Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đi Tìm Sylvie Lee

Đi tìm Sylvie Lee - cuốn sách đầy bất ngờ với những bí mật, sự lừa dối và những khúc quanh không thể lường trước. Đó là câu chuyện về mối quan hệ phức tạp giữa ba người phụ nữ, hai chị em và mẹ của họ trong một gia đình nhập cư gốc Trung Quốc, và khám phá những gì xảy ra khi con gái lớn của người chị biến mất, một loạt bí mật gia đình xuất hiện. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Về tác giả:  Jean Kwok là một cây bút của tờ New York Times và là tác giả có sách bán chạy nhất trên thế giới với tác phẩm Girl in Translation và Mambo in Chinatown. Cô được vinh danh với rất nhiều giải thưởng trong lĩnh vực viết lách. Cô đã nhận bằng cử nhân trường Đại học Havard và hoàn thành bằng Thạc sĩ Nghệ thuật lĩnh vực tiểu thuyết tại Đại học Columbia. Jean Kwok hiện sống tại Hà Lan. *** Amy Thứ hai, ngày 2 tháng 5 Tôi đang đứng bên bậu cửa sổ trong căn hộ nhỏ của chúng tôi trên phố Queens, nhìn bố và mẹ tất tả đi làm. Nửa khuất sau tấm rèm cũ rách mà mẹ tự khâu, tôi thấy họ đi cạnh nhau trên đường đến ga tàu điện. Ở lối vào, họ dừng lại và nhìn nhau một lúc. Những lúc như này, tôi thường nín thở, để đợi bố chạm vào gò má mẹ, hoặc chờ mẹ bật khóc, hoặc mong một trong hai người sẽ đưa ra dấu hiệu nào đó về mối quan hệ thật sự của họ. Thay vào đó, mẹ ngượng nghịu giơ tay vẫy, để lộ cánh tay gầy gò dưới nếp gấp của chiếc khăn choàng đen, còn bố thì xộc thật nhanh vào cửa nhà ga đang mở khi giao thông buổi sáng gầm rú trên con phố bận rộn. Sau đó, mẹ cúi đầu và tiếp tục cuốc bộ đến tiệm giặt ủi địa phương nơi bà làm việc. Tôi thở dài và rời khỏi cửa sổ. Tôi cần làm điều gì đó có ích hơn. Tại sao tôi lại cứ theo dõi bố mẹ? Bởi tôi đã lớn tồng ngồng nhưng vẫn ru rú trong nhà và vô công rỗi việc. Nếu sơ sảy, tôi rồi cũng sẽ như mẹ. Rụt rè, cam chịu, bán mình vào công việc chẳng đồng dư. Thế nhưng, tôi lại bắt gặp một ý niệm khác về bố và mẹ sau ngần ấy thời gian. Sự say sưa trên khuôn mặt mẹ khi bà đọc tiểu thuyết ngôn tình Trung Quốc trong đêm, thể loại mà bố coi thường. Cách mà bố cố với lấy khuỷu tay mẹ khi ông đi phía sau, rồi ông chợt nhận ra, và rụt tay lại. Tôi ngang qua tủ quần áo trong phòng ngủ của mình, và dừng mắt nơi tấm áp phích treo trên tường - gần như khuất sau mớ giấy tờ lộn xộn và đống giặt ủi. Đó là một câu nói của Willa Cather mà tôi luôn yêu thích: “Trái tim của một người luôn là một khu rừng tối, bất luận nó kề cận với chủ nhân như thế nào”. Tôi không chắc mình có tin vào xúc cảm nhưng những lời của bà ấy thì không bao giờ làm tôi thất vọng. Căn hộ chật chội của chúng tôi vẫn còn phảng phất hương trầm mẹ thắp sáng nay trên bàn thờ bà ngoại. Bà mất ở Amsterdam một tuần trước. Bà sống ở đó với gia đình Tan, gồm có chị họ của mẹ, dì Helena; chồng của dì, dượng Willem; và cậu con trai Lukas, ba mươi ba tuổi, bằng tuổi chị gái tôi, Sylvie. Tôi chưa gặp bà bao giờ nhưng nỗi đau buồn mà mẹ mang như một con thác đổ dồn lên lòng tôi đến ngập lụt. Quầng mắt mẹ tấy đỏ và buốt rát. Mấy đêm rồi, trong khi bố trốn trong phòng ngủ, tôi nắm chặt lấy tay mẹ khi bà nằm co ro trên ghế sofa, nén tiếng khóc, cố ngăn dòng lệ ào chảy bằng một miếng khăn giấy cũ nhàu. Hôm nay tôi cũng mặc đồ đen, vì mẹ, trong khi bố vẫn ăn vận như thường ngày. Không phải là ông không quan tâm. Chỉ là ông không thể để chúng tôi nhìn thấy cảm xúc ấy. Chị Sylvie sống cùng bà và gia đình dì Helena tại Hà Lan trong suốt chín năm đầu đời và chị vừa bay trở lại đó vào một tháng trước, ngay khi nghe tin bà ốm. Chị cũng đang quản lý một dự án tư vấn cho công ty của mình tại đó. Chị Sylvie rực rỡ, lớn hơn tôi bảy tuổi, đã kéo theo cuộc sống hào nhoáng ở châu Âu về tới căn hộ sặc mùi bắp cải của chúng tôi ở phố Queens khi tôi chỉ mới hai tuổi. Thường sẽ có một sự phân chia đều giữa các chị em gái về sự xinh đẹp và thông minh, nhưng