Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đi Tìm Sylvie Lee

Đi tìm Sylvie Lee - cuốn sách đầy bất ngờ với những bí mật, sự lừa dối và những khúc quanh không thể lường trước. Đó là câu chuyện về mối quan hệ phức tạp giữa ba người phụ nữ, hai chị em và mẹ của họ trong một gia đình nhập cư gốc Trung Quốc, và khám phá những gì xảy ra khi con gái lớn của người chị biến mất, một loạt bí mật gia đình xuất hiện. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Về tác giả:  Jean Kwok là một cây bút của tờ New York Times và là tác giả có sách bán chạy nhất trên thế giới với tác phẩm Girl in Translation và Mambo in Chinatown. Cô được vinh danh với rất nhiều giải thưởng trong lĩnh vực viết lách. Cô đã nhận bằng cử nhân trường Đại học Havard và hoàn thành bằng Thạc sĩ Nghệ thuật lĩnh vực tiểu thuyết tại Đại học Columbia. Jean Kwok hiện sống tại Hà Lan. *** Amy Thứ hai, ngày 2 tháng 5 Tôi đang đứng bên bậu cửa sổ trong căn hộ nhỏ của chúng tôi trên phố Queens, nhìn bố và mẹ tất tả đi làm. Nửa khuất sau tấm rèm cũ rách mà mẹ tự khâu, tôi thấy họ đi cạnh nhau trên đường đến ga tàu điện. Ở lối vào, họ dừng lại và nhìn nhau một lúc. Những lúc như này, tôi thường nín thở, để đợi bố chạm vào gò má mẹ, hoặc chờ mẹ bật khóc, hoặc mong một trong hai người sẽ đưa ra dấu hiệu nào đó về mối quan hệ thật sự của họ. Thay vào đó, mẹ ngượng nghịu giơ tay vẫy, để lộ cánh tay gầy gò dưới nếp gấp của chiếc khăn choàng đen, còn bố thì xộc thật nhanh vào cửa nhà ga đang mở khi giao thông buổi sáng gầm rú trên con phố bận rộn. Sau đó, mẹ cúi đầu và tiếp tục cuốc bộ đến tiệm giặt ủi địa phương nơi bà làm việc. Tôi thở dài và rời khỏi cửa sổ. Tôi cần làm điều gì đó có ích hơn. Tại sao tôi lại cứ theo dõi bố mẹ? Bởi tôi đã lớn tồng ngồng nhưng vẫn ru rú trong nhà và vô công rỗi việc. Nếu sơ sảy, tôi rồi cũng sẽ như mẹ. Rụt rè, cam chịu, bán mình vào công việc chẳng đồng dư. Thế nhưng, tôi lại bắt gặp một ý niệm khác về bố và mẹ sau ngần ấy thời gian. Sự say sưa trên khuôn mặt mẹ khi bà đọc tiểu thuyết ngôn tình Trung Quốc trong đêm, thể loại mà bố coi thường. Cách mà bố cố với lấy khuỷu tay mẹ khi ông đi phía sau, rồi ông chợt nhận ra, và rụt tay lại. Tôi ngang qua tủ quần áo trong phòng ngủ của mình, và dừng mắt nơi tấm áp phích treo trên tường - gần như khuất sau mớ giấy tờ lộn xộn và đống giặt ủi. Đó là một câu nói của Willa Cather mà tôi luôn yêu thích: “Trái tim của một người luôn là một khu rừng tối, bất luận nó kề cận với chủ nhân như thế nào”. Tôi không chắc mình có tin vào xúc cảm nhưng những lời của bà ấy thì không bao giờ làm tôi thất vọng. Căn hộ chật chội của chúng tôi vẫn còn phảng phất hương trầm mẹ thắp sáng nay trên bàn thờ bà ngoại. Bà mất ở Amsterdam một tuần trước. Bà sống ở đó với gia đình Tan, gồm có chị họ của mẹ, dì Helena; chồng của dì, dượng Willem; và cậu con trai Lukas, ba mươi ba tuổi, bằng tuổi chị gái tôi, Sylvie. Tôi chưa gặp bà bao giờ nhưng nỗi đau buồn mà mẹ mang như một con thác đổ dồn lên lòng tôi đến ngập lụt. Quầng mắt mẹ tấy đỏ và buốt rát. Mấy đêm rồi, trong khi bố trốn trong phòng ngủ, tôi nắm chặt lấy tay mẹ khi bà nằm co ro trên ghế sofa, nén tiếng khóc, cố ngăn dòng lệ ào chảy bằng một miếng khăn giấy cũ nhàu. Hôm nay tôi cũng mặc đồ đen, vì mẹ, trong khi bố vẫn ăn vận như thường ngày. Không phải là ông không quan tâm. Chỉ là ông không thể để chúng tôi nhìn thấy cảm xúc ấy. Chị Sylvie sống cùng bà và gia đình dì Helena tại Hà Lan trong suốt chín năm đầu đời và chị vừa bay trở lại đó vào một tháng trước, ngay khi nghe tin bà ốm. Chị cũng đang quản lý một dự án tư vấn cho công ty của mình tại đó. Chị Sylvie rực rỡ, lớn hơn tôi bảy tuổi, đã kéo theo cuộc sống hào nhoáng ở châu Âu về tới căn hộ sặc mùi bắp cải của chúng tôi ở phố Queens khi tôi chỉ mới hai tuổi. Thường sẽ có một sự phân chia đều giữa các chị em gái về sự xinh đẹp và thông minh, nhưng trong gia đình tôi, cả hai phẩm chất ấy đều thuộc về chị. Và tôi, chỉ là một cái bóng, suy cho cùng, chỉ là một âm vọng nhạt nhẽo. Nếu tôi không yêu chị Sylvie rất nhiều, thì tôi hẳn sẽ rất ghét chị ấy. Làm thế nào mà một sinh vật xuất sắc như Sylvie lại được sinh ra từ những người trần tục như mẹ và bố? Cứ mỗi khi tôi học với bất kì giáo viên nào từng dạy chị Sylvie, họ đều thốt lên rằng, “Ah, em là em gái của Sylvie Lee đây mà” với đầy ắp những mong đợi. Và tôi sẽ dõi chờ khi những hy vọng cao ngút ấy của họ bỗng chốc biến thành sự hoang mang trước vẻ chậm chạp và đần độn mà tôi thể hiện. Tiếp đó họ sẽ thất vọng, và cuối cùng, là sự thờ ơ. Sylvie từng theo học tại Đại học Princeton, nhận bằng Cử nhân Kỹ thuật Hóa từ Viện Công nghệ Massachusetts, đi làm một vài năm, sau đó trở lại trường học để lấy tiếp bằng Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh từ Harvard. Bây giờ chị ấy là một chuyên gia tư vấn quản lý, một công việc mà tôi không bao giờ hiểu được dù cho chị có cố giải thích bao nhiêu lần. Cũng như tôi, Sylvie rất mê đồ ngọt, nhưng khác hẳn với tôi, chị ấy không bao giờ lên cân. Tôi đã từng trố mắt nhìn chị ăn lần lượt hết từng cái bánh trứng mà chẳng hề ảnh hưởng gì đến vòng eo thanh thoát, như thể nội lực mãnh liệt bên trong chị sẽ đốt cháy đám calo kia, tiêu hủy hết mọi thứ mà chị ấy nạp vào. Sylvie từng bị nhược thị khi còn nhỏ và đeo miếng che mắt trong nhiều năm. Giờ thì thứ duy nhất không hoàn hảo trên khuôn mặt đáng yêu của chị ấy là mắt phải có phần lác nhẹ khi chị ấy mệt mỏi. Hầu hết mọi người đều không nhận thấy, nhưng đôi khi tôi cũng tự an ủi mình với khiếm khuyết nhỏ này của Sylvie - Thấy chưa, chị ấy cũng không hẳn đã hoàn hảo. Tôi tiến đến hộc tủ gồ ghề, nơi tôi đã cẩn thận bọc và giấu một chùm lô quất nhỏ màu cam. Nếu tôi để chúng trên mặt bếp bằng nhựa vinyl và để bố bắt gặp một con ốc sên yếu ớt ẩn mình giữa những quả mọng này, bố chắc sẽ giết nó. Bố làm việc trong một chợ cá ở khu phố Tàu. Ông buộc phải trở nên vô cảm với cái chết - trước những con cá nằm ngoi ngóp trên mặt thớt gỗ cho đến khi ông kết liễu chúng bằng con dao pha trên tay mình. Con ốc nhỏ với lớp vỏ trong mờ vẫn còn lóp ngóp bò trên một trong những quả lô quất và trông nó có vẻ ổn. Bất cứ điều gì đủ mạnh để tồn tại trên hành trình gian nan từ Trung Quốc thì xứng đáng có cơ hội để sống tiếp. Tôi lấy một cái túi nhựa đã qua sử dụng, nhẹ nhàng bỏ quả lô quất và con ốc sên vào đó, rồi bước đến cửa. Tôi giũ nhẹ chiếc áo khoác mỏng và cầm lấy ví cùng điện thoại. Trước khi bước ra ngoài, tôi tháo cặp kính dày cộm màu tím và nhét chúng vào túi áo. Tôi cũng chẳng buồn đeo kính áp tròng. Sự hợm hĩnh và biếng nhác hòa vào cuộc sống trong thế giới mờ ảo của tôi gần như mọi lúc. Tôi lê bước qua vài tòa nhà tiến đến công viên nhỏ gần đó. Vẫn còn sớm, nên một số cửa hàng vẫn đóng cửa im lìm, và tôi rùng mình khi một làn gió lạnh buốt quét xuống vỉa hè bê tông. Một mùi hôi thối xộc lên từ nhựa đường quẩn quanh, dọc khắp các tòa nhà trống hoắc như hù dọa tôi. Một người mẹ đang kéo một đứa trẻ nhỏ bẩn thỉu đằng sau vội ngoảnh mặt khi đi ngang qua tôi. Không ai nhìn vào mắt ai nơi đông người, quạnh quẽ và tẻ nhạt này - không ai cả, ngoại