Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Anh Chồng Của Vợ Tôi

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Anh Chồng Của Vợ Tôi của tác giả Luigi Pirandello & Quỳnh Dung (dịch). Luigi Pirandello (1867 - 1936) là một trong những nhà văn đặc sắc nhất của phương Tây nửa đầu thế kỷ này. 15 cuốn sách tập hợp những truyện ngắn và truyện vừa đã nhấc ông lên vị trí cây bút số một của đất nước Italia hiện đại. Tiếp đó những vở kịch độc đáo đã đem vinh quang cho ông trên khắp châu Âu. Đến năm 1934 giải thưởng Nôben về văn học lại đưa tên tuổi ông ra toàn thế giới. Mỗi khi bàn đến văn học Italia hiện đại, người ta không thể bỏ qua Pirandello. Ảnh hưởng của ông vô cùng to lớn. Có thể nói toàn bộ nền văn học Italia thế kỷ 20 đã phát triển dưới bóng của cây đại thụ này. Tuy nhiên văn chương Pirandello không dễ mà hiểu được ngay như ở nhiều cây bút cùng thời với ông. Sự đánh giá của giới phê bình văn học, của công chúng rộng rãi đối với ông cũng lại hết sức khác nhau. Xưa nay người ta thường xếp ông vào dòng hiện thực phê phán. Nhà sáng lập Đảng Cộng sản và lãnh tụ của giai cấp công nhân Italia Antôniô Gramsi (1891 - 1937) đã viết vào năm 1917 những dòng nhận xét như sau: “Những vở kịch của ông (củaPirandello - N.D) chính là những trái lựu đạn tạo nên tiếng nổ trong trí óc người xem, phá hủy những ý nghĩ và tình cảm đê hèn”. Muốn hiểu đúng nhà văn độc đáo này, chúng ta nên biết qua về tình hình văn học và các trào lưu của Tổ quốc ông thời cuối thế kỷ 19 đầu 20. Italia bước vào giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa sớm hơn các nước, nhưng đến thời kỳ này lại bị một loạt nước châu Âu khác vượt lên trên, đẩy Italia xuống hàng những quốc gia lạc hậu và trì trệ, do những giáo lý của Tín ngưỡng cơ đốc còn quá mạnh ở bán đảo này. Nền văn hóa Italia nổi lên rực rỡ vào những thế kỷ 15 - 18 thì nay mờ nhạt. Cuối thế kỷ 19 văn học Italia bắt đầu khởi sắc. Xuất hiện trào lưu “duy thực”. Các nhà văn thuộc dòng văn học này hướng ngòi bút vào việc miêu tả cuộc sống tăm tối, đơn điệu, bất hạnh của dân nghèo nông thôn và thành thị theo kiểu tự nhiên chủ nghĩa. Họ khai thác những sự kiện tủn mủn trong cuộc đời, thậm chí những tin vặt vãnh trên báo chí. Khi mới cầm bút, Pirandello chịu ảnh hưởng của dòng văn học này. Nhưng chỉ ít lâu sau, không thỏa mãn với cương lĩnh của nó, ông tách khỏi và đề ra hướng đi khác mà ông mệnh danh là chủ nghĩa “duy hài” và viết cả một cuốn sách để trình bày quan điểm của mình. Ông cho rằng dòng “duy thực” mới thể hiện vẻ ngoài của cuộc sống, chưa khám phá được bản chất. Nhà văn cần sử dụng thủ pháp phóng đại hài hước và miêu tả cuộc sống dưới hình dạng một tấn hài kịch đáng buồn. Những truyện của Pirandellochế giễu sâu cay cả nhưng sự vô lý, bất công trong xã hội, đặc biệt những định kiến tôn giáo hạn chế quyền được hưởng hạnh phúc của mỗi con người  Dưới ngòi bút hài hước của ông, các nhân vật hiện ra vừa đáng thương vừa đáng giận. Một cô gái hy sinh gần hết cuộc đời, tận tụy chăm lo cho đứa em trai, mãi đến khi em đã thành đạt, mới nhận một mối tình. Nhưng do những định kiến tôn giáo, cô đã tự dằn vặt mình và chịu một cái chết bi thảm. (Chiếc khăn choàng đen). Một ông chồng sắp chết rồi vẫn băn khoăn khi mình chết vợ sẽ lấy ai và đau khổ với ý nghĩ kẻ cướp quyền của mình sẽ là ông giáo dạy nhạc (Anh chồng của vợ tôi). Một giáo viên cần cù tận tụy suốt đời chỉ biết nhẫn nhục chịu đựng mọi tai họa, không dám phản kháng bao giờ. (Thôi cũng được). Một thanh niên thông minh, tài giỏi, đẹp trai, trung thực chỉ vì sợ hãi dư luận độc miệng mà trở thành kẻ vô ơn đối với thầy giáo đồng thời là ân nhân của mình. (Hãy suy nghĩ đi, Giacôminô!” v.v… Pirandello bao giờ cũng đặt nhân vật của ông vào những tình huống oái ăm, hết sức khác thường, nhằm làm nổi bật hiệu quả tương phản và hài hước. Ông ít khi miêu tả một vài sự việc mà thường nêu cả một số phận, một cuộc đời. Chính vì vậy mà ông hay nói đến cái chết, thích