trong gia đình tôi, cả hai phẩm chất ấy đều thuộc về chị. Và tôi, chỉ là một cái bóng, suy cho cùng, chỉ là một âm vọng nhạt nhẽo. Nếu tôi không yêu chị Sylvie rất nhiều, thì tôi hẳn sẽ rất ghét chị ấy. Làm thế nào mà một sinh vật xuất sắc như Sylvie lại được sinh ra từ những người trần tục như mẹ và bố? Cứ mỗi khi tôi học với bất kì giáo viên nào từng dạy chị Sylvie, họ đều thốt lên rằng, “Ah, em là em gái của Sylvie Lee đây mà” với đầy ắp những mong đợi. Và tôi sẽ dõi chờ khi những hy vọng cao ngút ấy của họ bỗng chốc biến thành sự hoang mang trước vẻ chậm chạp và đần độn mà tôi thể hiện. Tiếp đó họ sẽ thất vọng, và cuối cùng, là sự thờ ơ. Sylvie từng theo học tại Đại học Princeton, nhận bằng Cử nhân Kỹ thuật Hóa từ Viện Công nghệ Massachusetts, đi làm một vài năm, sau đó trở lại trường học để lấy tiếp bằng Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh từ Harvard. Bây giờ chị ấy là một chuyên gia tư vấn quản lý, một công việc mà tôi không bao giờ hiểu được dù cho chị có cố giải thích bao nhiêu lần. Cũng như tôi, Sylvie rất mê đồ ngọt, nhưng khác hẳn với tôi, chị ấy không bao giờ lên cân. Tôi đã từng trố mắt nhìn chị ăn lần lượt hết từng cái bánh trứng mà chẳng hề ảnh hưởng gì đến vòng eo thanh thoát, như thể nội lực mãnh liệt bên trong chị sẽ đốt cháy đám calo kia, tiêu hủy hết mọi thứ mà chị ấy nạp vào. Sylvie từng bị nhược thị khi còn nhỏ và đeo miếng che mắt trong nhiều năm. Giờ thì thứ duy nhất không hoàn hảo trên khuôn mặt đáng yêu của chị ấy là mắt phải có phần lác nhẹ khi chị ấy mệt mỏi. Hầu hết mọi người đều không nhận thấy, nhưng đôi khi tôi cũng tự an ủi mình với khiếm khuyết nhỏ này của Sylvie - Thấy chưa, chị ấy cũng không hẳn đã hoàn hảo. Tôi tiến đến hộc tủ gồ ghề, nơi tôi đã cẩn thận bọc và giấu một chùm lô quất nhỏ màu cam. Nếu tôi để chúng trên mặt bếp bằng nhựa vinyl và để bố bắt gặp một con ốc sên yếu ớt ẩn mình giữa những quả mọng này, bố chắc sẽ giết nó. Bố làm việc trong một chợ cá ở khu phố Tàu. Ông buộc phải trở nên vô cảm với cái chết - trước những con cá nằm ngoi ngóp trên mặt thớt gỗ cho đến khi ông kết liễu chúng bằng con dao pha trên tay mình. Con ốc nhỏ với lớp vỏ trong mờ vẫn còn lóp ngóp bò trên một trong những quả lô quất và trông nó có vẻ ổn. Bất cứ điều gì đủ mạnh để tồn tại trên hành trình gian nan từ Trung Quốc thì xứng đáng có cơ hội để sống tiếp. Tôi lấy một cái túi nhựa đã qua sử dụng, nhẹ nhàng bỏ quả lô quất và con ốc sên vào đó, rồi bước đến cửa. Tôi giũ nhẹ chiếc áo khoác mỏng và cầm lấy ví cùng điện thoại. Trước khi bước ra ngoài, tôi tháo cặp kính dày cộm màu tím và nhét chúng vào túi áo. Tôi cũng chẳng buồn đeo kính áp tròng. Sự hợm hĩnh và biếng nhác hòa vào cuộc sống trong thế giới mờ ảo của tôi gần như mọi lúc. Tôi lê bước qua vài tòa nhà tiến đến công viên nhỏ gần đó. Vẫn còn sớm, nên một số cửa hàng vẫn đóng cửa im lìm, và tôi rùng mình khi một làn gió lạnh buốt quét xuống vỉa hè bê tông. Một mùi hôi thối xộc lên từ nhựa đường quẩn quanh, dọc khắp các tòa nhà trống hoắc như hù dọa tôi. Một người mẹ đang kéo một đứa trẻ nhỏ bẩn thỉu đằng sau vội ngoảnh mặt khi đi ngang qua tôi. Không ai nhìn vào mắt ai nơi đông người, quạnh quẽ và tẻ nhạt này - không ai cả, ngoại trừ những kẻ đang cố gây sự. Lúc này, một nhóm người đang lang thang trước ô cửa sổ vỡ ở cửa hàng với tấm biển to oạch về thứ gì đó giảm giá năm mươi phần trăm. Không hơn không kém, họ chỉ như những vệt đen trong tầm nhìn hạn chế của tôi khi rú lên sau lưng tôi, “Nỉ-hào cô em! Có thể cho anh gửi cái“trứng cuốn” vào “miếng chả” của cô em không?” rồi phá lên bằng một tràng cười khản đặc. Họ phải nói mấy lời đần độn này mỗi ngày sao? Miễn là họ vẫn giữ khoảng cách, sự mờ ảo trong tầm nhìn khiến tôi thoải mái như trong một cái kén. Khi gần như mù, tôi có thể vờ như mình cũng bị cũng điếc. Một ngày nào đó, tôi sẽ tiếp tục chương trình học của mình tại