Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Lolita

Đầu tiên, theo tư vấn của một ông bạn già thận trọng, tôi đã đủ ngoan ngoãn đến mức đặt điều kiện xuất bản cuốn sách dưới bút danh khác. Tôi không biết mình sẽ có lúc nào đó thấy ân hận là  ít lâu sau, do hiểu rõ rằng cái mặt nạ có thể dễ dàng để lộ nguyên cớ của chính tôi như thế nào, tôi lại quyết định ký tên thật cho Lolita. Bốn nhà xuất bản Mỹ — W,X,Y,Z — lần lượt được tôi chào bản đánh máy và đưa cho những người đọc của họ liếc qua nó, đã bị sốc bởi Lolita đến mức mà thậm chí ngài F.P., ông bạn già thận trọng của tôi, cũng không tính đến. Mặc dù đúng là ở châu Âu cổ đại, và tận cho đến thế kỷ mười tám (những ví dụ dễ thấy đến từ nước Pháp), sự dâm tục cố ý đã không mâu thuẫn với những giây phút lóe sáng trong hài kịch, hoặc văn chương châm biếm đầy khí lực, hoặc thậm chí cảm hứng của một thi sỹ tài hoa đang trong tâm trạng phóng đãng, và cũng đúng là trong thời hiện đại thì thuật ngữ "văn hóa phẩm khiêu dâm" có nghĩa là tầm thường, hám lợi, và những quy tắc kể chuyện chặt chẽ nhất định. Hành động khiêu dâm cần cho bắt cặp với lời lẽ sáo rỗng bởi lẽ mọi kiểu tận hưởng khoái cảm mỹ học phải bị thay thế trọn vẹn bởi sự kích thích tình dục đơn giản, thứ đòi hỏi lời lẽ truyền thống để tác động trực tiếp lên bệnh nhân. Người sáng tác văn hóa phẩm khiêu dâm phải tuân thủ các quy tắc cũ kỹ và cứng nhắc để làm cho bệnh nhân của anh ta được bao bọc bởi cùng một bầu không khí thỏa mãn an toàn, bầu không khí vốn dĩ quen thuộc với những người mê truyện trinh thám — những truyện mà trong đó, nếu bạn không coi chừng, kẻ sát nhân thật sự có thể hóa ra là, trước sự phẫn uất của người hâm mộ, tính độc đáo nghệ sỹ (ai mà lại muốn, tỷ như, một truyện trinh thám không có đến dù chỉ một cuộc đối thoại?) Bởi vậy, trong các tiểu thuyết khiêu dâm, hành động bị giới hạn trong sự giao cấu giữa những lời khuôn sáo. Phong cách, cấu trúc, tính hình tượng không bao giờ được phép làm sao lãng độc giả khỏi thú tính đầm ấm của anh ta. Cuốn tiểu thuyết phải bao gồm sự thay thế luân phiên những cảnh nhục dục. Những đoạn văn ở giữa phải được rút gọn lại thành những đường khâu cảm xúc, những cầu nối hợp lý có thiết kế tối giản, những giải thích và trình bày ngắn gọn, mà độc giả hầu như chắc chắn sẽ bỏ qua nhưng phải được biết là chúng có tồn tại để không cảm thấy bị lừa dối (sự nhồi sọ từ lề thói của các chuyện thần tiên "có thật" ở thời thơ ấu). Hơn nữa, những cảnh nhục dục trong sách phải bám theo một mạch tăng dần, với những biến thể mới, những phối hợp mới, những giới tính mới, và sự gia tăng đều đặn số lượng người tham gia (trong một vở kịch của Sade, họ còn gọi cả người làm vườn vào), và bởi vậy mà phần kết thúc cuốn sách phải thừa mứa những tri thức dâm dật hơn là các chương đầu tiên. Một vài kỹ thuật ở phần đầu Lolita (giả dụ như Nhật Ký của Humbert) làm cho mấy độc giả đầu tiên của tôi lầm tưởng rằng họ sẽ được đọc một cuốn dâm thư. Họ trông chờ vào chuỗi gia tăng các cảnh gợi tình; khi những cái này ngưng lại, độc giả cũng ngưng đọc luôn, và cảm thấy buồn chán và thất vọng. Tôi ngờ rằng điều này là một trong những lý do tại sao không phải tất cả bốn hãng chịu đọc bản đánh máy ấy đến cuối. Dù họ có thấy nó khiêu dâm hay không thì điều đó cũng chẳng làm tôi quan tâm. Sự khước từ của họ với việc mua sách không dựa trên cách tôi xử lý chủ đề mà dựa trên chính chủ đề, bởi có đến ít nhất là ba chủ đề tuyệt đối cấm kỵ đến mức hầu hết các nhà xuất bản Mỹ đều lo ngại. Hai cái khác là: một cuộc hôn nhân Nhọ-Trắng lại thành công trọn vẹn và mỹ mãn và đơm hoa kết trái thành con đàn cháu đống; và kẻ vô thần tuyệt đối lại sống cuộc đời hạnh phúc và có ích, rồi chết trong lúc đang ngủ, thọ 106 tuổi. Một số phản ứng rất tức cười: một độc giả gợi ý là hãng của anh ta có thể cân nhắc chuyện xuất bản nếu như tôi biến nàng Lolita của tôi thành cậu bé mười hai tuổi và để cậu ta bị dụ bởi Humbert, một gã nông dân, trong chuồng gia súc, giữa phong cảnh thê lương và cằn cỗi, mọi điều này được trình bày bằng những câu văn ngắn, mạnh, "hiện thực" ("Hắn hành động điên rồ. Tôi nghĩ là tất cả chúng ta đều hành động điên rồ. Tôi nghĩ Chúa cũng hành