trừ những kẻ đang cố gây sự. Lúc này, một nhóm người đang lang thang trước ô cửa sổ vỡ ở cửa hàng với tấm biển to oạch về thứ gì đó giảm giá năm mươi phần trăm. Không hơn không kém, họ chỉ như những vệt đen trong tầm nhìn hạn chế của tôi khi rú lên sau lưng tôi, “Nỉ-hào cô em! Có thể cho anh gửi cái“trứng cuốn” vào “miếng chả” của cô em không?” rồi phá lên bằng một tràng cười khản đặc. Họ phải nói mấy lời đần độn này mỗi ngày sao? Miễn là họ vẫn giữ khoảng cách, sự mờ ảo trong tầm nhìn khiến tôi thoải mái như trong một cái kén. Khi gần như mù, tôi có thể vờ như mình cũng bị cũng điếc. Một ngày nào đó, tôi sẽ tiếp tục chương trình học của mình tại Đại học Thành phố New York và hoàn thành chứng chỉ giảng dạy để tôi có thể thoát khỏi nơi này. Tôi sẽ rời xa cả mẹ và bố. Việc tôi đã bỏ học năm ngoái cũng chẳng đáng lo ngại. Tôi có thể làm được. Tôi đã có bằng cử nhân tiếng Anh. Tôi gần tới đích rồi. Tôi có thể thấy chính mình đang đứng trước một lớp học đầy những đứa trẻ. Chúng đang lắng nghe, cười vui trước những câu chuyện cười tôi kể, đôi mắt mở to trước sự rực rỡ của văn học mà chúng đang đọc, và tôi sẽ không bỏ sót bất cứ một từ nào. Tỉnh lại đi, Amy. Tất cả những gì mày có thể làm bây giờ là một vị cứu tinh ốc sên, đó cũng không hẳn là một biến chuyển tồi đâu. Sylvie và tôi đều theo đạo Phật, và một số ý niệm, như tất cả những gì trân quý trong cuộc sống, vẫn ở lại với chúng tôi. Khi còn nhỏ, chúng tôi thường rượt đuổi nhau quanh căn hộ với lưới bắt bướm, cố bắt ruồi và rồi lại thả chúng ra. Thế nhưng, như được chứng thực bởi bố và những-sinh-vật-biển- khác, tôn giáo chỉ tồn tại cho đến khi ta giáp mặt với sự khắc nghiệt của cuộc sống thường nhật. Công viên vẫn đang hồi sinh sau mùa đông khắc nghiệt và tôi vật vã tìm cho mình một vị trí đẹp rợp lá. Tôi rón rén gập người giữ con ốc giữa ngón trỏ và ngón cái khi điện thoại di động đổ chuông. Tôi nhảy lên và suýt thả rơi con ốc. Tôi đặt nó xuống, xoay xở để kéo điện thoại ra khỏi áo khoác, và nheo mắt để đọc số. Tôi vừa định trả lời thì người gọi đã cúp máy. Dãy số rất dài, bắt đầu với 31+. Tôi đã nhìn thấy đầu số này trước đây trên điện thoại của Sylvie. Là một người từ Hà Lan - có lẽ là anh họ xa của tôi, Lukas, bởi anh ấy không bao giờ gọi cho tôi. Anh ấy hay nói chuyện với chị Sylvie. Tôi dò thử phí cuộc gọi cho Lukas ở Amsterdam rồi lưỡng lự. Hy vọng anh ấy sẽ gọi lại. Tôi đi thẳng tới một tiệm đĩa. Tôi thích la cà ở một trong những chốt phát nhạc của họ nhưng hầu như chẳng mua thứ gì. Bụng tôi thắt lại khi nghĩ đến núi tiền vay sinh viên, chất chồng theo từng tấm bằng. Nhiều năm luẩn quẩn, cố gắng xác định những gì tôi muốn làm với cuộc đời mình trước khi quyết định chọn việc đi dạy - nhưng rồi, tật nói lắp lại trở lại khi tôi đứng trước nhóm thực tập. Dù tôi gần như đã bỏ được, nhưng nỗi sợ hãi về việc nói lắp đã chứng minh rằng nó luôn mạnh mẽ như nó vốn có: tất cả những khuôn mặt trống rỗng đó, sự hoảng loạn như một cái chăn dày khiến tôi nghẹt thở. Đôi lúc, tôi nghĩ, lẽ ra tôi nên an phận là một kẻ nhập cư thất học như mẹ và bố. Vài con chim non rời tổ và vút cao, như chị Sylvie, những con khác thì bối rối, và run rẩy, rồi rơi bổ xuống đất. Cuối cùng, tôi không thể đối diện với các bạn cùng lớp và giáo viên của mình nữa. Và chị Sylvie, tất nhiên, là người bảo lãnh cho tôi khi các khoản vay của tôi vượt quá thời gian gia hạn. Chị ấy đã thanh toán mà không nói một lời. Chị Sylvie, khá giả, ít nhất là so với tôi, nhưng chị ấy không giàu đến mức có thể gánh vác thêm một khoản chi phí mà không cảm thấy hề hấn gì. Chị và chồng chị, anh Jim, thậm chí còn đang nặng vai khoản vay sinh viên hơn cả tôi, anh Jim thì không kiếm được nhiều tiền từ công việc tư vấn hướng nghiệp tại một trường công lập ở Brooklyn. Mặc dù có tiền thừa kế, nhưng bố mẹ của anh cho rằng người trẻ nên tự kiếm tiền, thế nên anh ấy sẽ không nhận được một xu nào cho đến khi họ mất, ngoại trừ món quà khôi hài mà họ đã cho anh khi cưới chị Sylvie. Còn tôi, thay vì phụ giúp bố và mẹ, những người đã làm lụng vất vả nhiều năm trời, thì tôi lại đang sống trong căn hộ của họ và ăn bám họ hằng ngày. Tôi hiện tại vẫn lông bông, mặc dù khả năng đánh máy của tôi rất nhanh - cũng là kỹ năng duy nhất mà tôi có, nhưng công việc thì khan hiếm. Do kinh tế mà thôi, tôi phân bua với tất cả, nhưng tất nhiên là tôi rõ hơn ai hết, bởi chỉ có tôi mới hiểu rõ nhất về mình. Chị Sylvie nói rằng tôi không có đủ tiềm năng, tôi bực dọc và bảo chị ấy thôi đi, để cho tôi yên. Trong cửa hiệu, tôi đi đến quầy nhạc cổ điển và bắt đầu thư giãn ngay khi giọng hát mượt mà, êm ái của Anna Netrebko phát ra từ chiếc loa. Cô ấy hát bài Verdi. Các kệ đĩa CD nằm gọn gàng bên cạnh các bảng xếp hạng âm nhạc và những thùng đĩa nhựa nối tiếp nhau. Những cây guitar và vĩ cầm cũ xếp thẳng hàng trên tường. Tôi thật sự thích cái cách mùi giấy, đồ sơn mài và nước tẩy hương chanh tỏa hương. Zach, một anh chàng đáng yêu, đã đi làm trở lại. Ít nhất, tôi tin là anh ấy hấp dẫn. Rất khó để chắc chắn khi không có kính - thứ giúp tôi không bị “đứng hình” nếu đến gần anh ta. Đối với tôi, những đường nét trên khuôn mặt và cơ thể của anh ấy thật lôi cuốn, tôi yêu giọng nói của anh ấy - ấm áp, hào sảng và trong trẻo. Anh ấy luôn có vẻ như đang mỉm cười với tôi. “Này, Amy. Tuần này cậu muốn nghe gì?” Tôi cố gắng thể hiện sự thân thiện trên khuôn mặt mình nhưng dường như tôi đang biến nó trở nên nhăn nhó đến mức ngượng nghịu. “Anh có gợi ý nào không?” Anh ấy chỉ việc để cho khách hàng nghe thử các đĩa nhạc nhưng dường như chưa bao giờ lưu tâm đến những lần lượn lờ của tôi trong cửa hiệu. “Vậy, Joseph Szigeti thì sao?” Tôi hăng hái đến mức quên cả xấu hổ. “Tôi vừa đọc một bài báo về bản thu Prokofiev Concerto No.1 in D của anh ấy.” “Đang rất sốt đấy,” anh ấy nói và lấy ra một đĩa CD. “Anh ta là minh chứng rằng kỹ thuật hoàn hảo không phải là tất cả.” Ngay khi chúng tôi đi đến quầy nghe, điện thoại của tôi đổ chuông. “Xin lỗi”, tôi lí nhí nói. “Tôi phải nghe máy.” Tôi cúi đầu và rời cửa tiệm. Tôi bắt máy và ngay khoảnh khắc nghe thấy giọng anh Lukas, tôi biết có chuyện chẳng lành xảy ra. Đường truyền đầy nhiễu sóng, có thể do cuộc gọi xuyên Đại Tây Dương. Tôi lấy tay bịt tai bên kia lại để cố nghe rõ hơn. “Amy, anh cần nói chuyện với Sylvie ngay,” Lukas nói. Giọng anh ấy căng thẳng và đầy gấp gáp với ngữ điệu Hà Lan của anh nặng hơn là tôi nghĩ. Tôi nhíu mày. “Nhưng chị ấy đang ở Hà Lan chỗ anh mà.” Anh ấy thở mạnh đến mức tôi có thể nghe thấy nó qua điện thoại. “Sao cơ? Không có, cô ấy đã bay về đó vào thứ bảy. Giờ này phải đến nơi rồi chứ. Em không nghe tin gì từ chị em sao?” “Nhà em còn không biết là chị ấy đang về. Em mới nói chuyện với chị ấy sau đám tang của bà. Khi đó là khi nào nhỉ? Thứ năm, phải không? Em nghĩ chị ấy sẽ ở lại lâu hơn. Chị ấy cũng có nhắc đến dự án của chị ở đấy vẫn chưa xong.” “Sylvie vẫn không trả lời điện thoại. Anh rất muốn nói chuyện với cô ấy”. Rõ ràng, một người có trách nhiệm như chị Sylvie sẽ báo cho chúng tôi biết ngay nếu chị ấy quay lại. Chị ấy lẽ ra đã đến gặp mẹ và kể cho mẹ nghe về bà. Tim tôi bắt đầu đập mạnh như có một vết cắt dưới da. Phải có một vài lời giải thích đơn giản nào đó chứ. Tôi cố gắng trấn an: “Đừng lo lắng, em sẽ xem chuyện gì đang xảy ra.” “Uhm, làm ơn hãy tìm hiểu xem có chuyện gì nhé. Khi nào tìm thấy cô ấy, bảo Sylvie gọi cho anh, được chứ? Ngay lập tức nhé.” Một khoảng lặng rợn người. “Anh hy vọng cô ấy sẽ không có chuyện gì.” Tôi vội đeo kính và nhanh chóng đến tiệm giặt khô nơi mẹ làm việc. Mùi kinh khủng của hơi nước và hóa chất bao trùm lấy tôi khi tôi đẩy cánh cửa mở. Tôi thấy mẹ đang đứng sau một cái quầy dài, lí nhí một thứ tiếng Anh bập bẹ với một người phụ nữ ăn vận đẹp đẽ, mái tóc vàng óng ả sau lưng. “Chúng tôi rất bực khi một cái cúc áo đã bị long ra sau khi nhận lại mớ đồ này.” Bà khách vừa nói vừa đẩy về phía mẹ một chiếc áo sơ mi sọc của nam. “Vô cùng xin lỗi bà!”