Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cảng Xu Đăng

Nhà văn Pháp Olivier Rolin sinh năm 1947, từng nghiên cứu Triết học và Ngôn ngữ. Ông cũng là một người say mê địa lý, tàu thuyền và ham thích du lịch. Năm 1994, ông đoạt giải Prix Fémina với tác phẩm Cảng Xu đăng *** ‘Cảng Xuđăng là hải cảng duy nhất của Xuđăng có khả năng tiếp nhận tàu lớn có độ dài tới 277 m và độ mớn nước là 11,3 m đối với tàu chở dầu, và 10,5 m đối với các tàu khác. […] Từ tháng 7 tới tháng 9, các cơn gió mạnh và bất ngờ thổi từ giữa hướng đông nam và tây, có thể đạt tới cấp 8 Bôpho. Các cơn gió từ hướng tây nam, được gọi là bão cát, đem theo cát và bụi; khi ấy tầm nhìn xa bị giảm xuống dưới 100 m; nhiệt độ có thể lên tới 52oC. Trong thời gian này, những chiếc tàu nào chưa kịp cập bờ thì phải tìm một chỗ kín nào trong vịnh chứ không nên thả neo đứng chết ướt giữa trời’.   Chỉ dẫn hàng hải, bờ tây Biển Đỏ   Des Jaza’ir ở Ras Kasar  *** Chính ở cảng Xuđăng tôi đã biết được tin về cái chết của A. Những chuyện ngẫu nhiên của bưu điện ở đất nước này đã làm cho tin tức về bạn tôi đến khá chậm sau khi bạn tôi đã qua đời. Một viên chức ăn mặc rất rách rưới, bộ mặt bị biến dạng bởi bệnh hủi, mang một khẩu súng ổ quay lớn màu đen, bao súng buộc vào thắt lưng bằng một chiếc roi da trâu bện, đưa cho tôi bức thư vào lúc xế chiều. Bộ mặt sứt môi của ông ta, với đôi tai mào gà, làm cho ông ta lúc nào cũng như đang cười nhăn nhở. Người ta có thể tưởng như cơ thể ông ta được tạc bằng gỗ trong một vũ điệu của tử thần. Giống như hầu hết những người còn sống sót trong thành phố, nhiệm vụ chính của ông ta vả chăng là tống tiền và ám sát. Tôi không biết làm thế nào mà ông ta kiếm được phong bì. Có thể là ông ta đã ăn cắp của chính tử thần.   Tôi run run ngồi viết những dòng này. Tôi viết trên tờ giấy xấu của một quyển vở mua ở Khartoum, vào một ngày mà một đội cảnh sát đã triệu tập tôi ra đồn vì một chuyện phiền nhiễu liên miên nào đó với những lời đe dọa làm cho nặng nề thêm, những dòng chữ thoát khỏi sự kiểm soát của bàn tay tôi, chúng chạy ngoằn ngoèo không theo đúng đường đi thường ngày của chúng. Mồ hôi trên trán tôi nhỏ xuống giấy thành những vệt trong suốt làm cho mực bị nhòe thành những đốm sao, lan ra như một dây thần kinh bị xé nát, sau đó làm thành những đám mây phớt xanh mỏng mảnh. Liệu tôi có đọc lại được điều mình viết không, tôi cũng không biết nữa. Theo một cách nào đó thì tôi viết ra những dòng này là để tiếp tục tồn tại. Tôi nghĩ là tôi chẳng có lý do nào khác để viết cả. Tôi nói, tôi viết điều đó, và tôi chẳng biết gì về điều đó cả: Liệu ta có thể biết được gì?   