động điên rồ." Vân vân.). Mặc dù mọi người nên biết là tôi ghét cay ghét đắng những biểu tượng và phúng dụ (một phần do mối thù cũ của tôi với tà phép của Freud và một phần do nỗi kinh tởm của tôi với sự khái quát được sáng chế bởi những người sáng tác văn chương thần thoại và những nhà xã hội học), một độc giả sáng dạ khác thường đọc lướt qua Phần Một rồi miêu tảLolita như "châu Âu già dắt nước Mỹ trẻ vào đời trụy lạc," ấy thế mà một độc giả ba chớp ba nháng khác lại thấy trong nó "nước Mỹ trẻ dắt châu Âu già vào đời trụy lạc." Ông chủ nhà xuất bản X, người có các vị cố vấn chán ngấy Humbert đến nỗi họ không bao giờ đọc được quá nửa cuốn sách, đã ngây thơ viết cho tôi rằng Phần Hai quá dài. Mặt khác, ông chủ nhà xuất bản Y lại lấy làm tiếc, rằng không có người tốt nào trong cuốn sách. Ông chủ nhà xuất bản Z bảo, nếu ông in Lolita, thì ông và tôi sẽ đi tù. Không có nhà văn nào ở một đất nước tự do lại cho rằng họ phải quan tâm đến ranh giới chính xác giữa gợi cảm và gợi dục; đó là điều hết sức vô lý; tôi chỉ có thể ngưỡng mộ chứ không thể ganh đua với độ chính xác trong cách nhìn của những người tạo dáng các động vật hữu nhũ trẻ trung xinh đẹp để chụp ảnh đăng lên tạp chí sao cho toàn bộ đường viền cổ áo chỉ vừa đủ thấp để khơi gợi một tiếng cười thầm của tay bưởng trưởng và vừa đủ cao để không làm ông bưu cục trưởng phải nhăn mặt. Tôi cho là, vẫn tồn tại những độc giả thấy hưng phấn với sự hiện diện những lời lẽ chợ búa trong những cuốn tiểu thuyết khổng lồ và sáo rỗng đến tuyệt vọng, những cuốn tiểu thuyết được đánh máy bằng những ngón tay cái của những kẻ tầm thường cương cứng và được đánh giá là "có ảnh hưởng lớn" và "nổi bật" bởi những tay phê bình bồi bút. Có những tâm hồn hiền lành tuyên bố Lolita vô nghĩa do nó không dạy họ được bất cứ điều gì. Tôi chẳng phải độc giả mà cũng chẳng phải nhà văn thể loại văn chương hư cấu ra vẻ mô phạm, và, bất chấp xác nhận của John Ray, Lolita chẳng có bài học nào đi cùng. Với tôi thì một tác phẩm hư cấu chỉ tồn tại trong chừng mực nó cho tôi cái mà tôi sẽ gọi huỵch toẹt ra là khoái cảm thẩm mỹ, đó là cảm giác được — bằng cách nào đó, ở nơi nào đó — kết nối với những trạng thái khác của sự tồn tại, nơi mà nghệ thuật (sự hiếu kỳ, tính nhạy cảm, lòng nhân hậu, niềm hoan lạc) là tiêu chuẩn. Không có nhiều cuốn sách như vậy. Tất cả những cuốn còn lại hoặc là lá cải thời thượng hoặc là những thứ vẫn được một số người gọi là Văn Chương Ý Tưởng, những thứ mà trong rất nhiều trường hợp lại chính là lá cải thời thượng cô lại thành các khối thạch cao khổng lồ được truyền cẩn thận từ đời này qua đời khác cho đến khi có ai đó xông lên với cây búa và thử làm một choác ra trò lên Balzac, lên Gorki, lên Mann.   VLADIMIR NABOKOV ***  “Lolita, hay Lời thú tội của một người đàn ông da trắng góa vợ”, là hai nhan đề mở đầu các trang bản thảo kì lạ mà người đang viết những dòng này nhận được. “Humbert Humbert”, tác giả của chúng, đã chết trong trại tạm giam, do bệnh nghẽn động mạch vành, vào ngày 16 tháng Mười Một năm 1952, ít hôm trước khi phiên tòa xét xử dự định diễn ra. Ngài Clarence Choate Clark, hiện thuộc đoàn luật sư Đặc khu Columbia, luật sư của ông ấy, người bạn tốt và cũng là người bà con của tôi, đề nghị tôi biên tập lại bản thảo này dựa trên một điều khoản trong di chúc của thân chủ trao cho ông anh họ xuất chúng của tôi toàn quyền giải quyết mọi vấn đề liên quan đến việc xuất bản “Lolita”. Quyết định này của ngài Clark có lẽ chịu ảnh hưởng từ việc nhà biên tập mà ông ấy chọn vừa nhận được giải thưởng Polling cho một nghiên cứu khiêm tốn (“Có thể đồng cảm với cảm xúc không?”) bàn về một số trạng thái bệnh hoạn và loạn dâm. Nhiệm vụ của tôi hóa ra đơn giản hơn cả hai chúng tôi đã dự đoán. Ngoại trừ việc sửa những lỗi ngữ pháp dễ thấy và thận trọng lược bỏ vài chi tiết dai dẳng mà bất chấp những cố gắng của “H.H.” vẫn tồn tại trong nguyên bản như những tấm biển báo và bia mộ (để lộ những nơi hoặc những người mà lẽ ra nên giấu đi cho nhã, hoặc nên thương tình bỏ qua), thì tập hồi ký khác thường này được giới thiệu nguyên vẹn. Biệt danh kỳ quái của tác giả hồi ký là sáng chế của chính ông ta; và, dĩ nhiên, chiếc mặt nạ này — mà qua