Đại học Thành phố New York và hoàn thành chứng chỉ giảng dạy để tôi có thể thoát khỏi nơi này. Tôi sẽ rời xa cả mẹ và bố. Việc tôi đã bỏ học năm ngoái cũng chẳng đáng lo ngại. Tôi có thể làm được. Tôi đã có bằng cử nhân tiếng Anh. Tôi gần tới đích rồi. Tôi có thể thấy chính mình đang đứng trước một lớp học đầy những đứa trẻ. Chúng đang lắng nghe, cười vui trước những câu chuyện cười tôi kể, đôi mắt mở to trước sự rực rỡ của văn học mà chúng đang đọc, và tôi sẽ không bỏ sót bất cứ một từ nào. Tỉnh lại đi, Amy. Tất cả những gì mày có thể làm bây giờ là một vị cứu tinh ốc sên, đó cũng không hẳn là một biến chuyển tồi đâu. Sylvie và tôi đều theo đạo Phật, và một số ý niệm, như tất cả những gì trân quý trong cuộc sống, vẫn ở lại với chúng tôi. Khi còn nhỏ, chúng tôi thường rượt đuổi nhau quanh căn hộ với lưới bắt bướm, cố bắt ruồi và rồi lại thả chúng ra. Thế nhưng, như được chứng thực bởi bố và những-sinh-vật-biển- khác, tôn giáo chỉ tồn tại cho đến khi ta giáp mặt với sự khắc nghiệt của cuộc sống thường nhật. Công viên vẫn đang hồi sinh sau mùa đông khắc nghiệt và tôi vật vã tìm cho mình một vị trí đẹp rợp lá. Tôi rón rén gập người giữ con ốc giữa ngón trỏ và ngón cái khi điện thoại di động đổ chuông. Tôi nhảy lên và suýt thả rơi con ốc. Tôi đặt nó xuống, xoay xở để kéo điện thoại ra khỏi áo khoác, và nheo mắt để đọc số. Tôi vừa định trả lời thì người gọi đã cúp máy. Dãy số rất dài, bắt đầu với 31+. Tôi đã nhìn thấy đầu số này trước đây trên điện thoại của Sylvie. Là một người từ Hà Lan - có lẽ là anh họ xa của tôi, Lukas, bởi anh ấy không bao giờ gọi cho tôi. Anh ấy hay nói chuyện với chị Sylvie. Tôi dò thử phí cuộc gọi cho Lukas ở Amsterdam rồi lưỡng lự. Hy vọng anh ấy sẽ gọi lại. Tôi đi thẳng tới một tiệm đĩa. Tôi thích la cà ở một trong những chốt phát nhạc của họ nhưng hầu như chẳng mua thứ gì. Bụng tôi thắt lại khi nghĩ đến núi tiền vay sinh viên, chất chồng theo từng tấm bằng. Nhiều năm luẩn quẩn, cố gắng xác định những gì tôi muốn làm với cuộc đời mình trước khi quyết định chọn việc đi dạy - nhưng rồi, tật nói lắp lại trở lại khi tôi đứng trước nhóm thực tập. Dù tôi gần như đã bỏ được, nhưng nỗi sợ hãi về việc nói lắp đã chứng minh rằng nó luôn mạnh mẽ như nó vốn có: tất cả những khuôn mặt trống rỗng đó, sự hoảng loạn như một cái chăn dày khiến tôi nghẹt thở. Đôi lúc, tôi nghĩ, lẽ ra tôi nên an phận là một kẻ nhập cư thất học như mẹ và bố. Vài con chim non rời tổ và vút cao, như chị Sylvie, những con khác thì bối rối, và run rẩy, rồi rơi bổ xuống đất. Cuối cùng, tôi không thể đối diện với các bạn cùng lớp và giáo viên của mình nữa. Và chị Sylvie, tất nhiên, là người bảo lãnh cho tôi khi các khoản vay của tôi vượt quá thời gian gia hạn. Chị ấy đã thanh toán mà không nói một lời. Chị Sylvie, khá giả, ít nhất là so với tôi, nhưng chị ấy không giàu đến mức có thể gánh vác thêm một khoản chi phí mà không cảm thấy hề hấn gì. Chị và chồng chị, anh Jim, thậm chí còn đang nặng vai khoản vay sinh viên hơn cả tôi, anh Jim thì không kiếm được nhiều tiền từ công việc tư vấn hướng nghiệp tại một trường công lập ở Brooklyn. Mặc dù có tiền thừa kế, nhưng bố mẹ của anh cho rằng người trẻ nên tự kiếm tiền, thế nên anh ấy sẽ không nhận được một xu nào cho đến khi họ mất, ngoại trừ món quà khôi hài mà họ đã cho anh khi cưới chị Sylvie. Còn tôi, thay vì phụ giúp bố và mẹ, những người đã làm lụng vất vả nhiều năm trời, thì tôi lại đang sống trong căn hộ của họ và ăn bám họ hằng ngày. Tôi hiện tại vẫn lông bông, mặc dù khả năng đánh máy của tôi rất nhanh - cũng là kỹ năng duy nhất mà tôi có, nhưng công việc thì khan hiếm. Do kinh tế mà thôi, tôi phân bua với tất cả, nhưng tất nhiên là tôi rõ hơn ai hết, bởi chỉ có tôi mới hiểu rõ nhất về mình. Chị Sylvie nói rằng tôi không có đủ tiềm năng, tôi bực dọc và bảo chị ấy thôi đi, để cho tôi yên. Trong cửa hiệu, tôi đi đến quầy nhạc cổ điển