Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Casanova Ở Bolzano

Năm 1756, trốn thoát khỏi buồng chì kiên cố ở Venice, không cưỡng nổi sự thôi thúc bí ẩn của định mệnh, kẻ phiêu lưu khét tiếng và phong tình lừng danh của thế kỷ 18 Giacomo Casanova tìm đường trở về Bolzano, nơi chàng từng chạm trán Tử thần trong cuộc quyết đấu cùng vị hôn phu quyền lực của thiếu nữ Francesca tuyệt sắc. Lần trở lại này của Casanova khiến cả thành phố chấn động. Tin tức cũng lan tới lâu đài của Bá tước Parma, lúc này đã kết hôn cùng Francesca. Bá tước tới nơi chàng Casanova trọ để làm một cuộc thương lượng lạ lùng. Một bí mật sẽ vĩnh viễn trở thành kỷ niệm, một nỗi đau sẽ được gói lại lần cuối, để không gì còn xen vào cuộc sống của người đàn bà quý giá của đời ông...  Hư cấu và tưởng tượng, không vay mượn từ Histoire de ma vie của nhân vật có thực Giacomo Cassanova nổi tiếng trong lịch sử, Márai Sándor  đã tạo nên một kiệt tác văn chương tràn ngập hơi thở mãnh liệt, cám dỗ nồng nàn của cuộc sống, với những đối thoại lạ lùng, thông thái, đam mê, bất ngờ và đầy tính cách ngôn sâu xa xoay quanh một tình yêu khắc khoải. Casanova ở Bolzano chứng minh rằng Márai Sándor - một trong những bậc thầy xuất sắc của nền văn học Hungary và thế giới - đã in dấu ấn vô cùng đặc biệt trên diện mạo văn chương thế kỷ 20. *** Lời khen tặng dành cho Casanova ở Bolzano “Câu chuyện mê đắm về tình yêu, tình bạn và sự phản bội…  Phong phú, cám dỗ, nồng nàn và châm biếm.” - Elle   “Sâu sắc và đầy chiêm nghiệm… Tràn ngập niềm vui cuộc sống.” - Vogue “Sáng chói… Cuộc đấu phức tạp của những trí tuệ… Casanova ở Bolzano cung cấp thêm bằng chứng về sự xuất sắc bị quên lãng của tác gia lớn trong thời đại chúng ta: Márai Sándor.”  - Chicago Tribune *** Ghi chú Trong gương mặt và tính cách nhân vật của tôi chắc hẳn độc giả tưởng mình nhận ra diện mạo đặc trưng của Giacomo Casanova1 kẻ phiêu lưu khét tiếng vào thế kỷ 18. Thật khó cưỡng lại nổi sự nhận biết này, mà trong mắt một số người có thể nó cũng là sự phê phán. Nhân vật của tôi cực kỳ giống anh chàng liều lĩnh, vô gia cư và dẫu sao có lẽ vẫn bất hạnh, người vào nửa đêm ngày 31 tháng Mười năm 1756 đã dùng thang dây trèo từ buồng giam mái lợp chì của Công quốc Venice, còn gọi là buồng chì, xuống eo biển và cùng một tu sĩ đã bị tước quyền hành đạo tên là Balbi bỏ trốn khỏi lãnh địa của Nước Cộng hòa2 về phía Munchen. Điều biện hộ cho tôi là từ câu chuyện cuộc đời của nhân vật, tôi không quan tâm đến câu chuyện lãng mạn, mà quan tâm đến tính cách lãng mạn của anh ta. Vì thế những thứ khác, như thời điểm và hoàn cảnh cuộc trốn thoát, tôi không vay mượn từ cuốn Những hồi tưởng3lừng danh. Tất cả những thứ khác mà độc giả tìm thấy trong tiểu thuyết này, đều là chuyện hư cấu và tưởng tượng. M.S. *** Một đức ông, từ Venice Chàng từ biệt những người chèo thuyền ở Mestré; người bạn hư hỏng Balbi thiếu chút nữa đã làm chàng rơi vào tay cảnh sát ở