời này, ta chỉ quan tâm đến có một điều, rồi còn đề nghị ta giữ kín chuyện này nữa chứ...” James Starr cứ loay hoay mãi với những ý nghĩ trên. Mặt khác, người kỹ sư hiểu rất rõ Simon Ford là một người thợ mỏ khéo léo, rất có ý thức về nghề nghiệp của mình. Ông chưa bao giờ gặp lại người đốc công này kể từ khi công việc khai thác ở mỏ Aberfoyle chấm dứt. Ông cũng không rõ viên đốc công già giờ đây ra sao, hiện làm gì, ở đâu cùng với vợ con. Tất cả những gì ông biết bây giờ chỉ là một cuộc hẹn ở giếng Yarow và người con trai của Simon Ford tên là Harry sẽ chờ ông ở nhà ga xe lửa Callander suốt cả ngày mai. Rõ ràng là họ muốn mời ông đến thăm khu hố Dochart. “Ta sẽ đi, nhất định ta sẽ đi!” James Starr lẩm bẩm trong miệng, trong lòng như có lửa đốt khi thấy giờ hẹn càng đến gần. Thế nhưng, một sự cố bất ngờ đã xảy ra. Nó giống như một dòng nước lạnh làm ngưng tụ nhất thời những giọt hơi nước bốc lên trong ấm nước sôi. Thực vậy, vào khoảng sáu giờ chiều, người gia nhân đã mang đến cho ông một lá thư thứ hai. Lá thư này đựng trong một chiếc phong bì xấu xí, nét chữ đề ngoài phong bì được viết bởi một bàn tay ít khi cầm đến bút. James Starr vội xé phong bì ra. Bên trong chỉ một mẩu giấy nhỏ đã bị thời gian làm ố vàng. Hình như nó được xé ra từ một quyển tập cũ. Trên mẩu giấy đó chỉ vẻn vẹn một dòng chữ sau đây: “Kỹ sư James Starr không cần bận tâm đến lá thư của Simon Ford làm gì. Lá thư đó giờ đây không còn nói lên điều gì nữa”. Bức thư không có tên người gửi. ... Mời các bạn đón đọc Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle của tác giả Jules Verne.