và bắt đầu thư giãn ngay khi giọng hát mượt mà, êm ái của Anna Netrebko phát ra từ chiếc loa. Cô ấy hát bài Verdi. Các kệ đĩa CD nằm gọn gàng bên cạnh các bảng xếp hạng âm nhạc và những thùng đĩa nhựa nối tiếp nhau. Những cây guitar và vĩ cầm cũ xếp thẳng hàng trên tường. Tôi thật sự thích cái cách mùi giấy, đồ sơn mài và nước tẩy hương chanh tỏa hương. Zach, một anh chàng đáng yêu, đã đi làm trở lại. Ít nhất, tôi tin là anh ấy hấp dẫn. Rất khó để chắc chắn khi không có kính - thứ giúp tôi không bị “đứng hình” nếu đến gần anh ta. Đối với tôi, những đường nét trên khuôn mặt và cơ thể của anh ấy thật lôi cuốn, tôi yêu giọng nói của anh ấy - ấm áp, hào sảng và trong trẻo. Anh ấy luôn có vẻ như đang mỉm cười với tôi. “Này, Amy. Tuần này cậu muốn nghe gì?” Tôi cố gắng thể hiện sự thân thiện trên khuôn mặt mình nhưng dường như tôi đang biến nó trở nên nhăn nhó đến mức ngượng nghịu. “Anh có gợi ý nào không?” Anh ấy chỉ việc để cho khách hàng nghe thử các đĩa nhạc nhưng dường như chưa bao giờ lưu tâm đến những lần lượn lờ của tôi trong cửa hiệu. “Vậy, Joseph Szigeti thì sao?” Tôi hăng hái đến mức quên cả xấu hổ. “Tôi vừa đọc một bài báo về bản thu Prokofiev Concerto No.1 in D của anh ấy.” “Đang rất sốt đấy,” anh ấy nói và lấy ra một đĩa CD. “Anh ta là minh chứng rằng kỹ thuật hoàn hảo không phải là tất cả.” Ngay khi chúng tôi đi đến quầy nghe, điện thoại của tôi đổ chuông. “Xin lỗi”, tôi lí nhí nói. “Tôi phải nghe máy.” Tôi cúi đầu và rời cửa tiệm. Tôi bắt máy và ngay khoảnh khắc nghe thấy giọng anh Lukas, tôi biết có chuyện chẳng lành xảy ra. Đường truyền đầy nhiễu sóng, có thể do cuộc gọi xuyên Đại Tây Dương. Tôi lấy tay bịt tai bên kia lại để cố nghe rõ hơn. “Amy, anh cần nói chuyện với Sylvie ngay,” Lukas nói. Giọng anh ấy căng thẳng và đầy gấp gáp với ngữ điệu Hà Lan của anh nặng hơn là tôi nghĩ. Tôi nhíu mày. “Nhưng chị ấy đang ở Hà Lan chỗ anh mà.” Anh ấy thở mạnh đến mức tôi có thể nghe thấy nó qua điện thoại. “Sao cơ? Không có, cô ấy đã bay về đó vào thứ bảy. Giờ này phải đến nơi rồi chứ. Em không nghe tin gì từ chị em sao?” “Nhà em còn không biết là chị ấy đang về. Em mới nói chuyện với chị ấy sau đám tang của bà. Khi đó là khi nào nhỉ? Thứ năm, phải không? Em nghĩ chị ấy sẽ ở lại lâu hơn. Chị ấy cũng có nhắc đến dự án của chị ở đấy vẫn chưa xong.” “Sylvie vẫn không trả lời điện thoại. Anh rất muốn nói chuyện với cô ấy”. Rõ ràng, một người có trách nhiệm như chị Sylvie sẽ báo cho chúng tôi biết ngay nếu chị ấy quay lại. Chị ấy lẽ ra đã đến gặp mẹ và kể cho mẹ nghe về bà. Tim tôi bắt đầu đập mạnh như có một vết cắt dưới da. Phải có một vài lời giải thích đơn giản nào đó chứ. Tôi cố gắng trấn an: “Đừng lo lắng, em sẽ xem chuyện gì đang xảy ra.” “Uhm, làm ơn hãy tìm hiểu xem có chuyện gì nhé. Khi nào tìm thấy cô ấy, bảo Sylvie gọi cho anh, được chứ? Ngay lập tức nhé.” Một khoảng lặng rợn người. “Anh hy vọng cô ấy sẽ không có chuyện gì.” Tôi vội đeo kính và nhanh chóng đến tiệm giặt khô nơi mẹ làm việc. Mùi kinh khủng của hơi nước và hóa chất bao trùm lấy tôi khi tôi đẩy cánh cửa mở. Tôi thấy mẹ đang đứng sau một cái quầy dài, lí nhí một thứ tiếng Anh bập bẹ với một người phụ nữ ăn vận đẹp đẽ, mái tóc vàng óng ả sau lưng. “Chúng tôi rất bực khi một cái cúc áo đã bị long ra sau khi nhận lại mớ đồ này.” Bà khách vừa nói vừa đẩy về phía mẹ một chiếc áo sơ mi sọc của nam. “Vô cùng xin lỗi bà!”