nó, đôi mắt thôi miên của ông ta dường như rực sáng — vẫn được giữ nguyên không cởi bỏ, đúng như ý nguyện của người đeo nó. Trong khi “Haze” chỉ ăn vần với họ thật của nữ nhân vật chính, thì tên của cô ấy lại quyện với từng sợi xơ giấy sâu kín nhất của cuốn sách đến độ không ai được phép thay đổi; và (như độc giả sẽ tự thấy) cũng không có lý do thiết thực nào để làm vậy. Những tư liệu liên quan đến tội ác của “H.H.” có thể dò tìm trong các tờ nhật báo hồi tháng Chín, tháng Mười năm 1952; nguyên nhân và mục đích của tội đó ắt sẽ vẫn tiếp tục là điều hoàn toàn bí ẩn, nếu tập hồi ký này không được cho phép đến nằm dưới ngọn đèn đọc sách của tôi. Để giúp các độc giả cựu trào có mong muốn dõi theo số phận những người “có thực” bên ngoài câu chuyện “thật”, vài chi tiết có thể được đưa ra dựa theo những gì nhận được từ ông “Windmuller” ở “Ramsdale”, ông này muốn giữ kín nhân thân để “chiếc bóng dài u ám của câu chuyện buồn thảm và nhớp nhúa này” không chạm tới cái cộng đồng mà ông hãnh diện được là thành viên. Con gái ông, “Louise”, hiện là sinh viên đại học năm thứ hai. “Mona Dahl” là sinh viên ở Paris. “Rita” vừa mới kết hôn với một ông chủ khách sạn ở Florida. Bà “Richard F Schiller” đã qua đời ngay trên bàn đẻ, khi đang sinh một bé gái chết non, vào đúng ngày Giáng Sinh năm 1952, ở Gray Star, một khu dân cư miền Tây Bắc vô cùng hẻo lánh. “Vivian Darkbloom” đã viết xong cuốn tiểu sử, nhan đề “My Cue”, sẽ được xuất bản nay mai, và những nhà phê bình đã nghiền ngẫm bản thảo đều cho đó là cuốn sách hay nhất của bà. Những người trông coi các nghĩa trang khác nhau có liên quan tới câu chuyện cho biết không thấy bóng ma nào lảng vảng. Nhìn đơn giản như một tiểu thuyết, “Lolita” đề cập đến những tình huống và những cảm xúc mà nếu làm úa vàng bằng các thủ pháp né tránh nhàm chán thì sẽ khiến người đọc thấy mơ hồ đến phát cáu. Đúng là không thể tìm được chữ khiêu dâm nào trong toàn bộ tác phẩm; kẻ mọi rợ vai u thịt bắp được những lề thói ngày nay dạy cho quen thói chấp nhận không chút đắn đo hàng loạt từ ngữ tục tĩu trắng trợn trong những cuốn tiểu thuyết ba xu, ắt sẽ kinh ngạc khi không thấy chúng ở đây. Song, nếu người biên tập, vì chiều lòng kẻ đoan chính ngược đời này, phải tìm cách giảm bớt hoặc lược bỏ những cảnh mà loại đầu óc nào đó có thể gọi là “kích dục” (liên quan đến việc này, xin xem phán quyết bất hủ được Ngài John Woolsey đưa ra ngày 6 tháng Mười Hai năm 1933 về một cuốn sách khác còn bộc tuệch hơn nhiều), thì sẽ phải thôi luôn việc xuất bản “Lolita” vì chính những cảnh mà người ta cẩu thả kết tội rằng tự thân chúng mang biểu hiện sắc dục, lại là những yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất trong tiến triển của một bi kịch kiên định hướng đến mục tiêu không gì khác hơn là tôn vinh đạo đức. Kẻ yếm thế có thể nói rằng văn hóa phẩm khiêu dâm thương mại cũng tuyên bố y như thế; người hiểu biết có thể phản bác bằng cách khẳng định rằng lời thú tội đầy nhiệt huyết của “H.H.” chỉ là cơn bão trong ống nghiệm; rằng ít nhất 12% đàn ông trưởng thành ở Mỹ — ước tính “dè dặt” theo tiến sĩ Blanche Schwarzmann (thông báo miệng) — năm nào cũng tận hưởng, bằng cách này hay cách khác, cái trải nghiệm đặc biệt mà “H.H.” mô tả với sự tuyệt vọng đến vậy; rằng nếu người viết nhật ký điên khùng của chúng ta, vào cái mùa hè định mệnh năm 1947 ấy, tìm đến một bác sĩ chuyên khoa tâm thần giỏi tay nghề, thì chắc sẽ không có thảm họa nào xảy ra; nhưng nếu vậy, cũng sẽ chẳng có cuốn sách này. Có thể miễn cho kẻ viết bình luận này việc nhắc lại những gì đã từng được nhấn mạnh trong các cuốn sách và bài giảng của mình, cụ thể là “gớm ghiếc” nhiều khi chỉ là từ đồng nghĩa với “khác thường”, và tác phẩm nghệ thuật vĩ đại dĩ nhiên bao giờ cũng độc đáo, và vì thế, nó phải tạo được, bởi bản chất của mình, ít nhiều bất ngờ gây sốc. Tôi không hề có ý định ngợi ca “H.H.” Không nghi ngờ gì nữa, ông ta kinh khủng, ông ta đáng khinh bỉ, ông ta là một tấm gương sáng ngời về bệnh phong hủi đạo đức, là hỗn hợp của hung bạo và hài hước, những cái, có lẽ, đã để lộ ra nỗi khốn khổ cùng cực của ông ta, nhưng không giúp thu hút được cảm tình. Ông ta đồng bóng nặng. Nhiều ý kiến tình cờ của ông ta về con người và cảnh vật đất nước này tỏ ra rất lố bịch. Sự thành thật tuyệt vọng đập suốt lời thú tội không miễn trách ông ta khỏi những tội lỗi xảo trá quỷ quyệt. Ông ta bất bình thường. Ông ta không phải là người quân tử. Nhưng ma quái làm sao, cây vĩ cầm ngân nga của ông ta có thể gợi nên niềm trìu mến và thương cảm đối với Lolita, khiến ta vừa mê mẩn với cuốn sách, vừa ghê tởm chính tác giả của nó!   