Mặt trời đỏ ối và cũng run rẩy như bàn tay tôi đang lặn xuống trên cái cơ thể to lớn cũng đang run rẩy của châu Phi. Một đám sương mù phản chiếu ánh nắng rạng rỡ đang che mờ những mái nhà bằng tôn và bằng gạch nén, với những bể nước dựng lên tua tủa, của hải cảng Xuđăng. Những ngọn tháp nhỏ này, nổi bật lên trong ánh hoàng hôn màu tím, làm cho thành phố trong buổi xế chiều trông giống như một doanh trại của quân La Mã mà đế quốc La Mã suy tàn đã bỏ quên trên bờ Biển Đỏ, hoặc giống như một nhà trừng giới có các tháp canh bao quanh. Tôi uống một cốc rượu anizet mua lậu, rất độc được chở tới trên một trong những con tàu chở hàng hiếm hoi của Hi Lạp từ lâu đã chạy qua trước con đê chắn sóng phủ đầy cát bồi của hải cảng ngay dưới mái hiên nhà tôi: tôi đang bị nỗi buồn phiền vò xé. Tôi phải thú nhận rằng thoạt đầu cái bức thư này – bức thư mà thông qua nó có một cái gì đó của đời tôi đã kết thúc – là một cách giải trí của tôi.   A. và tôi đã quen nhau khoảng hai mươi nhăm năm trước đây. Khi ấy chúng tôi đã chia sẻ với nhau những ước mơ lớn lao và mơ hồ. Ý nghĩ về một sự biến đổi thế giới hòa lẫn với lòng mong muốn một cuộc sống phiêu lưu. Tôi sẽ không bao giờ coi thường cái thời ấy, và tôi cũng không đồng tình với những ai chế nhạo nó. Cùng với nhiều sự việc nghiêm trọng và nhậy cảm mà sau đó chúng tôi đã được biết, thì chúng tôi lại không biết thế nào là sự sợ hãi, nỗi ghen tuông, sự hèn nhát.   Chúng tôi không tin vào Chúa, cũng không tin vào một con quỷ nào đó có những nỗi thăng trầm một cách nực cười theo kiểu tư sản. Chúng tôi là những kẻ cực kỳ táo bạo và hiền lành. Điều đó cũng quá đủ để chúng tôi không ruồng bỏ thời tuổi trẻ của chúng tôi. Rồi cái thời ấy cũng phải chấm dứt. Sự trì trệ của thế giới đã thắng, sức trai trẻ của chúng tôi đối lập lại nó đã bị cạn kiệt, và, như ở thời xa xưa, thuật thần bí lại biến thành chính trị, các khán giả vỗ tay hoan nghênh trước một kết cục đã trở nên rõ ràng của trận đấu. Tôi tin chắc rằng lần cuối cùng tôi gặp A. là một ngày mùa thu. Lúc đó chúng tôi cùng uống bia với nhau tại một quầy rượu bia ở cầu Cardinet. Giá thổi làm cho những chiếc lá khô ép sát xuống những vũng nước đen trông như những bàn tay vấy máu. Có lẽ là chúng tôi đã khóc. Về sau, anh ấy đã chọn nghề văn, còn tôi chọn nghề hàng hải. Tôi cho rằng đối với cả hai chúng tôi, có lẽ những nghề này không phản bội hoàn toàn những giấc mơ bay bổng mà từ lâu chúng tôi hằng ấp ủ. Đúng thế. Đây là một sự lựa chọn sai lầm, vì đó là những nghề không có tương lai. Người ta không thể tiến cao lên được bằng những nghề này.   