miêu tả quãng đời cuối cùng của nhân vật, như để người đọc thấy rõ hơn đâu là ý nghĩa cuộc sống, sự khờ dại của những kẻ đặt thứ gì đó cao hơn hạnh phúc trần tục. Có những cái chết do dại dột, do bị cầm tù bởi những định kiến tôn giáo, nhưng không phải không có những người, sắp rời khỏi cõi đời đã nhận ra được sự thật và đã được hưởng hạnh phúc trong thời gian cuối cùng. Đó là Ađriana, một phụ nữ nhẫn nhục, cam chịu, theo đúng mọi quy tắc đạo đức nghiệt ngã nơi tỉnh nhỏ, đến lúc bị bệnh nặng, biết không thể qua khỏi, mới nhận ra được vẻ đẹp của thế giới, mới dám tự cho phép mình hưởng tình yêu, mà lại là một tình yêu tuyệt đẹp tràn đầy hạnh phúc và niềm cuồng nhiệt (Chuyến viễn du). Hoặc một cô gái xinh đẹp, mơ mộng, giàu có, sau khi chồng chưa cưới bị tai nạn chết, nhất quyết giữ “chung thủy” với người đã khuất, tự nguyện giam mình trong ngôi biệt thự tuyệt đẹp mà người yêu đã tậu dành cho cuộc sống của họ sau này. Cô thích thú “phóng đại” nỗi đau khổ của mình, cảm thấy trong hành động điên rồ ấy một vẻ “cao thượng”! May thay một họa sĩ khôn khéo và thực dụng đã thức tỉnh cô ra khỏi mơ tưởng hão huyền kia, trở về với cuộc đời vốn tươi đẹp (Nữ thần sống khỏa thân). Trong truyện vừa dẫn, tác giả chế giễu cả quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” của anh bạn nhân vật chính, cũng là một họa sĩ điêu khắc. Đây là một thí dụ rõ ràng, chứng tỏ những ai bảoPirandello bi quan là không đúng. Ông tin cuộc đời là đẹp, tin rằng ai tỉnh táo và sáng suốt sẽ được hưởng bao niềm vui của cuộc sống. Cách nhìn đời của Pirandello tràn đầy nhân đạo, và rất gần với cách nhìn đời của Sêkhốp, Lỗ Tấn, Brét. Cả bốn văn hào này cũng như nhiều nhà văn nhân đạo khác luôn dùng ngòi bút kêu gọi con người nâng cao hiểu biết, tự giải phóng bản thân mình ra khỏi xích xiềng của những định kiến tôn giáo tai hại, hoặc nói như Sêkhốp, hãy “nặn hết chất nô lệ còn sót lại trong cơ thể mỗi chúng ta, nặn từng giọt, từng giọt”. Chất nô lệ này tích tụ trong đầu óc mỗi chúng ta, do quá lâu phải sống trong xiềng xích của những giáo điều hủ lậu, những huyền thoại bịp bợm và nguy hiểm về tình yêu mơ mộng, về nghệ thuật cao siêu vân vân và vân vân, những thứ cản trở con người phát huy hết năng lực của bản thân, đồng thời hưởng đầy đủ những niềm vui lành mạnh và hợp lý mà cuộc đời ban cho. Pirandello chế giễu cả thói sùng bái sự thật. Sự thật đáng quý nhưng phải được sử dụng hợp lý. Lời nói thật không đúng chỗ có thể dẫn đến những tai họa khôn lường. Ông già Phiorinanxi cả đời thờ phụng sự công bằng. Mỗi lần nhìn thấy hiện tượng gì không hợp lý, ông rất khổ tâm, nhưng với bản chất nhút nhát ông không dám nói ra. Một lần ông quyết định phải tố cáo một “sự thật” xấu xa. Ông chuẩn bị cực kỳ chu đáo, tỷ mỷ để có đủ sức thuyết phục với người sẽ nghe. Không ngờ, người nghe ông tố giác lại đã biết cái sự thật ấy rồi, thậm chí còn biết rõ ràng, và đầy đủ hơn ông nhiều! (Cái khuy áo khoác). Hoặc trong truyện ngắn khác, việc nói ra sự thật không phải do tôn thờ nó, mà là do ngây thơ. Bác Tarara chất phác kia đã phải trả giá cho điều bác nói toạc ra bằng 13 năm tù! (Điều nói trắng ra). Văn hào Sếchxpia đã có lần viết, cuộc đời là một bi kịch với những ai sống bằng trái tim, là một hài kịch với những ai sống bằng khối óc! Pirandello là người có trí tuệ nên ông nhìn đời bằng cặp mắt hài hước. Nhưng ông cũng sống bằng cả trái tim, cho nên ông đau xót cho những con người do dại dột, u mê nên phải chịu đau khổ. Pirandello là nghệ sĩ, không phải nhà lý luận. Do đấy đọc tác phẩm, chúng ta dễ hiểu ông hơn khi ta đọc lý luận của ông. Bởi một lẽ đơn giản là nhà văn, nghệ sĩ rất ít khi đánh giá được chính xác và thật khách quan những sáng tạo của bản thân họ. Trong cuốn Chủ nghĩa duy hài ông có trình bày quan điểm và phương châm của mình. Ông tiếp nhận khái niệm về “mặt nạ” của dòng “duy thực” nhưng phát triển thêm khá nhiều. Sống trong xã hội, mỗi con người đều mang một mặt nạ. Công việc nhà văn là