Là hồ sơ bệnh án, “Lolita” chắc chắn sẽ trở thành tư liệu kinh điển trong giới tâm thần học. Là tác phẩm nghệ thuật, nó vượt lên trên những khía cạnh sám hối của mình; và đối với chúng tôi, điều còn quan trọng hơn cả ý nghĩa khoa học và giá trị văn chương, là tác động đạo đức của cuốn sách lên những độc giả nghiêm túc; bởi trong nghiên cứu cá nhân đắng cay này có ẩn náu một bài học phổ quát; đứa bé ương ngạnh, người mẹ ích kỉ, gã biến thái hổn hển khát dục, họ không chỉ là những nhân vật sống động trong câu chuyện độc nhất vô nhị: họ cảnh báo ta về các khuynh hướng nguy hiểm; họ chỉ ra những cái ác đang sung mãn. “Lolita” khiến tất cả chúng ta — các bậc cha mẹ, các nhà hoạt động xã hội, các nhà giáo dục — phải dốc toàn tâm toàn ý, với tinh thần cảnh giác cao hơn và tầm nhìn xa rộng hơn nữa, cho nhiệm vụ nuôi dạy một thế hệ tốt đẹp hơn trong một thế giới an toàn hơn.   Widworth, Mass. Tiến sĩ John Ray, Jr.   5 tháng Tám năm 1955   Lolita là một trong những kiệt tác văn chương nhân loại, đã được dịch qua hàng chục ngôn ngữ. Với mục đích mang Lolita đến với độc giả Việt Nam, tôi tình nguyện dịch lại toàn bộ tác phẩm.   Mọi trích dẫn đều phải ghi rõ nguồn, và không được dùng vào mục đích thương mại khi chưa có sự cho phép của người dịch.     Thiên Lương   Mời các bạn đón đọc Nàng Lolita (Tiếng Việt) của tác giả Vladimir Nabokov & Thiên Lương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hải Âu Phi Xứ - Quỳnh Dao
Câu chuyện bắt đầu trên một chuyến phà cuối cùng của một ngày gần lễ giáng sinh. Mộ Hòa tình cờ gặp Hải Âu một người thiếu nữ không quá hai mươi tuổi, không đẹp lắm, nhưng dáng dấp phảng phất một cái gì u buồn, thanh cao... Có lẽ đấy chính là điểm đã thu hút chàng. Nhưng cuộc hội ngộ đó không được bao lâu Hải Âu đã ra đi. Và thật ngạc nhiên khi Mộ Hòa gặp Diệp Khanh một ca sĩ hạng bét giống hệt như Hải Âu. Mọi thắc mắc và bất ngờ về hai người thiếu nữ anh đã gặp chưa nguôi thì Vũ Thường xuất hiện. Dần dần anh đã nhận ra tình cảm của mình dành cho Vũ Thường. Cả hai người đều yêu nhau một cách mãnh liệt. Nhưng càng ngày sự ngờ vực của Mộ Hòa về những hành động trước đây Vũ Thường làm càng khiến anh không dám nhìn nhận tình cảm giữa hai người. Cho đến khi Vũ Thường quyết định cưới Thế Triệt để trả thù anh. Nhưng cuộc hôn nhân đó có đem đến hạnh phúc cho cô không? Vũ Thường đã phải trả giá như thế nào cho cuộc hôn nhân này? Và cô có tìm được hạnh phúc thực sự của mình không? Câu chuyện sẽ kết thúc ra sao?... *** Quỳnh Dao (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1938) là nữ nhà văn, biên kịch, nhà sản xuất người Đài Loan chuyên về tiểu thuyết lãng mạn dành cho độc giả nữ. Tập truyện ngắn đầu tay của bà mang tên Ngoài khung cửa sổ ra đời trong khoảng thời gian bà tốt nghiệp trung học và dự thi vào đại học nhưng không thành công. Các tác phẩm của bà được dịch ra và xuất bản rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thập niên 1960. Ngoài ra, bà còn là một nhà sản xuất phim với những bộ phim truyền hình dựa theo chính nội dung các cuốn tiểu thuyết của bà. Tác phẩm: Song Ngoại (1963) Hạnh Vận Thảo (1964) Lục Cá Mộng (1964) Thố Ty Hoa (1964) Dòng sông ly biệt (Yên Vũ Mông Mông - 1964) Triều Thanh (1964) Kỷ Độ Tịch Dương Hồng (1964) Thuyền (1965) Nguyệt Mãn Tây Lâu (1966) Hàn Yên Thúy (1966) Tử Bối Xác (1966) Tiễn Tiễn Phong (1967) Thái Vân Phi (1968) Xóm vắng hay Vườn rộng sân sâu (Đình Viện Thâm Thâm - 1969) Tinh Hà (1969) Thủy Linh (1971) Hồ ly trắng (Bạch Hồ - 1971) Hải Âu Phi Xứ (1972) Băng Nhi (1985) Tuyết Kha (1990) Hoàn Châu cát cát (1999) Đoạn Cuối Cuộc Tình (tháng 8/2006) Không phải hoa chẳng phải sương (2013) Thủy Vân Gian Cỏ Xanh Bên Hồ Giấc Mộng Sau Rèm Mời các bạn đón đọc Hải Âu Phi Xứ của tác giả Quỳnh Dao.