. Khuôn mặt nhỏ bé của mẹ dường như thêm gầy gò và xanh xao trong bộ quần áo đen, đôi mắt sưng lên vì khóc. “Tôi sẽ sửa nó”. Người phụ nữ gõ bộ móng tay được cắt tỉa cẩn thận lên mặt quầy. Giọng bà ta vừa cáu gắt vừa ra vẻ trịch thượng, như thể bà ấy đang nói chuyện với một đứa trẻ phạm lỗi. “Chất lượng dịch vụ thật sự không tốt như chúng tôi mong đợi, đặc biệt là sau khi lên giá đấy.” “Rất xin lỗi bà!”, mẹ lặp lại. Tôi nhìn trừng trừng về phía tấm lưng xương xẩu của bà ta. Tôi muốn nói với bà ấy rằng chủ cửa hiệu tăng giá chứ mẹ tôi chẳng được lợi gì trong đó. Mẹ thậm chí còn chưa được tăng lương trong suốt từng ấy năm làm việc ở đây - phải đứng suốt cả ngày, khiêng hàng đống quần áo nặng trịch, rồi giặt, ủi và sửa chúng. Nhưng miệng tôi cứ ngậm chặt. Tôi đợi cho đến khi bà khách mắng mỏ mẹ xong và rời đi. Mặc dù đang buồn, nhưng khi thấy tôi, nụ cười lại làm bừng sáng khuôn mặt mẹ. Tuy có thể hiểu một ít tiếng Hoa, nhưng tôi không bao giờ học nói cho đàng hoàng, vì vậy mẹ luôn nói chuyện với tôi bằng tiếng Anh. “Sao con lại ở đây, Amy?” Tôi đã định không làm mẹ lo lắng nhưng tôi nhận ra mình đang ghì chặt cổ tay bà, vò nát chiếc áo blouse vải polyester mỏng manh. “Anh họ Lukas vừa gọi cho con. Anh ấy nói, chị Sylvie đã bay về nhà vào cuối tuần trước, nhưng chị ấy không nhấc máy.” “Ay yah.” Mẹ thảng thốt lấy tay che miệng. Đôi mắt to đen của bà trợn trắng. “Nó không nói với chúng ta là nó về. Nó nhất định vẫn ổn. Chỉ là nhầm lẫn gì đó thôi. Con gọi anh Jim chưa?” “Con đã thử mọi cách nhưng anh ấy không trả lời. Không có vụ rơi máy bay hay chuyện gì xảy ra, phải không mẹ?” “Tất nhiên là không! Con đang nói bậy gì vậy!” Mẹ vuốt trán ba lần bằng bàn tay trái gầy guộc để xua đuổi những xui xẻo trong lời nói tôi vừa thốt ra. Mẹ nhìn chằm chằm tôi cho đến khi tôi cúi người để mẹ có thể làm điều tương tự với tôi. Tôi và mẹ có chiều cao gần như nhau và khi chợt nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chúng tôi trong gương ở cửa hàng, tôi mới chợt nhớ rằng tôi trông giống bà đến mức nào - ngoại trừ việc tôi đeo một cặp kính dày và không thể nào so sánh với hình ảnh của mẹ khi còn trẻ. Mẹ từng là cô gái đáng yêu nhất trong làng chúng tôi ở Quảng Đông. Bây giờ ở độ tuổi 50, làn da của mẹ vẫn đẹp với một vài nếp nhăn mờ, lớp kem mềm mượt làm nổi bật đôi mắt ấm áp, và có gì đó dịu dàng nhưng hoang dã trong ánh mắt của bà, như một chú nai vàng trong rừng thông. “Con đi đến nhà chị đi. Xem chuyện gì xảy ra. Hãy lấy chìa khóa, trong lọ gừng khô ở nhà.” “Con có chìa khóa riêng. Chị Sylvie có đưa cho con trước khi chị ấy đi. Nhưng mẹ có chắc không, mẹ?” Tôi thấy ngại khi nghĩ đến việc vào nhà chị Sylvie mà không có sự cho phép. Tâm trí tôi rối loạn: Nếu anh Jim ở đó thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra đây? Và điều gì có thể xảy ra với chị Sylvie? “Chắc, chắc chắn mà,” mẹ khẳng định. “Con hãy đi ngay đi! Nhanh lên!” Mời các bạn đón đọc Đi Tìm Sylvie Lee của tác giả Jean Kwok & Liên Thảo (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Du Khách Bất Đắc Dĩ
Macon Leary thường xuyên du hý khắp châu Âu và nước Mỹ để viết sách cẩm nang du lịch. Với nhiều người, đó hẳn là công việc trong mơ. Tuy nhiên tất cả những gì Macon khuyên độc giả của anh lại nhằm mục đích: Làm thế nào để có được cảm giác như ở nhà trong mỗi chuyến đi. Bởi vì anh là một du khách bất đắc dĩ. Trên đường đời cũng vậy. Macon luôn luôn bình lặng đón nhận những đổi thay của cuộc sống, dù đó là niềm vui nho nhỏ hay mất mát lớn lao. Nhịp điệu đều đặn ngày thường đã trở thành sự yên ủi bất tận với anh. Cho đến một ngày kia, trong rạo rực của khu phố nghèo dưới nắng đầu xuân, giữa đống quần áo cũ quăng bừa bộn, nơi gian bếp ấm áp đượm mùi cà phê và bánh nướng của một người phụ nữ đầy sức sống, lần đầu tiên anh đưa ra một quyết định lớn cho cuộc đời của chính mình... Du khách bất đắc dĩ là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà văn Mỹ nổi tiếng Anne Tyler, được trao giải thưởng National Book Critics Circle Award và lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1985. Tác phẩm được dựng phim với diễn xuất của hai ngôi sao William Hurt và Geena Davis. *** Anne Tyler sinh ngày 25 tháng Mười năm 1941 tại Minneapolis, Minnesota. Mười chín tuổi bà tốt nghiệp Đại học Duke, và hoàn thành luận văn tốt nghiệp ngành Nga học tại Đại học Columbia (New York). Bà