Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khu Trại Trong Thảo Nguyên

Bộ tiểu thuyết Sóng Hắc Hải - Valentin Kataev gồm 4 phần: Phần 1: Cánh buồm trắng cô độc Phần 2: Khu trại trong thảo nguyên Phần 3: Gió mùa đông Phần 4: Đường hầm Ô đét xa   KHU TRẠI TRONG THẢO NGUYÊN trong bộ bốn tập - “SÓNG HẮC HẢI” Năm 1910, trên báo “Người đưa tin Ôđexxa” - xuất hiện bài thơ đầu tiên của cậu bé Valia1 mười bốn tuổi - bài thơ “Mùa thu”. Ở đây dường như có điều gì báo trước về một nhà văn tương lai có tâm hồn thơ mộng, sớm gắn bó lòng mình với thiên nhiên. Bài thơ đầu tay là những suy tưởng trữ tình, những nét phác họa về mùa thu, về thiên nhiên Nga tươi đẹp. Mùa hè năm 1913, lần đầu tiên nếm hương vị thành quả văn chương, khi nhận được giấy mời của một tờ báo nhỏ ở Ôđexxa mời các nhà thơ trẻ tham gia câu lạc bộ văn nghệ địa phương, nhà văn tương lai ấy đã đắn đo suy nghĩ: “Liệu một học sinh trung học 16 tuổi đầu đã có thể coi mình là “trẻ”? Với dăm ba bài thơ đăng trên báo hàng ngày liệu đã có thể coi mình là “nhà thơ”?. Nhưng anh vẫn lên đường đến câu lạc bộ. Ở đây việc kết nạp hội viên phải thông qua đầu phiếu. Nhưng trong số những người đã từng đọc thơ mình ở đây chỉ có hai người được hưởng cái vinh dự lớn là được mời thẳng lên đoàn chủ tịch mà không phải bầu bán gì cả. Đó là V. Kataep và E. Bagrixki2. Khi trở thành nhà văn nổi tiếng, V. Kataep đã nhắc lại sự việc trên trong truyện ngắn “Gặp gỡ”. Cái thuở ban đầu ấy có cái gì đã kết tinh, không thể hòa tan mà sau này bạn đọc vẫn còn gặp lại trên nhiều trang sách của nhà văn, đó là nụ cười châm biếm, có khi nhân hậu, có khi cay độc như một nét riêng của miền duyên hải Ôđexxa, bắt nguồn từ quá khứ xa xưa: từ người dân chài trên bãi biển, từ anh công nhân lam lũ, từ người lính thủy can trường hay ở những em bé đồng biển với nước da đen sạm vì sóng gió Hắc hải và mặt trời phương nam. Cũng như nhiều nhà văn khác thuộc thời kỳ này, V. Kataep bước vào làng văn qua lối chiến hào bằng những bản tin và bút ký mặt trận. Tiếp theo là những ngày sôi nổi của Cách mạng. Trong những giờ phút gay go và căng thẳng, con người thường trưởng thành sớm hơn tuổi tác, nhất là nhà văn, và chính trong cơn lốc cách mạng ấy tài năng của nhiều nhà văn, trong đó có V. Kataep đã nảy nở một cách mau lẹ và vững chắc. V. Kataep đã trưởng thành trước khi ông từ giã tuổi thiếu niên. Thế nhưng đối với V. Kataep ngay cả khi tuổi niên thiếu đã qua rồi, ông vẫn còn giữ được rất lâu tâm hồn khát khao được quay lại đầm mình trong tuổi niên thiếu, và quả thực nhà văn đã trở lại sau những lần “trở về” ấy. V. Kataep là một trong những người trong khi vẫn vui vẻ tiếp nhận tuổi đời và say sưa với những công việc của “tuổi tác mình” nhưng vẫn háo hức sống với những năm tháng đã qua, có khi là những tháng năm xa xôi tưởng như chẳng mấy ai còn nhớ tới nữa - những năm tháng có khi vui tươi, đầy mơ ước háo hức, song cũng có khi buồn. Vào những năm thứ hai mươi, khi tuổi đời và tuổi nghề của nhà văn chưa có bao lăm, các nhân vật trong sáng tác của ông thường là những kẻ nhàn tản vô vị: người ta chơi cờ, chơi bài, người ta đùa với tình yêu và dỡn trong đủ mọi quan hệ. Thế nhưng ông chưa có đủ ngay lòng căm thù với những kẻ thù của nhân dân để hành động và chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng, đấu tranh với bản thân để đưa ông đến “Cái giếng thần” (1966), thì lòng căm thù trong ông mới chín muồi, mới trở nên sôi sục, và được sử dụng không đến nỗi uổng phí. Nhà văn đã thấy được mình viết cho ai và chống ai. Lúc này trong sáng tác của ông thể hiện rõ khuynh hướng bi hùng và châm biếm: “Trong thành phố bị bao vây” (1922); “Bút ký về cuộc nội chiến” (1924). Tuy nhiên người ta vẫn thấy trong sáng tác của ông phảng phất “cái thứ triết lý của anh tiểu tư sản, cái thứ triết lý của những người không muốn xây dựng lại cuộc đời, văng vẳng tiếng thở dài mệt mỏi trong cuộc đấu tranh chống đói nghèo, dốt nát...”. Vào những năm 30, khi nhân dân Liên Xô náo nức hưởng ứng dự định táo bạo của Đảng CSLX: xây dựng trong thảo nguyên hoang vu “Pugatsep” một nhà máy: liên hợp luyện kim, V. Kataep đã say mê với cái nhà máy “Magnitka” tương lai ấy và viết tiểu thuyết thời sự “Thời gian ơi, tiến lên!”, tác phẩm này của ông cũng mới mẻ và táo bạo như bản thân cái công trường xây dựng kia vậy. Cuốn tiểu thuyết đã từng làm cho nhiều bạn đọc ngạc nhiên. Cuốn sách ca tụng những con người chỉ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống trong sự nghiệp xây dựng lại cuộc đời, đấu tranh với đói nghèo, dốt nát, những con người không biết tới khoái lạc tầm thường ngoài lao động quên mình - lao động là nhu cầu sống còn số một. Trong tiểu thuyết, lối văn châm biếm với cái giọng nhát gừng, đầy sức sống kết hợp với lối văn nhanh gọn của báo chí và ngôn ngữ đanh thép, chính xác của các quy phạm công vụ, tạo nên một lối văn phong hỗn hợp, độc đáo mà vẫn gắn bó hữu cơ - người đương thời gọi là phong cách thời đại. Trong cuốn sách đầy nhiệt tình tiến lên phía trước: lao động, lao động vượt mức kế hoạch, tiến trước thời gian! Con người ở đây hăng say lao động như một cơn lốc, cơn lốc của một điệu Vanxơ vui tươi và phấn kích... Lúc này V. Kataep cộng tác với báo “Pravda” và nhiều báo khác, ông có dịp lăn lộn trên khắp các ngả đường của đất nước, viết nhiều bài thơ cổ động phục vụ những nhiệm vụ cấp bách của Đảng, cả trong thời chiến cũng như trong lúc xây dựng hòa bình. Công cuộc lao động xây dựng đất nước đã mang lại cho ông nhiều cảm nghĩ vui tươi, nụ cười của ông trở nên lạc quan và châm chọc đúng chỗ. Ông viết những vở kịch vui “Hình vuông của hình tròn”, “Một triệu nỗi khổ cực”, “Con đường hoa” - ông tiếp tục chế giễu tên tiểu tư sản; mặc dù ông đã nhiều lần đọc điếu văn bên nấm mồ của hắn, vậy mà hắn vẫn ngoan cố, thay hình đổi dạng trở về bằng đủ mọi cách. Ông biểu lộ niềm sung sướng trước thắng lợi của cuộc sống mới, trước những đổi thay ngày một tốt đẹp hơn trong nhiều quan hệ giữa người với người bằng những sáng tác kịp thời. Đến đây bỗng nhiên ta thấy thêm một đổi thay bất ngờ. Khi ông đang say sưa bám sát thời gian và sáng tác theo nhịp độ của công trường, tìm thấy ở đấy những nguồn cảm hứng không bao giờ cạn, đang tiếp tục cười nhạo báng tất cả những gì lạc lõng, sai với nhịp bước của điệu Vanxơ thời đại kia, thì bỗng nhiên cuốn tiểu thuyết “Cánh buồm trắng cô độc” (1936) xuất hiện như một hành trình đường đột, bí mật quay lại thời thơ ấu xa xưa tưởng như đã lu mờ sau khói bụi của công trường và nhà máy - thời gian. Uống nước nhớ nguồn. Cái hôm nay đã bắt đầu từ đâu và bắt đầu như thế nào?! Ông quay lại quá khứ không phải “đơn giản” như người ta tưởng, và sự ra đời của cuốn “Cánh buồm trắng cô độc” cũng không phải là một “bỗng nhiên”, vì một nhà văn nghiêm khắc viết về quá khứ không thể là “bỗng nhiên”. Cuộc sống của ông diễn ra theo hai chiều đối nhau: chạy nhanh lên phía trước sánh bước với thời gian và đồng thời quay lại suy tư về những cái đã qua, đó quả là một quá trình lao động gian khổ: thu thập tư liệu, xác định tâm trạng - cái quyết định sắc thái của cuốn sách. Chính V. Kataep đã xác nhận rằng từ lâu ông vẫn hằng mong ước được hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình: - Năm 1905, một ngày tháng sáu oi bức. Trên kè đá bờ biển Ôđexxa chật ních người. Bầu không khí trầm lặng đầy vẻ lo âu, rùng rợn. Một chú bé tám tuổi, trố mắt ra vì kinh ngạc, cố lách mình qua đám đông, len lỏi đến tận hàng rào sắt. Chú bé nhìn thấy chiếc chiến hạm ba ống khói “Pôchômkin” với lá cờ đỏ tung bay trong gió đã nổi dậy và giờ đây đang tiến gần về phía bờ biển Ôđexxa, Và ông kể lại rằng: “Cả thành phố vui mừng chào đón tin nổi dậy của chiến hạm. Và từ giờ phút ấy trong tôi bắt đầu nhen nhóm một ý thức. - Hình ảnh kỳ diệu của con tầu “nổi loạn” cứ bám riết theo nhà văn trên mọi nẻo đường sáng tạo của ông. Nhưng thời thơ ấu ấy không phải chỉ là sự hồi tưởng cá nhân đầy xúc động, mà còn là một giai đoạn lịch sử đẫm máu. Về cái bi tráng của tháng năm này ông đã viết truyện ngắn “Rôđiôn Giukốp” (1926). Rôđiôn Giukốp là một trong 700 thủy thủ của chiến hạm “nổi loạn” “Pôchômkin” đã đổ bộ lên bờ biển Rumani. Sau đó họ tản đi khắp thế giới và không mấy ai biết đến số phận của họ ra sao nữa. Nhưng Rôđiôn Giukốp là một người không thể sống xa tổ quốc, biết là nguy hiểm anh vẫn tìm cách trở về. Anh đã trở về và sau nhiều ngày đêm lang thang trong thảo nguyên Ukrain: ốm yếu, đói khát với tâm trạng phấp phỏng lo âu, anh dốc nốt đồng 50 kôpếch cuối cùng để mua tấm vé tầu trở về Ôđexxa, nhưng anh đã bị bắt ngay trên bến cảng. Truyện được tả lại bằng lối văn thích hợp với đề tài, không cường điệu và phô trương. Nhưng trong, đó dường như vẫn vấn vương một điều gì chưa giải quyết xong, nó tựa hồ như một hạt giống nếu gặp môi trường ắt sẽ nảy sinh. Vào những năm 20, rõ ràng nhà văn không hề nghĩ tới cuộc đời thứ hai của Rôđiôn Giukốp, ông cho rằng nói thế là đủ rồi. Nhưng khi ông có ý định quay về với thời thơ ấu, trở lại năm 1905 thì những cái tưởng đã phai mờ lại sống lại trong ký ức của ông dưới một nhãn quan khác, tinh tường hơn, trong đó có Rôđiôn Giukốp. Khi ông viết “Cánh buồm trắng cô độc” kể về những người bạn ấu thơ giãi dầu trong sóng gió Hắc hải và cháy sạm dưới mặt trời phương nam, thì cái chất bi tráng của câu chuyện mà ông đã viết về Giukốp không thật thích hợp với sắc diện của cuốn sách nữa. Nhưng Giukốp vẫn trở lại, anh trở thành cái cầu để đưa Pêchya và Gavrik đến với cuộc cách mạng đang sinh sôi và phát triển. Trong bộ bốn tập “Sóng Hắc hải”, tuy là nhân vật quan trọng, song Rôđiôn Giukốp vẫn chỉ đứng ở bình diện thứ hai. Từ câu chuyện cũ, chỉ vài ba tình tiết được chọn lọc dựa vào bộ tiểu thuyết bốn tập này, Giukốp con người thực đã nhường chỗ cho Giukốp tượng trưng và Giukốp biểu tượng cho bối cảnh đấu tranh cách mạng đầy nguy hiểm của thời kỳ bí mật. Đối với trẻ em, nhất là đối với cậu học sinh hay mơ mộng Pêchya Batsây, thế giới này đầy những bí ẩn hấp dẫn: những nhiệm vụ bí mật, những cuộc gặp gỡ đáng ngờ văng vẳng những câu nói nghe lạ tai... Ở đây tính lãng mạn nhiều màu sắc vốn có của biển khơi được nâng lên thành tính lãng mạn mộc mạc, kín đáo của cuộc cách mạng. Sự kết hợp hài hòa ấy đã làm cho câu chuyện vừa êm ái, thơ mộng vừa có cái không khí oi nồng, tức tối của lúc trời sắp nổi cơn giông. Ở đây không còn thấy cái nhịp điệu hối hả, dồn dập của bao sự kiện trong tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!”, không còn cái sắc thái bông đùa riễu cợt của những truyện ngắn thuở xưa. Ở đây đã hình thành một phong cách mới - một lối văn xuôi điềm tĩnh, trầm mặc với những sắc thái muôn hình muôn vẻ, một lối viết súc tích cổ điển, chú ý nhiều đến những chi tiết tưởng như vụn vặt, chẳng có gì quan trọng, nhưng lại là chất liệu tạo ra nội dung mềm mại của câu chuyện. Đó là những tình tiết hết sức thông thường và đồng thời cũng rất bất ngờ. Biển ở đây cũng sống một cuộc sống gắn bó với các nhân vật nhỏ bé và với những sự kiện vĩ đại. “Khi thì biển yên tĩnh, xanh biếc màu da trời, đôi chỗ có những dải nước lặng, trăng trắng như những con đường nhỏ. Khi thì nó rực lên một màu xanh lơ bừng chói lấp lánh. Khi thì nó dập dờn như những đàn cừu tung tăng đùa dỡn. Khi thì một làn gió mát thoảng qua, làm nó bỗng nhiên ngả sang màu chàm xẫm và xù lên như lông cừu bị vuốt ngược. Khi thì bão ập tới, biển thay hình đổi dạng nom đến đáng sợ. Một trận cuồng phong rồ lên một đợt sóng lớn. Trên bầu trời màu than chì, những con hải âu vừa bay vừa kêu la ầm ĩ. Những làn sóng hung cuồn cuộn đi và quăng quật dọc bờ biển một cái xác cá heo bóng nhẫy. Phía trên nhưng đám mây nâu của cơn bão biển, chân trời màu lá mạ sáng chói dựng lên như một bức tường lởm chởm. Những con sóng nhào đầy bọt hệt như tấm đá khổng tước chằng chịt những đường vân rộng trắng xóa, đâm xô vào bờ, vỡ tan ra, làm dội lên những tiếng ầm ầm như tiếng súng đại bác. Tiếng dội âm vang ngân lên trong bầu không khí đầy tiếng động inh tai. Bụi nước bắn lên, tạo thành một làn sương mù mỏng mảnh, rủ xuống như một tấm sa mỏng phơ phất trên suốt chiều cao đồ sộ của những bờ dốc đang rung chuyển. Nhưng vẻ mê hoặc chủ yếu của biển là trong khoảng không bao la của nó bao giờ cũng giữ kín một điều gì bí mật. Ánh lân quang của biển chẳng phải là điều bí mật sao, khi mà trong một đêm tháng sáu không trăng, bàn tay ta dúng xuống làn nước ấm đen sì bỗng sáng rực lên, lấp lánh những tia sáng xanh. Hay những đốm lửa chuyển động của những con tàu vô hình và những luồng sáng nhợt nhạt, bừng lên một cách chậm chạp của ngọn hải đăng chưa từng biết? Hay số hạt cát mà trí tuệ con người không thể nào đếm xuể? Cuối cùng là hình ảnh kỳ ảo của chiếc thiết giáp hạm nổi loạn có lần đã xuất hiện ở ngoài khơi xa tắp, chẳng phải là một điều hoàn toàn bí ẩn sao?” Đọc những đoạn văn trên đây ta có cảm tưởng rằng đó không thể là ký ức