đây, vì đúng lúc chiếc xe ngựa chở khách khởi hành thì chàng hoài công tìm kiếm, mãi rồi mới thấy anh ta trong một quán cà phê - đang vô tư nhâm nhi một cốc sô cô la - và tán tỉnh cô hầu bàn. Đến Treviso thì chàng hết sạch tiền; họ lủi qua cổng Saint Thomas ra cánh đồng, và theo sau những khu vườn, đi men theo ven những cánh rừng, lúc mặt trời lặn thì đến trước những ngôi nhà của Valdepiadene. Đến đây chàng rút con dao găm ra dọa người bạn đường khó chịu, hai người hẹn sẽ gặp nhau ở Bolzano, rồi chia tay. Cha Balbi buồn bã bước đi giữa những thân cây trơ trụi trong rừng ô liu; nom ông gầy guộc và nhếch nhác, vừa đi vừa ngoái nhìn lại bằng cái nhìn vụng trộm tăm tối, lủi thủi như một con chó ghẻ bị chủ xua đuổi. Khi cha cố đã đi khuất, chàng đi vào thành phố, bằng một bản năng mù lòa và đáng tin cậy chàng hỏi chỗ ở trong nhà của viên chánh cẩm. Bà vợ ông ta, một phụ nữ thuần hậu, tiếp đón chàng, cho chàng ăn tối, rửa các vết thương cho chàng - trên gối và trên mắt cá chân máu đã đông lại, trong khi chạy trốn, lúc nhảy từ những mái nhà lợp chì, khuỷu tay và gối chàng bị xước -, và trước khi đi ngủ chàng được biết ông chánh cẩm đang đi vắng, ông đang săn lùng chính chàng, kẻ chạy trốn. Lúc rạng sáng chàng bỏ đi. Chàng ngủ ở Pergine, sang ngày thứ ba thì đến Bolzano trên xe ngựa, vì giữa đường đã moi được của một người quen sáu đồng tiền vàng. Balbi đã đợi chàng. Chàng thuê phòng trong một quán trọ có tên là Con Hươu. Chàng không có đồ đạc gì, quần áo rách mướp, chiếc áo đuôi tôm may từ thứ lụa màu nay chỉ còn lại những mảnh tơi tả, không có áo khoác ngoài. Ở Bolzano, trên những con phố hẹp gió tháng Mười một đã bắt đầu quất mạnh. Người chủ quán lúng túng nhìn những vị khách rách rưới. -      Những phòng đẹp nhất ư?! - ông ta lúng túng. -      Những phòng đẹp nhất! - chàng đáp khẽ, dứt khoát. - Và hãy chú ý đến đồ ăn đấy! -      Ở đây các người hay nấu với các thứ mỡ đã ôi, thay vì dầu, và từ khi rời khỏi Nước Cộng hòa ta chưa được ăn ở đâu một miếng cho tử tế! Hãy quay gà trống thiến và mái tơ vào bữa tối, không phải một, mà ba con, với hạt dẻ. Và kiếm loại vang Cyprus. Ngươi nhìn quần áo ta ư?... Ngươi tìm hành lý của ta ư? Ngươi ngạc nhiên vì ta đến đây tay không ư? Tin tức không tới đây hay sao? Ngươi không đọc Leyden Gazette sao!... Đồ ngốc! - chàng gào lên giọng khản đặc, vì giữa đường chàng bị cảm lạnh, và cơn ho đang hành hạ phế quản chàng. - Ngươi không nghe tin một nhà quý tộc Venice và thư ký cùng đám gia nhân vừa bị cướp ngoài biên giới ư? Cảnh sát còn chưa tới tìm ta ư? -      Dạ chưa thấy, thưa đức ông, - người chủ quán hốt hoảng đáp. Balbi bụm miệng cười. Cuối cùng đúng là họ đã được những phòng đẹp nhất: phòng khách, hai cửa sổ có cánh mở ra quảng trường chính, những đồ gỗ có chân mạ vàng và gương Venice đặt trên lò sưởi. Giường kiểu Pháp có màn che. Balbi ở phía cuối hành lang, gần một cầu thang hẹp và dốc dẫn lên tầng áp mái của những