làm công việc thủ thư và sưu tầm danh mục một thời gian rồi chuyển tới Maryland. Năm 1963, Tyler kết hôn với Taghi Mohammad Modarressi, nhà tâm thần học đồng thời là tiểu thuyết gia người gốc Iran. Họ có hai con gái. Năm 1997, Modarressi qua đời. Tyler vẫn tiếp tục sống tại Baltimore (Maryland), vùng đất đã trở thành bối cảnh cho hầu hết tác phẩm của bà. Sự nghiệp văn học của Anne Tyler có nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên bà là người khiêm tốn, không khoa trương. Bà không tổ chức các chuyến đi tuyên truyền sách, không phỏng vấn trực tiếp mà chỉ trả lời email, cũng không xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông. Cuốn tiểu thuyết thứ chín với nhan đề Dinner at the Homesick Restaurant, tác phẩm bản thân bà hài lòng nhất, đã lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1983. Cuốn tiểu thuyết thứ mười một của bà, Breathing Lessons, đã giành được giảithưởng Pulitzer năm 1989. The Accident Tourist (Du khách bất đắc dĩ) cũng là một cuốn sách hết sức thành công của Anne Tyler, tác phẩm được trao giải thưởng National Book Critics Circle Award và lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1985. Tác phẩm được dựng phim vào năm 1988 với diễn xuất của hai ngôi sao William Hurt và Geena Davis. *** Họ đã nghĩ sẽ ở lại bãi biển một tuần, nhưng chẳng ai cảm thấy hứng thú gì nên quyết định quay về sớm. Macon lái xe. Sarah ngồi ghế bên cạnh anh, đầu tựa vào của xe. Những mảng trời đầy mây lấp ló sau những lọn tóc nâu rối tung của cô. Macon mặc một bộ vest mùa hè chỉn chu, bộ anh vẫn thường mặc mỗi khi đi du lịch - anh luôn cho rằng so với đồ jean thì bộ này phù hợp cho du lịch hơn nhiều. Quần jean thì cứng, đường may thô mà lại có nhiều đinh rivê. Sarah mặc chiếc đầm hở vai bằng vải bông - loại thường mặc khi dạo biển. Trông họ giống như đi nghỉ về từ hai nơi hoàn toàn khác nhau. Sarah có làn da rám nắng, còn Macon thì không. Anh có dáng người cao lớn, đôi mắt màu xám, nước da trắng xanh, tóc hoe vàng được cắt tỉa gọn gàng. Và làn da anh mỏng đến độ rất dễ bắt nắng. Anh hầu như chẳng bao giờ bước chân ra ngoài vào buổi trưa. Xe vừa chạy lên đường cao tốc thì bầu trời chợt tối sầm lại và dăm ba hạt mưa khổng lồ quất lộp bộp vào kính chắn gió. Sarah ngồi bật dậy, “Mong sao trời không mưa.” Macon bảo, “Mưa ít ít thì chả sao.” Sarah trở lại tư thế cũ, nhưng mắt dán vào con đường trước mặt. Ấy là một buổi sáng thứ Năm. Trên đường không có nhiều xe cộ. Họ vượt qua một chiếc xe tải nhỏ không mui, rồi một chiếc xe tải cỡ lớn trên thùng chi chít miếng nhãn dính lòe loẹt nhưng cũng khá bắt mắt. Mưa quất vào kính chắn gió mỗi lúc một dày hơn, dữ dội hơn. Macon bật cần gạt nước. cần gạt nước đưa qua đưa lại với âm thanh đều đều soàn soạt soàn soạt và mưa đã bắt đầu tí tách xuống mui xe. Thi thoảng một cơn gió mạnh ào tới. Mưa ập xuống rạp cả những vạt cỏ úa dài hai bên đường. Mưa xiên thẳng xuống các bến thuyền, những trại gỗ, các cửa hàng nội thất giảm giá, mọi thư trông tối sầm mù mịt như thể mưa đã đến từ lâu lắm rồi. “Thấy đường chứ anh?” Sarah lên tiếng. Macon bảo, “Hẳn rồi, có gì đâu.” Xe họ đang ở ngay sau một xe moóc vói hai bánh sau xé nước mưa trên đường thành những vạt nước hình vòng cung. Macon đánh tay lái sang trái và vượt. Một màn nước dày đặc táp thẳng vào hông phải xe họ, rồi chiếc xe moóc tụt lại phía sau. Sarah bấu chặt một tay vào bảng đồng hồ xe. “Thật không hiểu anh làm thế nào thấy đường mà lái như vậy,” cô nói. “Có lẽ em nên đeo kính của em vào.” “Anh có thể nhìn đường nếu đeo kính của em hả?” “Không phải anh, em ấy,” Macon nói. “Em cứ để ý kính chắn gió thay vì nhìn đường.” Sarah tiếp tục bấu lấy bảng đồng hồ xe. Khuôn mặt cô khoáng đạt và trầm mặc khiến người ta có cảm giác cô đang điềm tĩnh, nhưng nếu nhìn gần một chút có thể thấy nét căng thẳng ánh lên nơi khóe mắt cô. Chiếc xe quây lấy họ như một căn phòng. Hơi