. Khuôn mặt nhỏ bé của mẹ dường như thêm gầy gò và xanh xao trong bộ quần áo đen, đôi mắt sưng lên vì khóc. “Tôi sẽ sửa nó”. Người phụ nữ gõ bộ móng tay được cắt tỉa cẩn thận lên mặt quầy. Giọng bà ta vừa cáu gắt vừa ra vẻ trịch thượng, như thể bà ấy đang nói chuyện với một đứa trẻ phạm lỗi. “Chất lượng dịch vụ thật sự không tốt như chúng tôi mong đợi, đặc biệt là sau khi lên giá đấy.” “Rất xin lỗi bà!”, mẹ lặp lại. Tôi nhìn trừng trừng về phía tấm lưng xương xẩu của bà ta. Tôi muốn nói với bà ấy rằng chủ cửa hiệu tăng giá chứ mẹ tôi chẳng được lợi gì trong đó. Mẹ thậm chí còn chưa được tăng lương trong suốt từng ấy năm làm việc ở đây - phải đứng suốt cả ngày, khiêng hàng đống quần áo nặng trịch, rồi giặt, ủi và sửa chúng. Nhưng miệng tôi cứ ngậm chặt. Tôi đợi cho đến khi bà khách mắng mỏ mẹ xong và rời đi. Mặc dù đang buồn, nhưng khi thấy tôi, nụ cười lại làm bừng sáng khuôn mặt mẹ. Tuy có thể hiểu một ít tiếng Hoa, nhưng tôi không bao giờ học nói cho đàng hoàng, vì vậy mẹ luôn nói chuyện với tôi bằng tiếng Anh. “Sao con lại ở đây, Amy?” Tôi đã định không làm mẹ lo lắng nhưng tôi nhận ra mình đang ghì chặt cổ tay bà, vò nát chiếc áo blouse vải polyester mỏng manh. “Anh họ Lukas vừa gọi cho con. Anh ấy nói, chị Sylvie đã bay về nhà vào cuối tuần trước, nhưng chị ấy không nhấc máy.” “Ay yah.” Mẹ thảng thốt lấy tay che miệng. Đôi mắt to đen của bà trợn trắng. “Nó không nói với chúng ta là nó về. Nó nhất định vẫn ổn. Chỉ là nhầm lẫn gì đó thôi. Con gọi anh Jim chưa?” “Con đã thử mọi cách nhưng anh ấy không trả lời. Không có vụ rơi máy bay hay chuyện gì xảy ra, phải không mẹ?” “Tất nhiên là không! Con đang nói bậy gì vậy!” Mẹ vuốt trán ba lần bằng bàn tay trái gầy guộc để xua đuổi những xui xẻo trong lời nói tôi vừa thốt ra. Mẹ nhìn chằm chằm tôi cho đến khi tôi cúi người để mẹ có thể làm điều tương tự với tôi. Tôi và mẹ có chiều cao gần như nhau và khi chợt nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chúng tôi trong gương ở cửa hàng, tôi mới chợt nhớ rằng tôi trông giống bà đến mức nào - ngoại trừ việc tôi đeo một cặp kính dày và không thể nào so sánh với hình ảnh của mẹ khi còn trẻ. Mẹ từng là cô gái đáng yêu nhất trong làng chúng tôi ở Quảng Đông. Bây giờ ở độ tuổi 50, làn da của mẹ vẫn đẹp với một vài nếp nhăn mờ, lớp kem mềm mượt làm nổi bật đôi mắt ấm áp, và có gì đó dịu dàng nhưng hoang dã trong ánh mắt của bà, như một chú nai vàng trong rừng thông. “Con đi đến nhà chị đi. Xem chuyện gì xảy ra. Hãy lấy chìa khóa, trong lọ gừng khô ở nhà.” “Con có chìa khóa riêng. Chị Sylvie có đưa cho con trước khi chị ấy đi. Nhưng mẹ có chắc không, mẹ?” Tôi thấy ngại khi nghĩ đến việc vào nhà chị Sylvie mà không có sự cho phép. Tâm trí tôi rối loạn: Nếu anh Jim ở đó thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra đây? Và điều gì có thể xảy ra với chị Sylvie? “Chắc, chắc chắn mà,” mẹ khẳng định. “Con hãy đi ngay đi! Nhanh lên!” Mời các bạn đón đọc Đi Tìm Sylvie Lee của tác giả Jean Kwok & Liên Thảo (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bắc Cực Quang (Vật Chất Tối của Ngài #1)
Bắc Cực Quang là phần đầu của một câu chuyện gồm ba tập. Bối cảnh của tập đầu tiên được đặt trong một vũ trụ giống như của chúng ta, nhưng lại khác biệt về rất nhiều mặt. Tập thứ hai, Con dao kì ảo, di chuyển giữa ba vũ trụ: vũ trụ của Bắc Cực Quang; vũ trụ mà chúng ta biết; và một vũ trụ thứ ba, cũng rất khác biệt với vũ trụ của chúng ta về nhiều mặt. Tập cuối cùng của bộ ba cuốn, Ống nhòm hổ phách, di chuyển giữa vài vũ trụ khác nhau. *** “Ví như giấc mơ tuyệt vời nhất, luôn đầy thuyết phục và cũng rất phức tạp, ngập tràn những ngạc nhiên, lo sợ và thích thú. Sức sáng tạo của Pullman dành cho nhân vật, cốt truyện và logic khiến người ta phải ghen tị với chất xám của ông.” - Telegraph “Những mạch truyện viễn tưởng, kinh dị và sự điên rồ khủng khiếp hoà lẫn với tài năng hiếm có đầy mê hoặc.” - The Times “Pullman là bậc thầy trong việc kết hợp tạo hình nhân vật hoàn hảo và xây dựng cốt truyện mạch lạc, duy trì một nhịp độ nhanh khi tạo các cảnh chồng nối lên nhau với áp lực khó cưỡng. Viên ngọc lấp lánh này sẽ khiến độc giả thuộc mọi lứa tuổi phải ngóng đợi hồi tiếp theo về những cuộc phiêu lưu của Lyra.” - Publishers Weekly “Một câu chuyện viễn tưởng đầy kinh ngạc, một bộ trinh thám nảy lửa và một sự phản ánh đáng suy ngẫm về tình trạng của loài người. Đây là một cuốn sách có thể được thưởng thức ở nhiều cấp độ.” - Guardian *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (His Dark Materials), cũng giống như Chúa tể của những chiếc nhẫn - tải eBook, Biên niên sử Narnia - tải eBook và Harry Potter - tải eBook, là một trong những bộ truyện giả tưởng Anh ngữ dành cho trẻ em đã được đánh giá cao của thời đại. Hai tập sau của truyện lần lượt là Kỳ Ảo Đao hay Thanh Gươm Huyền Bí (The Subtle Knife) và Hổ Phách Kính (The Amber Spyglass). Ánh Sáng Phương Bắc đã được hãng phim Hollywood New Line Cinema chuyển thể thành phim "The Golden Compass", đã khởi chiếu vào ngày 5 tháng 12 năm 2007 tại Anh (7 tháng 12 tại Mỹ và 26 tháng 12 tại Úc). Phim là sản phẩm có kinh phí cao nhất của hãng này kể từ phim Chúa tể của những chiếc nhẫn. Ánh Sáng Phương Bắc miêu tả một vũ trụ giả tưởng, nơi mà có phù thủy bay, chiến binh gấu Bắc cực, linh hồn của con người trong dạng thú và một chế độ tăng lữ độc tài. Nhân vật chính của truyện là một bé gái mồ côi 11 tuổi tên Lyra Belacqua. Cô bé được nuôi nấng bởi một khoa học gia, Ngài Asriel. Ngài Asriel bị giáo hội bỏ tù vì nghiên cứu Bụi, một vật chất tối được cho là ẩn chứa đầy tội lỗi. Người bạn thân của Lyra là Roger bị bắt cóc bởi tổ chức Những Kẻ Nuốt Chửng (The Gobblers) và cô bé quyết định lên đường giải cứu bạn mình. Một người phụ nữ quyền lực tên Marisa Coulter đã đề nghị giúp Lyra. Trước khi đi, hiệu trưởng trường Jordan tặng cho cô bé Chân La Bàn (Alethiometer), một dụng cụ thần kỳ chỉ đến sự thật. Tuy nhiên, khi Lyra phát hiện ra bà Coulter là người xấu, cô bé chạy trốn, thoát khỏi sự truy đuổi và được một nhóm người Gypsy cưu mang. Họ tiết lộ Ngài Asriel và bà Coulter chính là cha mẹ ruột của cô bé. Lyra cùng họ vượt biển tiến về Bắc Cực, theo chỉ dẫn của Chân La Bàn. Trên đường, họ bị tấn công và Lyra bị bắt về Bolvangar, nơi giam giữ những đứa trẻ bị bắt cóc. Lyra dùng chiếc Chân La Bàn và trí thông minh của mình vượt ngục cùng những đứa trẻ khác. Chúng được phi hành gia Lee Scoresby, nữ hoàng ma thuật Serafina Pekkala và chiến binh gấu Iorek Byrnison cứu thoát. Sau đó, Lyra đi cứu Lord Asriel. Ông vừa thành công trong việc khám phá ra nguyên lý của Bụi và cầu nối với một vũ trụ song song. Truyện kết thúc khi linh thú của Roger bị té xuống vực, làm cậu bé chết theo. Lyra và Lord Asriel bước qua thế giới mới. *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (Philip Pullman) là series Fantasy kinh điển và đồ sộ đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có Huân chương Carnegie!! Tác phẩm kể về chuyến phiêu lưu giữa các thế giới song song của Lyra Belacqua và Will Parry – hai đứa trẻ tầm thường có số phận trói buộc với nhau bởi những thế lực vượt xa thế giới của chính mình. Chúng sẽ gặp các phù thuỷ và gấu mặc giáp, thiên thần sa ngã cùng loài quỷ ăn linh hồn. Và cuối cùng, số phận của tất cả những người đang sống - và những người đã chết - sẽ phụ thuộc vào chúng... *** Lyra và linh thú của cô bé bước qua khu Đại sảnh đang tối dần, cẩn thận nép vào phía khuất với căn bếp. Ba chiếc bàn lớn chạy dọc theo chiều dài Đại sảnh đã được xếp ngay ngắn, các bộ đồ bằng bạc và thủy tinh phản chiếu chút ánh sáng le lói, còn những bộ trường kỉ đã được kéo ra sẵn sàng đón khách. Chân dung các vị Hiệu trưởng cũ được treo cao trong bóng tối lờ mờ chạy dọc các bức tường. Lyra tiến tới bục rồi quay lại nhìn cánh cửa bếp đang mở. Khi không thấy ai, cô bé liền bước lên đứng cạnh bàn trên. Các chỗ ngồi được bày biện đồ bằng vàng chứ không phải bạc, mười bốn chiếc ghế không phải trường kỉ bằng gỗ sồi mà là ghế bằng gỗ gụ bọc đệm nhung. Lyra dừng lại bên cạnh chiếc ghế của Hiệu trưởng và dùng móng tay khẽ búng chiếc li lớn nhất. Âm thanh lảnh lót vang khắp Đại sảnh. “Cậu lại nghịch linh tinh rồi,” linh thú của cô bé thì thào. “Cư xử đúng mực đi nào.” Linh thú của cô có tên Pantalaimon, hiện giờ nó đang trong hình dạng một con bướm đêm có màu nâu thẫm hòa lẫn với bóng tối trong Đại sảnh. “Trong bếp ồn lắm, họ không nghe được đâu,” Lyra thì thầm lại. “Ông Quản lí thì còn lâu mới vào trước tiếng chuông đầu tiên. Đừng có loạn lên thế.” Nói vậy nhưng cô vẫn đặt bàn tay lên chiếc cốc pha lê đang rung. Pantalaimon dập dờn bay về phía trước rồi luồn qua cánh cửa hé mở của Phòng nghỉ ở đầu bên kia bục cao. Một lúc sau nó xuất hiện trở lại. “Không có ai trong đó đâu,” Pantalaimon thì thầm. “Nhưng chúng ta phải khẩn trương lên.” Vừa cúi thấp người sau chiếc bàn trên, Lyra vừa lao đi, qua cánh cửa vào Phòng nghỉ, rồi đứng lên nhìn xung quanh. Ánh sáng duy nhất trong phòng tới từ lò sưởi. Cô bé thấy đám củi cháy rực khẽ sụp xuống, tung lên ống khói một dải tia lửa lấp lánh. Cô đã sống phần lớn thời gian trong Học viện, nhưng chưa từng thấy bên trong Phòng nghỉ: chỉ có các Học giả và khách khứa của họ được phép vào, phụ nữ thì không bao giờ. Thậm chí những người hầu gái cũng không dọn dẹp trong này. Đó là việc của riêng Quản gia. Pantalaimon đậu xuống vai Lyra. “Hài lòng chưa? Đi được rồi chứ?” Nó khẽ nói. “Đừng có ngốc thế! Tớ muốn ngắm xung quanh chút đã!” Đó là một căn phòng lớn, với chiếc bàn trái xoan bằng gỗ hồng sắc bóng loáng bày đủ loại bình rượu, cốc chén, cùng cái máy nghiền thuốc bằng bạc với một giá để tẩu thuốc. Trên tủ buffet cạnh đó là một lò hâm nhỏ và giỏ đựng quả anh túc. “Trông cũng tươm tất đấy chứ, phải không Pan?” Lyra thì thào. Cô bé ngồi xuống một trong những chiếc ghế bành da màu xanh lá. Cái ghế sâu đến mức Lyra thấy mình gần như đang nằm ra, nhưng cô liền ngồi thẳng dậy và gấp chân lại để ngắm những bức chân dung trên tường. Chắc lại thêm mấy ông Học giả già nữa đây: khoác áo choàng, để râu, mặt u sầu, họ nhìn ra khỏi khung tranh với vẻ phản đối đầy nghiêm nghị. “Cậu nghĩ họ nói về chuyện gì?” Lyra hỏi; hoặc bắt đầu hỏi, vì trước khi kịp nói hết câu, cô bé nghe thấy có tiếng nói bên ngoài cửa. “Ra sau ghế - nhanh!” Pantalaimon khẽ kêu lên. Chỉ trong một tích tắc, Lyra đã lao ra khỏi ghế bành và núp phía sau nó. Đó không phải là chỗ tốt nhất để trốn: cô bé đã chọn cái ghế ở ngay giữa phòng, và trừ khi cô giữ yên lặng tuyệt đối… Cánh cửa bật mở khiến ánh sáng trong phòng thay đổi: một trong những người bước vào cầm theo đèn và đặt nó lên trên tủ buffet. Lyra có thể nhìn thấy chân ông ta trong ống quần màu xanh thẩm và đôi giày đen bóng loáng. Đó là một người phục vụ. Đột nhiên một giọng nói trầm vang lên: “Ngài Asriel đã tới chưa?” Đó là Hiệu trưởng. Trong lúc nín thở, Lyra nhìn thấy linh thú của người phục vụ (một chú chó, giống như hầu hết linh thú của những người phục vụ khác) rảo bước vào và lặng lẽ ngồi xuống bên chân ông. Sau đó đôi chân của Hiệu trưởng cũng hiện ra, trong đôi giày đen xù xì ông vẫn hay mang. “Chưa ạ, thưa Hiệu trưởng,” Quản gia nói. “Cũng chưa có tin gì từ Cảng hàng không ạ.” “Ta đoán khi tới ông ấy sẽ đói. Anh dẫn ông ấy vào thẳng Đại sảnh nhé?” “Đã rõ, thưa Hiệu trưởng.” “Anh cũng đã chắt sẵn chút rượu Tokay đặc biệt cho ông ấy rồi chứ?” “Vâng, thưa Hiệu trưởng. Rượu năm 1898, như ngài đã lệnh. Tôi nhớ là Ngài ấy rất thích loại đó.” “Tốt. Giờ thì anh đi được rồi.” “Ngài có cần đèn không, thưa Hiệu trưởng?” “Có, cứ để nó lại. Đến bữa tối anh vào khơi bấc được chứ?” Người Quản gia khẽ cúi chào rồi quay đi, linh thú của ông ngoan ngoãn chạy theo sau. Từ chỗ không-hẳn-là-chỗ-trốn của mình, Lyra quan sát ông Hiệu trưởng bước tới bên tủ quần áo lớn bằng gỗ sồi trong góc phòng, gỡ áo choàng dài của mình ra khỏi mắc, rồi vất vả kéo nó lên người. Hiệu trưởng vốn là một người khỏe mạnh, nhưng giờ khi đã quá bảy mươi tuổi, những cử động của ông trở nên khó nhọc và chậm chạp. Linh thú của Hiệu trưởng mang hình dạng một con quạ. Ngay khi ông vừa khoác xong áo, nó liền nhảy xuống khỏi tủ và đậu lên vị trí quen thuộc trên vai phải của ông. Lyra có thể cảm thấy lông của Pantalaimon dựng đứng lên vì lo lắng, dù nó không phát ra tiếng động nào. Bản thân cô bé thì thấy hào hứng một cách dễ chịu. Vị khách mà Hiệu trưởng nhắc tới, Ngài Asriel, là bác của cô, một người đàn ông mà cô bé vừa kính trọng vừa rất e sợ. Nghe nói ông có tham gia vào chính trị cấp cao, thám hiểm bí mật, chiến tranh viễn xứ, và cô bé không bao giờ biết được khi nào ông sẽ xuất hiện. Ngài Asriel rất dữ tợn: ông mà bắt được Lyra ở đây thì cô bé sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng cô có thể chịu đựng được điều đó. Tuy nhiên, điều cô thấy tiếp đó đã thay đổi tất cả. Ông Hiệu trưởng lấy từ trong túi ra một mảnh giấy gấp và đặt nó lên bàn. Ông nhấc nút chiếc bình đựng một loại rượu vàng óng ả ra, mở gói giấy và đổ một dải bột trắng vào bình trước khi vo tròn tờ giấy lại rồi vứt vào lửa. Sau đó ông lấy một cây bút chì ra khỏi túi, ngoáy rượu cho tới khi bột tan và đóng nút lại. Linh thú của ông khẽ kêu lên. Hiệu trưởng nhỏ giọng đáp lại rồi nhìn xung quanh bằng đôi mắt đục sụp mí trước khi bước ra khỏi cánh cửa mà ông đã vào. Mời các bạn đón đọc Bắc Cực Quang (Vật Chất Tối của Ngài #1) của tác giả Philip Pullman & Trang Rose (dịch).