Đồng Làng Đom Đóm - Trịnh Thanh Phong
Nửa đêm, bệnh viện chỉ còn ánh điện mờ mờ trong phòng bác sĩ trực ca. Vết thương đã dịu hơn mọi ngày nhưng chẳng hiểu tại sao Thăng không ngủ được, cứ nhắm mắt vào là thấy Hữu và những người đồng đội nối hàng nhau hành quân về cánh đồng. Thăng nghĩ chắc mình bị quá khứ ám ảnh. , Thăng khẽ tự ngồi dậy men ra chỗ cửa sổ ngồi. Đêm càng tĩnh lặng Thăng càng thấy mình bé nhỏ, nó chả khác gì hạt bụi, hạt cát bên triền sông, khe suối. Thế mà một thời Thăng cứ vung tay chém gió thay mặt cho cấp này cấp kia bắt mọi người phải một phép nghe theo. Lúc ấy Thăng chỉ thấy mình to lớn, chói loà. Những ý kiến trái ngược Thăng thường cho là tàn dư ma quái, nó chả khác gì những con đom đóm hoang dại nhập nhòe ở khắp bụi bờ ngoài kia. Bây giờ ngồi đây, trước ô cửa này nhìn ra ngoài cánh đồng, đêm mênh mông thế, cánh đồng rộng lớn thế, những con đom đóm cứ rờn tít lên cao rồi lại tự sa xuống mặt cánh đồng rồi đậu nhập nhòe quanh các bờ bụi, có con to như những cái bóng đèn cứ rập rờn quanh khu mộ nhà Hữu. Đêm đêm trên cánh đồng những con đom đóm vẫn nhập nhòe tỏa sáng như thế. Nhìn những con đom đóm nhập nhoè, Thăng lại hình dung ra những cái chai đèn và bó roi cật nứa vẫn để cạnh án thờ phía dưới bức tượng Hữu. Cái chai đèn tự nói với Thăng chính cái ánh sáng nhập nhòe Thăng từng cho là ma quái ấy đã tỏa sáng tâm hồn Hữu, Hữu đã biết soi vào đốm sáng nhỏ nhoi ấy để tìm con đường đến với ban mai, để Hữu dám sống, dám chết và dám tái sinh ra sự sống trong hoàn cảnh phải chết!... Điều kỳ diệu và bất diệt đó là thằng cu Nghị, là cái bệnh viện của Dần bây giờ. Chính nhờ có cái bệnh viện này mà cái Trầm đứa con gái duy nhất của Thăng cũng được tái sinh... Điều đó chứng tỏ sức tỏa sáng từ những con đom đóm mới là mãnh liệt, nó không giống như bó đuốc sáng rực giữa con đường nhưng nó có sức chiếu dọi để con người ta nhìn rõ những đường tơ mạng nhện giăng mắc khắp ngõ ngách làm cản trở bước chân người đến ban mai!... Nguồn sáng trong đôi mắt Hữu đã tích tụ từ những đốm sáng ấy để đi, để đến, để chết! Chính vì vậy khi chết rồi tâm hồn Hữu đã góp thêm lửa vào con đom đóm để nó thêm lấp lánh và mãi mãi kỳ diệu trong tâm hồn mỗi con người. Cái bệnh viện của Dần ngày hôm nay đang nói lên điều ấy. Sau cuộc chiến biết bao nhiêu lộn xộn, lòng người lập lờ đen trắng, sẵn sàng giẫm lên nhau vì những quyền lợi của riêng mình. Nếu như tâm hồn Dần không tích tụ được những điều giản dị thiêng liêng từng ánh lên trong cái chai đèn đom đóm chắc Dần cũng chụp giật được một vị trí để yên thân ở một cái bệnh viện nào đó rồi với khả năng lại có bằng sắc chuyên môn cao Dần cũng sẽ to dần lên hoặc tiêu lụi đi giữa đám người bon chen ấy. Dần đã thoát ra được, thoát ra từ tinh thần độc lập của mình và cái tinh thần ấy từng được âm thầm bén lên, cháy lên từ cái chai đèn những năm tháng chia ngọt xẻ bùi với Hữu! Họ cùng sinh ra trong nhọc nhằn, lớn lên từ nhọc nhằn gian khổ, hy sinh nên họ đã sống, sống đoàng hoàng cuộc sống của con người. Cái bệnh viện của Dần tự chứng minh điều đó. Cơ nghiệp của Dần hôm nay là hình thù từng nhen nhóm trong trái tim khát vọng của Hữu, từng luôn đối lập với Thăng từ ngay trong những ngày nóng bỏng của cuộc chiến. Ngồi đây, ngay dưới cái bệnh viện này nhìn ra cánh đồng kia Thăng càng thấy sự lấp lánh diệu kỳ trong những cái chai đèn đom đóm đã thắp sáng tuổi thơ và làm nên một tâm hồn nhân hậu, lì lợm như đá tảng của Hữu. Tại sao bây giờ Thăng mới nhận ra điều này? Thăng thút thít khóc một mình. Cái vết thương bọn lâm tặc phang vào chỗ gióng chân lại nhói lên. Thăng khẽ bo lấy và đôi bàn tay mềm mại như có phép thánh của bà má lúc xử lí vết thương cho Thăng lại hiện ra. Thăng càng hiểu nếu như không có má thì Thăng sẽ trở thành một thằng què, ngay trong thời bình!... Cám ơn sự lưu lạc của Hữu đã đưa má về đây cùng với Dần làm lớn to thêm cái uy tín của bệnh viện, là cái núi cho đám người nghèo tựa vào khi trời có phong ba bão táp, làm lành lại hình hài và