lật cái mặt nạ ấy ra để người đọc thấy được bản chất của nhân vật. Ngay cái gọi là bản chất ấy cũng không nhất quán, mỗi lúc mỗi khác, bởi vì con người là một hiện tượng phức tạp, chịu tác động cùng một lúc của nhiều nhân tố, trước hết là lý trí và tình cảm, mà hai thứ này ở mỗi con người lại khác nhau và liên tiếp xung đột với nhau. Pirandello xứng đáng được xếp vào loại nhà văn triết gia. Tác phẩm của ông bao giờ cũng gợi lên những suy nghĩ về cuộc đời và con người. Tính triết lý đậm đà nhất, sâu sắc và cũng xót xa nhất nằm trong truyện ngắn Hơi thổi, có thể coi là viên ngọc sáng chói trong toàn bộ sáng tác của ông. Truyện được viết bằng giọng điệu đùa cợt, nhưng nâng lên đến mức truyền thuyết. Đến truyện này, chúng ta thấy Pirandello không còn rơi rớt chút vết tích nào của phương pháp “duy thực” mà ông chịu ảnh hưởng trong thời non trẻ. Nhân vật chính trong truyện có được một phép lạ: chỉ cần thổi phù nhẹ một cái cũng đủ khiến một con người phải chết. Anh ta cứ thổi, và người xung quanh cứ chết. Chẳng luật pháp nào kết án anh ta được. Và bản thân anh ta cũng chẳng áy náy gì, bởi vì “mình có làm gì đâu? Chỉ thổi phù một cái thôi mà! Bao nhiêu người vẫn thường thổi phù một cái nhẹ nhàng như thế!”. Phải chăng tác giả muốn nói rằng, trên đời có những người chỉ làm vài động tác rất đơn giản, nói một câu, giơ tay một cái, luật pháp không thể căn cứ vào đó mà trừng trị, bản thân họ cũng chẳng băn khoăn, chẳng thấy lương tâm cắn rứt gì hết, nhưng câu nói ấy, cái giơ tay ấy lại gây ra chết chóc cho bao nhiêu kẻ khác! Truyện này ông viết vào những năm 30 khi nạn phát xít đã xuất hiện và bắt đầu đe dọa nhân loại, như một lời nhắn nhủ trách nhiệm của mỗi chúng ta… Rất đáng tiếc trong tập sách này chúng tôi chưa giới thiệu được một kịch bản nào của Pirandello. Trong sáng tác của ông, những vở kịch chiếm phần quan trọng, và được chú ý nhiều hơn. Những kiệt tác như Hăngri IV, Sáu nhân vật đi tìm tác giả… đã trở thành kinh điển trong kho tàng kịch bản thế giới. Vở Sáu nhân vật… trong những thập kỷ 20 và 30 của thế kỷ này đã được hầu hết những Đoàn sân khấu nổi tiếng nhất của phương Tây dàn dựng và biểu diễn. Những năm đó tên tuổi củaPirandello đặc biệt lừng lẫy. Cũng chính thành công lớn lao này đã quyết định việc ông được tặng giải Nôben về văn học ở giữa thập kỷ 30. Cuối cùng xin được phép nói đôi chút về bản dịch.Pirandello chuyên viết bằng thổ ngữ miền Nam nước Italia. Ngay bản in bằng tiếng Italia cũng chỉ là bản dịch. Bên cạnh đó, văn phong của ông rất dân dã và khó truyền đạt sang một thứ tiếng khác. Chúng tôi đã cố gắng rất nhiều để bản dịch giữ được phong vị độc đáo của ngòi bút tác giả. Nhưng khả năng có hạn, chúng tôi vẫn còn thấy bản dịch này còn xa mới đạt tới mục tiêu chúng tôi tự đề ra. Rất mong bạn đọc lượng thứ.   NGƯỜI DỊCH *** Tập sách này gồm có: Tấm khăn choàng màu đen Điều không nói trắng ra Chuyến viễn du Chiếc khuy áo khoác Nữ thần sống khỏa thân Hãy suy nghĩ đi, giacômô! Đêm tân hôn Thôi cũng được! Anh chồng của vợ tôi Người đang sống và người đã chết Con rùa Hơi thổi   *** Tóm tắt Tiểu thuyết Anh Chồng Của Vợ Tôi kể về câu chuyện của một người đàn ông tên là Mattia Pascal, người đã sống một cuộc sống bình thường và hạnh phúc với vợ và con trai. Tuy nhiên, một ngày nọ, Mattia vô tình phát hiện ra rằng anh ta đã được tuyên bố là đã chết trong một vụ tai nạn tàu hỏa. Mattia quyết định tận dụng cơ hội này để bắt đầu một cuộc sống mới. Anh lấy một cái tên mới, gia nhập một gia đình mới và bắt đầu một công việc mới. Tuy nhiên, Mattia sớm nhận ra rằng việc sống một cuộc sống giả tạo là không thể. Anh bắt đầu cảm thấy cô đơn và lạc lõng, và anh bắt đầu nhớ về gia đình và bạn bè của mình. Cuối cùng, Mattia quyết định quay trở lại cuộc sống cũ của mình. Tuy nhiên, anh nhận ra rằng mọi thứ đã thay đổi. Vợ anh đã tái hôn và con trai anh đã quên mất anh. Mattia đau đớn nhận ra rằng anh đã mất tất cả những gì anh yêu