Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khung Cửa Hẹp

Ngay từ tác phẩm này, Gide đã gây chú ý với lối viết phóng túng, phơi bày không chút giấu giếm những ham muốn vô luân, những nhục dục thấp hèn… Càng về sau, cùng với những biến động mạnh mẽ trong tâm hồn, Gide càng khiến người đọc sửng sốt với những sự thật được đưa ra ánh sáng dưới cái nhìn của một kẻ phi đạo đức. Ai đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh? Ai xô Alissa vào khung cửa hẹp? Định mệnh hay nghi ngẫu? Hoàn cảnh xã hội, tư tưởng tôn giáo, hay ý thức quyết tuyển tự do của con người, hay tâm thức của thiên tài sáng tác? Hay mọi thứ đó phối hợp? Ta tạm nói theo lối hồ đồ: chính Nguyễn Du đã đẩy Kiều vào lầu xanh; chính Gide đã xô Alissa vào khung cửa hẹp. Để làm gì? Vào phong trần, Thuý Kiều té sấp ngửa, mình mẩy đầy bụi, xiêm áo đảo điên, bị tước đoạt mọi quyền sống, chính khi đó Nguyễn Du lại đề huề đưa đức lý công thức ra khuyên giải; nhưng tại sao trong lời tương nhượng ôn tồn, bỗng dưng toàn thể vấn đề tư tưởng được đặt trở lại với xã hội Á Đông? Bước vào khung cửa hẹp băng tuyết, nằm chết lạnh giữa niềm trinh bạch cóng giá chơi vơi, tiếng than dài của Alissa bỗng báo hiệu cho xã hội Tây Phương biết rằng họ đã sống dở chết dở, suốt hai nghìn năm. Nghĩa là kể từ ngày những tiếng nói dậy từ nguồn sống thiên thu bị nhân gian hiểu theo lối hẹp hòi công thức. Đứng ở bình diện tư tưởng khác, chúng ta lại còn nghe ra ngôn ngữ hư vô bàng bạc. Gide cũng như Nguyễn Du đều suy tưởng lẽ hư vô đến tột vời, và còn đi xa hơn (*) hơn những thiên tài như Neitzsche, nhìn thấy chân trời phối hợp của hư vô và vĩnh thể, bắt gặp Lão Tử, Thích Ca, Perménide, Homère aède Hy-Lạp và người dân quê Việt Nam. *** Sinh thời, bạn bè André Gide thường khuyên ông bớt dung túng trong lối viết, đừng khiến văn chương trở thành thứ cổ vũ cho bản năng và tội phạm. Tuy nhiên, trong lễ trao giải Nobel năm 1947, ông lại được tôn vinh bởi chính sự trung thực và thấu đáo trong các sáng tác của mình. Bản thân Gide, trong suốt cuộc đời, đã phải đấu tranh giữa một bên là “những gì tồn tại trong mình” với một bên là khung cửa hẹp luân lý dẫn tới đời sống thanh giáo trong sạch. André Gide sinh ngày 22/11/1869 tại Paris, trong một gia đình trung lưu theo đạo Tin lành. Cha ông là giáo sư luật tại Đại học Paris nhưng sớm qua đời năm 1880, khi nhà văn mới 11 tuổi. Từ nhỏ, Gide được mẹ nuôi dạy nghiêm khắc theo giáo lý tôn giáo. Dù vậy, sự hà khắc từ mẹ không dập được bản năng nổi loạn trong Gide. Từ những ngày còn rất nhỏ, Gide đã bộc lộ là đứa trẻ cứng đầu, nhiều thói hư tật xấu. Nhưng cũng chính sự ngang ngạnh này mang tới cho nhà văn những hoài bão lớn, đưa ông tới con đường chông gai ít người dám mạo hiểm bước vào, để tìm ra chân lý và chính con người mình.   *** Kẻ khác có thể đã viết nên một tập sách; nhưng câu chuyện tôi kể ra đây, tôi đã hồi tưởng lại bằng cả tâm hồn, vì thế hiệu năng tinh thần đã mòn mỏi. Vậy tôi sẽ viết lại những kỷ niệm nầy một cách rất đơn sơ : thảng hoặc câu chuyện có rách nát đôi lần, cũng là việc ngoài ý muốn. Bịa đặt, thêm thắt, để vá víu những kỷ niệm, tiếp nối những kỷ niệm lại với nhau làm gì. Sự cố gắng trau chuốt lại câu chuyện sẽ làm hỏng mất nỗi hân hoan cuối cùng mà tôi còn mong được tìm thấy trở lại lúc kể cho bạn nghe. Năm tôi sắp mười hai tuổi thì cha tôi mất. Không còn gì giữ mẹ tôi ở lại Havre nữa, cha tôi đã từng là một y sĩ nơi đây. Mẹ tôi bèn quyết định đến Paris, ở thủ đô việc học của tôi sẽ được chu đáo hơn. Người mướn một gian nhà nhỏ, gần vườn Luxembourg. Cô Ashburton cùng đến ở với chúng tôi. Cô Flora Ashburton, không gia đình, họ hàng, vốn từ xưa đến ở với gia đình tôi, ban đầu cô là cô giáo của mẹ tôi, rồi bạn của mẹ tôi, sau cùng hai người trở thành thân thiết. Tôi lớn lên bên cạnh hai người đàn bà dịu dàng cùng mang một vẻ buồn sầu như nhau, mà ngày nay tôi chỉ còn gặp lại trong kỷ niệm màu tang. Ngày nọ, có lẽ sau khi cha tôi mất khá lâu, mẹ tôi đổi miếng tang đen trên chiếc mũ của người, bằng một miếng vải tím nhạt. Tôi ngạc nhiên : "Ồ, mẹ ạ ! Màu tím coi không hợp với mẹ tí nào cả". Qua ngày hôm sau, mẹ tôi thay lại màu vải đen cũ. Ngày nhỏ tôi ốm yếu luôn. Mẹ tôi và cô Ashburton, luôn luôn lo ngừa không cho tôi nhọc mệt, nếu không làm tôi trở thành một thằng lười, ấy quả thật vì tôi vốn ham thích làm việc. Khi trời chói chang bắt đầu vào hạ, cả hai người đàn bà cùng nghĩ rằng nên cho tôi từ giã đô thành, tôi đã quá xanh xao; thế là vào khoảng trung tuần tháng sáu, gia đình tôi thu xếp về miền Fongueusemare gần hải cảng Havre, cậu Bucolin sẽ đón tiếp chúng tôi tại đây hằng năm, khi trời bắt đầu vào hạ. Trong một khu vườn không rộng, không đẹp lắm, không có gì đặc biệt hơn những khu vườn "normăng" (*) khác, ngôi nhà cậu tôi, màu trắng, hai tầng lầu, kiểu giống những ngôi nhà thôn dã thời trước. Vài chục cánh cửa sổ ở mặt vườn phía trước mở về hướng đông; phía sau cũng chừng ấy cánh; hai bên là vách cao. Những cửa sổ lắp bằng nhiều khuôn kính nhỏ hình vuông, một vài khuôn vừa thay mới, trông tươi thắm quá giữa những tấm cũ, nhạt màu. Đôi tấm xấu có bọt sủi, nhìn qua đó, thì cây bên ngoài xiêu vẹo cả thân... người phát thư đi ngang, thình lình như nổi bướu trên lưng. Khu vườn hình chữ nhật, chung quanh là tường gạch. Đàng trước là một nội cỏ khá rộng, có bóng cây, lối đi trải sỏi, tường vôi được xây thấp xuống, nhìn qua thấy khu sân thôn trang bao quanh khu vườn; và một con đường đi giữa những hàng cây dẻ gai. Khu vườn sau nhà có phần rộng rãi hơn. Lối đi đầy hoa nở bên những hàng cây trồng dựa vách tường nam. Hàng cây nguyệt quế rất dày che khuất gió biển về trên đó. Một lối khác, dọc theo tường bắc, mất hút trong cây lá rườm rà. Các cô em họ tôi gọi là "lối âm u". Vào lúc hoàng hôn, ít khi dám lang thang ra đấy. Hai lối đi cùng dẫn tới vườn rau, vườn rau tiếp khu vườn, và thấp hơn vài bệ gạch... Rồi bên kia bức tường cuối vườn rau - bức tường có chừa một cửa kín – là khu rừng nhỏ, hai con đường trồng dẻ gai dọc theo bờ chìm vào, mất hút bên trong. Từ bực thềm phía tây, nhìn qua khu rừng thấp, thấy lại dãy cao nguyên bát ngát và sườn đồi trồng ngũ cốc giăng giăng. Tại chân trời, xa xa, thoáng bóng ngôi nhà thờ của một thôn bản nhỏ. Những chiều về tĩnh mịch, đôi làn khói xám vươn lên. Mỗi chiều hè, sau những buổi cơm tối, chúng tôi xuống chơi trong "vườn thấp". Chúng tôi lách qua cửa kín, tiến đến một cái ghế đá bên đường dẻ gai; ngồi đây có thể nhìn được cả xứ nầy; cậu tôi, mẹ tôi, và cô Ashburton ngồi xuống ghế đá, bên cạnh mái nhà tranh gần cái hầm đất vôi bỏ hoang đã lâu. Thung lũng nhỏ trước mặt, bàng bạc sương chiều. Nền trời vàng óng trên núi đồi xa xa... Chúng tôi vẫn còn dần dà mãi trong vườn... Trở vào nhà, nơi phòng khách, gặp lại mợ tôi; mợ tôi thường chả bao giờ cùng chúng tôi dạo vườn... Chúng tôi ở phòng riêng chong đèn đọc sách. Một lát khuya, chỉ còn tiếng chân mẹ, cậu, mợ, chậm rãi lên lầu về phòng riêng an giấc. Mời các bạn đón đọc Khung Cửa Hẹp của tác giả André Gide.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Muốn Sống (Sally Nicholls)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Muốn Sống PDF của tác giả Sally Nicholls nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Muôn Nẻo Đường Yêu (Tuyết Tiểu Thiền)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Muôn Nẻo Đường Yêu PDF của tác giả Tuyết Tiểu Thiền nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mười Giờ Rưỡi Đêm Hè (Marguerite Duras)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mười Giờ Rưỡi Đêm Hè PDF của tác giả Marguerite Duras nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân (Iulian Xêmiônốp)
Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân là một cuốn tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng của nhà văn Yulian Semyonov, ra đời năm 1969. Tác phẩm được xây dựng trên cơ sở tài liệu về kế hoạch vô hiệu hóa cuộc đàm phán riêng rẽ của ban lãnh đạo Đức Quốc xã với tình báo Mỹ vào mùa xuân năm 1945. Nhân vật chính của tiểu thuyết - một sĩ quan tình báo Liên Xô có tên Mikhail Isayev (mật danh Stierlitz). Bối cảnh truyện diễn ra vào tháng Hai, tháng Ba năm 1945, ngay trước thời điểm phát xít Đức đầu hàng Đồng minh. Câu chuyện trong Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân diễn ra vào những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Lúc này, quân đội Nga đang chiến đấu trên đất Ba Lan, Rumani, Hungari...Thành phố Berlin, với bảy tuyến phòng ngự che chở, đêm đêm bị máy bay oanh tạc dữ dội. Cũng trong những ngày tháng này, nhân viên tình báo Liên Xô Isayev đang hoạt động ở nước Đức phát xít với cái tên Stierlitz, đại tá SS phục vụ tại cơ quan an ninh quốc xã thuộc đế chế thứ ba đang trong một tình thế hết sức nguy hiểm. Tìm mua: Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân TiKi Lazada Shopee Bằng cách nào Stierlitz có thể bảo toàn được vị trí hoạt động của mình để hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cứu đồng đội thoát khỏi cái chết...