của nghệ sĩ dù là một nghệ sĩ từng trải và có tài, mà phải là cặp mắt trong sáng và tinh tường của một đứa bé mẫn cảm mới chộp nổi. Ngay từ những dòng đầu của tập I, “Sóng Hắc hải” đã được viết theo một phong cách khác hẳn, tạo nên một tâm trạng khác tất cả những gì ông đã viết, nhất là tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!” Lối văn mô tả chậm rãi, dẫn dắt người đọc đi vào suy tư và hồi tưởng, trong đó hứa hẹn một cái gì chân xác và trữ tình. Chất thơ thấm vào các trang sách và tô điểm cho chúng bằng những màu sắc êm ái, làm cho chúng trở nên hấp dẫn và độc đáo: lúc vui, lúc buồn nhưng bao giờ cũng là sự chân xác lãng mạn. Trong hành động của hai đứa trẻ Pêchya và Gavrik tính tự nhiên không phải chỉ do logic nội tâm mà còn do cả logic cuộc sống riêng của chúng tạo nên: mỗi đứa một vẻ. Song đó cũng là cái logic, và tâm lý thông thường: trẻ con ở tuổi đó thường muốn bứt mình ra khỏi người lớn, muốn sống một cuộc sống độc lập, nhất là trong những hành động hấp dẫn của trẻ con, không muốn cái khôn ngoan chán ngắt của người lớn can thiệp vào. Càng nguy hiểm càng hấp dẫn, càng là việc làm vô cùng thích thú. Bí mật là cái gì đè nặng lên con tim đến ngạt thở, nhưng ngọt ngào xiết bao, cái hương vị của khám phá. Do đó chúng đã bị lôi cuốn vào cuộc cách mạng như tham gia vào một trò chơi thích thú đang tiếp diễn ở giai đoạn gay go, căng thẳng. Bị thua trắng tay trong cuộc chơi uski, Pêchya trở thành “nô lệ” của Gavrik và nó phải theo “hầu” ông chủ, tha cái túi nặng đầy tài sản uski lang thang khắp thành phố giữa lúc hỗn mang, chui rúc qua các ngõ hẻm heo hút và rùng rợn. Thoạt tiên Pêchya không biết cái túi nó mang trên lưng là đạn và việc luồn lánh qua các ngõ ngách kia là làm nhiệm vụ tiếp vận đạn dược cho những người khởi nghĩa đang chống cự với cảnh sát và quân lính chính phủ. Nhưng khi đã vỡ lẽ, nó lại hồ hởi tiếp nhận thêm nhiệm vụ mới. Bây giờ cố nhiên thằng bé đã hiểu rõ nó mang thứ uski gì. Giá vào lúc khác thì có lẽ nó đã vứt tuốt và chạy về nhà. Nhưng hôm ấy, mê say với cái công việc nguy hiểm nhưng hấp dẫn này; niềm mê say còn mãnh liệt gấp trăm lần những lúc ham chơi, nó nhất định không chịu bỏ bạn một mình. Nhưng ngay trong trường hợp này tác giả cũng không quên tuổi đời của nhân vật, tính hiếu danh trẻ con vốn có của lứa tuổi đó. “Hơn nữa, - nhà văn viết thêm, - nó không thể từ bỏ cái vinh quang của Gavrik. Chỉ riêng một ý nghĩ rằng sau này nó sẽ không có quyền kể lại những chuyện mạo hiểm của mình, đã lập tức buộc nó phải coi thường nguy hiểm”. Ở đây bộc lộ cái năng khiếu quan sát tinh tường của nhà văn: ông thận trọng quan sát, không bỏ sót một chi tiết nhỏ để nhận ra những tính chất mới, quan điểm mới đang hình thành trong tâm hồn thằng bé Pêchya, trong khi cuộc sống xung quanh hầu như vẫn bình thường. Tuổi thơ là tuổi của những tìm tòi, khám phá, và quả thực những khám phá vĩ đại đều bắt đầu ngay từ những bước đi đầu tiên, những tiếng nói đầu tiên trong đời người. Mỗi đứa trẻ đều tìm ra một châu Mỹ của mình, và tạo ra cho nó - cái châu Mỹ ấy, một cuộc sống riêng theo ý mình. Những cuốn sách về tuổi thơ là những cuốn sách về tìm tòi và khám phá cái mới - khám phá thế giới. Tuy nhiên bất kỳ một khám phá nào cũng đều xảy ra trong những giờ phút nhất định của lịch sử và trong những tình huống nhất định. Khi nhận ra cái túi nó mang trên lưng là đạn, Pêchya hiểu rõ rằng việc làm của nó và Gavrik không còn là trò chơi trẻ con nữa. Trong hai tập đầu của bộ sử thi “Cánh buồm trắng cô độc” và “Khu trại trong thảo nguyên” sự khám phá thế giới trong tâm hồn cậu bé diễn ra dưới ánh sáng của ngọn lửa cách mạng đang cháy lan ra khắp nước Nga. Thế giới hiện lên trong sự đổ vỡ khốc liệt của năm 1905. Những biểu tượng tưởng như không gì lay chuyền nổi của tuổi thơ về nước Nga, về Sa hoàng, về Thượng đế và về người bố thế là bắt đầu sụp đổ. “... Thì ra nước Nga là một nước bất hạnh, và ngoài bố ra còn có những người ưu tú nào đó đang chết mòn ở những nơi làm việc khổ sai. Thì ra Sa hoàng là thằng ngốc và một tên nát rượu, lại còn bị người ta dùng gậy tre đánh vào đầu. Ngoài ra, các bộ trưởng là những kẻ bất tài, các tướng tá là những kẻ bất tàỉ, và té ra không phải nước Nga đánh bại nước Nhật - điều mà cho đến nay không ai mảy may nghi ngờ - mà là nước Nhật đánh bại nước Nga. Và điều chủ yếu nhất là bố và bác đều nói về việc đó. Tuy nhiên, chính Pêchya cũng đã đoán được đôi điều. Trong bót cảnh sát, người ta nhốt những người hoàn toàn tử tế, không say rượu, thậm chỉ nhốt cả một ông già tuyệt diệu, mà còn đánh cả ông cụ nữa chứ.” Lưng đeo cái xắc cốt nặng, ngoan ngoãn theo Gavrik đi khắp hang cùng ngõ hẻm, lần đầu tiên Pêchya nhìn thấy cái cảnh bần cùng vừa đáng kinh sợ, vừa nên thơ của những khu phố nghèo của Ôđexxa, nhìn thấy cái tử thi có bộ mặt vàng ệch như sáp ong trong trận chiến đấu mà Pêchya có cảm tưởng như một trò chơi trẻ con. V. Kataep là một nhà văn hay viết về trẻ em và hai tập đầu của bộ bốn tập “Sóng Hắc hải” là những cuốn sách viết về niềm sung sướng đầu tiên của bản tính trẻ em và những đau khổ đầu tiên khi tiếp cận với sự thật. Trong cuộc đời của một đứa trẻ, và nhất là của một đứa trẻ mơ mộng, lãng mạn như Pêchya, thì liệu có những tấn bi kịch nào có thể so sánh được với những thất vọng đầu tiên, với việc phải đánh giá lại những giá trị đã ăn sâu trong ý niệm của nó! Cuộc sống không thương tiếc những ảo mộng. Đó là quá trình tất yếu, nhưng lại diễn ra khác nhau tùy theo môi trường của mỗi cá nhân và ảnh hưởng của lịch sử. Ở đây nhà văn phải dựng lại toàn bộ bối cảnh lịch sử và không khí xã hội của những năm ấy một cách chính xác: hoàn cảnh gia đình ông giáo Batsây, quanh cảnh đường phố Ôđexxa và tất cả những gì tạo nên môi trường vật chất và đạo đức của Pêchya. Nhưng tuổi thơ của Gavrik là căn lều nghèo nàn của ông lão đánh cá, ở đây không có chỗ cho những ước mơ và viễn tưởng rực rỡ. Viễn tưởng lãng mạn là cái cốt do môi trường của Pêchya tạo nên. Một chú bé được nuôi dưỡng trong môi trường chính trực, liêm khiết và yêu cái thiện, nó sẽ hướng về cái thiện, cái công bằng. Khi vào đời, cái sức mạnh vốn có của cái ác, mà cái ác bao giờ cũng có khuynh hướng chà đạp lên cái thiện sơ khai của con người, mới bắt đầu tác động đến con người. May mắn thay, vừa bước chân ra khỏi cửa, Pêchya đã gặp ngay Gavrik, một người bạn đường đáng tin cậy, một đứa trẻ nghèo mà tâm hồn trong sáng, ý chí thông minh, bản năng chiến đấu vượt lên trên những thiếu niên cùng lứa tuổi. Do hoàn cảnh gia đình, ngay từ tấm bé, Gavrik đã phải lăn lộn với thiên nhiên để kiếm sống và phải va chạm với đủ loại người, nó sớm trưởng thành và là một đứa trẻ tháo vát, có đầu óc thực tế. Ý thức đoàn kết và công bằng xã hội đã ăn sâu trong tâm khảm nó ngay từ tấm bé. Khi đưa Pêchya. đến tiếp xúc với những người lao động nó không quên giới thiệu: “Đây là con trai ông giáo Batsây” và “đó là một gia đình không có gì làm giàu sang, hiện đang gặp khó khăn.” Như một người lớn, chín chắn không phải do tuổi đời song Gavrik vẫn là một thủ lĩnh tí hon tinh nhanh và nghịch ngợm, nó luôn luôn tự hào với vai trò của mình trong đám trẻ con trên đường phố, nó cũng ham chơi, nhiều khi quên cả công việc. Sắc thái đó làm cho nhà văn có thể mang vào câu chuyện chút ít hài hước, làm cho “chú Gavrôs Tênarđiê của Ôđexxa” có sức cảm hóa đặc biệt. Gavrik tháo vát, đảm đang và chu đáo, Pêchya mơ mộng mà ngờ nghệch trước việc đời. Do đó trong tình bạn của chúng có cái gì thiếu bình đẳng. Những cái mà đứa con của đường phố Ôđexxa nhận thức một cách dễ dàng và chắc chắn thì đối với Pêchya - đứa con của một gia đình trí thức, một học sinh trường quốc lập, lại là một điều bí ẩn. Pêchya chỉ có mỗi một ưu thế là thầy dạy tiếng la tinh cho Gavrik. Tuy vậy Gavrik cũng không xem thường cái khôn ngoan thông thái của nhà trường. Đối với nó những kiến thức sách vở không phải là điều thích thú, nhưng nó hiểu được giá trị thực tiễn của kiến thức đó: cần học, học vẫn là điều bổ ích. Viết về tình bạn của hai đứa trẻ có cá tính khác nhau, được giáo dục trong những môi trường khác nhau, nhưng vẫn giữ được tình thân ái, ngay cả khi chúng đã khôn lớn, là một khó khăn lớn: tình bạn đó rất dễ rơi vào tình trạng gượng gạo, nhưng ở đây tác giả đã khắc phục được khó khăn ấy một cách tài tình. Cái khôn ngoan của Gavrik thường có giá trị thực tiễn hơn kiến thức sách vở của Pêchya, nhất là khi vấp phải những vấn đề không hề có trong giáo trình. Ở đây nhà văn đã giải quyết khá tốt vấn đề khác biệt giữa đôi bạn: dù ảnh hưởng của Gavrik đến Pêchya có mạnh đến mấy, dù tâm hồn của chàng thiếu niên mơ mộng và lãng mạn này có ngây thơ và trong trắng thế nào, dù Pêchya có hướng đến cái thiện, cái công bằng đến mấy thì nó vẫn là một đứa con cưng của một gia đình trí thức đang dao động; hoang mang trước thời cuộc. Mỗi đứa có một thế giới nội tâm riêng của mình. Khi nói đến gia đình Batsây, đến người chủ gia đình ấy, ngay cả khi họ đang gặp khó khăn như trong “Khu trại trong thảo nguyên”, V. Kataep vẫn tả với nụ cười vốn có của ông - nụ cười nhân từ, thấu hiểu, rộng lượng và có cái gì như ái ngại. Thực ra trong cái chất Đôngkisốt của Vaxili Pêtrôvits Batsây có cái gì vừa tức cười vừa cảm động, cũng như trong tình trạng tuyệt vọng của bà bác Tachyana Ivanôvna, khi phẫn nộ bà thốt ra một tràng những lời phỉ báng có tính chất chính trị của bà. Trong gia đình Batsây không phải tất cả bao giờ cũng rõ ràng và luôn luôn nổ ra những cuộc tranh cãi. Ở đây chủ nghĩa duy tâm không phải như một hệ thống triết học mà là một loạt những nguyên tắc sinh hoạt gọi là vô tư, trung thực, lề thói, những ý niệm cao cả về người trí thức và bổn phận, của nó. Với Vaxili Pêtrôvits hai tiếng “chính trị” cũng làm ông e ngại chứ đừng nói tới giai cấp và đấu tranh giai cấp. Thế nhưng trong gia đình ông hầu như người nào cũng thấy rõ cái ranh giới xã hội đã được bàn tay vô hình vạch ra giữa những con người: “Pêchya biết rằng chính ở đây, ở phía trên, bên kia đại lộ Nicolai là cái khu phố rực sáng, ồn ào, vô cùng quyến rũ, cao sang, huyền ảo mà trong gia đình Batsây người ta thường nói đến với một vẻ vừa kính trọng, vừa khinh bỉ là “Khu trung tâm”. Dĩ nhiên là gia đình Batsây không ở “khu trung tâm”. Ở đấy là “những người giàu có”, tức là những người đặc biệt, đi tàu bay hay xe đều đi vé hạng nhất, ngày nào cũng có thể đi xem hát, và không hiểu tại sao mãi bẩy giờ tối mới ăn trưa...” Nhưng không phải vì ghen tức mà ông bất mãn, ông Vaxili Bátsây vốn có thái độ ôn hòa, bất đối kháng, lý tưởng hóa cuộc sống - cái thái độ cố hữu của trí thức Nga. Nhất là ông, một con người nhân từ, đa cảm trong giọng nói thường nhiều nước mắt hơn là sắt thép. Nhưng khi phải đi đến quyết định: chỉ cần tỏ thái độ đầu hàng hay nhượng bộ trong phút chốc thôi để giữ cho cuộc đời yên hòa và sung túc, thì trong con người ông lại bộc lộ cái thái độ cứng rắn trước mọi thứ dọa dẫm và mua chuộc vì sự thánh thiện của đạo lý và vì lòng tự trọng. Cuộc sống nghiệt ngã, những bất công và đau khổ đã mở cho tầm mắt ông nhận ra cái bản chất của thứ uy lực tối thượng mà ông đang thờ phụng. Sau lần xung đột với thượng cấp, lần đầu tiên trong đời ông hiểu: “Ở nước Nga một khi đã ra làm việc Nhà nước thì không thể làm một con người ngay thẳng, không khom lưng cúi đầu được. Chỉ có thể là một quan chức đần độn của Sa hoàng, một viên chức không có ý kiến riêng của mình, chỉ biết tuân lệnh, tức là tuân lệnh quan trên, cho dù đấy là những mệnh lệnh bất chính và tội lỗi đi nữa. Với Vaxili Pêtrôvits, điều khủng khiếp nhất là tất cả cái đó lại bắt nguồn chính từ uy lực tối thượng của người đã được thượng đế ban cho ngai vàng để cai quản nước Nga”. Những giây phút tỉnh ngộ ấy hiếm hoi và quý giá vô cùng. Nó đã hướng ông Batsây đi vào một cuộc đời mới. Khác với gia đình ông Vaxili Batsây, trong xóm Cối xay Gần, ở cái thế giới người nghèo này của Gavrik, tất cả đều được thực hiện một cách dứt khoát, nhanh chóng, chắc chắn và không khoan nhượng. Ở đây, người ta không thừa nhận những cảm lụy, suy tư và dao động, ở họ - những người lao động bao giờ cũng sẵn sàng một quyết định hành động và ai cũng biết rõ là phải thực hiện quyết định đó như thế nào. Đối với V. Kataep, thì Rôđirôn Giukốp, Terenti, Tsernoivanepko, Gavrik và những chiến hữu của họ đều là những anh hùng. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” ảnh hưởng của Gavrik đối với Pêchya quá rõ ràng và cụ thể. Nhà văn đã bám sát đôi bạn của mình lang thang đi khắp chốn: trên bãi biển, trên đường phố và chui cả vào những ngõ ngách của Ôđexxa. Đối với Gavrik thì bãi biển, đường phố, xó chợ... chỗ nào cũng thân thuộc như trong căn lều rách nát của ông nó trước đây và ngôi nhà lụp xụp của anh nó hiện nay. Việc kiếm sống đã dạy cho nó tính tháo vát, khôn khéo, đôi khi ranh mãnh và tính thận trọng, đã khơi lên lòng căm thù. Do đó thái độ của nó rất dứt khoát: một lần thôi và suốt đời. Pêchya luôn luôn khâm phục cái khôn ngoan mà bạn nó đã học được trên đường phố. Và tất cả “những gì ở nhà đối với nó đều trở nên chán ngắt và vô vị, mặc dù nó rất yêu bố và bà bác “bướng bỉnh” của nó. Khi đến xóm Cối xay Gần, ở đây cái gì đối với nó cũng mới mẻ và mỗi lúc một khác. Nhưng nó không quay lưng lại với gia đình. Ngôi nhà, bầu không khí gia đình, những ảo tưởng của bố và lòng bất mãn cao thượng của bác là một dòng tư tưởng, những câu chuyện của anh Terenti, tấm gương của Rôđiôn Giukốp, những hoạt động của Gavrik lại là một dòng khác. Và hai dòng tư tưởng đó thoạt nhìn mới trái ngược làm sao. Trong cả bộ sử thi “Sóng Hắc hải” Pêchya luôn luôn là điểm xoáy của các luồng gió từ bốn phương thổi tới. Cuộc đời Pêchya: tham gia cách mạng, tham gia nội chiến và sau này tham gia cuộc chiến tranh yêu nước luôn luôn là sự tiếp diễn và phát triển của điểm giao lưu của các luồng tư tưởng đó. * * *       “Khu trại trong thảo nguyên” là tập thứ hai của bộ “Sóng Hắc hải” đã được mở đầu bằng cuốn tiểu thuyết mang cái tên thơ mộng “Cánh buồm trắng cô độc”, bắt nguồn từ chủ nghĩa lãng mạn trong sáng tô điểm cho những bước đi ban đầu ít nhiều có suy nghĩ của nhân vật trung tâm là Pêchya Batsây và tình bạn của nó với Gavrik Tsornôivanenko. Trong “Khu trại trong thảo nguyên”, vẫn thông qua cuộc sống của hai gia đình ông giáo Batsây và anh công nhân Tsornôivanenko mà tiêu biểu vẫn là Pêchya và Gavrik. V. Kataep tái hiện lại một cách chi tiết cuộc sống của Ôđexxa, của nước Nga và phong trào cách mạng Nga vào những năm 1910 - 1915, cũng như phong trào dân chủ trên quy mô thế giới, thông qua chuyến du lịch của ba bố con Batsây qua một số nước. Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905, chính phủ Nga hoàng tăng cường đàn áp phong trào công nhân và truy lùng những người hoạt động cách mạng, Đảng rút vào hoạt động bí mật, đồng thời kết hợp với hoạt động công khai: sự ra đời của tờ báo “Sự thật” và việc chuẩn bị đưa người ra tranh cử vào viện Đuma. Chính việc kết hợp giữa hoạt động hợp pháp với hoạt động bí mật là nét đặc trưng của giai đoạn cách mạng này giai đoạn chuẩn bị điều kiện cho một cuộc cách mạng mới, - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong những chương đầu của “Khu trại trong thảo nguyên”, vốn là một người trí thức Nga trung trực, một con chiên ngoan đạo, một người yêu nước theo kiểu thánh đường và hết mực tin yêu Sa hoàng, ông giáo Batsây ra sức bảo vệ nhà thờ và nhà nước với tấm lòng chân thiện của một nhà sư phạm mẫu mực. Ông làm ngơ trước mọi hoạt động của những người cách mạng, tuy không chống đối nhưng cương quyết không tham gia và cũng không để họ lợi dụng mình vào mục đích “chính trị” của họ. Hai chữ chính trị bao giờ cũng làm ông bối rối, ông xa lánh nó như người ta xa lánh những kẻ nhiễu sự. Ông không muốn ai quấy rầy cuộc sống “lương thiện” và yên hòa của gia đình ông. Nhưng sự thật đã không như ông tưởng! Trước cái tang lớn của nước Nga - nhà văn vĩ đại Lep Tônxtôi từ trần, ông đã đọc bài diễn văn tưởng niệm - “Mặt trời của nước Nga đã tắt” trước học sinh. Nhưng việc làm trung thực của ông lại trái với “nghĩa vụ” của người viên chức nhà nước, lại là hoạt động chống đối chính phủ. Giữa L. Tônxtôi và nhà nước thì chân lý ở đâu? Một câu hỏi hiện lên và niềm tin của ông bắt đầu lung lay. Còn nhà thờ ư? Sau lần tiếp xúc với lão linh mục đại diện cho nhà thờ ở nghĩa trang, bên nấm mồ của vợ ông, ông thấy rõ đó chẳng qua cũng chỉ là trò xảo trá! Và niềm tin của ông tiêu tan. Sau câu nói “kháng cự” đầy công phẫn: “Ngài làm nhục tôi!” ông bắt buộc phải thôi việc. Sau lần tống cổ tên hối lộ Blagienxki ra khỏi nhà, ông trở nên thất nghiệp và lần này thì vô phương cứu chữa. Ông hiểu ra rằng chẳng qua mình chỉ là một “tên nô lệ”. Tiếng ấy đúng nhất. “Thoạt đầu tôi là tên nô lệ của Bộ giáo dục nhân dân mà đại diện là Xmôlianinôp, đốc học ty giáo dục và y đã đuổi tôi như đuổi một con chó, bởi vì tôi đã cả gan có ý kiến riêng về Tônxtôi. Sau đó tôi trở thành nô lệ của Faigơ, kẻ cải đạo và là kẻ đầu óc thô thiển, y cùng đuổi tôi như đuổi con chó, bởi vì lương tâm tôi không cho phép tôi ghi điểm ba cho Blagienxki, một tên dốt đặc và ba hoa, trong khi người ta muốn tôi cho hắn điểm ba chỉ vì một lý do duy nhất hắn là con trai một nhà triệu phú. Tôi muốn nhổ toẹt vào mặt cả Xmôlianinôp lẫn Faigơ, và đồng thời phỉ nhổ cả toàn bộ chính phủ Nga! Và nếu ở nước Nga ta không thể không làm nô lệ cho kẻ khác, thì thà tôi làm một tên nô lệ bình thường, còn hơn làm tên nô lệ trí thức. Ít ra thì tôi còn giữ được sức sống cho tâm hồn tôi...” Theo sáng kiến của bác Tachiana Ivanôvna - gia đình Batsây thuê khu trại trồng cây ăn quả trong thảo nguyên với ý định cứu sống gia đình bằng lao động của mình. Nhưng trong một xã hội mà quan hệ giữa người với người là chó sói, thì gia đình ông làm sao tránh khỏi tai họa khánh kiệt. Ở đây lại xuất hiện mụ Xtôrôgienkô, một nhân vật hắc ám, ngày xưa buôn hàng cá, đã cướp cơm của ông cháu Gavrik và bao người khác, giờ đây lại chuyển sang buôn trái cây, đang ra sức dìm giá vườn quả của gia đình Batsây với ý định cướp trắng cả vụ trái cây lẫn khu trại. Nhưng mụ đã vấp phải kẻ thù cố cựu của mình: Gavrik. “Có điều hồi xưa nó bé tí và bất lực, mụ muốn làm gì nó thì làm, nhưng giờ đây nó đã hoàn toàn khác, và do bản năng mụ đánh hơi thấy nó có sức mạnh nguy hiểm chưa rõ đến mức nào”. Phải chăng đó là sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, đã đến lúc làm cho kẻ thù kiêng nể. Những cuộc tìm kiếm để xây dựng cuộc sống điền viên, những lo âu và xung đột của Vaxili Batsây rút cục cũng có cái gì giống với tính chất lãng mạn tích cực của những người trong ủy ban bí mật. Giữa ông giáo Batsây và họ có những cái giống nhau: họ có chung một kẻ thù. Trong lúc gia đình Batsây đã bó tay trước sự chèn ép của cái xã hội “cá lớn nuốt cá bé”, mọi người đã an phận chờ đợi cái tai họa phải đến, thì vào một buổi sáng đẹp trời anh em công nhân ở Xóm Cối xay Gần đã đến giúp gia đình Batsây thu hoạch vụ trái cây theo lệnh của ủy ban bí mật. Ở đây có một cái gì rất cảm động, phóng khoáng như một khúc ca đồng nội. Và để trả công, - theo nguyên tắc có đi có lại, ông giáo Batsây giảng cho anh em công nhân một số bài học phổ thông về lịch sử, địa lý, văn học... Sau cái phút tỉnh ngộ kia giờ đây đã đến lúc ông dậm chân quật vào mặt bọn cảnh sát khi chúng ập đến muốn phá rối cuộc sống điền viên của ông “Tôi yêu cầu những người lạ mặt đêm hôm không được xộc vào trang trại của tôi”. Phút tỉnh ngộ đã đưa đến bước ngoặt lớn là sự giác ngộ tư tưởng của ông. Hành động đó làm ta liên hệ tới hành động của ông cách đấy mấy năm (“Cánh buồm trắng cô độc”): chính ông đã che chở cho anh lính thủy của chiến hạm Pôchômkin là Rôđiôn Giukốp thoát khỏi sự truy nã của cảnh sát - lúc này, hành động của ông mới xuất phát từ lòng nhân từ. Về Rôđiôn Giukốp khi anh ra đi thì “Thuyền ai thấp thoáng lẻ loi cánh buồm!” (“Cánh buồm trắng cô độc”) và giờ đây anh trở về thì mặt biển nhộn nhịp những cánh buồm. Khi ra đi anh chỉ là anh lính thủy quả cảm được ông cháu Gavrik cứu sống, giờ đây anh trở về với tư cách là đại diện của Ban chấp hành Trung ương Đảng công nhân xã hội dân chủ. Còn ông giáo Batsây thì đứng nghe anh nói chuyện về “tình hình chính trị” một cách chăm chú đến nỗi Pêchya đi ngang qua và chạm vào người ông cũng không hay. Và trong mỗi mắt kính của ông “lấp lánh một đốm lửa nhỏ”. Chính những tình tiết này làm cho câu chuyện dịu dàng và hấp dẫn về đôi bạn tâm giao trở thành câu chuyện về sự tất yếu của cách mạng, về sự hấp dẫn tất nhiên của cách mạng đối với những tinh hoa của xã hội và của mỗi con người dù đó là cậu học sinh hay ông giáo trung học. Trong cả hai tập “Cánh buồm trắng cô độc” cũng như “Khu trại trong thảo nguyên”, thời đại được quan sát và mô tả một cách xúc động dưới con mắt của những người sống trực tiếp trong các sự kiện. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” gia đình Tsornôivanenko hầu như không có gì thay đổi, ngoài việc Gavrik bỏ nghề đi biển và sau khi đã làm đủ nghề để cuối cùng trở thành thợ sắp chữ học nghề. Việc vào nghề in của nó cũng là do yêu cầu của cách mạng. Ở đây thông qua việc mô tả sinh hoạt của gia đình Tsornôivanenko và quan hệ của Terenti để nói lên phong trào công nhân và ngư dân Ôđexxa. Trong trường học nhân dân của ông giáo Batsây, ngoài Terenti ra, còn thấy bác lính thủy già Fêđia, anh Akim Perepelitxki. Và ở đây việc xuất hiện thêm một nhân vật mới: bà quả phụ Pavlôpxkaia, làm cho trường học của ông Batsây trở thành như một nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân. Khi Rôđiôn Giukốp nhảy lên con thuyền nhỏ nhoi một mình một bóng vượt biển khơi thì Pêchya mới lên tám. Vào năm Lép Tônxtôi qua đời Chương mở đầu của “Khu trại trong thảo nguyên” Pêchya đã 13 tuổi, nó đã có những hồi tưởng. Những sự kiện rối ren nó không thể nào gỡ ra được. Trong đầu nó đã có nhiều điều đáng suy nghĩ hơn là cuộc chơi uski thua lỗ. Nhìn cảnh tượng thành phố trong những ngày có tang bỗng nhiên quá khứ trở về xâm chiếm tâm hồn nó: “bầu không khí lo âu và rùng rợn của “năm thứ năm”, Nỗi lo âu đó khi tỏ, khi mờ đã xuyên suốt cuốn tiểu thuyết thứ hai “Khu trại trong thảo nguyên”. Không gian đã mở rộng ra ngoài phạm vi Ôđexxa. Đi du lịch ra nước ngoài ba bố con ông Vaxili Batsây tiếp xúc với thế giới bao la đủ màu sắc, với nhiều dân tộc và tiếng nói khác nhau, sức tưởng tượng vô hạn và không biết mệt của tuổi thơ bừng lên trước vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ và đầy rẫy những cái bất ngờ hiện lên sau khung cửa tàu xe. Vẫn với nụ cười nhân hậu, nhưng cũng rất hóm hỉnh, tác giả mô tả tình cảm của Pêchya với cô bé người Nga mà nó vừa nhác thấy trên sân ga nước người. Tình cảm say đắm ấy nảy sinh có lẽ vì đã lâu nó chưa được gặp người bạn gái nơi quê nhà. Chúng ta đã mấy ai không có một thời muốn giấu đi “cái đuôi trẻ con” bằng cách cố làm ra vẻ mình là người lớn: từ lời ăn tiếng nói đến dáng điệu, nhất là khi tiếp xúc với bạn nữ. Những cảm giác mơ hồ nhưng vấn vương bồi hồi, khi ta đi bên bạn ở chỗ vắng người, những cảm xúc làm bật ra những ý thơ tuyệt vời mà cho đến lúc đã làm người bố ta vẫn còn thấy xốn xang mỗi khi nhớ lại. Những cảm giác thơ ngây, trong trắng ấy - vào cái thuở chuẩn bị làm người lớn ấy, ta cứ thích gọi là “tình yêu”. Có thể đó sẽ là tình yêu, nhưng không hẳn. Ở đây ta lại thấy nụ cười của V. Kataep khi ông mô tả những xúc cảm yêu đương của cậu học sinh mơ mộng Pêchya Batsây với Môchya và Mariana. Nhưng đối với cậu thiếu niên Gavrik không được học như trẻ khác vì hoàn cảnh gia đình thì lại khác. Niềm khao khát của cậu là được học. Cậu sẵn sàng bỏ những đồng Kôpếch rất khó kiếm và cũng rất cần để nuôi sống gia đình, để trả tiền học phí. Cậu cũng muốn tỏ ra mình là người lớn, nhưng khác với Pêchya, cậu muốn mình là người lớn để làm được những việc lớn hơn. Chính Gavrik đã quắc mắt tống cổ mụ Xtôrôgienko ra khỏi trang trại của ông giáo Batsây. Tuy nhiên, đối với Pêchya trong số những tình tiết dịu dàng và vui vẻ, trong cái ống kính vạn hoa các ấn tượng cứ luôn luôn thay đổi một cách nhanh chóng, qua cả một dòng ngôn ngữ xa lạ đầy huyên náo trên đường du lịch, đôi khi vẫn thoáng hiện lên nỗi lo âu mơ hồ, những phong thanh về đời sống của nước Nga xa xôi và khuất nẻo. Nỗi hốt hoảng của Pêchya khi nó bỏ quên ở tiệm cà phê chiếc mũ lính thủy mà b&a

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hẹn Em Ngày Nắng