thương. Review Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tiểu thuyết có nội dung hấp dẫn, lôi cuốn. Tiểu thuyết khám phá các chủ đề về bản sắc, nhận thức và thực tại. Pirandello sử dụng các kỹ thuật như hiện thực, chủ nghĩa hiện sinh và phi lý để khám phá các chủ đề này. Ông cho thấy cách nhận thức của chúng ta về bản thân và thế giới có thể khác với thực tế. Mattia Pascal là một nhân vật phức tạp và hấp dẫn. Anh là một người đàn ông tốt bụng và lương thiện, nhưng anh cũng là một người dễ bị cám dỗ. Mattia bị thu hút bởi ý tưởng bắt đầu một cuộc sống mới, nhưng anh cũng bị ám ảnh bởi quá khứ của mình. Pirandello đã tạo ra một câu chuyện đầy kịch tính và cảm động. Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tác phẩm kinh điển của văn học thế giới. Điểm cộng Nội dung hấp dẫn, lôi cuốn Khám phá các chủ đề về bản sắc, nhận thức và thực tại Nhân vật phức tạp và hấp dẫn Điểm trừ Một số tình tiết có thể hơi phi lý Đánh giá chung 4/5 sao Một số ý kiến đánh giá khác về tiểu thuyết Anh Chồng Của Vợ Tôi "Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tiểu thuyết tuyệt vời. Tiểu thuyết khám phá các chủ đề sâu sắc về bản sắc, nhận thức và thực tại. Tôi rất ấn tượng với cách Pirandello đã sử dụng các kỹ thuật hiện thực, chủ nghĩa hiện sinh và phi lý để khám phá các chủ đề này."  "Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tiểu thuyết phức tạp và cảm động. Nhân vật Mattia Pascal là một nhân vật đáng nhớ. Tôi rất thích cách Pirandello đã khám phá các mâu thuẫn nội tâm của Mattia." "Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tiểu thuyết có thể gây khó hiểu cho một số người đọc. Tuy nhiên, nếu bạn có thể tiếp cận được với các chủ đề của tiểu thuyết, bạn sẽ tìm thấy nó rất đáng đọc." Mời các bạn mượn đọc sách Anh Chồng Của Vợ Tôi của tác giả Luigi Pirandello & Quỳnh Dung (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bóng Đêm
"Bóng đêm" tái hiện lại bức tranh về cuộc đời sinh động được kết hợp rất linh hoạt giữa bút pháp hiện thực với suy tưởng lãng mạn, đôi chỗ có đan cài những chi tiết “sex”, những chi tiết đẹp về tình yêu cũng là cách lựa chọn độc đáo của tác giả để tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm. Nếu ai đó có tham vọng đi tìm sự thật trong "Bóng đêm" so với vụ việc đã xảy ra ngoài đời như thế nào để đánh giá mức độ chân thực của tiểu thuyết thì quả là vô ích. Bởi hiện thực ở đây chỉ là đường viền, là cái khung cho bức tranh tưởng tượng, sáng tạo của tiểu thuyết. Sau tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc đời các chiến sĩ, một hệ luận kiêu hãnh và cũng thật xót xa có thể chín muồi, xuất hiện trong tác phẩm: Những con người mang sứ mệnh đối diện với bóng đêm, chống lại tội ác, có mặt trên đời này không phải để ra lộc ra hoa mà còn để mang thương tích. Trước khi cài hoa trên ngực thì cũng có không ít những Trừng, Nhâm đã đối diện với cái chết, sự mất mát, phải đau đớn dằn vặt về thể xác...  *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Chim Én Liệng Trời Cao Bóng Đêm Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ *** Tươi mát hết xẩy chứ, các chú? Nhưng cẩn thận jish[1] đấy! - Cho to tiếng lên một tí nữa, ông chủ! - Có hiểu tiếng Tây đ. đâu. Chỉ thấy nó la hét như điên như dại thôi! - Khoái hai cái lỗ mát quá! Đúng không bố, hạnh phúc quả là sự thỏa mãn những cái lỗ trên người. - Chú nào nói chí lý đấy! Đàn ông là bảy lỗ, tức thất khổng. Còn đàn bà là cửu khổng, chín lỗ, các chú ạ. - Ông chủ này! Thằng kia trông như Việt Cộng ấy nhỉ! Còn con kia, đàn bà mà hở răng cửa là đại dâm đấy. Ông có thấy nó giống Từ Hy Thái Hậu không? - Khẽ chứ, Gióoc[2] đấy! Lặng lẽ, trong làn sáng ao ảo hắt ra từ mặt chiếc màn hình khổ rộng và cái bóng đèn mờ gắn trên trần, bốn cặp trai gái trong bốn ngăn buồng nhỏ như chuồng chim đang ôm ấp, quặp riết thân thể nhau. Ông chủ của cõi giới nửa thiên đường nửa địa ngục đội lốt quán Karaoke là một lão già đeo cặp kính lão mắt tròn từ thời Sêkhốp, dáng vẻ phong