thở họ phả ra làm mờ cả các cửa kính. Mới đây điều hòa chạy và đến giờ vẫn còn quanh quất chút hơi lạnh phả ra từ máy, thoáng cái không khí trong xe đã chuyển sang ngột ngạt khó chịu kèm theo mùi ẩm mốc. Xe phóng nhanh qua một đường hầm. Ngay lập tức không còn cảm thấy mưa nữa. Sarah chực thở phào nhẹ nhõm, nhưng cô chưa kịp thở phào thì tiếng mưa đã lại đập liên hồi lên mui xe. Cô ngoái nhìn khắc khoải về phía đường hầm. Macon tiếp tục nhấn ga về phía trước, tay đặt lơi trên vô lăng. “Anh có thấy cậu bé với chiếc mô tô không?” Sarah lên tiếng. Cô phải nói thật to, cố át đi cái âm thanh ầm ĩ dai dẳng ở bên ngoài. “Cậu bé nào?” “Cái cậu dựng xe bên dưới đường hầm ấy.” “Thật khùng điên mới đi mô tô vào lúc thời tiết như thế này,” Macon nói. “Mà chẳng cứ gì hôm nay, thật điên khùng mới đi mô tô. Em cứ hay để ý những thứ vặt vãnh.” “Ta có thể làm vậy mà,” Sarah bảo. “Dừng xe lại đợi mưa tạnh rồi hãy đi anh à.” “Sarah, nếu cảm thấy chúng mình sẽ gặp nguy hiểm dù chỉ một chút thôi, anh đã tấp vào vệ đường lâu rồi.” “Ồ, em không biết là anh đã có ý như thế đấy." Họ chạy ngang qua một cánh đồng, ở đây mưa dường như nặng hạt hơn, từng mảng từng mảng nước lớn ập xuống oằn những thân ngô, ngập cả những rãnh đất. Vô số vạt mưa khổng lồ tiếp tục quất thẳng vào tấm kính chắn gió. Macon chuyển cần gạt sang tốc độ nhanh hơn. Em không biết anh thật sự để ý nhiều đến điều đó,” Sarah bảo. “Phải chứ?” “Để ý?” “Có một ngày em đã nói với anh, em bảo, ‘Macon, Ethan đã bỏ chúng ta mà đi, thế nên có đôi khi em tự hỏi cuộc sống này còn ý nghĩa gì nữa không.’ Anh có nhớ đã trả lời ra sao không?” “À, anh chưa thể nhớ ngay được.” “Anh đã nói, ‘Em yêu, nói thật, dường như với anh chưa bao giờ có nhiều ý nghĩa để bắt đầu.’ Chính xác lời anh nói đấy.” “Ừm...” “Và anh thậm chí cũng không biết điều đó có gì không ổn.” “Không, chắc là anh không biết.” Xe chạy ngang qua một hàng dài ô tô đậu ngay bên đường, cửa kính mờ đục, mưa rơi trên mặt kính trơn bóng nảy lên những đốm nước trắng lóa. Có một chiếc xe hơi nghiêng như thể sắp đổ xuống dòng bùn đục ngầu bị khuấy tung đang chảy trong rãnh. Macon vẫn duy trì vận tốc cũ. “Chẳng bao giờ anh làm cho em cảm thấy được an ủi,” Sarah nói. “Em yêu, anh đang cố làm điều ấy mà.” “Anh chỉ sống theo cách anh từng sống trước đây. Công việc hàng ngày tầm thường, những lề lối, những thói quen nhàm chán, ngày nào cũng thế. Chẳng có chút gì khiến em có cảm giác được an ủi.” Chứ em nghĩ anh không cần được an ủi sao?” Macon hỏi. "Đâu phải một mình em, Sarah. Anh không hiểu sao em cứ cho rằng nỗi mất mát ấy chỉ có riêng em chịu.” “À, đôi lúc em nghĩ thế thật.” Họ im lặng một hồi. Một vũng nước rộng, có vẻ như thế, ở ngay giữa đường dội nước ngược lên gầm khiến xe đảo sang bên phải. Macon ghìm phanh, rồi chạy tiếp. “Cơn mưa này, chẳng hạn,” Sarah nói. “Anh biết nó khiến em hoảng sợ. Đợi một chút thì có hại gì cơ chứ? Lẽ ra anh nên tỏ ra quan tâm đến cảm giác của em. Lẽ ra anh nên nói với em rằng, có anh ở đây, bên cạnh em lúc này, chẳng còn gì phải lo lắng nữa.” Macon chăm chú nhìn qua kính chắn gió, nước mưa chảy thành dòng trên kính khiến nó trông như cẩm thạch. Anh lên tiếng, “Sarah, anh biết cách. Em biết là anh lái đúng lề lối mà.” “Dẹp anh và những cái cách chết tiệt của anh đi!” “Thêm nữa,” anh tiếp, “nếu em không tìm thấy ý nghĩa gì trong cuộc sống, anh chẳng thể hiểu nổi tại sao một cơn mưa lớn lại khiến em căng thẳng.” Sarah ngồi thụp xuống ghế. “Nhìn kìa!” anh nói. “Một cái nhà lưu động đã bị hất tung qua bãi đậu xe moóc kìa.” “Macon, em muốn ly hôn,” Sarah lên tiếng. Macon đạp phanh và liếc nhanh sang cô. Cái gì? Chiếc xe loạng choạng. Anh lại phải hướng mắt về phía trước. “Anh đã nói gì chứ? anh hỏi. “Em nói vậy là có ý gì?” “Chỉ là em không thể sống cùng anh được nữa.” Macon tiếp tục dõi mắt về con đường phía trước, nhưng mũi anh dường như buốt hơn và nhợt