***Yulian Semyonov (1931-1993)Là một trong các nhà văn Xô viết nổi tiếng, chuyên viết về thể loại trinh thám. Sau khi tốt nghiệp khoa Đông phương học ở Trường đại học tổng hợp Moskva, ông làm phóng viên lưu động cho nhiều tạp chí thanh niên, về sau làm đặc phái viên báo “Sự thật”. Ông đã đi hầu khắp các nước trên thế giới, đã đặt chân đến Bắc và Nam cực, đã viết bài từ Việt Nam và Cuba, Mỹ và Nhật. Lúc nào cũng thấy ông sửa soạn lên đường, vội vã, đi công tác đây đó, vậy mà khả năng viết văn của ông vẫn sung sức lạ thường. Yulian Semyonov là tác giả tám tiểu thuyết dài. Ông đã viết kịch bản cho năm bộ phim và hàng loạt phim truyền hình nhiều tập nổi tiếng cả ở Liên Xô lẫn nước ngoài. Đặc biệt, độc giả rất thích tiêu thuyết “Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân” của ông. Đây là tác phẩm tư liệu về một nhân viên tình báo Liên Xô hoạt động ở nước Đức phát xít: Maxim Maximovich Isaуev; đó cũng chính là đại tá SS von Stierlitz, phục vụ tại cơ quan an ninh quốc xã thuộc Đế chế thứ ba... Trả lời vô số câu hỏi của bạn đọc, Yulian Semyonov viết: “Có thể nào cho rằng Isaуev là một nhân vật tưởng tượng? Nhất quyết không. Hình tượng nhân vật này được đúc rút từ những con người chính trực hiện nay mà tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn vì họ đang trải qua một cuộc sống tuyệt vời, trung thực và dũng cảm”. ***Lúc đầu, Stierlitz không tin vào tai mình nữa, có tiếng họa mi hót lảnh lót trong vườn. Không khí lạnh giá, nhuốm màu xanh xanh, và mặc dù vạn vật xung quanh đã mang sắc thái mùa xuân rụt rè giống như một bức tranh màu vẽ bằng thuốc nước tinh tế, tuyết vẫn còn kết lại chặt cứng và người ta chưa thấy nó nhuốm màu thiên thanh phơn phớt, là cái màu báo hiệu đến đêm sẽ tan. Những thân cây cổ thụ khổng lồ đen sẫm lại. Trong vườn thoang thoảng mùi cá vừa ướp lạnh. Chưa thấy cái mùi hăng hăng của lá cây thông và cây dương năm ngoái thối rữa; đó là mùi vị của mùa xuân. Thế mà lại có tiếng họa mi véo von, lảnh lót tràn ngập khu vườn tối om và yên tĩnh này. Stierlitz nhớ đến ông nội của anh. Ông cụ có cặp lông mày dày, có bộ râu quai nón. Ông cụ biết nói chuyện với các loài chim. Ông cụ gọi đàn chim sẻ bay đến, rồi ngồi dưới gốc cây mà ngắm chúng hồi lâu. Đôi mắt của ông cụ đưa đi đưa lại nhanh như mắt chim, và bầy sẻ hoàn toàn không sợ hãi ông cụ. - Pinh - pinh - ta - ra - ra! - ông cụ huýt sáo gọi. Bầy chim sẻ đáp lại một cách vui vẻ và tin cậy. Mặt trời đã lặn hẳn và những thân cây cổ thụ màu đen in những cái bóng đều đặn, tím sẫm trên mặt tuyết trắng. “Mày chết cóng mất thôi, họa mi đáng thương ơi, - Stierlitz nghĩ bụng. Anh khép vạt áo choàng lại và quay vào nhà. - Cũng chẳng giúp gì nó được, vì họa mi là loại chim duy nhất không tin con người.” Stierlitz xem đồng hồ; đã bảy giờ đúng. “Hắn sắp tới rồi đây, - anh thầm nghĩ. - Bao giờ hắn cũng đúng hẹn. Mình đã tự đề nghị hắn từ nhà