mở ra trong tâm hồn Thăng những chân trời tươi đẹp. Thăng nghĩ đến cái Trầm, ngày mai nó cũng thành bác sĩ, nó sẽ là đồng nghiệp của má, của Dần và nếu trời cho nó với thằng Nghị thành đôi lứa, Thăng sẽ bán cả cánh rừng của mình để được đóng góp vào việc mở mang cái bệnh viện này. Ngày ấy sẽ thành hiện thực và Thăng hình dung ra con đường thằng Nghị đang về. Ngày mai nó sẽ có hai mảnh bằng đại học. Một bằng Nông nghiệp, một bằng của trường viết văn Nguyễn Du. Đương nhiên nó sẽ thạo nghề trồng lúa, những cánh đồng sẽ là người mẹ ôm ấp nuôi dưỡng, tạo thế để nó trồng cấy sinh sôi thêm những mùa màng và nuôi dưỡng tâm hồn nó viết lên những trang văn, những trang văn của làng quê có gió nắng đồng làng và mùi thơm rơm rạ... Những trang văn ấy sẽ xòe thành bóng mát che nắng, che mưa và luôn lấp lánh như ánh lân tinh kỳ diệu tỏa ra từ con đom đóm ngàn ngàn đêm sáng giữa đồng làng soi tỏ những mơ ước, khát vọng cho những dân thường trên con đường đến ban mai. Nó là mầm sống bất diệt của Hữu đã được Dần bảo vệ, giữ gìn qua mọi hoàn cảnh, nó sẽ làm được mọi việc. Bởi trong tâm thức nó luôn lấp lánh ánh lân tinh từ cái chai đèn của bố Hữu đã soi tỏa tâm lòng mẹ Dần để sinh nở và nuôi lớn nó đến giờ!... Nghĩ vậy Thăng cũng không còn băn khoăn việc nó đi tìm hài cốt những người thân của bà má đưa về khu mộ của gia đình nữa. Thăng nhận ra đó là việc phải làm. Bà má đã cứu sống và cưu mang Hữu, đưa Hữu về đây, bây giờ chính bàn tay má lại đang làm lành vết thương của Thăng do bọn lâm tặc gây ra. Là con người từng chịu áp lực của chiến tuyến chiến tranh nhưng má đã giữ được tấm lòng của người thầy thuốc, người mẹ Việt. Và bây giờ má ra đây với Dần vẫn bằng tấm lòng của một thầy thuốc chỉ có một điều giúp đỡ và cứu sống đồng loại. Là kẻ sống sót sau cuộc chiến tại sao bây giờ Thăng mới vỡ ra điều này! Thăng lặng nhìn ra cánh đồng, những con đom đóm vẫn nhập nhòe sáng khắp các bụi bờ, những con đom đóm ấy đã tỏa sáng tâm hồn và làm nên khát vọng của Hữu. Ấy thế mà một thời Thăng vẫn cho nó chỉ là ma quái tàn dư. Thăng từng vận động hết sức tỏa của cái bó đuốc lí tưởng Thăng ấp ủ để xua đuổi những tàn dư đó. Thế mà nó vẫn lấp lánh sáng!... Mà chính nhờ nó Thăng mới nhìn rõ được mình. Thăng ôm mặt khóc và nhận thấy những lời Hữu từng đanh thép với Thăng trong những ngày khói lửa trên chiến tuyến là có thật. " Tư duy như thế nếu là kẻ sống sót sau cuộc chiến không những anh cũng chỉ là giặc, mà anh còn kéo theo một thế hệ làm giặc nữa, đám giặc ấy còn tàn nhẫn hơn đám giặc đang lố nhố trước ta bây giờ!... " Đúng sau cuộc chiến Thăng đã từng góp phần làm giặc gây thêm nhiều tang tích cho những cánh đồng đã được những người ngã xuống trong cuộc chiến giành giật về cho mẹ! Thăng lại ôm mặt khóc. Ngoài cánh đồng những con đom đóm vẫn nhập nhòe bay lên. Trong phòng trực bà má và cô y tá vẫn thức, dường như má nghe được từng nhịp thở của mỗi con bệnh đang điều trị ở cái bệnh viện này và cả tiếng đập trong trái tim Thăng nữa! Đời làm thầy thuốc má đã chữa lành bao vết thương cho con người nhưng đã mấy ai biết được vết thương trong lòng má ngoài vợ chồng con cái Hữu! Thăng vò đầu đau đớn, cái cột sóng trên dòng sông Máu năm xưa lại duềnh lên cuốn Hữu trôi đi và câu chuyện má kể lúc vớt Hữu từ cái bè rác nơi bến sông đưa về xóm Núi Khuất! Hữu ở đấy và cái vuông đất chỗ Hữu yên nằm lại chính là bàn tay má nâng niu đặt Hữu xuống rồi lại đưa Hữu về đây. Đời Hữu mãi mãi gắn bó với cánh đồng. Cánh đồng! Dù ở trong kia, ngoài này, đêm đêm vẫn lấp lánh sáng lên ánh sáng kì diệu của những con đom đóm!... Chính ánh sáng nhỏ nhoi này đã thắp sáng lại đời Thăng và nó mãi mãi là đốm sáng lấp lánh của cánh đồng để con cái nhìn vào đó mà đi về với ban mai. Nghĩ vậy, Thăng không còn bị cái bó đuốc rực sáng ám ảnh trong đầu mình nữa. Thăng vịn tay vào song cửa và nghĩ phải làm một bản kiểm điểm thật nghiêm túc trước cánh đồng Mẹ và linh hồn Hữu! ... Mời các bạn đón đọc Đồng Làng Đom Đóm của tác giả Trịnh Thanh Phong.