Sau những năm tháng làm nghề vận chuyển những chuyến hàng thối thiu dọc theo bãi biển Châu Phi, mặt trái của sức khỏe đã quật ngã tôi. Thế là tôi nằm lại ở cảng Xuđăng, nơi đây, một loạt sự kiện ngẫu nhiên thoạt tiên đã trao cho tôi nhiệm vụ harbour master[1]. Khi hải cảng này có thể nói là bị biến mất, như thể bị nhận chìm trong cơn bão biển chung của đất nước, thì từ nay trở đi nhiệm vụ của tôi chỉ còn mang ý nghĩa tượng trưng, vả lại bọn cướp biển cũng không chịu công nhận chức vụ của tôi, đó là bọn sẵn sàng cướp bóc những tàu thuyền nào tình cờ qua đây, ngoài ra tôi còn phải kiêm nhiệm thêm chức vụ lãnh sự danh dự của nước cộng hòa Madagaxca, một chức vụ cũng không hề cồng kềnh hơn khoản thu nhập ít ỏi của tôi có được không phải nhờ vào các khoản thuế mà thực ra tôi cũng chẳng thu, và cũng không dựa vào tiền lương mà từ lâu tôi cũng không còn nhớ tới nó nữa, mà dựa vào những chuyện buôn lậu vặt vãnh mà lòng hám của của những kẻ tống tiền đã để lại cho cái nghề khiêm tốn của tôi: một chút rượu ở một đất nước mà ở đó nó bị cấm, một vài người đói khát với đôi mắt thâm đen, với nước da tím tái, được tôi sai xuống những con thuyền chạy bằng dầu mazút để ra khơi chuyển mấy bó lá cây thuốc khát[2] lên các tàu buôn quốc tế. Tóm lại chỉ là những việc lặt vặt, nhưng tôi chỉ cần có thế. Cái cuộc sống như cỏ cây mà càng ngày tôi càng thu mình vào ấy từ lâu đã tránh cho tôi khỏi mắc vào cảnh túng quẫn về nhu cầu cuộc sống. Tôi là một người dễ chịu đựng, người khác có lẽ họ đã đòi hỏi nhiều hơn.   Mặc dù đọc nhiều, nhưng tôi chẳng bao giờ hiểu được văn học là mấy: ít nhất đó là quan niệm của tôi. Các cuốn sách của A., tôi cũng có vài quyển của anh ấy, tỏ ra khó đọc và gây bất an. Tôi không biết nói tại sao, nhưng chúng gợi cho tôi hình ảnh về cảnh bầu trời giông bão nằm chắn ngang chân trời, ngược với chiều gió mùa, trông như những cánh rừng rậm bị cầy xới bởi những tia phản xạ màu đồng, màu đỏ tía và màu xanh lam. Tôi tưởng như nhìn thấy ở đây vẻ chán ngán và nỗi buồn những cái mà chung quy lại cuộc sống xã hội đã không ngừng đánh thức dậy trong chúng ta, tôi nhìn thấy một sự bất lực nào đó trong việc làm cho chúng ta quen thuộc với những lễ nghi u mê của cuộc sống, cũng như thấy một sự luyến tiếc một thời có triển vọng về một tương lai rộng lớn. Trong khi luồng ánh nắng mặt trời, có khả năng nung chẩy như một chiếc mỏ hàn những đống đổ nát của đêm tối, đang thiêu cháy những dụng cụ làm việc và làm nheo mắt người trực ban, thì thỉnh thoảng tôi nghĩ rằng cái vẫn tiếp tục gắn bó chúng tôi từ lâu và một cách bí ẩn chính là trạng thái hay sợ bóng sợ vía của chúng tôi, cái đã ngăn không để cho lứa tuổi chín chắn của chúng tôi hoàn toàn trở thành giai đoạn phủ nhận thời tuổi trẻ, bất chấp tất cả những hiện tượng bên ngoài. Tôi không biết là liệu mình đã hiểu đúng sách của anh ấy chưa, không biết liệu anh ấy có thích mình hiểu như vậy không. Tôi không tin là sách vở, kể cả sách của anh ấy lẫn sách vở nói chung, lại có thể chứa đựng một chuyện gì đó đáng giá hơn sự phủ nhận bất an ấy.   