lưu, trí thức. Mặc bộ quần áo lanh nhuộm chàm người Tày, khuy vải, chòm râu cố đạo như một phần của cái cằm vuốt dài ra, săn chắc như một tên áp tải thuốc phiện lậu đường rừng, lão đang nghênh nghênh tai. Hình như lão đang nghe tiếng rao báo từ ngoài phố vọng vào. Mặc lão chủ, tám cặp mắt của bốn đôi trai gái, trong mấy căn buồng nhỏ vẫn hau háu dán vào màn hình. Phim con heo Đài Loan, Hồng Kông hay Pháp, Đức? Chẳng cần biết. Giống nhau tuốt. Nghĩa là chẳng có cốt truyện đếch gì cả. Chàng gặp nàng. Bố già gặp gái tơ. Choai choai gặp chanh cốm. Gã hám của lạ gặp ả nạ dòng. Toàn loại mới thoạt nhìn thì mũ cao áo dài, xiêm y lộng lẫy, ra dáng thượng lưu, công tử, con nhà có giáo dục lắm. Nhưng gặp nhau mới chỉ dăm ba câu giao đãi đã nồng nã lôi nhau lên giường trút áo, tháo váy, cởi xu chiêng, trăm phần trăm trần trụi. Chẳng còn một giới hạn tối thiểu nào cho sự câu nệ, dè dặt, xấu hổ gọi là. Ấy thế, đã chơi phải chơi cho lệch mới xinh! Cuộc trưng bày đùi vế, vú vê thật là có một không hai. Dẫu sao cũng phải công nhận bọn gái làng chơi trong những pha cụp lạc này đẹp mê hồn đi. Toàn loại co quắp ra co quắp. Vú như trái lê, trái táo, mẩy mang, sù sụ. Đùi thì đùi nào đùi nấy vừa rảnh như đùi dế, vừa phộp phạp, vừa săn lẳn, vừa dài muôn muốt. Mà chẳng có mờ mờ ảo ảo gì hết. Cứ trần trùng trục, lồ lộ và cận cảnh ráo. Trắng lốp. Đỏ hoen hoét. Phúng phính. Rậm rì như nửa thú nửa người. Thở hồng hộc. Rên rỉ. La thét thành con cái con đực tuốt. Ngồi ôm một con bé mười sáu tuổi ở ngăn buồng sau cùng, là một gã đàn ông gầy gùa, da như nhuộm chàm, mắt lồi ba góc. Những pha làm tình trên màn hình khiến gã run bần bật. Con bé ngồi trong lòng gã, giữa vòng tay xiết chặt của gã cũng vậy. Đấy là lần đầu tiên gã đến cái động mại dâm trá hình này. Con bé do gã đưa đến. Gã gặp nó ở một quán bia ôm. Nó kêu mới ở nhà quê lên, đang tìm chỗ làm, nhưng thật ra là một con điếm lõi đời. Trên màn hình, một thằng đen vùa đè dập một con trắng xuống đất. Gã cũng lập tức dằn ngửa con bé, vập mặt vào vũng hõm sâu giữa cặp vú cương cứng của con bé và tay quài ra sau lưng tìm cái nút gài của chiếc xu chiêng còn đang vướng víu trên co nó, thì nó đă ưỡn người lên, há mồm ngoạm vào môi gã. - Thích không? - Lỗ nẻ trên đất cũng còn thích nữa là. - Sợ cá không? - Vớ vẩn. - Trông có vẻ nhát nhúa mà tợn quá thế! -Hừ! Con bé như vùng dậy. Sao bỗng dưng thằng đàn ông lại ngẩng đầu lên và hai tay nới lỏng lưng nó. Nó nhoai lên, đưa tay vít đầu gã. Trời! Đầu người gì mà gồ ghề, nổi u nổi cục. Mà da mặt thì như nhuộm chàm, trong khi hai con mắt bỗng dưng trắng dã như phát sáng và như là nhớn nhác thế. Trên màn hình đang diễn ra cuộc làm tình tập thể của hai đứa con gái và một thằng con trai. Ba cái thân hình chuồi chuội, díu vào nhau, tạo nên một quái tượng có ba đầu, sáu tay. Con bé bị kích thích cao độ. Lần này. nó kéo mạnh. Và gã đàn ông gần như ngã đè lên nó. Nhưng nó nhận ra gã đàn ông lại run lẩy bẩy như nhiễm lạnh. Trên màn hình, cảnh đã chuyển. Một thằng da màu đang hôn hít một con da nâu. Con bé da nâu có thân hình thăn lẳn gợi cảm hết sức. Nó quẫy. Nó rít. Môi nó chằm bập. Chà, thì cái con bé đang nằm dưới gã đây có kém gì! Cứ như là nó đang lên cơn động rồ. Vậy thì cơn động dục nhất định phải bùng nổ. Rộn rực nóng ran khắp người, gã cúi xuống há to miệng, cắn vào vai bên trái con bé. Con bé rướn người lên và trong động tác này của nó, lẽ ra gã sẽ trương căng cái vùng bụng dưới và hai bắp đùi mới phải, thì trái lại, bỗng dưng gã như quả bóng xì hơi, bẹp dí và oải ra từng mồi thẻo cơ bắp trên hai cánh tay. - Chèn đét ôi! Mần cái chi mà như ma xó thế! - Phải nói là em đẹp đến dã man. Trong thân hình em, cái gì đáng to thì to, đáng nhỏ thì nhỏ. - Đồ đểu! - Em ơi, giống đực và giống cái là phát minh quan trọng nhất của thiên nhiên đó. Đàn bà phải được đặc quyền hưởng thú vui xác thịt, em à. - Dâm vô tang, đạo vô tích, sợ quái gì!   Mời các bạn đón đọc Bóng Đêm của tác giả Ma Văn Kháng.