Hẹn em ngày nắng là một câu chuyện tình ấm áp và đầy xúc cảm giữa Tuấn - chàng họa sĩ với những quay quắt về mối tình đầu và Linh - cô gái trẻ với trái tim đã một lần xước xát. Họ gặp nhau từ khi còn là những cô bé, cậu bé để rồi lưu giữ mãi những ký ức về nhau, về ngôi nhà nhỏ với vườn cây xương rồng và tiếng sáo của cụ già đầu ngõ cho đến ngày gặp lại. Cùng đưa nhau qua những hoài niệm, những dè dặt, những hoài nghi của sự tan vỡ, Tuấn và Linh cuối cùng cũng nhận ra tình yêu tận sâu thẳm mà họ dành cho nhau. Một số trích dẫn: "Đừng nên cố kiếm tìm thứ gì hoàn mỹ mà hãy học cách dùng đôi mắt hoàn mỹ để nhìn và thưởng thức mọi thứ xung quanh." "Trong tình yêu đâu cần tính toán so đo thiệt hơn làm gì, ai gọi trước ai gọi sau cũng vậy cả thôi. Cứ ngày ngày thấp thỏm đứng ngồi không yên, thì chi bằng gọi điện cho cô ấy, để cả hai cùng được vui vẻ thoải mái." "Em là vệt nắng chiếu qua cuộc đời tăm tối của anh, làm thay đổi mọi thứ trong anh, và làm bừng sáng cả trái tim anh nữa." "Anh sẽ ghi lại ký ức trong em ở những nơi cũ. Để mỗi lần đi qua, em sẽ chỉ nhớ đến thời gian anh cùng em đến đó." *** Cho dù trái tim bạn có xước xát đến thế nào đi chăng nữa, thì rồi, cũng sẽ có người đến và chữa lành những vết xước ấy. Bởi vì, đó là lời hẹn của tình yêu. Nhà văn Kiệm đã từng viết trong Câu chuyện bên nồi lẩu một đôi dòng thế này: “Trước đây, tôi hay nghĩ mình có thể một mình vượt qua những khó khăn của cuộc đời, một cách đơn giản và thầm lặng. Điều đó thực ra không khó, vì ai cũng sẽ phải thế, nhưng không vui, vì ai cũng làm được hơn thế”. Điều đó thật đúng, nhưng với nhiều người, lại chẳng dễ dàng gì. Bởi rất nhiều khi, người ta đóng cửa tim mình, không dám đón nhận những niềm vui mới chỉ vì một vết thương lòng đã cũ. Nhất là với những người trẻ - những trái tim non chỉ biết hân hoan và cuồng nhiệt mà chẳng một lần đắn đo, để rồi rơi vào hẫng hụt tột độ khi tình yêu trót tan vỡ. Hiểu được những nỗi lòng ấy, tác giả Mai Mei đã dùng những chất liệu bình dị và thân thuộc trong cuộc sống của những người trẻ để viết Hẹn em ngày nắng ắp đầy cảm xúc và sự lạc quan, như những tia nắng sưởi ấm cho trái tim đã một lần xước xát. Hẹn em ngày nắng là một câu chuyện tình ấm áp và đầy xúc cảm giữa Tuấn - chàng họa sĩ với những quay quắt về mối tình đầu và Linh - cô gái trẻ với trái tim đã một lần biết đau. Họ gặp nhau từ khi còn là những cô bé, cậu bé để rồi lưu giữ mãi những ký ức về nhau, về ngôi nhà nhỏ với vườn cây xương rồng và tiếng sáo của cụ già đầu ngõ cho đến ngày gặp lại. Linh khi ấy, đã có một khoảng thời gian dài tách biệt với thế giới xung quanh bởi những vết thương lòng từ sự phản bội của người yêu cũ. Tuấn biết vậy, nhưng vẫn kiên trì dùng sự ấm áp của mình để dẫn  trái tim cô đi qua những hoài niệm, những dè dặt, những hoài nghi của sự tan vỡ. Cuối cùng, sau những hiểu lầm tưởng đã tách họ ra khỏi đời nhau mãi mãi, Tuấn và Linh cũng nhận ra tình yêu tận sâu thẳm mà họ dành cho nhau. Nhẹ nhàng mà sâu sắc, cuốn sách ru người đọc vào một thế giới đầy lãng mạn, khao khát của tình yêu đôi lứa nhưng cũng gay gắt, đầy đấu tranh với chính bản thân, để rồi chợt nhận ra: Đôi lúc, ta bướng bỉnh quá! Cứ ôm ghì nỗi đau mà không chịu đặt nó vào một chỗ, đứng dậy và bước tiếp. Nhưng may thay, cuộc sống một lúc nào đó, sẽ tặng lại cho ta một người yêu ta chân thành. Sự chân thành ấy đủ để những dè dặt, những hoài nghi từ vết thương kia dần tan biến. “Chân thành cho ta thêm kiên định, nhờ kiên định, đường dù gian nan mấy, ta vẫn có thể vượt qua. Trái tim, dù cho xước xát đến thế nào, rồi cũng sẽ có ngày lành lặn.” Không những thế, dõi theo câu chuyện tình đẹp của Linh và Tuấn, người đọc còn thấy một Hà Nội mùa thu đẹp đến ngỡ ngàng. Hồ Gươm lung linh, Tháp Rùa cổ kính, vườn cây xanh mướt, con ngõ nhỏ với tiếng sáo ngân nga của cụ già, rồi nắng vàng, gió hiu hiu, ngay cả những đóa sen hồ Tây đã vào mùa thôi nở vẫn cứ đẹp một vẻ đẹp rất riêng… Tất cả những điều gần gũi, thân thuộc ấy lại bỗng như chất xúc tác cho tình yêu giữa hai người trẻ, để khơi dậy những xúc cảm mà họ đã gắng giấu kín trong tim. Một sự hòa trộn tuyệt vời giữa những khung cảnh thân thuộc được khoác lên màu nắng ươm vàng với câu chuyện tình nhẹ nhàng mà đầy lạc quan và ý nghĩa. *** Đặt chân xuống sân bay Nội Bài, tôi kịp đón nhận chút nắng ấm hiếm hoi của một ngày chiều đông nơi đất mẹ. Lòng lâng lâng tựa như đang ở trong một giấc mơ, tôi cũng thật không ngờ chỉ qua mấy tiếng đồng hồ mà mình đã có mặt tại Việt Nam để hít hà bầu không khí se se lạnh đặc trưng của miền Bắc. Tôi vội vã đi thật nhanh về phía dành cho người nhà ở bên ngoài, ngó nghiêng xem ai sẽ là người đến đón mình đây. Kia rồi, từ xa tôi đã nhận ra dáng Lan, cô em họ con cô chú tôi, người vẫn luôn cung cấp cho tôi mọi thông tin về người con gái mà tôi thầm thương trộm nhớ. Vừa thấy tôi, Lan vui mừng, len qua dòng người đông đúc chạy lại khoác vai bá cổ anh. Đã lâu lắm rồi không gặp con bé, chúng tôi chỉ nhìn thấy nhau qua điện thoại và mạng Internet nên tôi không ngờ Lan lại cao đến thế. Ở ngoài, trông con bé người lớn và già dặn hơn nhiều, nhưng cũng không thiếu phần tinh nghịch và lanh lợi. Lan cứ nhìn tôi chằm chằm, hết nhìn xuống dưới rồi lại ngó lên trên, như thể đang thám thính và đánh giá con mồi vậy, sau đó đưa ra câu nhận xét, “Oa, ông anh tôi trông như soái ca ấy nhỉ, áo quần thẳng thớm, sạch sẽ thơm tho. Đúng là mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao! Mà sao em cứ thấy cái gì không đúng ở đây?”. Tôi bèn hỏi lại, “Cái gì không đúng?”. Lan lại đi vòng vòng quanh tôi, nhìn chăm chú rồi đưa tay sờ sờ vào túi đựng dụng cụ vẽ của tôi, nhăn mày nhăn mặt đánh giá, “Chẳng phải người ta cứ bảo nghệ sĩ lúc nào cũng luộm thuộm, tóc tai rối bời sao? Mà anh còn là họa sĩ nổi tiếng nữa, nhưng em thấy anh đâu có giống thế?”. Tôi phì cười, cứ tưởng con bé đưa ra ý gì khủng khiếp lắm. Tôi cúi xuống nhìn lại mình lần nữa, quần đen, áo len cổ lọ bó sát, áo khoác dài đến gối, thêm chiếc khăn buông lơi bên vai. Có gì mà bảnh bao hay không bảnh bao chứ. Tôi bèn cốc đầu con bé thay cho lời chào. Con bé cười cười ôm lấy tay tôi, rồi nhanh nhẹn muốn cầm đồ giúp tôi. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi cũng không muốn cự tuyệt lòng tốt của nó nhưng cũng chẳng nỡ để nó cầm thứ gì nặng, bèn đưa cho nó đám dụng cụ vẽ mà tôi để riêng trong một chiếc túi, còn mình thì kéo cái va ly to đùng phía sau. Chúng tôi bắt taxi về nhà. Ngồi trên xe, Lan tò mò mở túi đồ của tôi ra xem, rồi ra chiều thất vọng vì chẳng tìm được thứ gì hay ho, mặt ỉu xìu, sau đó lại ríu rít kể mọi thứ chuyện cho tôi nghe, chuyện học hành của nó, chuyện bạn bè nó và cả chuyện của em. Con bé bảo cô chú đang ở nhà chuẩn bị bữa cơm tẩy trần cho anh, đề nghị hai anh em nhanh chóng về nhà. Nhưng tôi đúng là thằng cháu không có hiếu chút nào. Từ khi còn ngồi trên máy bay, tâm tư tôi đã chẳng yên, cứ thấp tha thấp thỏm nhớ đến một nơi, và muốn ngay lập tức về lại đó. Đó chính là ngôi nhà thân yêu của tôi. Thế là tôi nhất quyết đòi Lan dẫn về nhà mình trước. Không sao từ chối được, Lan đành chiều theo ý tôi. Bao nhiêu năm đi xa, quê hương tôi giờ đã khác xưa rất nhiều, nhiều nhà cao tầng hơn, nhiều khu vui chơi giải trí hơn, và thậm chí là nhiều cây to hơn. Còn nhớ ngày nào, hàng cây bằng lăng hai bên đường mới được trồng còn nhỏ xíu, ánh nắng tha hồ chiếu thẳng xuống mặt đất, vậy mà giờ cây nào cây nấy cao to sừng sững, xòe tán rộng vươn ra bốn phía. Tôi thầm nghĩ nếu như là vào ngày hè, khi đám cây này ra hoa, hẳn là con phố sẽ đẹp lắm, thơ mộng lắm. Màu tím của sự thủy chung và thơ mộng sẽ lấn át màu xanh và bao trùm khắp nơi, khiến lòng người đi trên đường sẽ không thôi rạo rực những xúc cảm, vô cùng lãng mạn. Bất giác tôi nhớ đến nét chữ mềm mại dễ nhìn của cô bé miền Trung với bím tóc xinh. “Anh biết không, trên con đường về nhà em mới trồng rất nhiều cây hoa bằng lăng. Khi nào nó lớn, nó sẽ nở ra những bông hoa rất đẹp, lúc đó anh hãy hái xuống rồi kết thành vòng nguyệt quế cho em nhé”. Khi ấy tôi đã quyết tâm như thế nào, rằng nhất định sẽ phải kết cho em những vòng nguyệt quế thật đẹp, để em đội lên mái tóc dài mượt mà chẳng khác nào thiên thần ấy. Tôi thầm hỏi, không biết bây giờ tôi còn cơ hội thực hiện điều đó hay không? Lạ thay, mặc dù khung cảnh giờ đã thay đổi và mang diện mạo mới nhưng đôi chân tôi cứ bước đi thoăn thoắt như chẳng chút gì lạ lẫm. Từng con đường, từng ngã rẽ vẫn in đậm trong tiềm thức tôi như ngày nào. Vì chưa phải là giờ tan tầm nên con đường rất vắng vẻ, lưa thưa một vài người qua kẻ lại. Tôi lại càng có dịp để bước thong dong, để thả hồn mình quay trở lại với thời thơ ấu. Đây là con đường ngày ngày tôi vẫn đến trường, đây là ngã rẽ thân thương vòng vào nhà tôi, đây là con ngõ nhỏ rợp bóng cây đi qua lối nhà em… Bàn chân tôi cứ bước, chẳng mấy chốc là về đến nhà. Càng tới gần căn nhà, tim tôi lại càng đập loạn. Cảm giác hồi hộp cứ lớn dần lên trong tôi. Vậy là tôi sắp được về lại nơi chan chứa bao kỷ niệm ấu thơ, nói đúng hơn là nơi tôi đã từng có những nỗi buồn, đồng thời cũng chính là nơi ánh sáng ấm áp chiếu tới cuộc đời tôi. “Nhanh lên anh, anh có nhận ra quê hương mình nữa không?”, giọng cô em họ vang lên lanh lảnh, tôi mới giật mình nhớ ra bên cạnh còn một người nữa. “Phố nhà mình giờ phát triển quá, anh chẳng còn nhận ra được nữa. Bao nhiêu năm xa quê rồi, nhưng hình như anh vẫn nhớ đường về nhà mình đó”, tôi cười trả lời Lan mà trống ngực cứ không ngừng đập liên hồi, “Anh muốn về đây lâu rồi nhưng chưa sắp xếp được công việc, nhân dịp cuộc triển lãm tranh của anh thành công tốt đẹp, anh bèn thưởng cho mình chuyến về thăm quê đấy”. Nghe tôi nói vậy, con bé không tin, liếc mắt nhìn tôi lém lỉnh, “Thôi đi anh, em còn lạ gì anh nữa, em biết tỏng anh rồi, anh về quê chỉ vì...”. “Nhóc con thì biết gì”, tôi cười xòa cốc đầu con bé học sinh lớp Mười hai trước mặt. Con bé nháy mắt với tôi, cười cười ra chiều rất hiểu chuyện. Đi thêm một đoạn, cánh cổng quen thuộc hiện ra trước mắt tôi. Chân tôi bất giác run rẩy, con tim xao xuyến bồi hồi, phải cố gắng lắm tôi mới giữ được cho mình thật bình tĩnh. Đã nhiều năm trôi qua nhưng trông nó chẳng giống như bị bỏ hoang, không gỉ sét, không bong tróc, nó đã được sơn lại đàng hoàng, như thể bao nhiêu năm vẫn luôn có người sống vậy. Thấy cánh cổng không hề khóa, Lan bỗng quay lại nhìn tôi nháy mắt như phát hiện ra điều gì đó hay ho lắm, rồi nhanh chân chạy lên trước, dáng hình bé nhỏ vừa khuất sau cánh cổng đã nghe thấy tiếng, “Chị yêu ơi, chị có ở đây không?”. Tôi khựng lại giây lát, có người đang ở trong nhà tôi sao? Thoáng ngạc nhiên qua đi, tôi lại thấy tò mò muốn biết ai đang ở trong nhà mình, bèn sải những bước dài tới đó. Một lúc sau, tôi nghe thấy giọng nói nhẹ nhàng của một người con gái vọng tới từ sau vườn, “Có, chị ở trong này, có chuyện gì thế em?”. “Chị lại đang ngồi chăm sóc cho mấy chậu xương rồng đấy à? Chị mau ra đây đi, có chuyện lớn rồi đây.” Nghe thấy Lan nói vậy, cô gái tên Linh tất tả chạy ra, nét mặt sợ hãi, vội hỏi, “Sao thế, ai cháy nhà hay gì mà em cuống cuồng lên vậy?”. Mời các bạn đón đọc Hẹn Em Ngày Nắng của tác giả Mai Mei.
Lỡ Yêu Gracie
Cô theo anh khắp nơi, để ý từng hành động của anh, biến cuộc sống của anh thành địa ngục trần gian suốt hai năm trời... và cô bỏ đi. Bây giờ cô trở lại. Anh nên vừa hét vừa chạy theo hướng ngược với cô, đúng không? Vậy tại sao anh ở lại để... lỡ yêu Gracie? *** "Gracie? Gracie Landon? Phải cô đó không?" Bị bắt gặp, đứng ngay giữa bãi cỏ trước nhà mẹ của cô, 1 tay cầm báo, 1 tay cầm li cà phê, Gracie Landon nhìn về phía lối thoát là cánh cửa trước của ngôi nhà với vẻ khao khát. Về lý thuyết, thì cô có thể vụt chạy thoát đi, nhưng như vậy sẽ là bất lịch sự với bà Eunice Baxter, người hàng xóm lớn tuổi. Và Gracie Landon đã được dạy dỗ đàng hoàng. Cô vén mớ tóc đã dán chặt vào mặt sau giấc ngủ qua 1 bên, lê bước đến cái hàng rào thấp bằng gỗ ngăn cách nhà Landon và nhà bà Eunice Baxter trong đôi dép Tweetie Bird của em gái cô. "Chào buổi sáng, bà Baxter," cô nói, hi vọng là giọng cô nghe vui vẻ chứ không gượng ép. "Đúng, là cháu, Gracie nè." "Trời thần, vậy là đúng rồi. Tôi không gặp cô nhiều năm rồi nhưng tôi thề là tôi có thể nhận ra cô ở bất cứ đâu. Bao lâu rồi nhỉ?" "14 năm rồi." Nửa cuộc đời cô. Cô đã rất mong là mọi người đã quên cô đi. "Chà, phải nói chứ... trông cô đẹp hẳn ra. Khi cô bỏ đi, tôi nói vầy là có ý tế nhị lắm rồi đó, cô là 1 đứa bé xấu thấy sợ luôn. Thậm chí bà má tội nghiệp của cô cứ phải lo lắng suốt là cô sẽ không trổ mã xinh đẹp ra, nhưng mà cô đã làm được. Bây giờ trông cô rạng rỡ, xinh xắn như người mẫu bìa tạp chí ấy." Gracie không thực sự muốn nhớ lại thời kỳ "vịt con xấu xí" của cô - 1 giai đoạn đã kéo dài gần sáu năm. "Cám ơn," cô nói, chân nhích dần về phía hiên nhà. Eunice vun cho phồng mái tóc với những lọn xoăn tít của bà, tay gõ gõ vào cằm." Cô biết không, tôi mới nói chuyện với bà bạn Wilma của tôi về cô. Chúng tôi đã nói rằng giới trẻ ngày nay không biết yêu là gì. Không giống như trong phim hay như cách cô đã yêu Riley Whitefield."  Ôi Trời ơi, Trời ơi. Trời ơi. Đừng nhắc chuyện Riley. Bất cứ chuyện gì trừ chuyện đó. Sau từng ấy thời gian, cái tiếng xấu cô là 1 kẻ bám đuôi ngây thơ, cuồng dại vẫn không thể ngủ yên ư? "Cháu không hẳn đã yêu anh ấy," Gracie nói, tự hỏi tại sao cô lại đồng ý trở về nhà sau từng ấy thời gian. Ồ phải. Đám cưới của em gái cô. "Cô là một minh chứng cho tình yêu chân thật," Eunice bảo cô. "Cô nên tự hào. Cô đã yêu thích cậu ta với tất cả trái tim của cô và cô không sợ thể hiện điều đó ra. Phải đặc biệt can đảm mới làm thế được."  Hoặc bị tâm thần, cô nghĩ và mỉm cười yếu ớt. Tội nghiệp Riley. Cô đã làm cho cuộc sống của anh thành một địa ngục trần gian. "Và anh bạn phóng viên đó đã viết về cô trên tờ báo địa phương để mọi người biết câu chuyện của cô," Eunice nói thêm. "Cô đã được nổi tiếng."  "Tai tiếng thì đúng hơn," Gracie lẩm bẩm, nhớ lại cảm giác xấu hổ khi đọc bài báo về tình cảm thầm kín của cô dành cho Riley trong lúc ăn sáng. "Wilma thích nhất đoạn cô đã đóng đinh giữ chặt cửa sổ và cửa chính nhà bạn gái cậu ta để cô ta không thể đi đến chỗ hẹn hò được. Vụ đó hay, nhưng tôi lại thích lần cô nằm lăn ra trước mũi xe của cậu ta ngay tại đó." Eunice chỉ phần  đường trước nhà mình.  "Tôi đã chứng kiến hết. Cô đã nói với cậu ta là cô đã yêu cậu ta quá nhiều nên không thể để cho cậu ta kết hôn với Pam và nếu cậu ta nhất quyết đính hôn, cậu ta cứ việc cán qua cô để giải thoát cô khỏi đau khổ."  Gracie cố kềm tiếng thở dài. "Phải, vụ đó hay thật."  Tại sao mọi người trên thế giới được phép quên đi sự xấu hổ của thời thơ ấu của họ, nhưng tất cả mọi người đều muốn nói về sự xấu hổ của cô?  "Cháu nghĩ có lẽ cháu còn nợ Riley một lời xin lỗi."  "Cậu ta đã quay lại thị trấn này," Eunice hớn hở nói. "Cô có biết không?"  Khi mà hầu hết mọi người cô gặp trong mấy ngày vừa qua đã cố nói cho cô hay, tất nhiên là cô biết. "Thật không?"  Bà cụ nháy mắt. "Cậu ta lại độc thân rồi. Còn cô, Gracie? Có ai đặc biệt chưa?"  “Chưa, nhưng lúc này cháu đang rất bận rộn với công việc của cháu và ..."  Eunice gật đầu ra vẻ hiểu biết. "Duyên phận đó. Đúng là duyên phận. Hai người đã được đưa về lại với nhau và được cho một cơ hội thứ hai."  Gracie biết cô thà bị treo trần truồng trên một đống kiến lửa hơn là có bất cứ điều gì dính líu với Riley Whitefield một lần nữa. Cô không muốn có thêm sự xấu hổ nào khi chuyện có liên quan đến Riley. Và ai mà biết là anh ta sẽ sẵn sàng chịu đựng những cực hình gì để tránh mấy người như cô?  "Thế thì hay quá, nhưng cháu không nghĩ rằng cháu -"  "Có thể là cậu ta vẫn thích cô,” Eunice nói.  Gracie phì cười. "Bà Baxter này, anh ta sợ cháu phát khiếp ấy chứ. Nếu bây giờ anh ta nhìn thấy cháu, anh ta vừa la hét vừa chạy theo hướng đối diện ngay." Thành thật mà nói, ai mà trách anh ấy được?  "Đôi khi đàn ông cần được nhẹ nhàng thúc đẩy."  "Đôi khi đàn ông cần được để yên một mình."  Và đó chính là dự định của cô. Không bám đuôi Riley nữa. Thực tế thì cô định sẽ tránh xa tất cả các nơi Riley có thể có mặt. Và nếu họ có tình cờ chạm mặt, cô sẽ bình thản, lịch sự và giữ kẽ. Có thể cô sẽ thậm chí không nhận ra anh ta. Bất kỳ tình cảm gì cô từng dành cho Riley trước đây đã phôi phai. Đã chết và chôn sâu. Cô đã quên hẳn anh ta rồi.  Ngoài ra, bây giờ cô đã là một người khác rồi. Duyên dáng. Trưởng thành.  Không còn là con nhỏ bám đuôi nữa. "Ai thế?" Vivian hỏi khi Gracie đi vào nhà bếp của gia đình Landon. "Bà Baxter túm chị lại nói chuyện với bà ấy hả?"  "Ừ." Gracie đặt tờ báo lên trên bàn bếp và uống một ngụm cà phê lớn. "Chị thề, cứ như là chị mới bỏ xứ mà đi vào tuần trước chứ không phải là 14 năm trước."  "Người già cảm nhận thời gian theo cách riêng của họ," Vivian nói khi cô rũ rũ mái tóc vàng lấp lánh ánh đỏ của cô ra sau lưng rồi ngáp dài. "Có điều, họ dậy sớm quá. Mẹ mình chưa 7 giờ là đã ra khỏi cửa rồi."  "Chị nghe Mẹ nói gì đó về thứ Bảy giảm giá đặc biệt ở cửa tiệm." Gracie trườn lên ngồi trên 1 chiếc ghế đặt trước bàn ăn và để ly xuống bàn. “Buổi bán hàng mà lẽ ra em đã đi phụ mẹ."  "Em biết." Vivian vươn vai. "Là lỗi của em đã chọn mua 1 chiếc áo cưới trị giá 3000 đô la. Em có hai chọn lựa: một là dồn hết tiền lo lễ cưới vô cái áo và cho khách nhịn đói, hai là trả góp." Cô nhoẻn miệng cười. "Ít nhất thì em cũng sẽ có được 1 cái bánh cưới tuyệt vời mà không mất đồng nào." "May cho em."  Là chị gái của cô dâu, Gracie đã tình nguyện đóng góp một trong những kiệt tác của cô cho buổi tiệc. Cô nhìn tờ lịch treo trên tường. Tính từ hôm nay thì còn đúng 5 tuần nữa là lễ cưới sẽ diễn ra. Nếu là người thông minh, cô đã tránh mặt cho đến phút cuối, rồi xuất hiện cùng với cái bánh, ăn tiệc rồi lại bỏ đi. Nhưng những cú điện thoại hốt hoảng của mẹ cô, của Vivian và Alexis, người chị cả, đã khuấy lên cảm giác tội lỗi trong cái bụng vốn đã hay bị cồn cào của Gracie làm cô đồng ý trở về nhà để giúp đỡ với kế hoạch tổ chức lễ cưới.  Và Gracie đã được tưởng thưởng bằng việc phải nướng tất cả các bánh đã được đặt hàng với cô trong 1 cái lò nướng lạ hoắc mà cô không cảm thấy tin tưởng gì mấy, và bị các cụ bà tra tấn khi họ khăng khăng nhắc lại chuyện tình cảm đầy vấn đề trong quá khứ của cô.  "Thời gian đó có gì hay đâu," Gracie lẩm bẩm với ly cà phê của mình.  Vivian cười toe toét. "Bà Baxter  có nói rằng Riley Whitefield đã trở lại thị trấn không?"  Gracie trừng mắt với em. " Em phải đi đâu mà hả?"  Vivian cười vang và chạy ra cầu thang.  Gracie nhìn em bỏ đi, rồi mở tờ báo, sẵn sàng tận hưởng 1 buổi sáng bình yên. Chiều hôm nay, cô sẽ chuyển vào ngôi nhà cô đã thuê cho sáu tuần cô ở lại thị trấn, nhưng cho đến khi đó, cô không bận gì cả, ngoại trừ -  Cánh cửa bếp bật mở.  "Ồ, tốt quá. Em dậy rồi."Alexis, chị gái lớn hơn Gracie 3 tuổi, liếc nhìn xung quanh. "Vivian đâu?" "Đang sửa soạn để chuẩn bị ra cửa hàng."  Alexis cau mày. "Chị tưởng nó đã đi rồi chứ. Không phải đợt bán hàng giảm giá bắt đầu lúc 8 giờ à?"  "Em có biết gì đâu," Gracie thừa nhận.  Cô mới về lại nhà được hai ngày và vẫn đang cố tìm cách thích nghi. Trong khi Alexis và Vivian đã lớn lên trong ngôi nhà này, thì Gracie đã bỏ đi vào mùa hè cô vừa lên mười bốn và đã không một lần trở lại.  Alexis rót cho mình một tách cà phê và ngồi lên ghế cạnh ghế của Gracie.  "Chúng ta cần nói chuyện", người chị cả khẽ nói với giọng hơi run rẩy. "Nhưng em không được kể cho Vivian. Hoặc Mẹ. Chị không muốn họ phải lo lắng, khi họ đang phải lo chuyện đám cưới."  "Được rồi," Gracie chậm rãi trả lời, biết là cô không cần phải hỏi chị là mọi chuyện có ổn không. Nếu mọi chuyện đều ổn, Alexis đã không ở đây đòi cô giữ bí mật, hoặc trông có vẻ hoảng hốt.  "Chuyện về Zeke," Alexis nói, rồi mím môi lại. "Chết tiệt, chị đã tự nhủ là sẽ không khóc rồi."  Gracie thấy căng thẳng. Zeke và Alexis đã kết hôn được năm năm, hạnh phúc về mọi mặt.  Alexis hít một hơi sâu, rồi thở ra. "Chị nghĩ anh ấy đang ngoại tình."  "Cái gì? Không thể nào. Anh ấy mê chị đắm đuối mà. "  "Chị cũng đã nghĩ vậy." Alexis đưa tay chùi mắt. "Chỉ là ..." Chị dừng lại khi cả hai nghe thấy tiếng ầm ầm ở trên lầu. "Anh ấy biến mất mỗi đêm và không về lại nhà cho đến khi ba hoặc bốn giờ sáng. Khi chị hỏi anh ấy có chuyện gì không, anh ấy nói rằng anh ấy làm việc trễ vì lo cho cuộc vận động tranh cử. Nhưng chị không tin anh ấy."  Gracie cẩn thận gấp tờ báo lại. "Vận động tranh cử gì? Không phải Zeke bán bảo hiểm sao?"  "Phải, nhưng anh ấy đang lo chiến dịch vận động để Riley Whitefield tranh chức thị trưởng.  Chị tưởng em biết rồi."  Gracie lạc hậu với thông tin hơn cô đã nghĩ. "Chuyện bắt đầu khi nào?"  "Vài tháng trước đây. Anh ta thuê Zeke vì-"  Tiếng bước chân rầm rầm ở cầu thang. Vài giây sau Vivian xông vào nhà bếp.  "Chào chị, Alexis," Vivian nói khi cô đang bím mái tóc dài của cô lại. "Hôm nay chị muốn làm ở ngoài tiệm thay em không?"  "Không hẳn."  Vivian cười toe toét. "Đâu có thiệt gì mà không hỏi. Em đi làm nô lệ để trả tiền cho chiếc váy cưới của em đây. Đừng có quậy bạo lúc em không có đây đó nha."  Cánh cửa bếp đóng sầm lại sau lưng cô. Một phút sau, tiếng máy xe khởi động, lụt phụt muốn tắt nhưng rồi lại nổ được.  Alexis đi ra phía cái cửa sổ nằm ngay trên bồn rửa chén và nhìn ra đường. "Rồi, nó đi rồi. Mình nói tới đâu rồi?"  "Chị đang kể với em là chồng của chị hiện đang làm việc cho Riley Whitefield. Sao lại thế?"  "Sau Đại học, Zeke đã làm việc cho thượng nghị sĩ bang Arizona khoảng 2 năm." Chị có vẻ nguôi bớt nỗi lo khi chị quay sang nhìn Gracie mỉm cười. "Lúc đó chị đang ở Arizona và anh ấy..." Alexis lắc đầu. "Trời ạ, chuyện lâu lắm rồi. Chị không thể tin rằng anh ấy sẽ làm điều này với chị. Chị yêu anh ấy rất nhiều và và ch… chị nghĩ ..." giọng nói của chị nghẹn ngào. "Chị phải làm gì?"  Gracie có cảm giác không thoải mái của người bị kẹt trong 1 ngôi nhà kỳ lạ. Không có gì trong nhà giống như vẻ bề ngoài của ngôi nhà, và cô tìm không được lối thoát ra. Chắc chắn rồi, Alexis và Vivian là chị em với cô. Người thân của cô. Nhìn họ đủ giống nhau để không ai có thể nhầm lẫn quan hệ máu mủ của họ, cũng mái tóc dài màu vàng - vàng nhạt cho Alexis, vàng ánh đỏ cho Vivian và vàng ánh kim cho chính cô, cũng đôi mắt xanh to tròn và thân hình cân đối vừa phải. Nhưng quan hệ chị em này đã được duy trì từ 1 khoảng cách khá xa suốt cả nửa cuộc đời cô - không được khởi động lại từ từ thì cô không biết làm sao để lại quay về với mối quan hệ đủ thân mật để có thể gửi gắm tâm sự hay cho lời khuyên. "Chị không biết chắc chắn là Zeke đang làm gì mà," Gracie nói. "Có thể là vì cuộc vận động tranh cử thật."  "Chị không biết, nhưng chị nhất định sẽ tìm hiểu cho rõ." Chị tiến lên 1 bước.  Gracie có 1 cảm giác không hay trong cái bụng đang cồn cào của cô. "Em ái ngại khi phải hỏi lắm, nhưng chị định tìm hiểu bằng cách nào?"  "Theo dõi anh ấy. Anh ấy có kế hoạch họp với Riley tối nay và chị sẽ đi đến đó."  "Không phải là ý kiến hay," Gracie nói và với lấy ly cà phê của cô. "Tin em đi, xuất phát từ kinh nghiệm bản thân, kinh nghiệm về Riley đó."  "Chị sẽ tiến hành kế hoạch này," Alexis nói, mắt chị ngân ngấn nước, "và chị cần em giúp chị." Gracie đặt ly cà phê xuống. "Không, Alexis, không. Em không thể, và chị cũng không thể làm thế. Điên quá."  Nước mắt lăn tròn trên má chị. Niềm đau làm đôi mắt chị xanh thẫm. Alexis làm cho sự đau khổ như hiển hiện và Gracie không biết làm sao để cưỡng lại. Nhưng cô vẫn cố thử. "Cách này chỉ gây thảm họa", cô khẳng định. "Em sẽ không dự phần vào đâu."  "Chị h… hiểu," Alexis nói và môi chị run rẩy.  "Tốt. Vì em sẽ không đi với chị đâu."     Khuya hôm đó, Gracie thấy mình theo sau chị, men theo một hàng rào cắt tỉa gọn gẽ nằm ở phía đông của một ngôi nhà cũ lớn, mà không phải là nhà ai khác, chính là biệt thự của họ Whitefield, nhà của nhiều thế hệ Whitefield giàu có và bây giờ là nơi ở của chính Riley. "Đúng là điên quá mà," Gracie thì thầm với chị khi họ lom khom cách cái cửa sổ hậu của tòa nhà vài mét. "Em đã thôi theo dõi Riley khi em mười bốn tuổi. Em không thể tin rằng em đang làm như vậy một lần nữa."  "Em không theo dõi Riley, em theo dõi Zeke. Có một sự khác biệt lớn đó."  "Em không tin Riley sẽ nghĩ thế nếu bắt gặp chúng ta.”  “Vậy thì chúng ta sẽ không bị bắt gặp. Em có đem theo máy ảnh của em chứ?"  Gracie lấy cái máy chụp hình Polaroid yêu quí (loại in hình ra ngay sau khi chụp) cô đang kẹp dưới cánh tay đưa ra. Ánh đèn đường phản chiếu cái ống kính nhỏ bé của máy sáng lấp lánh. "Hãy sẵn sàng", Alexis nói. "Sau góc này là cửa sổ thư viện. Từ vị trí đó em có thể chụp được những bức ảnh rất rõ ràng."  "Sao chị không chụp đi?" Gracie hỏi, sự sợ hãi làm chân cô nặng như chì. "Vì chị cần phải ở đây để xem có con lăng loàn nào trốn ra từ cửa sau không." "Nếu Zeke ngoại tình, sao anh ấy không đi thuê phòng ở khách sạn chứ?" Gracie hỏi. "Sao anh ấy làm vậy được, chị quản lý chuyện chi tiêu trong nhà mà. Với lại lúc tụi chị còn cặp bồ, anh ấy cũng thường cho bạn mượn nhà để đưa bạn gái về chơi. Nói cho em hay, Riley cũng đang làm như vậy cho Zeke. Có ai mà họp hành tranh cử đến tận 2 giờ sáng chứ?" Lý lẽ nghe hợp lý 1 cách kỳ cục, Gracie thầm nghĩ khi cô rón rén đi ra bên hông tòa nhà, nhất là khi mình cố tình lờ đi thực tế là mình đang lẻn vào nhà riêng của người khác để chụp hình qua cửa sổ nhà họ. "Chúng ta thậm chí không biết là họ có đang ở trong thư viện không," Gracie trầm giọng nói. "Zeke nói rằng họ luôn họp ở đó. Nếu anh ấy thực sự đang họp tranh cử thì đó là nơi họ nên có mặt."  "Hay là em nhìn qua cửa sổ rồi nói lại cho chị nghe là em đã thấy gì nha?" Gracie hỏi.  "Chị cần bằng chứng."  Còn Gracie thì cần tránh xa thật xa nơi này. Nhưng cô nhận ra vẻ ương ngạnh của Alexis và thấy ái ngại. Dù cô có muốn quay lưng không giúp chị, cô cũng không thể. Tốt nhất là chụp đại tấm hình rồi đi về hơn là cứ lom khom ở đây mà tranh cãi. "Sẵn sàng," Gracie nói khi cô tiếp tục bước ra phía hông tòa nhà. Các bụi cây quanh tòa nhà đã dày hơn lúc mới được trồng. Chúng cào xước cánh tay để trần của cô và níu kéo quần áo cô. Tệ hơn nữa, cái cửa sổ thư viện cao hơn cô, có nghĩa là cô phải cầm máy để lên trên đầu, chĩa xuống, hướng vào trong thư viện để chụp mà không biết chắc là cái gì, hay ai đang ở đó. Số cô sẽ thật may khi có ai đó nhìn ra cửa sổ ngay lúc cô chĩa máy hình vô(!) "Chỉ phí công vô ích thôi," cô làu bàu khi vươn người đứng trên đầu ngón chân và nhấn cái nút màu đỏ. Một ánh sáng chói lóa lóe lên trong màn đêm. Gracie vội ngồi sụp xuống và thầm chửi thề. Đèn flash! Sao mà cô lại quên mất cái đèn flash cơ chứ? "Bởi vì tôi sử dụng máy ảnh để chụp ảnh bánh cưới, không phải để theo dõi người ta," cô lẩm bẩm trong khi gượng đứng lên và chạy về phía Alexis đậu xe. Không thấy bóng dáng của Alexis đâu hết, và Gracie cũng không biết cô đã chụp được gì. Nhưng chuyện đó không quan trọng. Cô chỉ muốn đi khỏi chỗ này trước khi- "Đứng yên!"  Khi mệnh lệnh hùng hồn đó được đi kèm với 1 cái gì cứng cứng giống như mũi súng chĩa vào giữa xương bả vai, Gracie liền làm theo mệnh lệnh. Cô đứng yên. "Ngươi định làm cái quái gì vậy? Nếu là ăn trộm thì ngươi là một tên trộm dở tệ. Hay là ngươi luôn thông báo sự có mặt của ngươi bằng đèn flash?"  "Biết thì đã chẳng làm." Gracie nói và hít một hơi thật sâu. "Tôi xin lỗi tôi đã làm anh giật mình. Tôi có thể giải thích." Vừa nói, cô vừa quay lại và khi cô quay lại, nhìn thấy người đàn ông cầm súng và anh thấy cô… Cả hai đều nhảy ngược trở lại. Trong khi Gracie ước mặt đất mở ra và nuốt chửng lấy cô, anh ta nhìn như bị gặp ma.  "Lạy Chúa lòng lành," Riley Whitefield thở ra. "Gracie Landon, là cô?"            Chương 2 Vì mặt đất tốn quá nhiều thời gian để nuốt lấy cô nên Gracie bắt đầu ước có một con khủng long ăn thịt người khổng lồ trỗi dậy từ trong mộ và nuốt trửng lấy cô. Hoặc người ngoài hành tinh. Cô bằng lòng để người ngoài hành tinh bắt cô vào tàu du hành của họ để cô khỏi phải đứng đây và nhìn thấy gương mặt tuyệt đẹp của Riley. Cô thậm chí sẽ chịu mấy cái xét nghiệm mà không than van gì.  Cô đã không gặp anh từ mùa hè cô lên mười bốn tuổi. Anh lúc đó đã được mười tám tuổi, cái tuổi vừa con nít, vừa người lớn đáng yêu và đầy ngượng ngập. Anh giờ đã trưởng thành, cao lớn và trông hấp dẫn, nguy hiểm hơn lúc trước.Tuy nhiên, ánh mắt sững sờ của anh làm cô muốn chết ngay tại chỗ.  "Tôi có thể giải thích," cô nói, rồi tự hỏi nếu cô thực sự có thể làm được điều đó. Có từ ngữ nào có thể thuyết phục anh là cô đã không còn là con nhỏ bám đuôi điên khùng vừa mới được thả ra khỏi viện tâm thần?  "Gracie Landon?" Anh lặp lại.  Cô nhận thấy anh đã hạ súng xuống để nó không chỉa trực tiếp vào cô. Vậy cũng được. "Chuyện không phải như anh nghĩ đâu," cô nói và bước lùi một bước. Có lẽ nó sẽ tốt hơn cho cả hai người họ nếu cô tan biến vào trong màn đêm. Và chị cô đâu rồi? Làm cái quái nào mà Alexis luôn biến mất khi có chuyện rắc rối xảy ra vậy. Lúc nào chị cũng để Gracie lãnh đủ.  "Cô không phải đang rình rập bên ngoài nhà của tôi để chụp ảnh sao?" Riley hỏi.  "Ừ thì có, tôi có làm thế, nhưng không phải vì anh. Không hẳn là thế." Mắt anh có màu của đêm giông bão. Ít nhất đó là cách cô mô tả chúng khi cô còn thiếu nữ.Cô đã viết hẳn 1 bài thơ hai-ku (thể thơ Nhật) dở òm về đôi mắt và miệng của anh. Cô đã tưởng tượng anh sẽ hôn cô thế nào khi cuối cùng anh cũng đã giác ngộ và nhận ra được họ thuộc về nhau. Thậm chí cô còn làm thơ và gửi đến cho các bạn gái của anh - sau khi anh đã bỏ họ - để chia buồn cùng họ.  Phải rồi Jenny ạ, Chỉ mình tôi hiểu được Phút giây thần tiên ấy Khi anh nắm tay bạn Gracie đặt tay lên bụng khi cảm thấy nó bắt đầu cồn cào, nhộn nhạo.  Bình thường cô chẳng nhớ nổi cô đã để chìa khóa xe ở đâu, sao giờ cô lại có thể nhớ ra được mấy câu trong cái bài thơ dở òm cô đã làm từ đời thuở nào? "Chắc là mình bị trục trặc gì nặng lắm rồi," cô lẩm bẩm. "Tôi đồng ý,” Riley nói.  Cô nheo mắt nhìn anh. " Anh chẳng giúp được gì cả. Anh biết điều đó không? Tôi biết chuyện trông có vẻ tồi tệ, nhưng có tin mới nè. Tôi đến đây không phải vì anh. Anh rể tôi, Zeke lẽ ra tối nay phải ở đây với anh để giúp anh chuyện vận động tranh cử chức thị trưởng. Chuyện là vậy đó." Cô vẫy vẫy cái máy ảnh trước mặt anh.  Anh cau mày. " Cô có gì đó với anh rể của cô à?"  "Cái gì?" Cô la lên. " Không! Ghê quá! Tất nhiên là không rồi. Chị tôi, Alexis, nhờ tôi -", cô bặm môi lại và quay đi, hướng về phía xe chị cô đã đậu - mong là Alexis đã không lái xe chạy mất sau khi đã lén lút bỏ đi. "Thôi bỏ qua đi." "Đừng có vội thế ", Riley nói và chụp lấy tay cô."Cô không thể xuất hiện như thế này, chụp ảnh, rồi bỏ đi. Làm sao tôi biết cô đã không gài bom vào xe của tôi?"  Gracie giật tay lại rồi hiên ngang ưỡn ngực ra trước khi quay lại đối mặt với anh. "Tôi chưa từng cố ý làm hại anh." Cô nói với vẻ bình tĩnh hết sức trong khi điều cô muốn làm là hét lên và chạy biến vào trong màn đêm. Thật là không công bằng mà. "Khi tôi còn thương thầm anh, tôi chỉ cố ngăn cản anh đi hẹn hò với bạn gái của anh thôi, chứ tôi chưa thực sự làm tổn thương bất cứ ai."  “Cô đã nằm lăn ra ngay trước xe của tôi và xin tôi cán qua người cô."  Mặt cô bừng bừng lên. Sao mọi người không thể để quá khứ ngủ yên? Sao tất cả các chuyện đáng xấu hổ của cô phải bị mổ xẻ nơi công cộng chứ?  "Như thế sẽ làm tôi đau, chứ không phải anh." Cô hít một hơi thật sâu. Tư tưởng hòa bình, cô tự nhắc mình. Và thuốc kháng axit (để trung hòa dịch vị bao tử). Đó là tất cả những gì cô cần. "Tôi xin lỗi đã làm phiền anh. Tôi xin lỗi đã để chị tôi thuyết phục tôi đến đây. Tôi biết đó không phải là ý kiến hay. Chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Dù vấn đề của chị ấy với Zeke là gì đi nữa, tôi cũng sẽ không dính líu vô. Không bao giờ nữa." Anh nheo mắt lại. "Zeke có chuyện gì?" "Đó là chuyện riêng tư."  "Thôi nào, cô nương, từ lúc cô bắt đầu chụp ảnh qua cửa sổ nhà tôi thì nó đã thành chuyện của tôi rồi." Anh ấy cũng có lý. Không nhiều nhưng cũng vẫn có... "Gần đây Zeke xử sự hơi kỳ lạ - về nhà trễ, không chịu nói chuyện. Anh ta nói anh ta bận rộn suốt với chiến dịch tranh cử của anh nhưng Alexis nghĩ anh ta đang ngoại tình." Riley chửi thề và lại chụp lấy tay cô. "Đủ rồi. Đi nào." "Thả tôi ra." Anh không thả tay cô ra mà bắt đầu bước đi, lôi cô theo cùng. "Chúng ta đi đâu vậy?" cô hỏi. "Vào nhà. Chúng ta cần nói chuyện. Nếu người tổ chức cuộc vận động tranh cử của tôi đang dối gạt vợ anh ta thì tôi cần được biết." "Tôi không nghĩ anh ta đang ngoại tình. Anh ta có vẻ không thuộc loại người đó. Tối nay cuộc họp của hai người kết thúc lúc nào?" Riley ngừng lại ngay trước hiên nhà. Ánh sáng từ ngọn đèn lớn trên cửa chính phản chiếu các nét hoàn hảo của gương mặt anh - đôi mắt sẫm, đôi gò má cao, và đôi môi có thể khiến một người phụ nữ bình thường luôn tỉnh táo lại khao khát làm một điều gì đó thật hư đốn. Anh vẫn đeo bông tai, nhưng chiếc khuyên bằng vàng mà cô nhớ rất kỹ nay đã được thay thế bằng 1 hạt kim cương. "Chúng tôi không có họp", anh nói thẳng. "Tôi đã không thấy Zeke ba ngày nay rồi."  Cơn nhộn nhạo trong bụng trở nên trầm trọng hơn. Gracie giằng tay khỏi tay của Riley và xoa xoa bụng. "Không hay rồi." "Tôi cũng nghĩ như thế. Vậy cô nên vô nhà đi, tôi muốn cô kể từ đầu tất cả những gì cô biết về Zeke và chuyện ngoại tình của anh ta." "Có điều, tôi thậm chí không biết anh ta có phải đang ngoại tình không. Alexis có thể đã phản ứng quá mạnh." "Cô ấy hay như vậy lắm sao?” anh hỏi, tay giữ cánh cửa mở và ra hiệu cho cô bước vô. "Tôi không nghĩ vậy. Có thể lắm. Tôi sống ở Los Angeles. Tôi không thường ở cùng chị ấy." Cô bước vô nhà và đứng sững lại ngay tiền sảnh. Bên trong thật rộng, đã cũ nhưng đẹp tuyệt với trần nhà thật cao và chạm trổ điêu luyện, nội thất và các vật trang trí cùng các tác phẩm nghệ thuật bên trong đủ để chương trình Antique Roadshow dành riêng 1 tháng phát sóng cho chúng (đây là 1 chương trình chuyên định giá (trị) của đồ cổ). "Chà, tuyệt quá," Gracie vừa nói vừa nhẹ xoay người vòng vòng. "Cả căn nhà của tôi để trong tiền sảnh này cũng vừa." "Ừ, nó rộng thật. Thư viện bên này." Một lần nữa anh lại túm tay cô lôi đi. Cô nhìn thoáng thấy phòng ăn và một phòng giải trí hay phòng khách trước khi bị anh kéo hẳn vào thư viện. Anh thả tay cô và bước đến khay rượu đặt ở bệ cửa sổ. Sau khi để cây súng lên bàn, anh rót gì đó giống như rượu Scotch vào hai cái ly. Cô đặt cái máy hình xuống. "Để tôi nói cho rõ - á, đau quá," cô vừa nói vừa xoa xoa cánh tay cô. "Hồi trước anh đâu có thô bạo với phụ nữ." Anh trừng mắt với cô rồi đưa cô li rượu. "Tôi không tin cô." "Chuyện cách đây 14 năm rồi, Riley à. Anh cần phải để quá khứ ngủ yên đi." "Tôi đã vui vẻ làm thế cho đến khi cô lại xuất hiện ở đây. Cô đã làm khổ tôi suốt 2 năm trời. Họ đã viết về chuyện đó trên báo. Họ gọi nó là "Truyền thuyết Gracie". Sự bối rối làm cô muốn ngọ nguậy. "Ừ, à, vụ đó không phải lỗi của tôi. Sao chúng ta không nói chuyện khác thích hợp hơn? Như chuyện của Zeke vậy." "Tại sao Alexis nghĩ anh ta đang ngoại tình?" Gracie nhún vai. "Anh ta hay về trễ, và không chịu nói là đã đi đâu." "Chuyện diễn ra bao lâu rồi?" "Khoảng 6 tuần. Lúc đầu Alexis nghĩ anh ta thực sự bận rộn với cuộc vận động tranh cử, nhưng anh ta ngày càng về trễ và không chịu nói là có chuyện gì đang diễn ra..." Cô ngừng lại, liếc anh. "Sao anh lại tranh chức thị trưởng? Tôi thấy anh đâu giống người thích chính trị." Riley phớt lờ câu hỏi và chỉ vào ly rượu của cô. "Cô muốn đồ uống khác không?" Gracie ngửi ngửi cái ly rồi đặt nó trở lại bàn. "Không, nó cũng được. Có điều stress làm dạ dày tôi khó chịu." Cô rút cái gì giống như 1 cây kẹo thuốc kháng axit ra và bỏ vài viên vào miệng. "Phòng này tuyệt quá." Riley dõi theo ánh mắt cô khi cô ngước nhìn dãy kệ sách cao vời vợi chứa đầy sách. Anh không buồn nói cho cô biết là trong tòa nhà này, thư viện là 1 trong vài nơi anh cảm thấy thoải mái khi ở đó. "Nói cho tôi nghe về Zeke," anh nói. "Anh nói cho tôi nghe." Cô bước đến bộ so-fa bằng da đối diện 1 lò sưởi trang nhã và ngồi ịch xuống. "Anh ta là người lo vận động tranh cử cho anh. Anh ta có phải đang ngoại tình không?" "Làm quái nào tôi biết được." Riley bước đến cạnh cái bàn làm việc và tựa vào đó. "Lúc nào anh ta cũng nhắc đến Alexis. Tôi nghĩ anh ta yêu cô ấy lắm." "Nhưng mấy cuộc họp của anh không kéo dài đến 3 giờ sáng chứ." Anh mỉm cười. "Tôi tranh chức thị trưởng, có phải chức tổng thống đâu." "Ừ, tôi cũng nghĩ thế. Chà, tôi nghĩ tôi phải nói với Alexis là Zeke không có ở đây. Chị ấy sẽ không muốn thế đâu." Riley cũng không muốn như thế. Còn 5 tuần nữa là đến ngày bỏ phiếu rồi, anh không thể để có bất kỳ rắc rối gì, nhất là khi anh đang bắt đầu được lòng các cư dân lương thiện ở thị trấn Los Lobos này. Anh đặt ly của mình xuống và giật tấm hình đang kẹp lơ lửng ở máy ảnh ra. Sau khi lột bỏ lớp bảo vệ, anh nhìn chằm chằm vào bức ảnh.  Ngoài cái trần thư viện và vài kệ sách, nó chẳng có gì khác. "Cô không giỏi vụ này lắm," anh nói. Cô đảo tròn mắt. "Tôi chẳng thèm. Dù anh nghĩ gì về tôi đi nữa thì tôi không lớn lên để thành thám tử hay kẻ chuyên bám đuôi. Tôi kiếm sống bằng nghề trang trí bánh cưới." Cô có vẻ hơi bực bội, tự ái và cả xấu hổ nữa. Mặt cô ửng hồng lên và môi cô hơi run run. Cô đã trưởng thành, trổ dáng, nhưng các nét cơ bản thì vẫn thế. Vẫn đôi mắt xanh to tròn, vẫn mái tóc dài vàng óng và vẻ cương quyết đã từng làm anh vãi hồn khi xưa. "Tôi xin lỗi. Cho chuyện này và tất cả các chuyện kia. Anh biết mà. Trước đây." "Có phải chúng ta đang nói đến chuyện bột ngứa được bỏ vào trong quần lót của tôi không?" "Ừ, thì, tôi nghĩ vậy. Chỉ là..." Cô hơi chồm người tới trước và đưa tay vẽ vòng vo trên mặt cái bàn đặt cạnh bộ so-fa. "Nhìn lại thì tôi không ngờ tôi đã làm như vậy với anh. Thật kinh khủng." "Dân quanh đây vẫn còn nói về chuyện đó."  Cô ngồi thẳng dậy và nhìn anh. "Anh còn nói. Ai cũng có thể bỏ quá khứ của họ lại sau lưng, nhưng tôi thì không được. Khônnngggg. Tôi trở thành huyền thoại. Và phải nói chứ, chuyện đó thật vớ vẩn." Anh nghĩ về liều thuốc xổ cô đã xoay sở lén bỏ vô chén canh của anh buổi trưa trước ngày lễ tốt nghiệp. "Cô rất là sáng tạo." "Tôi là một hiểm họa. Lúc đó tôi chỉ muốn..." Mặt cô lại hồng lên. "Ừ thì, cả hai chúng ta đều biết lúc đó tôi đã muốn gì." "Bây giờ có hay hẹn hò không?" "Vài lần, nhưng tôi cẩn thận không đưa họ về đây." "Cô không muốn họ nghe chuyện cô đã dụ 1 con chồn hôi vào xe của tôi, rồi nhốt nó trong đó vài giờ chứ gì?" Cô nhăn nhó. "Tôi đã chịu chi phí rửa xe rồi." "Xe của tôi không bao giờ được như cũ. Tôi đã phải bán nó. Ở 1 cuộc đấu giá." Anh nâng ly lên. "Cô đã rất cương quyết phá vỡ chuyện tôi với Pam. Bằng vào chuyện đã xảy ra thì lẽ ra tôi nên nghe lời cô." Vẻ mặt tự đắc của Gracie khiến anh nghĩ cô sẽ đồng ý với nhận xét của anh nhưng thay vì có ý kiến về chuyện đó, cô lại hỏi. "Bây giờ cần làm gì?" "Tôi sẽ tìm hiểu xem Zeke đang tính chuyện gì. Lúc này tôi không muốn có rắc rối gì. Cô có thể khuyên chị cô rút lui, chờ tôi có thông tin chắc chắn được không?" Khi thấy Gracie ngại ngần, anh trừng mắt với cô. "Cô nợ tôi." Anh nhắc nhở. Cô rùng mình. "Tôi biết. Được rồi - tôi sẽ làm hết sức với Alexis. Nhưng tôi không thể hứa là hoãn chị được hơn 2,3 ngày, vì chị ấy đã quyết rồi." "Và tất cả chúng ta đều biết chuyện gì xảy ra khi phụ nữ nhà Landon quyết làm một điều gì đó." "Chính xác." Cô đứng dậy và nhìn anh. "Tôi thành thật xin lỗi anh, Riley. Tôi biết câu xin lỗi này đã trễ 14 năm, nhưng nó là lời thật từ đáy lòng tôi. Tôi không bao giờ có ý định làm cuộc sống của anh khổ sở thế." "Tôi cảm kích điều đó." "Anh có muốn tôi để số điện thoại di động của tôi lại cho anh liên hệ với tôi về chuyện của Zeke hay anh muốn trực tiếp liên lạc với Alexis?" Giữa "quỷ sứ và ma vương" thì Riley chọn "quỷ sứ" mà anh biết. "Số của cô là được rồi." Anh đưa cho cô tập giấy, cô viết số lên rồi trả lại cho anh. "Máy ảnh của tôi?" cô nói. Anh đưa nó cho cô. Mời các bạn đón đọc Lỡ Yêu Gracie (Falling for Gracie) của tác giả Susan Mallery.