Con Dao Kì Ảo (Vật Chất Tối của Ngài #2)
Con dao kì ảo là phần hai của một câu chuyện gồm ba tập, khởi đầu bằng cuốn Bắc Cực Quang. Tập này di chuyển giữa ba vũ trụ: vũ trụ của Bắc Cực Quang, giống như vũ trụ của chúng ta nhưng lại khác biệt ở nhiều mặt; vũ trụ mà chúng ta biết; và một vũ trụ thứ ba, cũng khác biệt với vũ trụ của chúng ta ở nhiều mặt khác. *** “Ví như giấc mơ tuyệt vời nhất, luôn đầy thuyết phục và cũng rất phức tạp, ngập tràn những ngạc nhiên, lo sợ và thích thú. Sức sáng tạo của Pullman dành cho nhân vật, cốt truyện và logic khiến người ta phải ghen tị với chất xám của ông.” - Telegraph “Những mạch truyện viễn tưởng, kinh dị và sự điên rồ khủng khiếp hoà lẫn với tài năng hiếm có đầy mê hoặc.” - The Times “Pullman là bậc thầy trong việc kết hợp tạo hình nhân vật hoàn hảo và xây dựng cốt truyện mạch lạc, duy trì một nhịp độ nhanh khi tạo các cảnh chồng nối lên nhau với áp lực khó cưỡng. Viên ngọc lấp lánh này sẽ khiến độc giả thuộc mọi lứa tuổi phải ngóng đợi hồi tiếp theo về những cuộc phiêu lưu của Lyra.” - Publishers Weekly “Một câu chuyện viễn tưởng đầy kinh ngạc, một bộ trinh thám nảy lửa và một sự phản ánh đáng suy ngẫm về tình trạng của loài người. Đây là một cuốn sách có thể được thưởng thức ở nhiều cấp độ.” - Guardian *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (His Dark Materials), cũng giống như Chúa tể của những chiếc nhẫn - tải eBook, Biên niên sử Narnia - tải eBook và Harry Potter - tải eBook, là một trong những bộ truyện giả tưởng Anh ngữ dành cho trẻ em đã được đánh giá cao của thời đại. Hai tập sau của truyện lần lượt là Kỳ Ảo Đao hay Thanh Gươm Huyền Bí (The Subtle Knife) và Hổ Phách Kính (The Amber Spyglass). Ánh Sáng Phương Bắc đã được hãng phim Hollywood New Line Cinema chuyển thể thành phim "The Golden Compass", đã khởi chiếu vào ngày 5 tháng 12 năm 2007 tại Anh (7 tháng 12 tại Mỹ và 26 tháng 12 tại Úc). Phim là sản phẩm có kinh phí cao nhất của hãng này kể từ phim Chúa tể của những chiếc nhẫn. Ánh Sáng Phương Bắc miêu tả một vũ trụ giả tưởng, nơi mà có phù thủy bay, chiến binh gấu Bắc cực, linh hồn của con người trong dạng thú và một chế độ tăng lữ độc tài. Nhân vật chính của truyện là một bé gái mồ côi 11 tuổi tên Lyra Belacqua. Cô bé được nuôi nấng bởi một khoa học gia, Ngài Asriel. Ngài Asriel bị giáo hội bỏ tù vì nghiên cứu Bụi, một vật chất tối được cho là ẩn chứa đầy tội lỗi. Người bạn thân của Lyra là Roger bị bắt cóc bởi tổ chức Những Kẻ Nuốt Chửng (The Gobblers) và cô bé quyết định lên đường giải cứu bạn mình. Một người phụ nữ quyền lực tên Marisa Coulter đã đề nghị giúp Lyra. Trước khi đi, hiệu trưởng trường Jordan tặng cho cô bé Chân La Bàn (Alethiometer), một dụng cụ thần kỳ chỉ đến sự thật. Tuy nhiên, khi Lyra phát hiện ra bà Coulter là người xấu, cô bé chạy trốn, thoát khỏi sự truy đuổi và được một nhóm người Gypsy cưu mang. Họ tiết lộ Ngài Asriel và bà Coulter chính là cha mẹ ruột của cô bé. Lyra cùng họ vượt biển tiến về Bắc Cực, theo chỉ dẫn của Chân La Bàn. Trên đường, họ bị tấn công và Lyra bị bắt về Bolvangar, nơi giam giữ những đứa trẻ bị bắt cóc. Lyra dùng chiếc Chân La Bàn và trí thông minh của mình vượt ngục cùng những đứa trẻ khác. Chúng được phi hành gia Lee Scoresby, nữ hoàng ma thuật Serafina Pekkala và chiến binh gấu Iorek Byrnison cứu thoát. Sau đó, Lyra đi cứu Lord Asriel. Ông vừa thành công trong việc khám phá ra nguyên lý của Bụi và cầu nối với một vũ trụ song song. Truyện kết thúc khi linh thú của Roger bị té xuống vực, làm cậu bé chết theo. Lyra và Lord Asriel bước qua thế giới mới. *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (Philip Pullman) là series Fantasy kinh điển và đồ sộ đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có Huân chương Carnegie!! Tác phẩm kể về chuyến phiêu lưu giữa các thế giới song song của Lyra Belacqua và Will Parry – hai đứa trẻ tầm thường có số phận trói buộc với nhau bởi những thế lực vượt xa thế giới của chính mình. Chúng sẽ gặp các phù thuỷ và gấu mặc giáp, thiên thần sa ngã cùng loài quỷ ăn linh hồn. Và cuối cùng, số phận của tất cả những người đang sống - và những người đã chết - sẽ phụ thuộc vào chúng... *** Thương hiệu sách trẻ của Nhà xuất bản Kim Đồng vừa ra mắt bộ tiểu thuyết Fantasy kinh điển "Vật chất tối của ngài" của tác giả Philip Pullman. Tác phẩm này đã 2 lần được chuyển thể thành phim và nhận được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có huân chương văn học Carnegie. "Vật chất tối của ngài" gồm 3 tập: Tập 1 - Bắc Cực Quang (còn được biết đến với cái tên La Bàn Vàng khi xuất bản tại thị trường Bắc Mỹ), Tập 2 - Con Dao Kì Ảo và Tập 3 - Ống Nhòm Hổ Phách, được phát hành từ năm 1995 đến 2000. Tác phẩm đã hai lần được chuyển thể thành phim và nhận được nhiều giải thưởng  Tác phẩm đã được dịch sang gần 30 ngôn ngữ tại hơn 100 quốc gia, danh tiếng sánh ngang với Harry Potter, Biên Niên Sử Narnia, Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn, Trò Chơi Vương Quyền. "Vật chất tối của ngài" có tên gọi được gợi cảm hứng từ tác phẩm Paradise Lost (Thiên đường đã mất) của John Milton, kể về chuyến phiêu lưu giữa các thế giới song song của Lyra Belacqua và Will Parry - hai đứa trẻ tầm thường có số phận trói buộc với nhau bởi những thế lực vượt xa thế giới của chính mình. Tác phẩm mở đầu tại một thế giới viễn tưởng có nhiều điểm tương đồng với thế giới thực mà chúng ta đang sống Thế giới này không chỉ có sự phát triển của khoa học, vật lí, thiên văn học, mà còn có sự tồn tại của các phù thủy, gấu mặc áo giáp, quỷ ăn linh hồn và những thế lực đen tối khác. Ở đây, con người cùng tồn tại bên cạnh một phần linh hồn của mình dưới dạng thú (daemons – linh thú). Nhân vật chính là Lyra Belacqua, cô bé đang sống cuộc đời nửa hoang dã giữa các học giả của Học viện Jordan, Oxford mà không biết rõ về thân phận thật của mình. Cùng với linh thú Pantalaimon, phần lớn thời gian Lyra lang thang khám phá mọi ngõ ngách trong lãnh thổ Học viện cũng như Oxford, kết bạn với những đứa trẻ phụ bếp, trẻ con du mục, và sáng tạo ra những chuyến phiêu lưu của riêng chúng... Tại thời điểm ấy, có điều gì đó kì lạ và bí ẩn vẫn đang diễn ra tại vùng đất Phương Bắc. Nhiều nhà thám hiểm từng lên đường tìm kiếm sự thật, và nhiều người không bao giờ trở lại. Cùng lúc đó những vụ bắt cóc trẻ em do những kẻ háu ăn gây ra liên tiếp xảy