Kỵ Sỹ Không Đầu
Main Rid sinh năm 1818 tại Bắc Ailen và mất năm 1883 tại Luân Đôn. Từ nhỏ ông đã tỏ ra là một cậu bé rất có cá tính, can đảm, ưa thể thao, thích đi đây đi đó mặc dù xuất thân trong một gia đình đã mấy đời làm linh mục. Vào năm hai mươi tuổi, ông bỏ nhà, vượt Đại Tây Dương sang chây Mỹ. Tuy nhiên khác với những kẻ hướng về vùng đất mới với ước mong khi trở về nặng túi, Main Rid ra đi với lòng khao khát tự do và khám phá những thế giới mới. Ở Mỹ Châu, dấu chân ông ngang dọc khắp nơi, ông làm đủ nghề: giáo viên, buôn bán, săn bắn, đồng thời còn là phóng viên chuyên viết phóng sự, làm thơ, làm nghệ sỹ, viết văn. Năm 1847 cuộc chiến tranh giữa Hoa kỳ và Mếch-xích bùng nổ, ông gia nhập đội quan những người tình nguyện, nhưng sau đó ông đã nhận ra đây chỉ là một cuộc chiến tranh ăn cướp. Rồi ông bị thương nặng. Chính trong thời gian chữa vết thương ông đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình “Những mũi tên tự do” được in ở Anh năm 1849. Và từ đó, tức là khi quay về lại châu Âu ông đã lần lượt cho ra đời một loạt các tiểu thuyết đặc sắc “Những kẻ săn da đầu” “Ôxkêôla thủ lĩnh bộ lạc Xêminol” “Những người Kvaterôn”. Tiểu thuyết “Kỵ sỹ không đầu” ra đời năm 1865 là quyển tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Main Rid, được đông đảo bạn đọc trên nhiều nước nhiệt liệt hoan nghênh. KỴ SỸ KHÔNG ĐẦU mở ra cho bạn đọc thấy một chương bi thảm và hùng tráng trong lịch sử của mảnh đất Tếchdơt hoang sơ ngày đó. Đó là câu chuyện về mối tình nồng cháy giữa chàng trai săn ngựa hoang Moric Gieran dũng cảm, hào hiệp và nàng Luiza kiều diễu khao khát tự do. Biết bao hoạn nạn đã đến với đôi trai tài gái sắc này, song tình yêu của họ đã vượt lên hết thảy. Đó cũng là câu chuyện kể về mối xung đột dữ đội giữa một bên là những kẻ đầy dã tâm xâm chiếm đất đai, phá hoại hạnh phúc lứa đôi và sẵn sàng giết người như đại úy giải ngũ Kôlhaun, bọn “Mèo rừng” “Sói đồng”... với một bên là những con người trung thực, giàu nghị lực, biết tôn trọng nhân phẩm và sự công bằng như già Zep Xtump, chàng trai Henri... Qua câu chuyện rùng rơn, khốc liệt mang màu sắc phiêu lưu hoang dã, hấp dẫn bạn đọc này, Main Rid giúp chúng ta thấy rõ quá trình xâm nhập của các địa chủ Mỹ tới các vùng đất Mếchxich, cho thấy sự phân hóa của xã hội và ngay cả trong từng gia đình thời bấy giờ, cho thấy quan hệ người với người căng thẳng và thù địch trên mỗi bước đi. Cũng qua đó ông khẳng định quyền tự do, quyền bình đẳng cho mọi màu da, lên án chế độ nô lệ và coi đó là một vết nhơ làm ô nhục nước Mỹ, đồng thời ông cũng nói về những người da trắng nghèo khổ mà địa vị xã hội của họ cũng chẳng khác gì so với những người nô lệ. Vào cuối đời, Main Rid còn đến châu Mỹ một lần nữa. Lúc này Châu Mỹ đã hoàn toàn biến đổi. Nó không còn là đất nước của những người khai phá gan dạ mà là đất nước của sự kinh doanh, cạnh tranh gay gắt. Song những trang sách thời ấy của ông vốn thắm đượm tình yêu con người. lòng dũng cảm, tính cao thương vẫn mãi mãi truyền thêm sức mạnh và niềm tin cho những trái tim trẻ tuổi tiếp tục làm những điều thiện cho đời. Xin trân trọng giới thiệu tác phẩm KỴ SỸ KHÔNG ĐẦU với bạn đọc. *** Con hươu vùng Tếchdớt đang mơ màng trong đêm tĩnh mịch của trảng cỏ mênh mông chợt nghe thấy tiếng vó ngựa. Nhưng nó cũng chưa vội rời bỏ chỗ nằm, thậm chí còn chưa chịu nhỏm dậy. Khoảng không bao la này đâu phải chỉ có mình nó. Lũ ngựa hoang thảo nguyên cũng gặm cỏ ở đây vào ban đêm. Chú hươu chỉ rướn đầu lên - cặp sừng của nó đã nhô ra sau đám cỏ - nó nghe ngóng: tiếng động có lặp lại hay không? Một lần nữa tiếng vó ngựa lại vọng đến, nhưng bây giờ thì nó vang lên một cách khác. Có thể phân biệt được, cả tiếng kim loại, tiếng đập của vỏ thép vào đá sỏi. Đối với chú hươu tiếng động đó thật là nguy hiểm, khiến hành động của nó thay