Tác giả của bức thư cho tôi biết bà là người giúp việc, làm việc cho anh A. vài giờ mỗi tuần. Bà đã tìm thấy địa chỉ của tôi trên một chiếc phong bì nằm lẫn trong đống giấy tờ lộn xộn. Vì thấy phong bì để mở nên bà nghĩ là mình được phép tìm hiểu xem bên trong có gì. Nhưng trong phòng bì chẳng có gì ngoài một tờ giấy trắng vẻn vẹn chỉ có dòng chữ: “Bạn thân mến”. Bức thư bỏ dở này được viết từ hôm trước ngày mất của A.: lối diễn đạt ngắn gọn của nó đã làm cho nó mất sức nặng, theo một cách nào đó thì hoàn cảnh mà anh ấy rơi vào để rồi sau đó lại từ bỏ anh ấy là cái đã hoàn trả cho anh ấy lối diễn đạt như vậy. Người viết thư cho tôi nói rằng “Bạn ông đã tạ thế vào một ngày thứ hai”. Bà không nói “chết” mà nói “tạ thế”, như những người bình dân và những viên chức nhà tang lễ thường nói. Bà còn viết tắt chữ này là “t.th.” như người ta thường thấy ở một số bia mộ nông thôn. Bà nói thêm là gần đây mọi việc tỏ ra không ổn. Thái độ ân cần của bà tỏ ra tử tế và cảm động. Tôi đoán chắc là ít nhất bà cũng phải có thiện cảm với A. Bà để địa chỉ lại cho tôi, đó là phố Grange aux Belles. Tôi quyết định trở về Pháp để mong tái lập lại nội dung bức thư đã bị vĩnh viễn mất đi. Cuộc sống hàng ngày vô công rồi nghề làm cho tôi rỗi rãi, thêm vào đó tôi cũng còn có một nghĩa vụ tình bạn. Tình cờ có một con tàu đang chuẩn bị rời cảng Xuđăng để đi Alếchxandrơ, Tripôli và Mácxây, thế là tôi xách túi xuống tàu.   Mời các bạn đón đọc Cảng Xu Đăng của tác giả Olivier Rolin.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đại Tiểu Thư - Kevin Kwan
China Rich Girlfriend lấy bối cảnh 2 năm sau các sự kiện xảy ra ở Crazy Rich Asians và vẫn tiếp tục xoay quanh nhân vật chính là Rachel Chu và Nick Young. Tuy nhiên bối cảnh truyện lần này diễn ra tại Thượng Hải, nơi những người giàu gần như làm chủ tại nơi đây. Tựa đề cuốn sách được bắt nguồn từ câu nói của Elenor, mẹ của Nick khi ví von những người Trung Quốc giàu có là các tỉ phú thực sự. “Đó không phải là những người chỉ giàu có hàng ngày với vài trăm triệu. Họ giàu có theo kiểu Trung Quốc!”   Bộ tiểu thuyết được chuyển ngữ với tên "Giới siêu giàu châu Á", gồm ba cuốn. Phần đầu vừa được phát hành dịp 8/3. Hai phần tiếp theo ra mắt lần lượt vào ngày 22 và 29/3. Tác giả loạt sách là Kevin Kwan - một tiểu thuyết gia gốc Singapore. Anh lớn lên trong tầng lớp thượng lưu Singapore. Ông cố của anh là thành viên sáng lập một trong những ngân hàng lâu đời nhất ở quốc gia này. Ông nội anh là bác sĩ nhãn khoa đầu tiên của Singapore được đào tạo ở phương Tây. Trải nghiệm từ thời thơ ấu tạo cảm hứng giúp Kevin viết nên bộ tiểu thuyết. Sau khi xuất bản ở Mỹ năm 2013, Crazy rich Asians (Siêu Giàu) nằm trong top những cuốn sách bán chạy nhất. Tác giả viết tiếp tập hai - Đại tiểu thư (China rich girlfriends,xuất bản năm 2015) và tập ba - Cuộc chiến thừa kế (Rich people problem, xuất bản 2017). Bộ tiểu thuyết đã được mua bản quyền, chuyển ngữ và phát hành ở Trung Quốc, Pháp, Italy, Nhật, Hàn, Brazil, Bỉ, Croatia, Cộng Hòa Séc, Israel, Thái Lan, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ...  *** Crazy Rich Asians kể về mối tình giữa Rachel Chu và Nick Young – hai giảng viên đại học gốc Á tại Mỹ. Theo lời mời của Nick, Rachel theo anh về ra mắt gặp gỡ gia đình anh tại Singapore. Từ đây, cô phát hiện ra thân thế của Nick là một trong những người giàu nhất Singapore. Và mọi chuyện trở nên khó khăn hơn khi cô phải đụng mặt với bà mẹ khó tính của Nick, kèm theo đó là vô vàn bí mật của giới thượng lưu. “Bảy ngày tiếp theo, Charlie dẫn Astrid rong chơi mua sắm ở tất cả mọi khu mua sắm sang trọng tại Paris. Anh mua cho cô một bộ va ly Hermès, hàng chục bộ váy từ đủ mọi nhà thiết kế hàng đầu trong mùa đó, mười sáu đôi giày và bốn đôi bốt, một chiếc đồng hồ Patek Philippe nạm kim cương (mà cô không hề đeo lấy một lần), và một cây đèn nghệ thuật của Didier Aaron. Xen giữa những lần đi mua sắm là những bữa trưa ở Mariage Frères và Davé, ăn tối ở Le Grand Véfour và Les Ambassadeurs, và khiêu vũ suốt đêm trong trang phục sang trọng mới của họ ở Le Palace và Le Queen. Tuần đó tại Paris, Astrid không chỉ phát hiện ra gu thời trang cao cấp của anh; cô còn phát hiện ra một thú vui mới. Cô đã sống mười tám năm cuộc đời bị bao bọc bởi những người có tiền nhưng lại nói không có, những người thích truyền lại mọi thứ thay vì mua mới, những người không biết cách tận hưởng sự giàu có của mình. Tiêu tiền theo kiểu Charlie Wu rất phê – thành thật mà nói thì nó còn phê hơn cả tình dục.”   Mời các bạn đón đọc Đại Tiểu Thư của tác giả Kevin Kwan.
Nana Du Ký - Arikawa Hiro
Truyện lấy tâm điểm là một con mèo tên Nana. Một con chảnh mèo. Sinh ra vốn là mèo hoang nhưng được Satoru nuôi nấng. Nana bị ô tô đâm, được Satoru đem đi bệnh viện. Satoru và Nana như có thần giao cách cảm. Rất hiểu nhau và không thể tách rời. Thế rồi một biến cố xảy ra khiến Satoru phải đem Nana đi cho người khác nuôi. Mối liên hệ với những người bạn cũ được hình thành. Satoru đã đến gặp những người bạn cũ như Kosuke bạn cấp 1, Yoshimine bạn cấp 2, Sugi và Chikako bạn cấp 3. Mỗi chuyến đi là 1 lần hồi tưởng về quá khứ, về những niềm vui bạn bè cùng trải qua. Truyện còn được đan xen dòng suy nghĩ khá khốn nạn của con mèo Nana. Con mèo giả nai ngoan ngoãn nhưng thật tình rất phá phách và ranh ma. Tưởng chừng như đó là một câu chuyện vui. Không. Nó là một cái kết buồn, và khi đọc xong, ta mới chợt so sánh lại. Đau đớn làm sao khi cuộc đời của Satoru lại không khác gì cuộc đời của Nana cả. Phải chăng vì thế nên cả 2 đã hình thành sợi dây liên kết, khiến cả 2 hiểu nhau và không thể tách rời. Tuy nhiên không hẳn là buồn khi Satoru đã gắn kết được các bạn với nhau. Và để nụ cười là điều ta nghĩ đến khi gấp cuốn sách lại. Mời các bạn đón đọc Nana Du Ký của tác giả Arikawa Hiro.