người hầu. Cách bố trí như thế làm chàng rất mãn nguyện. -      Thư ký của ta đấy, - chàng giới thiệu Balbi với ông chủ quán trọ. -      Cảnh sát, - người chủ quán trọ nói như thanh minh. - Ở đây cảnh sát cũng rất nghiêm. Họ sẽ đến đây ngay. Họ xem xét tất cả những người lạ mặt. -      Bảo với họ rằng, - chàng đáp qua loa - có khách quý. Một đức ông... -      Nhưng dù sao! - người chủ quán cố nài, và cúi đầu thật thấp, tay cầm chiếc mũ, tò mò và lễ phép. - Một đức ông, từ Venice! - chàng nói. Chàng nói điều này như thể thông báo một phẩm tước đặc biệt nào đó. Đến mức Balbi cũng phải chú ý tới âm điệu của chàng. Rồi bằng nét chữ nhọn và thành thục, chàng viết tên mình vào quyển sổ lớn. Người chủ quán hồi hộp đến đỏ mặt: day day thái dương bằng những ngón tay mập mạp, và không biết nên chạy đi gọi cảnh sát hay quỳ mọp xuống để hôn tay chàng? Thế là ông ta cứ đứng một chỗ, bối rối và im lặng. Rồi ông châm đèn và đưa các vị khách lên tầng trên. Những người phục dịch đã xếp dọn các phòng: mang nến đến trên những giá đỡ lớn mạ vàng, nước nóng đựng trong các bình bạc, những chiếc khăn lau Limburg bằng vải bông. Chàng bắt đau chậm rãi cởi quần áo, như một đấng quân vương, giữa đám hầu cận: chàng đưa từng chiếc áo bẩn cho người chủ quán trọ và những người hầu phòng, chiếc quần lụa dính máu bết vào da thịt phải dùng kéo cắt ở phía ngoài hai bên ống quần, chàng ngâm chân khá lâu trong cái chậu rửa bằng bạc, người ngả trên một chiếc ghế bành, lim dim ngủ vì mệt mỏi, nom tã tượi và thế thảm. Thỉnh thoảng chàng chợt ngủ trong một khoảnh khac, lẩm bẩm, hét lên một tiếng. Balbi, ông chủ quán, những người hầu phòng há miệng đi đi lại lại quanh chàng: người ta đang trải giường trong buồng ngủ, kéo kín các rèm cửa, tắt gần hết nến. Đến giờ ăn tối họ gõ cửa rất lâu. Sau bữa ăn chàng lại đi ngủ ngay; chàng ngủ đến trưa ngày hôm sau, với gương mặt vô tư và bình thản, lạnh lùng như người mới chết một ngày. Một đức ông, các cô gái bảo nhau rồi ai vào việc nay, khe khẽ hát, cười và thầm thì với nhau, trong bếp và dưới hầm, họ đi rửa xe và lau bát đĩa, chẻ củi, mang nước uống, họ nói nhỏ hơn, đưa ngón tay che miệng, lại khúc khích cười, rồi lại làm mặt nghiêm và truyền nhau cái tin ấy, vẻ quan trọng và cười cợt: một đức ông, đúng, một đức ông, từ Venice. Đến tối thì có hai viên cớm chìm đến quán; tên chàng, đáng ngờ và quyến rũ, hấp dẫn và nguy hiểm, vừa được mạ vàng bởi tin tức về cuộc phiêu lưu lớn, cuộc tẩu thoát, đã thu hút đám mật vụ ở khắp các thành phố. Và họ muốn biết tất cả. Hắn ta ngủ ư?... Không có hành lý gì à? -      Một con dao găm, - chủ quán nói. - Ông ta đến với một con dao găm. Chỉ có thế. -      Một con dao găm, - họ nhắc lại, vẻ am hiểu và ngơ ngác. - Loại dao gì thế? - họ căn vặn. -      Dao găm Venice, - chủ quán đáp vẻ hâm mộ. -      Không còn gì khác? - họ hỏi. -      Không, - chủ quán trọ đáp. - Không có gì khác. Một con dao găm. Chỉ có thế. Tin