đến, trong đó nạn nhân có cả người bạn thân thiết của Lyra. Số phận được định sẵn đã cuốn Lyra vào một hành trình đầy hiểm nguy lên Phương Bắc băng giá để tìm người bạn bị bắt cóc, trải qua những thử thách không thể đo đếm nổi, trước khi dẫn cô đến với một người bạn đồng hành đặc biệt - Will Parry… Với những giá trị về vật lí học, triết học và thần học được gửi gắm, Vật Chất Tối Của Ngài được đánh giá là một trong những loạt truyện kì ảo có giá trị nhất cuối thế kỉ 20. Năm 2007, "Vật chất tối của ngài" có Tập 1 được chuyển thể thành phim điện ảnh với tên gọi LA BÀN VÀNG. Toàn bộ series sách sẽ trở lại màn ảnh nhỏ vào cuối năm 2019, trong series phim truyền hình do HBO và BBC sản xuất, với sự tham gia của dàn diễn viên nổi tiếng: Dafne Keen, James McAvoy, Ruth Wilson, Lin-Manuel Miranda, Clarke Peters, Lucian Msamati... Trọn bộ 3 tập sách "Vật chất tối của ngài": Bắc Cực Quang, Con Dao Kì Ảo, Ống Nhòm Hổ Phách đã được dịch và phát hành tại Việt Nam dưới cả hai hình thức: Bán lẻ & Limied Boxset, qua bản dịch của dịch giả Trang Rose. Sách có diện mạo được làm mới hoàn toàn so với phiên bản gốc, mang đậm màu sắc Fantasy. Sách có diện mạo được làm mới hoàn toàn so với phiên bản gốc, mang đậm màu sắc Fantasy. Philip Pullman sinh ra tại Norwich vào năm 1946, là một nhà văn nổi danh thế giới. Các tiểu thuyết của ông đã giành được mọi giải thưởng lớn dành cho truyện thiếu nhi cũng như cho thanh thiếu niên, và hiện cũng nằm trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất dành cho người lớn. Bộ 3 "Vật chất tối của ngài" đã đứng thứ ba trong cuộc thi “Big Read” của đài BBC năm 2003 để tìm ra cuốn sách được yêu thích nhất trên toàn Anh quốc. Vào năm 2005, ông được trao tặng Giải Tưởng niệm Astrid Lindgren - giải thưởng lớn nhất thế giới cho văn học thiếu nhi. *** ill kéo tay mẹ và nói: “Đi nào, đi nào mẹ…” Nhưng mẹ cậu lại chần chừ. Bà vẫn sợ. Will đưa mắt rà soát khắp con phố nhỏ nhuộm ánh trời chiều, dọc theo những hiên nhà nằm sau các khu vườn nhỏ xíu và hàng rào cây hoàng dương, trong lúc mặt trời chiếu rọi rực rỡ lên một bên cửa sổ và để bên còn lại ngập chìm trong bóng tối. Không còn nhiều thời gian nữa. Lúc này mọi người hẳn đang dùng bữa, chẳng bao lâu nữa những đứa trẻ khác sẽ tới, nhìn ngó, bình luận và nhận ra. Đợi chờ là rất nguy hiểm, nhưng như thường lệ, tất cả những gì cậu bé có thể làm chỉ là thuyết phục mẹ mình. “Mẹ, cùng vào gặp bà Cooper đi,” cậu nói. “Xem này, chúng ta gần tới nơi rồi.” “Bà Cooper à?” Bà ngờ vực hỏi. Nhưng cậu bé đã rung chuông cửa. Cậu phải đặt cái túi xuống để làm việc đó vì tay còn lại vẫn đang nắm lấy tay mẹ. Đáng lẽ cậu đã rất bực bội nếu bị phát hiện rằng mười hai tuổi rồi mà vẫn còn nắm tay mẹ, nhưng cậu biết chuyện gì sẽ xảy ra với bà nếu không làm vậy. Cánh cửa mở ra, đứng đó là bóng dáng lưng còng già cỗi của vị giáo viên piano, với mùi nước oải hương phảng phất mà cậu bé vẫn còn nhớ. “Ai đó? Có phải William không?” Bà già hỏi. “Hơn một năm rồi ta chưa gặp cháu. Có chuyện gì vậy, cháu yêu?” “Cháu muốn vào trong, xin bà, cả mẹ cháu nữa,” cậu nói vẻ kiên quyết. Bà Cooper nhìn người đàn bà đầu tóc rối bời, mép nhếch lên thành một nụ cười ngờ nghệch, rồi sang thằng bé với ánh nhìn chòng chọc đầy bất hạnh, đôi môi mím chặt, hàm dô ra. Rồi bà thấy rằng bà Parry, mẹ của Will, chỉ trang điểm duy nhất một bên mắt mà bản thân không hề nhận ra. Cả Will cũng không để ý thấy. Có chuyện gì đó không ổn. “Thôi được rồi…” Bà nói rồi bước tránh sang một bên để nhường chỗ trong hành lang hẹp. Will rà soát con đường trước khi đóng cửa lại. Bà Cooper nhận thấy bà Parry đang giữ chặt lấy tay con trai mình, còn cậu bé thì ân cần dẫn mẹ vào phòng khách nơi chiếc piano được đặt (hẳn nhiên đó là phòng duy nhất cậu biết). Bà cũng nhận thấy quần áo của bà Parry hơi có mùi mốc, như thể chúng đã ở trong máy giặt quá lâu rồi mới được sấy; và nét tương đồng giữa hai người khi họ ngồi trên sofa, để cho nắng chiều rọi lên toàn bộ gương mặt: hai gò má rộng, đôi mắt to tròn, hàng lông mày đen thẳng băng. “Sao vậy William?” Bà già hỏi. “Có chuyện gì thế?” “Mẹ cháu cần một chỗ ở tạm trong vài ngày,” cậu đáp. “Ngay lúc này thì việc chăm sóc mẹ ở nhà là quá khó khăn. Ý cháu không phải là mẹ cháu bị ốm. Mẹ cháu chỉ có chút lẫn lộn, bối rối và hơi lo lắng tí thôi. Không khó để chăm sóc mẹ cháu đâu ạ. Mẹ chỉ cần có ai đó đối xử tử tế với mình và cháu nghĩ bà có thể làm việc đó khá dễ dàng, có lẽ vậy.” Người đàn bà đang nhìn con mình nhưng chẳng có vẻ gì là hiểu chuyện, bà Cooper nhận thấy một vết bầm trên má bà. Will không hề rời mắt khỏi bà Cooper, trông cậu bé thật tuyệt vọng. “Mẹ cháu sẽ không gây tốn kém đâu ạ,” cậu nói tiếp. “Cháu có mang vài gói thức ăn đủ cho mấy ngày, cháu nghĩ vậy. Bà cũng có thể ăn cùng nữa. Mẹ cháu không ngại phải chia sẻ đâu ạ.” “Nhưng… Ta không biết liệu mình có nên… Chẳng phải bà ấy cần một bác sĩ sao?” “Không! Mẹ cháu đâu có bệnh.” “Nhưng chắc hẳn phải có người nào đó có thể… Ý ta là, không có hàng xóm hay ai đó trong gia đình…” “Chúng cháu không có họ hàng nào cả. Chỉ có hai người bọn cháu thôi. Còn hàng xóm thì quá bận rộn.” “Vậy còn dịch vụ xã hội thì sao? Ta không có ý ngăn cháu, cưng ạ, nhưng…” “Không! Không. Mẹ cháu chỉ cần một chút trợ giúp thôi. Cháu không thể hỗ trợ mẹ trong một thời gian nhưng sẽ không lâu đâu ạ. Cháu sắp… Cháu có việc cần làm. Nhưng cháu sẽ sớm trở lại để đưa mẹ về nhà, cháu hứa đấy. Bà sẽ không phải làm lâu đâu ạ.” Sự tin tưởng trong ánh mắt khi người mẹ nhìn đứa con trai của mình, sự trìu mến và an lòng khi thằng bé quay lại mỉm cười với bà khiến bà Cooper không nỡ từ chối. “Chà,” bà nói trong lúc quay sang phía bà Parry, “chỉ một vài ngày thì sẽ không có vấn đề gì. Cô có thể sử dụng phòng của con gái ta, nó đang ở Australia, nó sẽ không cần cái phòng nữa đâu.” “Cảm ơn bà,” Will nói rồi đứng bật dậy như thể đang vội phải đi ngay. “Nhưng cháu định sẽ ở đâu?” Bà Cooper hỏi. “Cháu sẽ đến ở với một người bạn,” cậu đáp. “Cháu sẽ gọi điện thường xuyên nhất có thể. Cháu có số của bà rồi. Sẽ ổn thôi ạ.” Mẹ cậu bé đang nhìn cậu đầy kinh ngạc. Cậu cúi xuống vụng về hôn bà. “Mẹ đừng lo,” cậu nói. “Bà Cooper sẽ chăm sóc mẹ tốt hơn con, thật đấy. Ngày mai con sẽ gọi điện nói chuyện với mẹ nhé.” Mời các bạn đón đọc Con Dao Kì Ảo (Vật Chất Tối của Ngài #2) của tác giả Philip Pullman & Trang Rose (dịch).