Thung Lũng Ảo Vọng - Đào Hiếu
Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái Dù Đến Rồi Đi ... Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** X e đi qua một vùng gò đống hoang dã. Phú để ga nhỏ, xe đi êm rơ. Hồng ngồi phía sau một mình còn Phạm Sơn thì ngồi đàng trước, tay lăm lăm khẩu các-bin M2. Vài ba con cu cườm đi kiếm ăn trên lối mòn, ngẩng lên nhìn chiếc xe Jip, ngơ ngác. - Dừng lại! Phạm Sơn bảo nhỏ Phú và từ từ nâng súng lên. Ông ngắm thật kỹ nhưng khi vừa định bóp cò thì đôi chim bay mất. Xe lại bò tới, dừng lại nhiều lần, mấy lần nổ súng nhưng không có lần nào phải xuống xe để nhặt chim. Cuối cùng xe vào rừng. Đường rừng chỉ là một lối mòn chạy giữa những gốc cây. Phạm Sơn dường như đã mất hứng. Ông cất khẩu các-bin vào trong xe và đốt thuốc lá. Cả ba người trên xe đều im lặng. Hồng tựa vào hai cái xách tay cho đỡ mỏi và lim dim mắt. Tiếng máy xe nghe rất rõ. Không khí mát, dễ chịu. Quanh chỗ Hồng ngồi là ba cái lưới cá được gói sơ sài, mấy chai lọ đựng hột giống, meo nấm, và một cái thùng giấy lớn không biết đựng những gì bên trong. Mấy lần chiếc thùng ngã xuống người Hồng khiến cô phải vừa lim dim mắt vừa dùng tay chặn nó lại. Tuy vậy một lúc tay cô buông thõng và lần này thì chiếc thùng giấy lộn nhào và bật nắp, lòi ra mấy hộp băng vệ sinh của phụ nữ. Hồng ngạc nhiên cầm lên xem rồi cất lại trong thùng giấy. Cô tỉnh ngủ và ngồi ngay dậy, đặt thùng giấy vào một chỗ chắc chắn hơn trong khi Phạm Sơn lặng lẽ hút thuốc, nhìn cảnh vật chung quanh. Phú nói: - Sắp tới một cái dốc. - Gần tới nơi chưa? - Xuống dốc là tới. Liên đội đóng ngay dưới dốc. Xe ngừng lại. Phú bước ra khỏi xe và nhìn xuống dốc. Anh ngoắc Hồng xuống. Đó là một cái dốc cong vòng, hai bên tre rừng mọc kín mít. - Dốc ghê quá, Hồng nói, có dài không? - Bảy cây số. Hôm trước có xe bộ đội qua cua. Đi luôn xuống hố. Xe mắc trên rừng tre, treo toòng teng ở đó, nhờ thế mà không ai chết. Xe bò xuống dốc. Con dốc quanh co hiểm trở và đầy bất ngờ. Con dốc đi hoài không tới đáy. Tại sao phải chọn một nơi đóng quân hiểm trở như thế, Hồng tự hỏi và cố bám vào thành xe cho khỏi bị dằn xóc, va chạm. Xe vẫn bò xuống. Bóng tối cứ lan dần từ những lùm cây chằng chịt, mai phục hai bên hay bất ngờ nhô ra ở một khúc quanh. Rừng tre vẫn dày đặc, bạt ngàn, đâm tua tủa lên từ dưới vực sâu. Lối mòn bị nước lũ xẻ dọc, ngang thành những đường rãnh lớn. Xe xóc dữ dội. - Cái gì gầm lên vậy? Phạm Sơn hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Thung Lũng Ảo Vọng của tác giả Đào Hiếu.