Đônha Perfêcta - Bênitô Pêrêx Galđôx
Benitô Pêrêx Galđôx sinh năm 1843 tại Lax Palmax, thành phố cảng của Tây Ban Nha trên đảo Gran Canaria. Thuở nhỏ, Galđôx là một cậu bé trầm lặng, đơn độc, nhút nhát nhưng rất thông minh, tò mò và ham học. Galđôx học tiếng La tinh, tiếng Pháp, tiếng Anh, và nghiên cứu khoa học, sử học, luật học, văn học, hội họa, âm nhạc. Vì thế ở tuổi thanh niên, Galđôx đã có trình độ học vấn vững vàng, uyên bác. Sống trong một thời kỳ đất nước Tây Ban Nha có rất nhiều biến động. Galđôx đã chứng kiến những vụ đàn áp của chính quyền phong kiến chuyên chế, những cuộc đảo chính quân sự, với những cảnh đau thương trong các vụ bạo loạn của sinh viên và dân nghèo. Ông đã đi sâu vào cuộc sống để tìm hiểu những khuyết điểm và những nguyên nhân thất bại của các trào lưu đòi tự do, và những thủ đoạn thâm hiểm của bọn thống trị độc tài trong việc ngăn cản cấm đoán khát vọng tự do của dân chúng, ông đã tiếp xúc với nhiều tầng lớp, và làm quen với đủ loại người. Ông đã đến hầu hết các thành phố và thị trấn ở Tây Ban Nha, đã đi thăm nhiều nước ở Châu Âu (Pháp, Anh, Đức…). Galđôx bắt đầu viết cho các báo từ khi còn là học sinh trung học. Năm hai bốn tuổi (1867), ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Giếng Vàng (La Fontana de Oro). Trải qua những năm dài làm việc không ngừng, năm sáu mươi chín tuổi ông bị mù (1913). Nhưng tám năm cuối đời, ông vẫn đọc cho người khác chép những tác phẩm cuối cùng. Ông mất năm 1920, thọ bảy mươi bảy tuổi, để lại trên 100 tác phẩm gồm 30 cuốn tiểu thuyết, 21 vở kịch, và 16 tập Những sự kiện quốc gia (Episodios nacionales). Tài năng và lao động sáng tạo của Galđôx đã đưa ông lên ngang hàng với Lôpêx đê Vêga (1562 - 1635) *, Canđêrôn đê la Barca (1600 - 1681) *, Mighel đê Xenrvantex Saavêđra (1547 - 1616) *. Toàn bộ tác phẩm của ông tập trung vào một chủ đề lớn cuộc sống của đất nước Tây Ban Nha, cùng với những tệ nạn xã hội và những bất hạnh đau thương. Nhân vật chính trong các tác phẩm của Galđôx là nhân dân Tây Ban Nha với đầy đủ tính cách, tập quán, hoàn cảnh sống của họ, những người bị áp bức, bóc lột, và giam hãm trong cảnh nghèo hèn lạc hậu. Galđôx đã miêu tả một cách hiện thực sinh động các nhân vật ấy cùng với những khát vọng mãnh liệt, những hy vọng sục sôi, niềm tin sắt đá, và những cuộc đấu tranh đầy hy sinh gian khổ của họ vì Tự do, Công lý và Tiến bộ. Đồng thời ông cũng nêu lên những thói hư tật xấu, tính ích kỷ nhỏ nhen, lòng tham không đáy, những ý nghĩ cùng những hành động ngu ngốc của một số người không ít... Đônha Pertêcta, cuốn tiểu thuyết thứ tư của Galđôx, ra đời năm 1875 (cách đây trên trăm năm) lên án cái xã hội Tây Ban Nha nghèo khổ, lạc hậu, cuồng tín, tự hãm mình trong cảnh tối tăm ngu dốt, nhưng lại dương dương tự đắc về truyền thống sùng đạo, về uy lực nhà thờ Gia tô giáo của họ, và điên cuồng, trắng trợn chống lại những tư tưởng nhân đạo tiến bộ. Kỹ sư Hôxê (Pêpê) đê Rây là một thanh niên tiến bộ, học vấn uyên bác, tính tình trung thực. Nhưng vì nhiều