này làm hai viên cớm chìm bất ngờ. Họ đã không ngạc nhiên nếu chàng tới đây với đầy chiến lợi phẩm, đá quý, túi đựng, vòng cổ và nhẫn quý tháo ra từ ngón tay của những phụ nữ nhà lành trên dọc đường đi. Tiếng tăm chàng đã đến trước, như một kẻ dẫn ngựa đi tiền trạm, và bố cáo tên chàng. Sáng ra đức giám mục đã thông báo cho viên chánh cẩm, và yêu cầu trục xuất ngay vị khách nguy hiểm. Ở Tirol và Lombardia, buổi sáng sau lễ cầu kinh, buổi tối trong các quán rượu, người ta đã kể cho nhau nghe về cuộc tẩu thoát của chàng. -      Hãy cẩn thận với hắn! - đám cớm chìm nói. - Chúng tôi muốn biết hết hắn nói gì. Phải rất chú ý hắn. Hắn có nhận thư không, và nhận từ ai? Hắn có gửi thư không, và gửi cho ai? Hãy để ý đến nhất cử nhất động của hắn! Hình như, - họ thì thầm, dùng bàn tay chụm lại làm loa ghé sát vào tai ông chủ quán, - hắn có người che chở. Cả đức giám mục cũng chẳng làm gì nổi hắn. -      Trước mắt, - ông chủ quán nói với vẻ từng trải. -      Trước mắt, - những tay cớm chìm buồn bã nhắc lại. Rồi họ nhón chân bỏ đi, gương mặt bí hiểm và đầy lo âu. Ông chủ quán ngồi xuống trong phòng nước, thở dài. Ông không thích những người khách có tiếng tăm, những người gây nên sự chú ý của đức giám mục và cảnh sát. Ông nghĩ tới đôi mắt của vị khách, đen ánh lửa tăm tối và than hồng bập bùng uể oải trong đôi mắt ấy, và ông sợ. Ông nghĩ đến con dao găm, con dao găm Venice, đồ vật duy nhất của người khách, và ông sợ. Ông nghĩ đến tin tức theo sau vị khách, và bắt đầu rủa thầm. -      Teresa! - ông cáu kỉnh gọi. Một cô gái, đã bận áo khoác ngoài buổi tối, bước vào. Cô mười sáu tuổi, một tay cầm cây nến đang cháy, tay kia kéo hai vạt áo ngủ trước ngực. -      Nghe đây! - ông thì thầm, bảo cô bé ngồi xuống gối. - Ta chỉ tin con thôi. Chúng ta có một vị khách nguy hiểm. Teresa, ông khách này... -      Từ Venice đến? - cô bé nói giọng học trò, như hát. -      Đúng, từ Venice, từ Venice, - ông nói hốt hoảng. - Từ trong tù. Từ lũ chuột. Từ dưới giá treo cổ. Nghe đây, Teresa. Hãy chú ý xem ông ta nói những gì. Tai mắt con hãy luôn luôn ở cạnh lỗ khóa. Ta yêu con như con gái ta. Con là con nuôi ta; nhưng nếu ông ta gọi vào phòng thì con đừng ngại. Con sẽ đem bữa sáng cho ông ấy. Hãy coi chừng đức hạnh của con và hãy chú ý. -      Vâng, - cô bé đáp. Rồi vẫn cầm cây nến trên tay, cô bé đi về phía cửa, nhẹ nhàng như một cái bóng. Đến trước cửa, cô bé than, kéo dài giọng như giọng trẻ con: -      Cháu sợ. -      Ta cũng thế, - ông chủ quán nói. - Giờ con đi ngủ đi. Trước đó hãy đem cho ta rượu vang đỏ. Nhưng đêm đầu tiên tất cả đều trằn trọc.   Mời các bạn đón đọc Casanova Ở Bolzano của tác giả Márai Sándor & Giáp Văn Chung (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiểu Đoàn Trừng Giới - Heinz Günther Konsalik