Tình Ca Cho Huế Đổ Nát - Nhã Ca
M i Ki thân mến, Tôi phải nói với Ki về thành phố đó. Chúng ta đã sinh ra, đã sống ở đó, ít nhất là một phần của tuổi thơ ấu. Tuổi thơ ấu của Ki đã cho tôi thật đầy đủ. Những ngày ở bãi biển Thuận An, đi lang thang ngoài biển, bắt cào cào, đào trộm khoai, chơi cút bắt, hay thơ thẩn một mình ngoài đồng rộng chạy đuổi theo những bông cỏ lăn theo gió. Tắm ở phá Tam Giang, giữa trưa nắng, cát nóng bỏng như lửa. Ki đã chạy nhảy, chân giẫm từ đám cỏ khô này qua đám cỏ khô khác để tới rừng dương, nhìn một cái hồ nhỏ đầy cá mặt trăng. Cá mặt trăng, những mặt trăng nhỏ, trắng muốt của tuổi thơ chúng ta tung tăng trên mặt hồ, bên những cành dương rủ bóng, kênh kiệu một cách đáng yêu với bờ đê, với bãi biển kêu gọi, rủ rê suốt ngày tháng. Rời bỏ Thuận An, Ki bé nhỏ, quê mùa của tôi bước chân lên thành phố. Bỡ ngỡ và rụt rè, bị bắt nạt, nước mắt, đó là đặc điểm của Ki thời đó. Bị bắt nạt là đáng lắm, bởi Ki chỉ biết có bãi cát trắng phau, với những đợt sóng liếm vào bờ suốt ngày không biết chán. Ki chỉ biết có những con đường làng cát bẩn rụng đầy hột keo khô, lẫn với vỏ nghêu, vò sò vỡ. Bị ném vào một thành phố đầy trẻ con tinh ranh, Ki làm sao chống đỡ nổi. Tội nghiệp Ki của tôi hồi tám chín tuổi với một phố Huế xa lạ, giục giã sự tò mò. Ki vẫn giữ khuôn mặt đen dịu, đôi mắt vàng chói nắng biển, mái tóc cắt ngắn kiểu con trai, mặc quần sọt với áo sơ mi bởi vì ba chúng ta muốn có một đứa con gái ngộ nghĩnh hơn là xinh đẹp. Ki bắt đầu đi học, Ki có bạn mới, Ki quên bãi biển Thuận An, quên làng quê buồn hiu nhưng thơ mộng đến nỗi có những đêm mơ thấy bầy cá mặt trăng bơi lội tung tăng trên mặt hồ đớp ánh sáng xanh mát, hoặc những cành dương dài như những cánh tay khẳng khiu vẫy vẫy, Ki đã khóc trong giấc ngủ. Hoặc đôi khi đang ngồi trong lớp học, Ki bỗng nghe thấy một âm thanh gì rì rào quen thuộc, Ki nôn nao cả người và chợt nhớ ra âm thanh đó giống tiếng sóng biển mà Ki đã nghe hoài huỷ hồi ở quê mẹ. Chúng ta thực tức cười phải không Ki, hồi đó chúng ta cứ tưởng Huế với Thuận An là hai miền xa cách như bây giờ Sài Gòn với Hà Nội vậy. Vừa biết Huế, gia đình ta ở An Cựu, cạnh nghẹo đường xay. Chúng ta có thể chạy lông bông, nhưng không còn được thong thả như hồi ở nhà quê nữa vì chúng ta phải canh chừng những chiếc xe nhà binh với những ông Tây to lớn, mặt luôn luôn đỏ kè như say rượu. Chúng ta thấy phía này có ruộng, phía kia có bờ sông, có cầu đúc nối sang bên chợ. Ki có còn nhớ cây bông búp cao mọc ở cạnh chân cầu đó chớ. Cây búp mà chúng ta thường ao ước nhặt những búp khô rụng, thổi phồng lên như đã từng thổi chiếc bong bóng lợn của dượng Tin cho hồi còn ở Thuận An. Thêm một hai tuổi gì đó, chúng ta rời An Cựu, được gửi học nơi nhà một ông giáo nhà ở tít dưới Mù U, Ki đã trốn học, đã khóc và bị ăn roi đến quắn đít vì bướng. Ki đi học đàng hoàng. Mùa nắng Ki mặc áo hoa, đi guốc. Mùa mưa, Ki còn nhớ không, chúng ta mang cái tơi bằng lá, tròng từ đầu xuống cổ, có sợi dây thừng nhỏ rút trước cổ, buộc chặt cho gió khỏi bay. Ngôi trường tiểu học ở thật xa tít giữa bãi hoang có nhiều đất sét. Xung quanh lại có nhiều mồ mả nữa. Những đứa trẻ tinh quái thường doạ có nhiều mả Tàu Ô lắm, rồi chúng ta được nghe nhiều chuyện kinh hoàng về giặc Tàu Ô. Nhà chúng ta ở nơi một con đường rất dốc. Dốc cao đến nỗi người lớn nói đứng trên đầu dốc có thể nhìn thấy cột cờ Phú Văn Lâu. Nhưng Ki nghểnh cổ, nhón chân, cũng chỉ nhìn thấy những đọt phượng mùa hè đầy bóng đỏ rực, mùa đông lủng lẳng những quả dài sắc cong như lưỡi mác. Phía trên đầu dốc kia là Đàn Nam Giao, nghe nói đường đi xa lắm, chân của Ki thì quá ngắn. Cho tới khi tôi đi được chiếc xe đạp, ngang qua con đường đất vòng quanh Đàn Nam Giao, tôi cười mãi về sự tưởng tượng của Ki hồi còn nhỏ, và nhớ Ki như một phần hồn, phần thơ ngây của mình đã mất vĩnh viễn. *** Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Tình Ca Cho Huế Đổ Nát của tác giả Nhã Ca.