Cô Dâu Nhà Marcelli
Darcy Jensen - con gái thứ hai của tổng thống Hoa Kì đương nhiệm, với từ “thứ hai” viết đậm và gạch chân. Luôn luôn đứng sau người chị gái được cho là hoàn hảo cho vai trò con gái của một vị tổng thống độc thân, Darcy phải đấu tranh với dư luận báo chí và với chính bản thân mình để có một cuộc sống của riêng mình. Sau khi trở thành nạn nhân “nhầm” trong một vụ bắt cóc nhắm vào con gái tổng thống, Darcy được đưa đến vườn nho nhà Marcelli để tạm thời lánh nạn. Và tại đây, giữa một gia đình bất thường nhất trong những gia đình một cô con gái có thể hình dùng ra và giữa bạt ngàn những luống nho trải dài tít tắp đang trong mùa thu hoạch, Darcy đã tìm ra nơi cô thuộc về. Joe Marcelli - một trong những chiến lược gia xuất sắc nhất của lực lượng tinh nhuệ SEAL thuộc Hải Quân Hoa Kì, người con trai cả đã thất lạc từ khi lọt lòng của gia đình có bốn cô con gái Marcelli. Sau ba mươi năm chỉ biết đến hai gia đình là cha mẹ nuôi và lực lượng SEAL, bị cả đại gia đình Marcelli bủa vây với một ước muốn duy nhất - được yêu thương anh và được anh chấp nhận họ như gia đình mình. Tạm thời trong thời gian bãi nhiệm vì một lý do “trời ơi đất hỡi”, Joe bị điều đến chính vườn nho nhà Marcelli - phần thừa kế anh luôn từ chối - để “hợp tác” trong nhiệm vụ bảo vệ con gái tổng thống. Tại đây, anh tiếp tục cuộc đấu tranh ngoan cường suốt 3 năm nay để từ chối “vòng tay” của chính ông bà, cha mẹ và những cô em gái của mình, để rồi cuối cùng nhận ra, dòng máu Marcelli đang chảy trong anh cũng mang hương vị rượu nho như tất cả những thành viên khác trong gia đình. Đây là cuốn thứ 4 trong serie nhà Marcelli. Chắn hẳn các bạn đều đã quen thuộc với serie này. Cuốn này không hài hước như “The Sparkling One”, không nóng bỏng như “The Seductive One” nhưng theo ý kiến riêng của mình lại là cuốn hay nhât và sâu sắc nhất trong cả serie. Đọc cuốn này bạn sẽ cười, rồi khóc, sẽ thả mình trôi theo câu chuyện tình lãng mạn của các nhân vật, lại cũng có thể khắc khoải theo dõi cuộc chiến tâm lý của họ. Một cuốn sách hay và là quà Tết muộn mình muốn gửi tặng các bạn. - Xrainee (TVE) *** Nếu Darcy Jensen biết trước mình sắp bị bắt cóc, cô đã chọn đi một đôi giày tốt hơn. Hay ít nhất một đôi giày tiện dụng hơn. Trên thực tế cô mang một đôi dép xăng đan có dây buộc, loại không hề phù hợp ngay cả cho việc đi bộ, chứ đừng nói gì đến để bị kéo ngang qua bãi đỗ xe và ném lên phía sau một chiếc xe tải chở hàng nhỏ. Cô đã cố hết sức chống cự. La hét hoàn toàn không được cân nhắc đến bởi chúng đã bịt miệng cô. Và vụ chống cự cũng thật thảm hại, với đôi tay bị trói sau lưng, tuy rằng cô cũng đã để lại cho một tên một vết cào ra trò trên đầu. Ngay cả khi đã bị quăng một cách thô bạo lên sàn sau bằng kim loại của chiếc xe tải, cô vẫn tự hỏi bằng cách nào chuyện này lại xảy ra. Cô đang ở trong cửa tiệm Ann Taylor thử bộ sưu tập quần áo mới cho mùa thu. Cô đã bảo Drew cô cần sử dụng nhà vệ sinh. Đi cùng hai nhân viên Mật Vụ có nghĩa là rất hiếm khi sử dụng nhà vệ sinh công cộng. Drew đã hỏi người quản lý cửa hàng, người đã rất vui sướng được để con gái Tổng thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kì giải quyết nhu cầu trong nhà vệ sinh riêng của bà. Darcy đã xong việc, rửa tay - không phải chỉ bởi vì cô luôn làm thế, mà còn bởi mọi người thường để ý đến những việc như thế này một khi bạn ở trước con mắt công chúng - và đang bắt đầu đi qua nhà kho để trở lại phòng thử đồ, nơi có một núi quần áo đang chờ cô. Đó là khi chúng tấn công cô. Bốn tên đàn ông trong những chiếc mặt nạ kiểu Halloween tóm lấy cô. Trước khi cô nhận biết được điều gì đang diễn ra, cô đã bị chúng dán băng keo bịt miệng. Tiếp theo là vụ trói tay, rồi đến vụ bị lôi đi. Một trong số chúng thậm chí còn nhớ nhặt theo chiếc túi của mình, cô nghĩ dứt khoát trong khi nhìn trừng trừng chiếc túi xách hiệu Maxx mua ở QVC giờ đang nằm cạnh cô trên sàn xe trong tình trạng rách te tua. Cửa sau đóng sập lại, và chiếc xe tăng tốc rời khỏi bãi đỗ. Darcy cố gắng hết sức để giữ mình yên vị trên sàn xe gồ ghề khi chiếc xe xóc nảy, chuệnh choạng, rồi rẽ vào nơi có vẻ như là đường cao tốc. Hai trong số những tên bắt cóc chiếm giữ hai ghế trước - cô có thể nhìn thấy chúng qua mắt lưới - trong khi hai tên khắc chắc phải có phương tiện di chuyển riêng. Cô chỉ có một mình trong thùng sau xe. Một mình với chiếc túi của cô. Không có chiếc cửa sổ nào xung quanh, không cách nào để gây sự chú ý của bất kì ai. Và không ai nhìn thấy cô với tới chiếc nút báo động sẽ gửi tín hiệu cho đội Mật Vụ và nhanh chóng mang họ đến để giải cứu cô. Cô nhích dần đến chỗ chiếc túi, chỉ vừa đúng lúc chiếc xe rẽ qua một khúc quanh, khiến chiếc túi trượt khỏi tầm với. Thêm hai cú trườn nữa trên sàn kim loại bẩn thỉu và chiếc túi đã lại ở trong tầm tay cô, ngoại trừ việc cả hai tay cô đều bị trói quặt ra sau lưng. Liệu cô có thể mở khóa bằng răng không nhỉ? Có lẽ là không với miếng băng bịt miệng. Darcy đã cố hết sức để suy trì sự tập trung trong khoảng thời gian ấy. Nếu cô chỉ chú tâm vào hiện tại, nỗi kinh hoàng cũng không hẳn là quá tệ. Cô vẫn có thể hoạt động được. Nhưng nếu cô để mình nghĩ đến những gì chúng có thể làm với cô, khi giờ đây sách lược chính trị quốc gia là không đàm phán với bọn khủng bố, thì nỗi sợ hãi sẽ nổ tung trong cô, khiến cô muốn gào thét và van xin, bất chấp miếng băng dính trên miệng. Không! Cô sẽ không hạ mình đến mức đó. Cô sẽ không chịu thua. Cô mạnh mẽ và quyết tâm, và thề có Chúa, cô sẽ chạm tới chiếc nút báo động và ấn cho đến khi hàng tá những đặc vụ mang vũ khí ào vào xuyên qua thành cái xe. Cô không có nhiều lựa chọn. Drew đã làm việc bên cạnh cô đủ lâu để biết cái phần “mặc thử” trong hành trình mua sắm có thể kéo dài hàng tiếng đồng hồ, có nghĩa là anh ta sẽ không nhận thấy cô đã mất tích cho đến khi chiếc xe tải có đủ thời gian để đi qua vài tiểu bang. Phải chi thời tiết đừng quá nóng, cô nghĩ khi cố gắng giải quyết cái khóa kéo. Tháng tám ở D.C duy trì một nền nhiệt độ như trong lò luyện kim cộng thêm với độ ẩm không khí cao ngất ngưởng. Phía trước chiếc xe tải có thể có điều hòa nhiệt độ, nhưng ở căn nhà tù phía sau này thì lấy đâu ra vận may ấy. Cô lờ đi cái nòng, mồ hôi, những vết trầy xước và bầm dập, và cúi gập người trên chiếc túi. Thêm vài lần rẽ nữa, vài lần tăng tốc và ba lần thất bại, Darcy đã khám phá ra rằng cô không thể mở cái khóa kéo chết dẫm bằng răng được. Chỉ còn cách là đẩy cái túi vào một góc, quay lưng lại và cố gắng mở theo cách đó.   Mời các bạn đón đọc Cô Dâu Nhà Marcelli (The Marcelli Bride) của tác giả Susan Mallery.
Quyến Rũ
Mười năm trước, đối với Brenna Marcelli, gia đình, nghề làm rượu vang, và một người con trai là tất cả thế giới của cô. Sau gần mười năm xa cách và một cuộc hôn nhân thất bại, Brenna quay trở về điền trang Marcelli để sống cùng ông bà và cha mẹ mình. Giữa một loạt những biến cố và sự kiện mới của gia đình - một đám cưới đôi của chị và em gái cô, sự xuất hiện của một người anh trai lưu lạc từ lúc mới chào đời, những ám ảnh về một mối hận thù truyền đời giữa gia đình cô và nhà hàng xóm Giovanni - Brenna quyết định sẽ gây dựng một xưởng rượu mới cho riêng mình. Và cô chỉ có một lựa chọn duy nhất để thực hiện được ước mơ của mình - đó là đi vay tiền Nic Giovanni, kẻ thù của gia đình, cũng là mối tình đầu của cô. Và cô nhận ra, quãng thời gian mười năm xa cách, những đổi thay và thất bại trong cuộc sống, tất cả không thể làm thay đổi được tình yêu của cô dành cho rượu vang, cho đám nho, và hơn thế nữa, cho một con người... Là tác phẩm thứ ba trong serie năm cuốn về năm anh chị em nhà Marcelli của Susan Mallery, The Seductive One có tất cả những yếu tố của một cuốn Romance nhẹ nhàng mà mi_do_ri yêu thích: một gia đình đông vui, đầm ấm, một nghề làm rượu vang gia truyền đầy hấp dẫn, một mối tình đầu nóng bỏng, mê say, một chút thù hận và trả thù cho hợp với chất Ý... Mình không giỏi viết giới thiệu và tóm tắt, chỉ biết nói đây là tác phẩm mình thích nhất trong serie này và muốn được chia sẻ với mọi người. *** Vay một triệu dollar của quỷ xứ là một chuyện, kháng cự lại được với hắn khi làm điều đó lại là một chuyện khác. Brenna Marcelli tự cho mình cũng thông minh trên mức trung bình. Với một tương lai còn đang mù mịt, cô sẽ chẳng thể làm gì được ngoài việc cố tỏ ra hoàn toàn dễ thương trong suốt cuộc đối thoại sắp tới với Nicholas Giovanni. Cô sẽ tự tin, sẽ đầy thuyết phục, thậm chí là lôi cuốn nữa. Cô sẽ không nổi nóng, cầu xin, hay nghĩ đến sex. Đặc biệt là sex. Dù cho nó đã từng tuyệt đến thế nào đi nữa. Nhưng nó đã rất tuyệt, cô nghĩ, khi sải bước dọc theo chiều dài sảnh đợi khu văn phòng của Wild Sea Vineyards. Còn hơn cả tuyệt nữa. Một lần, họ đã làm chuyện đó trên bãi biển, và cũng đêm đó, chương trình tin tức đã đưa tin về một cơn trều cường cao bất ngờ. Brenna vẫn luôn thắc mắc liệu cô với Nic có một phần trách nhiệm trong hiện tượng đó hay không. “Quá khứ,” cô nói thầm, ép chặt tập hồ sơ trước ngực. “Một quá khứ cổ xưa rồi. Còn bây giờ là một thập kỷ mới – thậm chí là một thế kỷ mới. Mình có khả năng. Mình độc lập. Mình đang thực sự khó chịu vì anh ta đã để cho mình phải chờ đợi.” Cô quay lại và nhìn về phía cánh cửa đang đóng dẫn đến văn phòng riêng của Nic. Khi cô trợ lý của anh yêu cầu cô đợi và hứa là ông chủ sẽ gặp cô ngay thôi, Brenna đã tin tưởng cô ta. Giờ, gần mười phút trôi qua, cô trợ lý đã biến mất và vẫn không thấy bóng dáng Nic đâu. “Chỉ là một trò cân não thử sức thôi,” cô tự nhủ, hít một hơi thở dài lấy lại bình tĩnh. “Mình sẽ không bỏ cuộc đâu. Anh ta có thể khiến mình đợi lâu đến chừng nào anh ta muốn.” Ngoại trừ là bụng cô đang quặn lại, cô thấy thực sự hối tiếc vì đã cố cái cốc cà phê thứ năm đó, và cô có một cảm giác xấu là nếu cô ngừng đi lại quá lâu, hai đầu gối cô sẽ run rẩy mất. Đó không hẳn là bức chân dung về một con người chuyên nghiệp tự tin mà cô đang muốn phác họa ra. Cô thực sự cần – Cánh cửa văn phòng bật mở và chính con quỷ bước ra. Thôi được, có lẽ gọi Nic là quỷ là hơi quá, nhưng anh trông kín bưng, nguy hiểm, và đến mức này rồi thì cô sẽ bán cả linh hồn mình cho anh để có được cái cô muốn. Một đóa hồng được gọi trại đi bằng một cái tên khác, hay gì cũng được. “Brenna.” Nic mỉm cười gọi tên cô. Cứ như thể họ vẫn gặp nhau thường ngày. “Thật vui được gặp em.” Giá như là thế, cô nghĩ. Cô đã không đặt chân đến nhà Giovanni mười năm rồi. Và vì một lý do chính đáng. “Xin chào, Nic.” Anh ra hiệu về phía văn phòng của mình và cô bước vào chốn riêng tư ấy. Căn phòng không thay đổi nhiều so với lần cuối cùng cô nhìn thấy nó. Vẫn rộng lớn, vẫn bị thống trị bởi một cái bàn có từ thế kỷ thứ mười tám. Cái máy tính là mới, cũng như người chủ của nó. Mười năm trước, ông nội của Nic là người làm chủ chốn này. Từ đây, ông điều hành toàn bộ công chuyện làm ăn của Wild Sea Vineyards. Giờ, người già đã ra đi và Nic là người tiếp nối. Tiếp nối và bành trướng, cô nghĩ khi đứng trước tấm bản đồ treo trên tường đối diện với cái bàn bề thế. Cô quan sát những khu vực được bôi đậm, thể hiện chi tiết đất đai của nhà Giovanni, cho thấy họ đã mở rộng được đến cỡ nào trong bảy năm trở lại đây. Nic vẫn luôn muốn trở thành người lớn mạnh nhất và cừ nhất. Và không cần phải bàn cãi gì nữa, anh đã đạt được mục tiêu đó. Tất nhiên, tập trung vào tấm bản đồ cho phép cô không nghĩ đến cái bàn chết tiệt sau lưng. Thật không may, rồi cô sẽ phải quay lại và nhìn nó. Sẽ không tệ đến thế đâu nếu cô và Nic chưa từng, ừ, làm chuyện đó trên cái bàn ấy. Đó là một ngày chủ nhật, khoảng ba giờ sáng. Màn đêm yên tĩnh, lạnh và lãng mạn lạ thường. Tất nhiên, đó là hồi cô mười bảy tuổi và đang yêu, đang ở cái thời khắc mà dù có làm việc đáng chán nhất trần đời là ngồi chờ đợi một vệt màu nước khô đi, cũng vẫn thấy lẵng mạn như thường. “Xin hoan nghênh em ngồi xuống đấy,” anh nói, một chút thích thú trong giọng anh. Chắc chắn rồi, cô nghĩ, hất thẳng vai và quay lại đối mặt với quá khứ của mình. Nic làm việc ở đây hàng ngày. Anh hiển nhiên là đã quên những gì xảy ra trên cái khối gỗ đó. Nhưng cô thì không. Cô đi về phía một chiếc ghế tựa quá khổ và buông mình xuống lớp da êm ái. Nic đi vòng qua chiếc bàn của mình và ngồi đối mặt với cô. “Anh đã ngạc nhiên khi biết em hẹn gặp anh đấy,” anh nói một cách dễ dàng. “Anh hy vọng là mọi chuyện vẫn ổn với gia đình em.” “Mọi người khỏe cả. Thực sự là, tuyệt vời ý. Francesca đã đính hôn rồi.” Còn hơn cả đính hôn nữa, nhưng chuyện đó phải dành để lần khác kể thôi. “Ông nội em chắc hạnh phúc lắm.” Cô gật đầu và nhận thấy tia nhìn của mình đang chiếu lên gương mặt anh. Những đường nét mạnh mẽ, cô nghĩ, chợt nhớ đến người con trai ngày xưa khi cô quan sát người đàn ông trước mặt. Anh vẫn luôn có những nét mạnh mẽ. Đôi mắt hút hồn, cái mũi thẳng, cái cằm cương nghị, và thậm chí là ương bướng nữa, và cái miệng đã từng hôn cô khiến cô quên cả thời gian. Tiết trời tháng tám ấm, nhưng anh vẫn mặc một cái áo sơ mi dài tay màu đen, một cái quần tối màu. Không phải là quần jeans và áo T-shirt như cô vẫn từng quen nhìn. “Anh ăn mặc trang trọng quá,” cô nói.       “Vì cuộc gặp mặt của chúng ta đấy.” Anh mỉm cười, một nụ cười chậm rãi, lôi cuốn, khiến cô nhớ đến những nụ cười khác. Như nụ cười anh đã từng dùng để thuyết phục cô, rằng sẽ thực sự rất ổn khi làm tình vào buổi đêm trên cánh đồng nho. Đó là lần đầu tiên của họ, và cô đã mất đi sự trong trắng của mình giữa hợp âm của đàn dế và – Ngừng lại ngay lập tức, cô tự bảo mình. Chìm vào dòng hồi ức đó sẽ chỉ khiến cô dấn sâu thêm vào rắc rối thôi. Cô ở đây với một nhiệm vụ không liên quan chút gì đến những nụ cười lôi cuốn đó, hay là cái hơi nóng của ngọn lửa đang cháy dần xuống phía bụng dưới của cô. Cô bắt mình thả lỏng trên cái ghế da. Cô cẩn thận bắt chéo chân, và cố biểu lộ một vẻ thích thú vừa phải, uể oải vừa vừa. Ai mà biết được, biết đâu nó lại hiệu quả. “Tất cả chuyện ăn mặc rắc rối đó là vì em à? Em không nghĩ vậy đâu.’ Anh cười lục khục. “Được rồi. Cuối giờ chiều nay anh có một cuộc gặp với mấy nhà phân phối nước ngoài. Anh nghĩ là mặc đồ jeans sẽ khiến họ rút lui mất.” Không đâu, nếu họ là phụ nữ, Brenna nghĩ, trước khi cô kịp ngăn mình lại. “Vậy là bọn anh lại đang mở rộng tiếp,” thay vì vậy, cô nói. “Luôn luôn. Trở thành kẻ lớn mạnh nhất và cừ nhất.” “Anh thực sự đã thắng lợi về mặt số lượng rồi đấy.” “Không phải người ta vẫn nói vấn đề về kích cỡ đấy sao?” “Chỉ những ai không biết tận dụng những gì mình đang có thôi.” Một chớp mắt trước khi quá muộn, cô chợt nhớ đến lời thề của mình về chuyện sẽ không tranh cãi với anh. “Xin lỗi,” cô lẩm bẩm. Anh nhướng mày. “Vì đã không đồng ý với anh à? Lần đầu tiên đấy. Giờ thì thậm chí anh thấy tò mò rồi đây.” Anh toét miệng cười và ngả người về phía trước. “Được rồi, Brenna. Em đang ở đây, em diện một bộ cánh, và em mang theo cái đám trông như một núi giấy tờ vậy. Sao em không nói cho anh biết đang có chuyện gì vậy?” Vậy là họ sẽ đi thẳng vào vấn đề. Cô hắng giọng và đặt tập hồ sơ lên bàn. Khoảnh khắc đó, não cô như đông lại, và mọi câu nói thông minh, logic, đầy giọng điệu tài chính cô đã luyện tập bay sạch khỏi đầu. “Em là một trong những người cừ nhất trong chuyện làm ăn,” cô bắt đầu, rồi lại ngập ngừng, tự hỏi không biết nói vậy nghe có tự cao quá không. Ít ra anh cũng không phá ra cười. “Anh sẽ phải thừa nhận là anh không muốn đối đầu cạnh tranh với em đâu.” anh thừa nhận. Lời khen ngợi khiến cô thêm tự tin và muốn cựa quậy trên ghế của mình.Cô tự hài lòng với bản thân bằng một nụ cười nhẹ. “Như nội em vẫn nói, ngoài nội ra, em là người duy nhất trong gia đình có đam mê với rượu vang. Em vẫn dành cả cuộc đời mình cho nó.” Anh định nói gì đó, nhưng cô nhanh chóng tiếp lời. Không đời nào cô để anh nhắc cô nhớ lại mười năm cô đã bỏ bẵng Marcelli Wines. Mười năm cô đã sống như một con ngốc. “Nội đã cho em phụ trách nhà máy rượu vang. Em biết cần phải làm những gì để có được thành công ở một cấp độ mới.” “Vậy là em đến đây không phải để xin việc.” “Không.” Cô mở tập hồ sơ. “Em đến đây để xin một khoản vay.” Nic thẳng người. “Tại sao? Gia đình em đâu có vấn đề gì về tiền bạc đâu.” “Marcelli Wines thì không có. Việc kinh doanh chưa bao giờ tốt đến thế. Nhưng em không phải là họ. Em làm việc cho nội. Công ty vẫn thuộc sở hữu của nội.” “Rồi em sẽ thừa kế nó mà.” Giá như là thế. Sự thật không nên vẫn cứ gây đau đớn thế này, nhưng nó vẫn thế. Nó khiến cô đau đớn rất nhiều. “Việc thừa kế của các chị em gái em và em không còn chắc chắn nữa rồi.” Cô ngừng lời, biết rằng giữ bí mật cũng chẳng để làm gì. Rồi cuối cùng anh cũng biết chuyện thôi. “Có vẻ như bố mẹ em đã có một đứa con riêng, như bố mẹ nói thế. Một đứa con trai. Khi đó cả hai vẫn còn đang học trung học. Vì áp lực của gia đình, họ đã cho đứa trẻ làm con nuôi.” Nic vẫn điềm tĩnh như mọi khi. Thay vì để lộ bất cứ chút cảm xúc nào trên gương mặt, anh dựa lưng vào ghế. “Chuyện này sẽ thay đổi mọi thứ,” anh thừa nhận. “Em biết được khi nào?” “Trong buổi Đại tiệc đêm mùng bốn tháng bảy của nhà em. Thực ra thì chỉ là một buổi tiệc có bắn pháo hoa thôi. Vấn đề là, đứa trẻ thất lạc nay đã là một người đàn ông ba mươi tuổi.” Hai gia đình Marcelli và Giovanni có thể không còn nói chuyện với nhau được gần ba thế hệ rồi, nhưng họ vẫn phát triển trên cùng một chuẩn giá trị truyền thống Italia. Thuyết bình đẳng nam nữ vẫn còn chưa đặt chân được đến lãnh địa những vườn nho của họ. Nic nhận ngay ra vấn đề. “Và ông nội em đủ lạc hậu để thấy thoải mái hơn khi để lại công việc làm ăn của gia đình cho một người thừa kế nam. Anh đoán là người anh thất lạc bấy lâu đó có hứng thú chứ?” “Nó là cả một đống tiền. Anh có thể không hứng thú được không?” cô hỏi lại với một sự vui vẻ nhẹ nhàng mà cô không nhận thấy. “Tất cả chuyện này khiến em chỉ còn là một mẩu nhỏ trong chuyện thừa kế.” Giờ đến phần khó khăn rồi đây. “Em biết việc làm rượu vang đã ăn sâu trong máu em. Em không muốn làm bất cứ cái gì khác nữa trong suốt cuộc đời mình.” “Nếu suy nghĩ của em là đúng và anh trai em sẽ được thừa kế, thì sao anh ấy lại không để em tiếp tục điều hành mọi việc?” “Anh ấy có thể làm thế, nhưng em không sẵn sàng chỉ đứng một bên để đợi chờ và quan sát. Em cũng có những ý tưởng và kế hoạch riêng của mình nữa. Em muốn gây dựng một nhãn hiệu mới của riêng mình.” Anh chỉ vào chồng hồ sơ trước mặt cô. “Kế hoạch đề xuất của em đây à?” Cô gật đầu. “Em đã liệt kê chi tiết tất cả. Loại nho nào em muốn mua, mức giá nguyên liệu, các thùng đựng rượu, kho chứa. Còn có cả một mảnh đất em đang quan tâm nữa.” “Gây dựng một nhãn hiệu mới tốn không ít tiền đâu.” “Em biết.” Cái nhìn kín bưng của anh chưa một lần rời gương mặt cô. “Em còn đi vay tiền ở những chỗ nào nữa?” “Bất cứ đâu có những kẻ cho vay nặng lãi.” Anh gật đầu. “Để anh đoán nhé. Họ muốn biết tại sao em không thể lấy tiền từ ông nội em.” “Kiểu thế. Họ còn bận tâm là sao em không có bất kỳ bảo đảm nào. Em đã giải thích rượu vang chính là bảo đảm rồi, nhưng có vẻ chả gây được ấn tượng gì cho họ cả.” Cô nhún vai. “Anh là một người ưa mạo hiểm, nhưng chỉ với những món hời. Và em chắc chắn rồi, chính là cái mà anh đang tìm kiếm đấy.” Anh nhướng mày. “Thật không?” Brenna có thể hớn hở mà ném mình vào một chiếc xe tải đang lao tới. Cô có thể cảm thấy mặt mình đang nóng bừng lên, nhưng nhờ làn da oliu, nét ửng đỏ ấy không lộ ra. Chỉ là một sự an ủi nho nhỏ, nhưng cũng đủ để cô bám vào, như đang níu chặt người sẽ giải cứu cả cuộc đời cô vậy. “Anh biết là em có thể làm được mà,” cô nói, làm như cô chưa hề bị anh bắt thóp là đang chơi chữ vậy. “Có thể,” anh nói. “Nhưng tại sao anh lại cần phải hỗ trợ cho đối thủ của mình chứ?” Lần đầu tiên kể từ lúc đặt chân đến đây, Brenna được thư giãn. “Ôi, làm ơn đi. Nếu may mắn, phải mất năm năm em mới có thể đạt được mười phần trăm những gì anh đang có. Em không nghĩ là anh sẽ lo ngại em ngáng đường làm ăn của anh đâu.” “Có vẻ hợp lý đấy. Thế tại sao em lại đến chỗ anh?” “Anh là người duy nhất em biết có dư tiền mặt.” “Bố mẹ em có thể giúp em.” “Rõ ràng là vậy. Nhưng em không muốn khiến bố mẹ phải lựa chọn giữa em và nội. Anh là người hoàn toàn trung lập.” “Anh là một người nhà Giovanni. Điều ấy không khiến anh trở thành anh em với quỷ dữ sao?” Thế, đúng là cái ý tưởng cô đã có lúc trước, chỉ có điều, trong mắt cô, mối quan hệ anh em đó có gần gũi hơn chút ít nữa. Đến chỗ Nic là hy vọng cuối cùng của cô, nhưng cũng là một sự mạo hiểm đã được cân nhắc kĩ. Mối thù giữa hai gia đình Marcelli và Givanni đã kéo dài hàng bao năm trời. Có thể nội cô sẽ biết chuyện về món nợ nếu cô đi vay từ những kênh truyền thống như ngân hàng, nhưng nội sẽ không bao giờ biết được nếu như Nic là người cho cô vay. Nội Lorenzo thà cắt lưỡi của mình còn hơn phải nói chuyện với một người nhà Giovanni. Brenna và các chị em của cô chưa bao giờ quan tâm đến mối thù truyền kiếp đó cả. Nic cũng chưa bao giờ, anh đã chứng mình như vậy từ lần đầu tiên cô gặp anh. Nhưng với ông bà của cô – sự thù địch đó vẫn còn nguyên. “Có chút ít mỉa mai trong cuộc nói chuyện này,” cô thừa nhận. “Em chỉ muốn nghĩ rằng nó sẽ hấp dẫn anh.” Anh quan sát cô. Brenna muốn biết anh đã thấy những gì, nhưng có lẽ anh không nhìn thấy gì cả lại tốt hơn. Cô vẫn còn đang trong giai đoạn phục hồi từ vụ cắt tóc bốc đồng thảm hại lần trước. Vài tháng ở nhà với sự chăm bẵm ăn uống của hai bà đã đắp thêm vào những đường cong vốn đã đầy đặn của cô bảy pound nữa. Cô nghĩ bộ cánh cô chọn mặc nhìn rất ổn, nhưng như vậy đã đủ chưa? Cô đã khác xa với cô nhóc mười bảy tuổi, người đã từng hứa sẽ yêu Nic bằng cả trái tim; nhưng vấn đề là, liệu anh có còn bận tâm đến sự thay đổi đó là tốt hay xấu nữa không? “Người ta vẫn đồn anh là một tên con hoang tàn nhẫn đấy,” anh nói bất chợt. “Em có nghe rồi. Em có nên sợ không?” “Nói anh nghe xem.” Cô có thể nhớ mọi thứ về Nic – cái cách anh chạm vào cô, cách anh hôn cô, mùi hương của làn da anh. Cô đã từng biết anh, người con trai ngày xưa, chứ không phải là người đàn ông này. Cái gì vẫn vậy và cái gì đã thay đổi? Mà chuyện đó liệu có quan trọng nữa không? Có là tên con hoang tàn nhẫn hay không, thì cô vẫn cần tiền của anh. “Giờ em không còn sợ hãi dễ dàng vậy đâu.” Cô đẩy tập hồ sơ về phía anh. “Anh thử xem xem rồi cho em biết anh nghĩ gì.” Anh đặt bàn tay lên cái bìa da nhưng không mở nó ra. “Bao nhiêu?” Trong bụng cô như đang xuất hiện cả đàn bướm và chúng đang bắt đầu bay. Cô nghĩ chúng có thể đang luyện tập màn hạ-cánh-và-tiếp-đất. Miệng cô khô khốc, ngón tay cô ướt đẫm, và cả căn phòng bỗng nhiên chao đảo. “Một triệu dollar.” Nic không có bất kỳ một phản ứng gì – ít nhất là vẻ bề ngoài. Anh không nheo mắt, vẫn ngồi yên trên ghế; anh thậm chí không cười. Nhưng bên trong, sự tò mò thích thú của anh đã biến thành một mối sửng sốt sâu sắc. Anh lôi ví từ túi quần sau và trỏ vào đám giấy bạc. “Em có muốn tất cả bằng đồng hai mươi dollar không?” “Em không phải đang ở vị thế được đòi hỏi. Tiền hai mươi dollar cũng ổn rồi.” “Anh không nghĩ hôm nay anh mang theo mình nhiều ngần ấy đâu.” "Bất tiện quá." Cô nhìn anh, đôi mắt đang mở lớn đã phản bội sự bối rối của cô. Cô đang cùng đường rồi, và cả hai người bọn họ đều biết vậy. Nếu anh từ chối cô, cô sẽ không thể có được khoản vay. Mọi giấc mơ về một nhãn hiệu của riêng cô vậy là sẽ tan tành. Ồ, chắc rồi, cô vẫn có thể mua được vài tấn nho ngoài chợ nông sản, đi mượn trang thiết bị, rồi làm ra vài tá thùng rượu vang rẻ tiền cất ở một gara nào đó. Cô có thể có được sự ủng hộ từ những người trung thành với Marcelli, một chút chú ý, có thể là một vài lời từ Hiệp hội rượu vang. Nhưng không có tiền, cô sẽ không bao giờ có cơ hội để làm một cái gì to tát cả. Không, khi anh có quan tâm quái gì đến chuyện đó đâu. Tất cả những gì anh quan tâm, là mục đích của anh. Làm sao cái yêu cầu của cô có thể ghép vừa vào bức tranh to lớn đó? Anh đứng lên, đi vòng qua bàn đến đứng trước mặt cô, anh tựa vào bàn, khoanh hai tay trước ngực. Đó là một tư thế đầy hăm dọa. Đầy thách thức. Brenna phản ứng lại bằng cách buông hai chân, rồi lại bắt chéo chân trở lại. Trong sự yên lặng của căn phòng, tiếng cọ sát của đôi tất lụa của cô như nghiến vào tai anh. Anh nhận thấy mình đang dõi theo chuyển động đó, nhìn chăm chăm vào đường viền trên váy cô, tưởng tượng ra cặp đùi cô phía dưới cái váy. Và phía trên cặp đùi cô? Là thiên đường. Ít nhất, đó là những gì cơ thể cô mang lại mười năm trước. Kín đáo, trơn mượt, bí mật – là con đường dẫn tới sự cứu thế. Để rồi thay vào đó, cô đã đưa anh thẳng xuống địa ngục. Vì cô, anh đã bị đuổi khỏi nhà. Anh đã phải sống tha hương, bị bỏ rơi, và bị ruồng bỏ cho đến chết. Thật không may, hồi ức đó chẳng giúp được cái khỉ gì cho trạng thái căng cứng bất chợt đang lan khắp người anh. Anh vội nhìn đi chỗ khác trước khi tự biến mình thành mất trí với những kỷ niệm không nên nhớ đến. “Anh không nói không,” anh nói với cô. “Anh đang đùa!” Cô đứng bật dậy, vẫn thấp hơn một foot so với anh. Đủ gần để cho anh có thể thấy những tia vàng nâu trong mắt cô, và cả vết sẹo nho nhỏ nơi khóe miệng cô. Đủ gần để mùi hương của cô chiếm hữu toàn bộ không gian của anh. Mùi hương đã khác, nhưng phản ứng của anh với nó thì không. Hơi nóng đã bị lãng quên từ lâu bỗng thức dậy, lan tỏa, tìm kiếm nơi chế ngự. Anh cố gạt đi hơi nóng và ham muốn. Không đúng nơi và không đúng thời điểm, và cả cô, chắc chắn quá đi rồi, là không đúng người. Điểm chính bây giờ là anh vốn đã có một kế hoạch. Trong những năm qua, anh đã học được rằng, một kế hoạch thấu đáo sẽ luôn là đảm bảo cho anh giành chiến thắng. Khi mục tiêu là sự trả thù, thì điều duy nhất cần là phải kiên nhẫn chờ đợi. Bản năng của anh mách bảo món nợ của Brenna là một quả home-run trời cho từ cú đập đầu tiên. Tất cả những gì anh phải làm là quẳng cây gậy của mình đi và chạy vòng quanh sân bóng. Nhưng anh muốn chắc chắn hơn. “Rất nhiều tiền đấy,” anh nói.   Mời các bạn đón đọc Quyến Rũ của tác giả Susan Mallery.