Các tiểu đoàn trừng giới được thành lập từ những thành phần bất hảo đủ loại như tù chính trị, tội phạm hình sự,… và cả những người lính chính quy vi phạm kỷ luật quân đội. Mức khổ cực của một tháng phục vụ trong những đơn vị này tương đương với 10 năm tù giam. Với trang bị vũ khí sơ sài - "3 người 1 khẩu súng trường", các tiểu đoàn trừng giới bị điều ra tuyến đầu để thực hiện những nhiệm vụ dường như bất khả thi. Trong thực tế, quân Đức rất sợ những đơn vị "trừng giới". Bởi vì họ biết rõ, đây là những đối tượng… "chẳng còn gì để mất" (!!!). Những người lính "cùng đường-mạt lộ" này có thể chiến đấu "chỉ bằng răng và móng tay" (!?). Vì với họ, chỉ có 1 con đường duy nhất - tiến lên phía trước. Sát ngay sau lưng họ, 1 lần nữa là…"tử thần" - các đơn vị "Dân ủy Nội vụ", sẵn sàng bắn bỏ những người có ý định tháo lui… *** T hực sự, Schwanecke đã vào rừng Gorki nơi kẻ tử thù của hắn cũng ở đó Tarinukine. Micha, ngồi trước chiếc hầm, hút thuốc và dỏng tai về phía Anna ở dưới đáy hầm, đang lủng củng với những dụng cụ làm bếp. Trước đó một giờ, Trung úy thủ trưởng Sergei đã qua đây và nói : - "Các đồng chí, ba ngày nữa chúng ta sẽ tấn công. Lần này ta sẽ đuổi quân Đức như những con chó. Nếu các đồng chí mà được thấy tất cả những gì tập hợp ở phía sau kia... Ba trăm dàn đại pháo Staline, ít ra là hai trăm chiến xa và pháo binh nhiều chưa bao giờ tôi trông thấy như vậy"! Lời nói như điệu nhạc rót vào tai Micha. Anh đã quên câu truyện Tania. Không ai nói đến tên nàng nữa coi như một điều cấm kỵ nhưng mọi người đều biết rằng kẻ nào phản bội đều phải chết như vậy. Sau khi đuổi xong quân Đức, Micha sẽ cưới Anna, hiển nhiêu là không đẹp lắm nhưng tin tưởng hoàn toàn.,. Mải suy tư, anh không nghe cũng không thấy một người đang bò lại gần ở phía san anh và mắt không rời anh. Chính là Schwanecke. Hắn đã thấy nhiều hầm của du kích nhưng chưa thấy hầm nào thuận lợi như chiếc này vì ở rất xa những chiếc khác. ... Mời các bạn đón đọc Tiểu Đoàn Trừng Giới của tác giả Heinz Günther Konsalik.
Lời Anh Muốn Nói - Suzanne Brockmann
Sandy Knick là nhà sản xuất phim xinh đẹp và tài năng. Cô phấn đấu không mệt mỏi với mong ước rũ bỏ quá khứ lấm lem thời thơ ấu để gia nhập hàng ngũ thượng lưu danh giá ở Phoneix. Clint McCade là nhà quay phim nổi danh của Holywood. Anh thường giấu vẻ đẹp trai hào hoa của mình dưới mái tóc dài và bộ râu không chịu chăm sóc. Mặc dù đã kiếm đủ tiền để mua đường vào chốn thượng lưu, nhưng chẳng bao giờ anh muốn làm thế. Anh yêu thích công việc mình làm, và ngao du đây đó. Hai người với hai mục đích sống khác nhau như vậy đã là bạn thân, bạn tâm tình suốt 15 năm kể từ khi cùng sống trong khu nhà ổ chuột ngoại ô thành phố New York. Họ hiểu về nhau đủ để nghĩ đã miễn nhiễm trước nhau. Nhưng như con chim nào bay mãi cũng mỏi cánh, trở về nhà sau ba tháng quay phim quần quật trong rừng nhiệt đới khắc nghiệt, McCade chợt giật mình nhận ra sự tồn tại của anh thật hư ảo và vô định, anh tự hỏi trong suốt thời gian qua đã khi nào mình cảm thấy hạnh phúc thực sự? Rồi anh chợt nhớ tới thời gian anh về thăm