Ống Nhòm Hổ Phách (Vật Chất Tối của Ngài #3)
Ống nhòm hổ phách là phần thứ ba và cũng là phần cuối của bộ truyện VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI, một câu chuyện ba tập khởi đầu ở Bắc Cực Quang rồi nối tiếp bằng Con dao kì ảo. Tập cuối di chuyển giữa vài vũ trụ khác nhau. *** “Ví như giấc mơ tuyệt vời nhất, luôn đầy thuyết phục và cũng rất phức tạp, ngập tràn những ngạc nhiên, lo sợ và thích thú. Sức sáng tạo của Pullman dành cho nhân vật, cốt truyện và logic khiến người ta phải ghen tị với chất xám của ông.” - Telegraph “Những mạch truyện viễn tưởng, kinh dị và sự điên rồ khủng khiếp hoà lẫn với tài năng hiếm có đầy mê hoặc.” - The Times “Pullman là bậc thầy trong việc kết hợp tạo hình nhân vật hoàn hảo và xây dựng cốt truyện mạch lạc, duy trì một nhịp độ nhanh khi tạo các cảnh chồng nối lên nhau với áp lực khó cưỡng. Viên ngọc lấp lánh này sẽ khiến độc giả thuộc mọi lứa tuổi phải ngóng đợi hồi tiếp theo về những cuộc phiêu lưu của Lyra.” - Publishers Weekly “Một câu chuyện viễn tưởng đầy kinh ngạc, một bộ trinh thám nảy lửa và một sự phản ánh đáng suy ngẫm về tình trạng của loài người. Đây là một cuốn sách có thể được thưởng thức ở nhiều cấp độ.” - Guardian *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (His Dark Materials), cũng giống như Chúa tể của những chiếc nhẫn - tải eBook, Biên niên sử Narnia - tải eBook và Harry Potter - tải eBook, là một trong những bộ truyện giả tưởng Anh ngữ dành cho trẻ em đã được đánh giá cao của thời đại. Hai tập sau của truyện lần lượt là Kỳ Ảo Đao hay Thanh Gươm Huyền Bí (The Subtle Knife) và Hổ Phách Kính (The Amber Spyglass). Ánh Sáng Phương Bắc đã được hãng phim Hollywood New Line Cinema chuyển thể thành phim "The Golden Compass", đã khởi chiếu vào ngày 5 tháng 12 năm 2007 tại Anh (7 tháng 12 tại Mỹ và 26 tháng 12 tại Úc). Phim là sản phẩm có kinh phí cao nhất của hãng này kể từ phim Chúa tể của những chiếc nhẫn. Ánh Sáng Phương Bắc miêu tả một vũ trụ giả tưởng, nơi mà có phù thủy bay, chiến binh gấu Bắc cực, linh hồn của con người trong dạng thú và một chế độ tăng lữ độc tài. Nhân vật chính của truyện là một bé gái mồ côi 11 tuổi tên Lyra Belacqua. Cô bé được nuôi nấng bởi một khoa học gia, Ngài Asriel. Ngài Asriel bị giáo hội bỏ tù vì nghiên cứu Bụi, một vật chất tối được cho là ẩn chứa đầy tội lỗi. Người bạn thân của Lyra là Roger bị bắt cóc bởi tổ chức Những Kẻ Nuốt Chửng (The Gobblers) và cô bé quyết định lên đường giải cứu bạn mình. Một người phụ nữ quyền lực tên Marisa Coulter đã đề nghị giúp Lyra. Trước khi đi, hiệu trưởng trường Jordan tặng cho cô bé Chân La Bàn (Alethiometer), một dụng cụ thần kỳ chỉ đến sự thật. Tuy nhiên, khi Lyra phát hiện ra bà Coulter là người xấu, cô bé chạy trốn, thoát khỏi sự truy đuổi và được một nhóm người Gypsy cưu mang. Họ tiết lộ Ngài Asriel và bà Coulter chính là cha mẹ ruột của cô bé. Lyra cùng họ vượt biển tiến về Bắc Cực, theo chỉ dẫn của Chân La Bàn. Trên đường, họ bị tấn công và Lyra bị bắt về Bolvangar, nơi giam giữ những đứa trẻ bị bắt cóc. Lyra dùng chiếc Chân La Bàn và trí thông minh của mình vượt ngục cùng những đứa trẻ khác. Chúng được phi hành gia Lee Scoresby, nữ hoàng ma thuật Serafina Pekkala và chiến binh gấu Iorek Byrnison cứu thoát. Sau đó, Lyra đi cứu Lord Asriel. Ông vừa thành công trong việc khám phá ra nguyên lý của Bụi và cầu nối với một vũ trụ song song. Truyện kết thúc khi linh thú của Roger bị té xuống vực, làm cậu bé chết theo. Lyra và Lord Asriel bước qua thế giới mới. *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (Philip Pullman) là series Fantasy kinh điển và đồ sộ đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có Huân chương Carnegie!! Tác phẩm kể về chuyến phiêu lưu giữa các thế giới song song của Lyra Belacqua và Will Parry – hai đứa trẻ tầm thường có số phận trói buộc với nhau bởi những thế lực vượt xa thế giới của chính mình. Chúng sẽ gặp các phù thuỷ và gấu mặc giáp, thiên thần sa ngã cùng loài quỷ ăn linh hồn. Và cuối cùng, số phận của tất cả những người đang sống - và những người đã chết - sẽ phụ thuộc vào chúng... *** Khi lũ thú săn mồi, Từ hang tối sâu thẳm, Nhìn cô hầu say giấc. William Blake Trong một thung lũng rợp bóng đỗ quyên, sát với đường băng vĩnh cửu, nơi dòng sông mang màu trắng đục do nước từ băng tan tung bọt và nơi bồ câu cùng khổng tước bay giữa những rặng thông bạt ngàn, lấp ló một hang động bị che khuất gần hết bởi vách núi cheo leo phía trên và đám lá cứng đờ nặng nề túm tụm bên dưới. Khu rừng tràn ngập âm thanh: dòng nước chảy giữa các khe đá, gió luồn qua đám lá kim trên những cành thông, côn trùng rả rích, thú có vú nhỏ sống trên cây gọi bạn, và chim chóc líu lo. Cứ chốc chốc, một đợt gió mạnh sẽ khiến các cành tuyết tùng hay linh sam cọ vào nhau rồi rền rĩ kêu như tiếng đàn cello. Đó là một nơi ánh nắng chan hòa , không bao giờ ngừng lung linh; những tia sáng màu vàng chanh chói lọi đâm xuyên xuống nền rừng giữa những vệt và mảng râm màu xanh nâu; ánh sáng đó cũng không bao giờ chịu đứng yên, không bao giờ ổn định, do sương mù trôi dạt thường xuyên lơ lửng giữa những ngọn cây, lọc toàn bộ ánh nắng thành bảy sắc cầu vồng long lanh như ngọc trai và quét lên mọi quả thông một lớp nước ẩm khiến chúng lấp lánh khi sương tan. Đôi khi, không khí ẩm trong những đám mây cô đọng lại thành các hạt bé tin hin nửa sương mù nửa mưa, chúng lơ lửng hạ xuống chứ không phải rơi, tạo ra tiếng lộp độp rất khẽ giữa hàng triệu chiếc lá nhọn. Bên cạnh dòng sông có một lối đi nhỏ dẫn từ một ngôi làng - chỉ đông hơn một tổ hợp nhà ở của những người chăn gia súc chút ít - dưới chân thung lũng, đến một ngôi đền hầu như đã hoang tàn gần phía đầu của dòng nước, một nơi có những ngọn cờ lụa bạc phếch tung bay trong luồng gió không ngừng thổi tới từ rặng núi cao, nơi bánh lúa mạch và trà khô được các dân làng ngoan đạo cúng tế. Một hiệu ứng kì lạ của ánh sáng, băng giá và hơi nước bao lấy đỉnh thung lũng bằng những dải cầu vồng không bao giờ tan. Hang động nằm phía trên lối đi một chút. Nhiều năm trước, một người sùng đạo đã sống ở đó, thiền định, nhịn ăn và cầu nguyện. Người ta tỏ lòng tôn kính với nơi này vì kí ức gắn với ông. Nó sâu khoảng mười mét, sàn khô: Hang ổ lí tưởng cho một con gấu hoặc một con sói, tuy vậy những sinh vật duy nhất sống trong đó nhiều năm trời lại là chim chóc và dơi. Nhưng hình hài đang co quắp bên trong lối vào, đôi mắt đen láo liên quan sát mọi hướng, đôi tai thính nhạy vểnh lên, lại chẳng phải là chim hay dơi. Ánh nắng phả mạnh xuống bộ lông vàng óng ả của nó, đôi tay khỉ xoay một quả thông hết hướng này lại sang hướng kia, bẻ gãy từng nhánh bằng những ngón tay thoăn thoắt rồi cào lấy quả hạch ngọt lịm bên trong. Đằng sau nó, ngay bên trong vạch nắng chiếu tới, Phu nhân Coulter đang đun nước trong một cái xoong nhỏ trên bếp dầu. Khi con linh thú khẽ rên lên cảnh báo, bà liền ngước nhìn. Bước theo lối mòn trong rừng là một cô gái nhỏ trong làng. Phu nhân Coulter biết cô là ai: Đã vài ngày rồi Ama luôn mang đồ ăn tới cho bà. Lúc mới đến, Phu nhân Coulter đã loan tin rộng rãi rằng bà là một người sùng đạo đang thực hiện thiền định và cầu nguyện, kèm theo lời thề không bao giờ nói chuyện với đàn ông. Ama là người duy nhất bà cho phép ghé qua. Tuy nhiên lần này cô bé không đi một mình. Cha cô đi cùng, đứng đợi cách đó không xa, trong lúc Ama trèo lên hang động. Ama tới cửa động rồi cúi chào. “Cha cử con đến cùng với lời cầu nguyện cho thiện chí của bà,” cô bé lên tiếng. “Chào cháu gái,” Phu nhân Coulter nói. Cô bé đặt cái bọc quấn trong vải cotton đã bạc màu mình đang ôm xuống chân của Phu nhân Coulter. Sau đó cô chìa ra một bó hoa nhỏ, khoảng một tá cỏ chân ngỗng được buộc lại bằng một dải cotton, rồi bắt đầu nói bằng giọng liến thoắng đầy căng thẳng. Phu nhân Coulter hiểu được chút ít thứ ngôn ngữ của những cư dân vùng núi này, nhưng không bao giờ để cho họ biết chút ít đó là ngần nào. Vì vậy bà mỉm cười ra hiệu cho cô mím môi lại, rồi quan sát linh thú của hai người. Con khỉ vàng đang chìa ra bàn tay đen đúa nhỏ xíu của mình, con linh thú bươm bướm của Ama liền rập rờn bay lại gần, gần nữa cho đến khi nó đậu lên ngón tay trỏ chai sạn. Con khỉ từ tốn nâng nó lên tai mình, Phu nhân Coulter lập tức cảm thấy một luồng thấu hiểu nhỏ xíu tuôn vào tâm trí mình, khiến cho những lời của cô bé trở nên rõ ràng. Dân làng lấy làm mừng khi một nữ sĩ sùng đạo như bà tìm chỗ ẩn trú trong hang động, nhưng người ta đồn thổi rằng bà có người đi cùng, một người về mặt nào đó rất nguy hiểm và hùng mạnh. Đó là điều khiến dân làng e sợ. Nhân vật còn lại này liệu là chủ nhân của Phu nhân Coulter, hay là bầy tôi của bà ta? Liệu bà ta có ác ý gì không? Bà ta đến đây với mục đích gì? Họ có định ở lâu không? Ama truyền tải những câu hỏi này cùng với vô vàn mối lo ngại. Một câu trả lời khác lạ nảy ra trong đầu Phu nhân Coulter khi sự thấu hiểu của con linh thú thấm vào bà. Bà có thể nói sự thật. Không phải tất cả, hẳn nhiên rồi, mà là một vài điều. Bà cảm thấy người khẽ run lên khoái trá trước ý tưởng đó, nhưng lại không để lộ ra trong giọng nói khi giải thích: “Phải, có một người đang ở cùng với ta. Nhưng không có gì phải sợ cả. Đó là con gái ta, nó đang chịu một lời nguyền khiến nó say ngủ. Chúng ta phải đến đây để trốn kẻ đã bỏ bùa con bé, trong lúc ta cố gắng chữa trị cho nó và bảo vệ nó khỏi nguy hiểm. Đến nhìn nó đi, nếu cháu muốn.” Ama đã dịu đi phần nào nhờ giọng nói nhẹ nhàng của Phu nhân Coulter, nhưng vẫn còn lo sợ một phần; nhắc đến kẻ bỏ bùa và lời nguyền lại càng khiến cô kinh hãi hơn. Nhưng con khỉ vàng lại đang ôm linh thú của cô hết mực dịu dàng, bên cạnh đó, bản thân cô cũng tò mò, vậy là cô theo chân Phu nhân Coulter vào trong động. Cha cô bé ở con đường bên dưới bước tới trước một bước, con linh thú quạ của ông vung cánh lên vài lần, nhưng ông vẫn giữ nguyên vị trí. Phu nhân Coulter thắp một ngọn nến vì ánh sáng đang yếu đi nhanh chóng, rồi dẫn Ama vào phía sau hang động. Đôi mắt của cô gái nhỏ long lanh trong bóng tối, hai bàn tay cô cùng cử động theo động tác lặp đi lặp lại của một ngón tay trên ngón cái, rồi lại một ngón tay trên ngón cái, để xua đi hiểm nguy hay khiến các linh hồn xấu xa bị rối loạn. “Cháu thấy không?” Phu nhân Coulter nói. “Con bé không làm hại được ai đâu. Không có gì phải sợ hãi cả.” Mời các bạn đón đọc Ống Nhòm Hổ Phách (Vật Chất Tối của Ngài #3) của tác giả Philip Pullman & Trang Rose (dịch).