khi quá thẳng thắn, luôn luôn vạch trần sự dốt nát, mê muội, cuồng tín nên có một số kẻ xấu không ưa anh, căm tức anh, và chống lại anh... Theo nguyện vọng của cha, Pêpê Rây đến thị xã Orbahôxa thăm bà cô ruột Đônha Perfecta và cô em họ Rôxariô để tìm hiểu và quyết định đính hôn với cô. Nhưng vừa mới đặt chân vào gia đình Đônha Perecta (bà Toàn Thiện) ở cái thị xã sùng đạo Orbahôxa (đô thị uy nghiêm), anh đã vấp ngay phải sự phản ứng chống đối, đả kích cay độc của ông cố đạo rửa tội đôn Inôxenxiô (ngài Ngay Thật), người có nhiều đặc quyền đặc lợi ở vùng này, và cũng đang ấp ủ ý định gán ghép cô Rôxariô cho Haxintô (Hoa Dạ Hương), cháu họ của ông, một chàng trai tầm thường và lố bịch. Pêpê Rây cố tự kiềm chế tránh né những điều có thể gây va chạm. Nhưng bắt đầu từ hôm đó, sự bất đồng ý kiến cứ tiến triển và cuối cùng tạo ra mâu thuẫn đối kháng giữa anh với ông cố đạo và bà cô ruột của anh, cùng với đám tay chân thân tín của họ: mụ Maria Rêmêđiôx (mụ Maria Nhiều Thủ Đoạn), mẹ đẻ của Haxintô, lão nông dân giảo hoạt Licuôcgô (lão Thày Cò), tên côn đồ anh chị Cabaducô (thằng Người Ngựa). * Những văn hào, thi hào vĩ đại của Tây Ban Nha. Cũng ngay từ buổi đầu Pôpê Rây và Rôxariô yêu nhau say đắm. Nhưng bà Pertêcta cuồng tín và ông cố đạo nham hiểm Inôxenxiô tìm mọi cách để ngăn cản phá hoại cuộc hôn nhân. Họ không cho Rôxariô được gặp Pêpê Rây. Họ dựng lên nhưng vụ kiện cáo rắc rối liên tiếp chống lại Pêpê Rây, và tung ra những tin đồn vu khống, làm cho anh mất uy tín và bị cách chức. Từ các giám mục, linh mục cai quản mọi việc trong nhà thờ và các yếu nhân, nắm quyền hành trong thị xã, cho đến các tầng lớp nhân dân trong vùng Orbahôxa, hầu như mọi người đều căm ghét anh... Cuối cùng nhà khoa học trẻ tuổi Pêpê Rây đã ngã xuống do lòng cuồng tín ngu xuẩn và sự gian ác cố chấp của bà phú hào Toàn Thiện, do tâm địa ích kỷ vụ lợi nham hiểm của ông cố đạo rửa tội Ngay Thật. Qua tác phẩm của mình, Galđôx đã phơi bày ra ánh sáng bọn người cuồng tín, giả nhân giả nghĩa, nhỏ nhen, ích kỷ, và tham lam tàn bạo. Galđôx không chống lại tín ngưỡng, chống lại nhà thờ thiên chúa giáo, mà ông tố cáo và lên án tính chất giả đạo đức, phản động của tầng lớp cha cố Tây Ban Nha, những kẻ đã nắm quyền cai trị nhân dân, đã nhúng tay vào mọi vấn đề xã hội, và đã khống chế, đàn áp không thương xót những ai mong muốn được sống tự do. Sự nghiệp sáng tác của Galđôx - bức tranh vĩ đại miêu tả toàn cảnh đất nước Tây Ban Nha, cuộc sống muôn vẻ của xã hội Tây Ban Nha, những mẫu người Tây Ban Nha với những đặc trưng sinh động của họ, những mâu thuẫn đối kháng giữa hai lực lượng tiến bộ và phản động - đã đưa ông lên địa vị xứng đáng là một nhà văn hiện thực cách mạng. Nhưng Galđôx không dừng lại ở đó. Từ những hoạt động văn học, ông đã đi đến hành động cách mạng: ông đã từng đứng đầu một liên danh Cộng hòa - Xã hội và chính ông đã nói: “Chủ nghĩa xã hội! Đó là con đường dẫn đến bình minh”. NHỮNG NGƯỜI DỊCH Mời các bạn đón đọc Đônha Perfêcta của tác giả Bênitô Pêrêx Galđôx.