Sandy gần đây nhất, anh đã hạnh phúc trong suốt thời gian đó. Anh nhớ nét đẹp rạng ngời, nụ cười e lệ, đôi mắt xanh biếc của cô. Không chần chừ anh lái xe hàng trăm dặm để tới Phoniex quyết tâm thổ lộ lòng mình. Gặp Sandy, nhìn lại nụ cười tỏa nắng ấm áp của cô, Mc Cade tự trách mình sao anh không nhận ra anh yêu Sandy từ sớm hơn. Anh hồi hộp, lo lắng, bồn chồn không biết mở lời như thế nào với Sandy. Để rồi khi chưa kịp cất lời anh đã được Sandy tâm sự rằng hiện cô đang yêu, yêu một người khác không phải anh. Một người tên James sở hữu mọi thứ mà cô hằng mơ ước và tìm kiếm bấy lâu từ ngoại hình, tiền bạc đến danh vọng. Đau đớn chôn giấu tình yêu thầm kín của mình, Mc Cade quyết định ở lại giúp Sandy cưa đổ James. Anh nghĩ lấy James thì Sandy sẽ hạnh phúc hơn và khi ấy giấc mơ thời thơ ấu của cô sẽ thành hiện thực. Anh bắt đầu giúp cô thay đổi để trở nên cuốn hút và hấp dẫn hơn với đàn ông. Anh thay tủ quần áo của cô bằng những bộ cánh đắt tiền, hợp mốt và gợi cảm. Đồng thời anh dạy cô cách thể hiện tình yêu của mình ra sao, cách nhận biết tín hiệu từ người khác phái như thế nào qua ngôn ngữ cơ thể. Với lý luận đàn ông luôn thèm muốn đồ của người khác, McCade đã thuyết phục Sandy để hai người giả vờ làm tình nhân hòng chọc tức James. Sandy không mất nhiều thời gian để khiến James chú ý đến mình qua vẻ đẹp và sự thông minh sẵn có công thêm những chiêu bài giúp sức của "anh thầy" Mc Cade... nhưng thật lòng có phải cô muốn cưa đổ James như cô vẫn thường nghĩ, có thật là cô miễn nhiễm trước Mc Cade người cô luôn coi là bạn suốt 15 năm qua? *** Suzanne Brockmann (sinh năm 1960, bút danh khác: Anne Brock) là một trong những nữ tác giả hàng đầu tại Hoa Kỳ hiện nay. Bà đã đạt được rất nhiều giải thưởng, trong đó có hai giải RITA, giải cống hiến của Romantic Times và được xem là tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn được yêu thích nhất tại Mỹ… Hơn 51 tác phẩm của bà đã được xuất bản và rất nhiều trong số chúng được xếp vào hàng best - seller của USA Today và New York Times. Bà được xem như một trong các tác giả có tầm ảnh hưởng lớn trong giới viết tiểu thuyết lãng mạn và là một thành viên hoạt động tích cực vì sự bình đẳng dân chủ. Suzanne Brockmann cũng đã ra mắt một bộ phim mà bà sản xuất cùng chồng của mình: The perfect wedding. Một số tác phẩm của Suzanne Brockmann: Born to darkness; Beginnings and Ends; Headed for trouble; Shane's last stand; Thiên thần của anh... *** Điện thoại reo khi Sandy mở cửa. Cô quăng cặp xuống rồi chạy vội đến bếp. Khi cô nhấc điện thoại lên, máy trả lời tự động bắt đầu bật, và Sandy kêu lên để người bên kia nghe thấy trong khi cô cố gắng tắt cái máy mắc dịch ấy. “Phù!” Cuối cùng cô thở ra trong chiến thắng. “Xin lỗi. Tôi đây. Bạn gọi đúng lúc tôi bước qua cửa.” “Khá vất vả nhỉ, cưng. Thế mà em được cho là thiên tài kỹ thuật hay gì đấy á? McCade đã nói thế đấy. Chắc là hắn ta lừa anh rồi.” Giọng nói quen