Nhà Hàng Ở Tận Cùng Vũ Trụ
Bởi Trái Đất đã nổ tung, chúng ta hãy cứ tiếp tục lạc trôi trong Vũ Trụ cùng Bí kíp quá giang vào Ngân Hà và nhóm người ngoài hành tinh kỳ quặc: Arthur Dent người trái đất, Ford Prefect, bạn lâu năm kiêm biên tập viên kỳ cựu của Bí kíp; Zaphod Beeblebrox, cựu tổng thống Ngân Hà ba tay hai đầu; Tricia McMillan, cũng người trái đất; và Marvin, người máy hoang tưởng trầm uất. Và đích đến là đâu? Chính là địa điểm vừa để giải trí tận thế vừa ăn tối cực hot; nơi đồ ăn (thật sự) sẽ tự chúng lên tiếng mời bạn xơi... chúng. Nhưng liệu bọn họ có đến được nơi? Câu trả lời là: khó nói lắm. Song bạn hãy nhớ Bí kíp đã xóa luôn thời Tương lai Hoàn thành bởi cuốn sách đã khám phá ra rằng: Chẳng có tương lai nào hoàn thành cả! "Cái hài hước của cuốn sách vừa ngầu vừa đậm vẻ chán chường, nó không thẹn thùng mà thu hút ngay bất cứ ai thấy - cuộc đời quá ngắn để coi mọi chuyện là nghiêm túc." - Observer Colour Magazine *** TÁC GIẢ DOUGLAS ADAMS (1952 - 2001) Là nhà văn, nhà biên kịch người Anh. Tác phẩm nổi tiếng của ông, Bí kíp quá giang vào Ngân Hà, xuất phát điểm là vở hài kịch truyền thanh nhiều tập của BBC, sau đó được phát triển thành “bộ ba” tiểu thuyết gồm năm tập bán được tới hơn 15 triệu bản ngay từ lúc tác giả sinh thời, được chuyển thể thành phim truyền hình, kịch nói, truyện tranh, trò chơi điện tử và phim điện ảnh. Ông cũng tham gia viết 3 tập trong series phim truyền hình nổi tiếng Doctor Who. Bởi Trái Đất đã nổ tung, chúng ta hãy cứ tiếp tục lạc trôi trong Vũ Trụ cùng Bí kíp quá giang vào Ngân Hà và nhóm người ngoài hành tinh kỳ quặc: Arthur Dent người trái đất, Ford Prefect, bạn lâu năm kiêm biên tập viên kỳ cựu của Bí kíp; Zaphod Beeblebrox, cựu tổng thống Ngân Hà ba tay hai đầu; Tricia McMillan, cũng người Trái đất; và Marvin, người máy hoang tưởng trầm uất. Và đích đến là đâu? Chính là địa điểm vừa để giải trí tận thế vừa ăn tối cực hot; nơi đồ ăn (thật sự) sẽ tự chúng lên tiếng mời bạn xơi… chúng. Nhưng liệu bọn họ có đến được nơi? Câu trả lời là: khó nói lắm. Song bạn hãy nhớ Bí kíp đã xóa luôn thời Tương lai Hoàn thành bởi cuốn sách đã khám phá ra rằng: Chẳng có tương lai nào hoàn thành cả! “Douglas Adams quả là nhà văn châm biếm cực kỳ xuất sắc!” WASHINGTON POST BOOK WORLD “Hài hước và hài hước đủ đường.” DAILY TELEGRAPH “Cái hài hước của cuốn sách vừa ngầu vừa đậm vẻ chán chường, nó không thẹn thùng mà thu hút ngay bất cứ ai thấy cuộc đời quá ngắn để coi mọi chuyện là nghiêm túc.” OBSERVER COLOUR MAGAZINE *** Câu chuyện từ đầu đến giờ là thế này: Trước tiên, Vũ Trụ được tạo ra. Việc này đã khiến nhiều người tức điên và luôn bị coi là một nước đi sai lầm. Nhiều chủng tộc tin rằng Vũ Trụ được tạo ra bởi một vị thần nào đó, tuy nhiên người Jatravartid trên hành tinh Viltvodle VI lại tin rằng thực ra cả Vũ Trụ đã được hắt hơi ra khỏi lỗ mũi một đấng có tên là Arkleseizure Xanh Vĩ Đại. Người Jatravartid, vốn sống với nỗi sợ thường trực cái ngày mà họ gọi là Khăn Tay Trắng Giáng Trần, là những sinh vật nhỏ màu xanh lơ có hơn năm mươi cánh tay, và vì vậy họ là chủng tộc có một không hai trong lịch sử đã phát minh ra chai xịt khử mùi trước cả bánh xe. Tuy nhiên, Thuyết Arkleseizure Xanh Vĩ Đại không được đón nhận rộng rãi bên ngoài Viltvodle VI, và vì thế, bởi Vũ Trụ là một nơi thật khó hiểu, nên luôn luôn có người tìm kiếm những lời giải thích khác. Ví dụ, một giống sinh vật siêu thông minh xuyên chiều đã tạo ra một chiếc siêu máy tính khổng lồ có tên Nghĩ Sâu để tính toán một lần dứt điểm Câu Trả Lời dành cho Câu Hỏi Tối Thượng về Sự Sống, Vũ Trụ và Vạn Vật. Suốt bảy triệu rưỡi năm, Nghĩ Sâu đã đo đạc và tính toán, và cuối cùng tuyên bố câu trả lời chính là Bốn mươi hai - và vì thế đã phải lắp một cái máy tính khác còn to hơn để khám phá xem câu hỏi thực ra là gì. Và cái máy tính này, có tên là Trái Đất, to đến nỗi nó hay bị nhầm là một hành tinh - nhất là bởi những sinh vật giống vượn kỳ lạ đi vơ vẩn trên bề mặt của nó, không hề hay biết rằng mình chỉ là một phần trong một chương trình máy tính khổng lồ. Và điều này thật kỳ lạ, vì nếu không có chút thông tin khá là đơn giản và dễ thấy đó, thì tất cả những gì đã xảy ra trên Trái Đất sẽ không thể có nghĩa gì cả. Đáng buồn thay, đúng trước thời điểm đưa ra kết quả quan trọng, Trái Đất đã bất ngờ bị san phẳng bởi một đội Vog để lấy chỗ - là chúng bảo thế - cho một đường cao tốc xuyên không gian, vì vậy chẳng còn hy vọng gì để khám phá ra ý nghĩa sự sống nữa. Hay ít ra là cũng có vẻ như vậy. Hai trong số những sinh vật giống vượn kỳ lạ đó đã sống sót. Arthur Dent thoát thân trong tích tắc chót chét vì một người bạn cũ, Ford Prefect, hóa ra lại đến từ một hành tinh nhỏ đâu đó cận biên sao Betelgeuse chứ không phải từ Guildford như trước nay anh ta vẫn nói; và, quan trọng hơn, anh ta biết cách quá giang đĩa bay. Tricia McMillan - hay còn gọi là Trillian - đã nhảy khởi hành tinh sáu tháng trước đó cùng Zaphod Beeblebrox, khi ấy là Tổng Thống Ngân Hà. Hai kẻ sống sót. Họ là tất cả những gì còn lại của thí nghiệm vĩ đại nhất - nhằm khám phá ra Câu Hỏi Tối Thượng và Câu Trả Lời Tối Thượng về Sự Sống, Vũ Trụ và Vạn Vật. Và, chưa đầy nửa triệu cây số cách nơi phi thuyền của họ đang biếng nhác trôi qua không gian đen thẳm như mực, một con tàu Vog đang từ từ tiến về phía họ. Mời các bạn đón đọc Nhà Hàng Ở Tận Cùng Vũ Trụ của tác giả Douglas Adams & Lê Minh Đức (dịch).