ga đi thẳng qua rừng đến đây, để tránh mặt bất cứ ai. Không sao. Mình sẽ đợi hắn một lát. Chờ đợi ở một chỗ đẹp như thế này cũng dễ chịu thôi...” Stierlitz bao giờ cũng tiếp tên điệp viên ấy ở đây, trong cái biệt thự nhỏ xinh xắn đứng bên bờ hồ. Địa điểm bí mật này là nơi thuận tiện nhất, vì nó ở giữa rừng sồi vắng vẻ, xa cách hẳn mọi người. Biệt thự này trước kia là của hai vợ chồng nghệ sĩ, múa tại nhà hát “Opera”. Họ đã chết trong một trận ném bom, để biệt thự lại cho các con. Stierlitz thuyết phục thượng tướng SS Paul trong ba tháng liền, để y đồng ý chi tiền mua biệt thự đó. Mấy đứa con của hai vợ chồng nghệ sĩ nọ đòi rất đắt, cho nên thượng tướng Paul, kẻ phụ trách Cục tài chính của hai tổ chức SS* và SD*, cương quyết từ chối lời thỉnh cầu của Stierlitz. Y nói: “Ông điên à? Sao ông không tìm mua một chỗ nào rẻ hơn? Sao ông say mê cái biệt thự xa xỉ ấy đến thế nhỉ? Chúng tôi không thể vung tiền qua cửa sổ được đâu! Như vậy là quá ư tàn nhẫn đối với một đất nước đang mang gánh nặng chiến tranh như nước ta”. Schutzstaffel, là một tổ chức bán quân sự trực thuộc Đảng Quốc xã dưới trướng Adolf Hitler, hoạt động tại Đức dưới thời Cộng hòa Weimar và Đệ Tam Đế chế cũng như trên khắp các vùng lãnh thổ châu Âu bị Đức chiếm đóng trong chiến tranh thế giới thứ hai.Sicherheitsdienst, Cục An ninh, là một cơ quan thuộc lực lượng SS của Đức Quốc xã. Từ năm 1944, SD nắm luôn ngành Quân báo.Stierlitz đành phải lôi cấp trên trực tiếp của mình đến xem biệt thự. Đó là Walter Schellenberg, ba mươi tư tuổi, thiếu tướng, chỉ huy Cục tình báo chính trị của tổ chức SD. Là một người có trí tuệ siêu việt biết thưởng thức vẻ đẹp tinh tế. Schellenberg hiểu ngay rằng không thể tìm được địa điểm nào tốt hơn để nói chuyện với các điệp viên quan trọng, bằng biệt thự này. Việc mua bán được tiến hành qua một số người mạo tên. Và gã Bolsen, kỹ sư trưởng của “nhà máy hóa chất quốc dân mang tên Robert Ley” nhận được quyền sử dụng tòa biệt thự. Bolsen thuê ngay một người gác cổng với tiền lương khá cao và cho ăn đầy đủ. Cái gã Bolsen ấy chính là đại tá SS von Stierlitz. Bày bàn ăn xong, Stierlitz vặn radio. Đài phát thanh Luân Đôn đang truyền đi một bản nhạc vui. Dàn nhạc của một người Mỹ tên là Glenn Miller đang chơi một khúc nhạc trong phim “Khúc nhạc chiều của thung lũng mặt trời”. Thống chế Himmler rất mê bộ phim ấy, nên đã cho mua bên Thụy Điển một bản mang về. Từ đó, nó thường được đem ra chiếu trong hầm ngầm ở phố Hoàng tử Albrecht, nhất là giữa các trận ném bom đêm, khi không thể tiến hành hỏi cung những người bị bắt. Stierlitz gọi dây nói cho người gác cổng chạy lên. Anh bảo: - Hôm nay, anh có thể về nhà với các con. Sáu giờ sáng mai, anh hãy trở lại đây, và nếu tôi chưa đi, thì anh hãy pha cho tôi một cốc cà-phê đặc, thật đặc vào, rõ chưa? “Yustas gửi Alex,Từ Berlin.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân PDF của tác giả Iulian Xêmiônốp nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.