thật, nhưng cô khó nhận ra. Đó là... “Tony à?” “Chuẩn,” anh chàng cắt tóc trả lời vui vẻ. “Tai tốt đấy, bí ngô. Có McCade ở đấy không?” “Ừm. Không, thực ra là không.” “Không sao,” Tony nói. “Thực tình anh muốn nói chuyện với em cơ. Khi nào ngày hạnh phúc diễn ra đấy nhỉ?” Sandy dựa người vào bàn bếp khi đá giày ra. Chúa ơi, chân cô đau thật. “Ngày gì cơ?” “Ngày hạnh phúc ấy,” anh ta nhắc lại. “Em biết đấy, sự kiện lớn... Này là cô dâu trong bộ váy trắng...” Anh ta hát lớn, giọng ngang phè. “Đám cưới lớn hay nhỏ đấy? Em đã chọn hoa văn đồ sứ chưa? McCade đã bảo em đi cùng đến Key West với cậu ta để nghỉ trăng mật chưa? Thôi nào, em gái, kể đi. Cái đầu tò mò này muốn biết lắm rồi.” Sandy nặng nhọc ngồi xuống chiếc ghế gần nhất. “Tony, có ai bảo anh rằng McCade và em sắp kết hôn ư?” cô hỏi cẩn trọng. ... Mời các bạn đón đọc Lời Anh Muốn Nói của tác giả Suzanne Brockmann.
Gió Vĩnh Cửu - Sergei Zhemaitis
Xécgây Ghêôrơghiêvích Giêmaichixơ là một nhà văn chuyên viết về đề tài biển. “Gió vĩnh cửu” - là tác phẩm khoa học viễn tưởng đầu tiên của ông. Khi đánh giá về cuốn sách này giáo sư I.A.Êphơrêmốp đã viết: “Cuốn truyện khoa học viễn tương “Gió vĩnh cửu” là sự kết hợp giữa đề tài về biển với bức tranh khoa học viễn tưởng trong tương lai. Khác với nhiều truyện khoa học viễn tưởng của các tác giả khác như Giuyn Vécnơ với cuốn “Hai vạn dặm dưới biển”, G.B.Ađamôp với “Bí mật hai đại dương”, A.Beliaép với “Người cá” v. v... “Gió vĩnh cửu” của Giêmaichixơ nói lên không khí lao động tươi vui của những người nghiên cứu và khai thác biển vì lợi ích của xã hội cộng sản. Nơi diễn ra các sự kiện chính là Ấn Độ Dương, trên một hòn đảo nhân tạo nằm giữa vùng nước ấm trong suốt. Sống quanh đảo là những đenphin thông minh, hiểu biết con người. Đenphin làm nhiệm vụ chăn cá voi, bảo vệ cá voi khỏi bị lũ cá mập và cá kình tấn công và giúp con người nghiên cứu biển sâu huyền bí, nơi sinh sống của loài nhuyễn thể khổng lồ. Người đọc không thể không thú vị về tình bạn giữa con người và đenphin, một mối quan hệ giống như của những sinh vật có tri thức. Những miêu tả về việc chăm sóc cá voi, về cuộc đấu tranh với tên kẻ cướp - cá kình Giéc Đen thật là sinh động. Quan hệ tốt đẹp giữa những con người trong xã hội không có giai cấp làm cho các nhân vật trở nên đáng yêu, ngay cả cô gái Biata, nhân vật nữ trong truyện, say mê nghiên cứu các vì sao cũng không đối lập với hai người bạn yêu cô là những nhân viên của trạm đại dương. Biata đến đảo như đi dự hội, cô hết sức vui mừng được gặp lại Trái Đất và biển cả. Truyện của Xécgây Ghêôrơghiêvích Ghêmaichixơ làm cho người đọc có cảm giác như thấy được vùng biển đượm ánh nắng trời, thấy được niềm vui của lao động vất vả, hữu ích trong tương lai trên cơ sở những quan hệ tốt đẹp với mọi loài vật nói chung, không phải chỉ riêng với đen phin có tri thức. Giáo sư I. A. Êphơrêmốp cho rằng “Gió vĩnh cửu” rõ ràng là một thành công của tác