đổi ngay lập tức. Bật nhảy chồm lên và lao vút đi, nhưng ngay sau đó nó chợt đứng lại và ngoảnh ra sau, nó muốn biết: kẻ nào đã xáo động giấc ngủ của nó? Và trong ánh trăng vằng vặc chú hươu đã kịp nhận ra kẻ thù nguy hiểm nhất: đó là con người. Một người cưỡi ngựa đang tiến gần lại. Bị một nỗi sợ hãi bản năng xâm chiếm, chú hươu chực phóng tiếp. Nhưng có một cái gì đó trong diện mạo của người kỵ sỹ, một cái gì đó thật kỳ dị đã giữ chân nó lại. Con hươu dường như chỉ đứng trên hai chân sau, đầu ngoảnh lại, vừa run sợ vừa tiếp tục nhìn. Trong đôi mắt nâu mở to của nó ánh lên nỗi kiếp sợ và ngạc nhiên. Cái gì quái lạ trong hình dạng kỳ dị kia làm chú hươu chết lặng chăm chăm nhìn như vậy? Con ngựa ư? Không đây là một con ngựa rất bình thường được đóng yên cương cẩn thận - con ngựa rõ ràng không thể gợi lên cho nó nỗi ngạc nhiên và sợ hãi nào. Thế thì chú hươu chỉ có thể sợ người kỵ sỹ. Đúng như vậy! Người kỵ sỹ đã làm chú hươu khiếp sợ. Diện mạo người ấy có cái gì đó hết sức khủng khiếp, trái tự nhiên. Trời! Người kỵ sỹ không có đầu! Đến một con vật không lý trí cũng nhận ra điều đó. Ngay từ giây phút đầu tiên nhận ra, chú hươu đã hoảng hốt, không tài nào hiểu nổi: cái gì vậy? Kinh hoảng, nó bỏ chạy. Nó còn chưa dừng lại khi nào còn chưa bơi qua con sông Lêông và dòng nước cuồn cuộn còn chưa ngăn cách nó với người kỵ sĩ đáng sợ kia. Không hề chú ý đến chú hươu đang hoảng hốt bỏ chạy, dường như không biết đến sự hiện diện của nó, người kỵ sĩ không đầu tiếp tục con đường của mình. Kỵ sĩ cũng đi về phía con sông, nhưng chàng không hề vội vã, cả người và ngựa, bằng những bước chân long trọng, tiến bước chậm rãi, im lìm. Người kỵ sĩ không thốt ra một lời nói, cũng không có một cử chỉ nào thúc giục con ngựa, mà dường như đang chìm sâu vào những suy tư của mình, kỵ sĩ nới lỏng tay cương và con ngựa mệt mỏi gặm cỏ. Bỗng có tiếng rú của bọn sói thảo nguyên, con ngựa ngẩng lên, thở phì phì và dừng lại. Như đắm mình trong những tình cảm thấm sâu nào đó, nên những sự việc nhỏ bé không kéo được chàng ra khỏi trạng thái đăm chiêu. Không một tiếng động nào có thể hé mở được bí mật của chàng. Con hươu hoảng hốt, con ngựa, bầy sói và vầng trăng nửa đêm là những người duy nhất chứng kiến sự đăm chiêu trầm lặng ấy của chàng. Kỵ sĩ khoác trên vai một tấm xerap1 rộng, khi gió giật, tấm choàng phồng lên làm che lấp một phần thân hình. Chàng mang đôi ghệt bằng da báo để tránh hơi ẩm ban đêm và những cơn mưa rào nhiệt đới. Chàng đi về phía trước, lặng lẽ như những vì sao lấp lánh trên đầu, thờ ơ như tiếng dế kêu ri rỉ trong cỏ, như ngọn gió đêm vờn trên những nếp áo choàng. Cuối cùng hình như có một cái gì đó cũng kéo được kỵ sĩ ra khỏi mối trầm tư - con ngựa của chàng chuyển nước kiệu rồi lắc đầu và hý lên vui mừng - nó rướn cổ lên chạy về phía trước, lỗ mũi phập phồng và trong khoảnh khắc đã phóng nước đại. Con ngựa càng lao nhanh khi dòng sông hiện ra gần trước mắt. Kỵ sĩ chưa dừng lại chừng nào chưa đến với dòng nước trong vắt và nước chưa dâng lên đến đầu gối chàng. Con ngựa vục mõm uống hối hả. Khi đã thỏa mãn cơn khát, nó bơi qua dòng sông và bằng một bước nhảy vọt, con ngựa nhanh nhẹn lao lên bờ dốc. Đến bờ, kỵ sĩ dừng lại, như chờ cho ngựa rũ nước. Tiếng dây cương, tiếng bàn đạp loảng xoảng trong đám mây bụi nước. Kỵ sĩ không đầu hiện lên trong vầng sáng đó và tiếp tục con đường của mình. Con ngựa chắc đã bị đinh thúc dồn và bị cương giật nên nó không còn đủng đỉnh nữa mà phi chạy một cách thành thạo về phía trước, như trên con đường mòn quen thuộc. Phía trước, trảng cỏ mênh mông trải tận chân trời. Và trên nền xanh thẳm của bầu trời nổi lên hình dạng kỳ dị, giống như một con nhân sư bị phạt cụt. Hình dạng kỳ dị đó xa dần cho tới khi biến đi trong ánh trăng tà huyền ảo. Mời các bạn đón đọc Kỵ Sỹ Không Đầu của tác giả Main Rid.