Trái Đắng Trường Sinh - Doãn Quốc Sỹ
THAY LỜI TỰA Ngăn Cách Tôi đi trên con đường đất Con đường vụn nát, lạc lối, trườn lên Như những con rắn nhỏ giữa cánh đồng dềnh nước Con đường vụn nát, con đường vụn nát Phút chốc tự thấy xa cách muôn trùng Dưới chân không còn con đường Mà chỉ còn từng đốt đường Như từng khúc rắn ngoi lên giữa đồng nước mênh mông Tôi phải bay mình lên cao Bỏ lại dưới chân những khúc đường vụn nát. *** THAY LỜI BẠT 1 Hình như cái gì cũng mất hút lên các nóc cao, lên các ngọn cây lười gió. Bụi trắng ngước nhìn cây xanh, chim hót để xóa nhòa giới tuyến giữa thành thị với lâm tuyền. Tiếng chim còn vang vọng trong không khí nồng nàn khi ánh nắng cuối cùng vừa tắt. Tiếng chim còn vang vọng khi chiều đã đi sâu vào khuya khoắt. Tiếng chim trở thành bất diệt, có đấy mà không đấy, như sao trời tự xóa nhòa ban ngày và tự lấp lánh ban đêm. Có thể mắt chỉ bất chợt có một vì sao mà là thưởng thức được cả trời sao; tai chỉ bất chợt nghe có một tiếng chim mà là chụp ghi được cả muôn giọng chim vào lúc chiều vừa xẫm tím. 2 Có lúc muốn đẩy hồn mình về một vùng trăng dĩ vãng, nghĩ đến chuyện dừng chân bên quán đỉnh đèo, ngắm hàng giậu bìm leo hoa tím, ngắm vườn cải hoa vàng xuân muộn, đi vào nắng thu mong manh, ngửi mùa đất màu ngai ngái, nhìn vào một sân rêu, cúi xuống soi mình trên một mặt gương đáy giếng, uống chén trà trong hương sớm ban mai, đi vào biển đồng xanh gió gợn, dẫm lên muôn vàn hạt sương đọng của ban chiều khi lá hổ ngươi đã khép mình hiu hiu theo gió. 3 Một búp gió thoảng tới như có mang theo hương cau lẫn với hương bưởi. Búp gió tựa như có làm nhòa không gian đi, biến không gian thành huyền ảo ánh trăng, lồng lộng mây trời, âm u núi rừng Việt Bắc, và hùng vĩ thác ngàn cao nguyên. Tâm hồn bỗng căng trải thành muôn vàn dây tơ vi diệu, những dây tơ có thể rung lên thành âm thanh nhưng cũng có thể hoa lên thành màu sắc và nhòa vào tâm linh thành những lăng kính suy tư. Có tiếng ca vang vọng đâu đây, tiếng ca đơn độc. Tôi không chú ý là tiếng ca hay hay dở mà chỉ chú ý đến vẻ đơn độc của lời ca. Tôi muốn đốn ngay một cây bạch đàn, gọt nhanh thành chiếc đàn, căng lẹ vài sợi tơ để gảy lên mấy tiếng đàn cho giọng ca của ai kia không còn đơn độc. Âm thanh đường tơ rung trên thớ cây bạch đàn sẽ đẩy giọng ca vút lên trăng sao vô vàn, đi sâu vào vũ trụ hun hút u minh, rồi chợt tới lúc nào đó âm thanh gẫy vụn thành bụi để được yên nghỉ đời đời, nằm đó thành mầm ướp của hỗn mang, vô năng trong yên nghỉ mà vạn năng trong tái sinh.     Mời các bạn đón đọc Trái Đắng Trường Sinh của tác giả Doãn Quốc Sỹ.