giả và cuốn sách này được xuất bản sẽ là một món quà tốt cho các độc giả trẻ tuổi. *** Những đenphin dẫn đường cho chiếc tàu “Chim quân hạm” của chúng tôi về đảo. Đó là một dải cát hẹp uốn cong như vành khăn. Từ đây đến đó cũng còn vài hải lý nữa, bây giờ chỉ nhìn thấy nó từ đỉnh ngọn sóng cao thôi. Bãi cát sáng lóa. Những cây dừa rập rờn như trong ảo ảnh. Lần đầu tiên đenphin cho chúng tôi biết hòn đảo nhỏ này. Hòn đảo bị những dải đá ngầm hiểm trở bao quanh. Chỉ có mình Tavi và Prôtây biết con kênh ngoằn ngoèo xuyên qua rừng san hô và đá ngầm. Biata và Vêra đứng thẳng người lên ngắm nhìn hòn đảo đang như tiến lại gần chúng. Biata nói: - Đúng là một chiếc bánh mì vòng xinh xắn làm sao! Côxchia ra vẻ người dẫn đường sành sỏi kể cậu ta được biết gì về hòn đảo nhỏ này là do bản đồ hoa tiêu và nguồn cảm hứng thúc đẩy. - “Chiếc bánh mì vòng” thuộc quần đảo san hô. Nó có cái tên chính xác hơn là “Trạm dừng chân của ba gã lưu lạc”. - Sao lại không phải là bốn? - Vêra hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Gió Vĩnh Cửu của tác giả Sergei Zhemaitis.
Đubrốpxki - Alexander Pushkin
Mấy năm trước đây có một lão lãnh chúa Nga tên là Kirila Pêtơrôvích Tơrôiêkurốp, sống tại một trong những điền trang của lão. Nhờ có lắm của, lại dòng dõi quý phái và thường giao thiệp với nhiều kẻ quyền cao chức trọng, nên Tơrôiêkurốp có một uy thế lớn đối với bọn quan lại ở trong vùng. Những người láng giềng của Tơrôiêkurốp đều vui mừng chiều theo những ý thích nhỏ nhặt nhất của lão, và bọn quan chức ở trên tỉnh chỉ nghe đến tên lão thôi cũng đủ run sợ; Kirila Pêtơrôvích chấp nhận những cử chỉ luồn cúi của mọi người như một điều tất nhiên phải có đối với lão; nhà lão lúc nào cũng đầy những khách khứa sẵn sàng mua vui cho cảnh sống vô công rồi nghề của chủ nhân, hưởng ứng những trò giải trí ồn ào và đôi khi thô bạo của lão. Không có ai lại dám từ chối một lời mời của Kirila Pêtơrôvích; đến ngày lão đã định thì mọi người đều răm rắp kéo đến ấp Pôkrốpxcôiê với thái độ thành kính đúng mức. Trong sinh hoạt hàng ngày ở nhà, Kirila Pêtơrôvích tỏ ra có tất cả những thói quen xấu của một kẻ vô học. Được mọi người ở chung quanh chiều chuộng, lão thường quen được thả lỏng cho cái tính khí hung hãn của mình hoành hành, và làm theo tất cả những ý thích của một trí óc không lấy gì làm thông minh cho lắm. Mặc dù có một sức khoẻ phi thường, tuần nào lão cũng đôi ba lần bị bội thực, và hễ cứ đến tối là người ta thấy lão chuếnh choáng hơi men. *** Aleksandr Xergeyevich Pushkin là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng người Nga. Được tôn vinh là đại thi hào, Mặt trời thi ca Nga, ông đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn Nga thế kỷ XIX. Các tác phẩm của A.X. Puskin: Ngoài các bài thơ được sáng tác một cách rải rác từ thời niên thiếu cho đến khi qua đời, gia tài văn chương của A.X. Puskin. Mời các bạn đón đọc Đubrốpxki của tác giả Alexander Pushkin.