Tarát Bunba
Tarát Bunba là hiện thân của những đặc điểm cao quý nhất của dân tộc Cô-dắc. Hình ảnh Bunba đượm vẻ nghiêm khắc mà lại dịu dàng của mối tình phụ tử. Tarát là người cha của các con mình, đồng thời cũng là người cha của tất cả những người Cô-dắc tín phục ông, đã ký thác cuộc đời, tâm hồn và thể xác cho ông – người chỉ huy kính mến. Khi cầm súng bắn đứa con trai rứt ruột của mình đã phản lại dân tộc, Bunba không những chỉ làm nhiệm vụ của một người lính mà làm nhiệm vụ thiêng liêng của người con của dân tộc Cô-dắc. Tiếng nói của ông già nghiêm khắc còn văng vẳng đâu đây: “Tao đã đẻ ra mày thì bây giờ chính tao lại giết mày…”. *** Gogol (1809-1852) sinh ngày 31.3.1809 là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng Nga và Ukraina. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông Những linh hồn chết, được xem là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của văn học Nga và Ukraina. Gogol sinh ra ở vùng Sorochintsi của Guberniya Poltava (bây giờ là Ukraina) trong một gia đình thuộc mức tầm thường người Ukraina (hay đúng hơn là người Ruthenia). Tên ban đầu của ông theo tiếng Ukraina là Mykola. Bố của Gogol là Vasily Afansevich Gogol, một kịch tác gia tài tử, chết khi ông mới 15 tuổi. Mẹ ông là Mariya Yanopvskaya, luôn có tâm trí buồn sầu u uất và mộ đạo. Sự mộ đạo này cũng đã có ảnh hưởng tới thế giới quan và trạng thái tâm thần u sầu sau này của ông. Khi sinh Gogol, con trai đầu lòng trong số ba người con, bà chỉ mới 15 tuổi. Vào năm lên 12 tuổi, Gogol được gửi vào học trong Lycée Nezhinski. Hai năm cuối ở Lycée Nezhinski là lúc Gogol bắt đầu đi vào nghiệp viết. Các truyện ngắn hay thơ được ông gửi đăng trong tạp chí của trường, đã tỏ rõ trước cho thấy những dấu hiệu của một tài năng. Cũng giống như những chàng trai trẻ Ukraina khác, vào năm 19 tuổi, ông đã chuyển tới thủ đô Sankt-Peterburg để tìm vận may (1828). Vào năm 1831, ông gặp Aleksandr Sergeyevich Pushkin, người đã ủng hộ ông trở thành nhà văn và là bạn của ông sau này. Ông đã dạy lịch sử tại Trường Đại học Quốc gia Sankt-Peterburg từ năm 1834 đến năm 1835. Tác phẩm đầu tay, Hans Kuchelgarten (1829), do ông tự bỏ tiền túi ra in, là một thất bại hoàn toàn, và ông đã ném vào ngọn lửa tất cả những ấn bản ông thấy. Ông tiếp tục viết một số lượng lớn các tập truyện ngắn ở Sankt-Peterburg, bao gồm Nevsky Prospekt, Nhật ký của một người điên, Chiếc áo choàng và Cái mũi (truyện này đã được dựng thành vở opera Cái mũi do Dmitry Shostakovich dàn dựng). Mặc dù tập 1 của truyện Những buổi tối trong một trang trại gần Dikanka là thành công thực sự đầu tiên của ông, tên tuổi ông lại chìm đi sau khi xuất bản truyện Arabesques. Vở kịch vui nhộn Viên Tổng thanh tra, làm năm 1836, lại một lần nữa giúp ông thu hút được sự chú ý của công chúng tới tư cách là một nhà văn. Với giọng văn mỉa mai, châm biếm, cũng giống như trong phần lớn các tác phẩm của ông, đã tạo ra khá nhiều cuộc tranh luận, và sau đó Gogol đã phải chạy sang Roma. Tại đây, ông đã sáng tác Những linh hồn chết (1842), tác phẩm được coi là một trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất của văn chương thế giới. Trong các tác phẩm của mình, ông không chừa ai cả, từ hoàng đế đến quan lại, từ trí thức đến bình dân, từ giới địa chủ đến giới nông nô, tất cả đều là mục tiêu châm chích cho ngòi bút ông. Người ta đã gọi những tác phẩm đó là "những bức hí họa về nước Nga và người Nga". Tuy nhiên cũng nhờ tính sinh động và sức thuyết phục nẩy sinh từ ngòi bút, ông đã làm mờ nhạt đi bộ mặt thật kinh khủng của nó, để lôi cuốn không ngừng đôi mắt độc giả theo một mặt trái ẩn tàng những hình nét đáng cảm động hơn. Vào những ngày cuối đời, ông bị một căn bệnh kỳ lạ ở mũi và phải dùng đỉa để chữa bệnh cho mình. Ông đã phải chịu đựng sự đau đớn vì kiểu chữa bệnh đó cho đến lúc chết. Ba nhân vật vĩ đại nhất của văn học Nga thế kỷ 19 từng định đoạt sự phát triển tinh thần của nhân dân trong thế kỷ 19 và 20 là Gogol, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Lev Nikolayevich Tolstoy - không chỉ là những nhà văn cực lớn của nước Nga, của nhân loại, mà còn là những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Nga thế kỷ 19. Tác phẩm tiêu biểu 1829 : Vinh quang xứ Italy (thơ) 1829 : Thơ kể chuyện (được xuất bản với bút danh V.Alov) 1830 : Người đàn bà (truyện ngắn) 1831 - 1832 : Những buổi tối ở thôn ấp gần Dikanka (tập truyện ngắn) 1835 : Mirgorod (tập truyện ngắn) Những điền chủ cổ xưa Taras Bulba (dựa trên vở opera cùng tên của Mykola Lysenko) Viy Chuyện Ivan Ivanovich cãi nhau với Ivan Nikiforovich như thế nào 1835: Ả Rập (tập truyện ngắn) Bức chân dung (truyện ngắn) Một chương trong cuốn tiểu thuyết lịch sử xưa cũ (truyện ngắn) Đại lộ Nevsky (truyện ngắn) Người tù binh Kavkaz (truyện ngắn) Nhật ký một người điên (truyện ngắn) 1836 : Cái mũi (truyện ngắn) 1836 : Cái bánh xe (truyện ngắn) 1836 : Quan thanh tra (hài kịch) 1842 : Rời nhà hát (tiểu luận) 1842 : Roma (đoạn truyện) 1842 : Chiếc áo khoác (truyện ngắn) 1842 : Đám cưới (kịch, Modest Mussorgsky đã dựng thành vở opera cùng tên và được Mikhail Ippolitov-Ivanov hoàn thiện) 1842 : Những linh hồn chết (tiểu thuyết) 1843 : Những con bạc (kịch) 1847 : Những đoạn chọn lọc từ các lá thư gửi bạn (tập thư và tiểu luận) Mời các bạn đón đọc Tarát Bunba của tác giả Nikolai Vasilyevich Gogol.