hơn, như thể toàn bộ da mặt anh bị kéo căng. Anh hắng giọng, “Em yêu. Nghe này. Một năm qua thật khó khăn. Chúng mình đã phải trải qua một quãng thời gian đầy khó khăn. Ai mất con cũng thấy như vậy; ai cũng nói như thế; ai cũng cho rằng chuyện đó khiến vợ chồng sống trong căng thẳng...” “Em muốn tìm chỗ ở riêng cho em ngay khi mình về đến nhà,” Sarah nói với anh. “Chỗ ở riêng cho em,” Macon lặp lại lời vợ, nhưng giọng anh quá nhẹ, mà mưa ngoài trời đập vào mui xe thì quá ầm ĩ, nên giống như anh chỉ mấp máy môi. “À, được. Nếu em thật sự muốn vậy.” “Anh có thể giữ lại ngôi nhà ấy. Anh không bao giờ thích chuyển đi mà.” Vì một lý do nào đó, đây chính là điều rốt cuộc khiến Sarah thấy sụp đổ. Cô vội quay đi. Macon bật đèn xi nhan bên phải lên. Anh rẽ vào ga Taxeco, đỗ lại bên dưới mái hiên, tắt máy. Anh xoa xoa lòng bàn tay vào hai đầu gối. Sarah dúi mình vào một góc ghế xe. Âm thanh duy nhất còn nghe thấy được là tiếng mưa rơi vỗ lên mái hiên ở phía xa bên trên đầu họ. Mời các bạn mượn đọc sách Du Khách Bất Đắc Dĩ của tác giả Anne Tyler & Dạ Thảo (dịch).
Warcross Thợ Săn Tiền Thưởng
Warcross Thợ săn tiền thưởng. Cuốn tiểu thuyết viễn tưởng nằm chiễm chệ ở top đầu danh sách những cuốn sách bán chạy trên New York Times trong 16 tuần. Điều gì đã làm nên kì tích này? Đầu tiên về thể loại tiểu thuyết: Một thể loại hết sức là thú vị bởi nội dung cuốn hút, ý đồ, tư tưởng tác giả gửi gắm vào trong đó qua từng câu, từng chữ, từng cuộc hội thoại, từng nhân vật, từng bối cảnh,… Chúng hòa quyện với nhau một cách hài hòa để cô đọng lại trong một cuốn sách vài trăm trang. Để rồi người đọc phải tò mò, đoán này đoán kia, tư duy, nghiền ngẫm, lật đi lật lại từng trang sách xem là tác giả muốn nói gì thông qua những hình tượng đó. Và rồi ta có hiểu thì dường như cũng chỉ hiểu theo tư duy của ta, một phần nào đó là cái đồ, tư tưởng lớn lao kia của người viết. Bởi nó là tiếng nói sâu thẳm của cả một giai cấp, một thời đại, một bối cảnh lịch sử thu nhỏ trong cuốn sách! Dù thời gian có trôi thì những giá trị ấy vẫn còn nguyên, có khi còn vượt cả thời đại, làm nên những cuốn tiểu thuyết kinh điển! Về cuốn sách WARCROSS có lẽ tác giả trọn thể loại tiểu thuyết viễn tưởng để lột tả cái xã hội tương lai của con người khi bối cảnh chính trong cuốn sách là thời kì công nghệ số, con người đắm chìm trong những trò chơi, trong thế giới ảo. Chỉ cần che đe đôi mắt nhìn đời hiện thực bằng một cặp kính là ta có thể sống trong thế giới mơ ước với những cảm xúc thật đến khó tin. Để rồi ta quên đi hiện tại, quên đi những nỗi đau, quên đi áp lực cuộc sống,…thật cám dỗ phải ko nào? Nhân vật chính trong cuốn sách Emika Chen lớn lên trong hoàn cảnh éo le, thiếu thốn tình thương từ mẹ, mất đi nốt người ba cũng là người duy nhất thương yêu chăm sóc cho cô. Ôm những mất mát đó cùng sự xa lánh, bắt nạt trong môi trường giáo dục tạo nên hình ảnh một cô gái vừa mạnh mẽ nhưng cũng đầy sự yếu đuối. Một biến cố lạ lùng đã đưa cô gái này từ New York tới thành phố Tokyo hoa lệ, nơi có một giải đấu Warcross hoành tráng, một âm mưu phá hoại nham hiểm, và cả Hideo Tanaka – chàng CEO tỷ phú điển trai, lạnh lùng đứng đằng sau trò chơi đình đám kia. Emika ngay lập tức vướng vào một mạng lưới đan xen những bí mật và cảm xúc mà cô không thể ngờ tới.Với sự tài tình trong việc sử dụng ngôn từ, khéo léo trong việc sắp xếp bố cục, tác giả đã biến từng câu chữ thành những dòng cảm xúc đan xen, lúc vui lúc buồn, lúc nghẹn ứ, lúc dâng trào trong lòng người đọc. warcross tho san tien thuong Đâu đó, ta thấy mình trong nhân vật, thấy cảm xúc, kí ức của ta rung lên đồng cảm với họ. Ta và Emika Chen như hòa làm một, cùng chung những ước mơ, sở thích, cùng lý tưởng sống cao đẹp muốn vượt lên chính bản thân mình, thoát ra khỏi tình trạng buồn chán hiện tại. Để ta nín thở, dõi theo từng bước đi, từng hành động của cô, tò mò, hồi hộp đoán xem cô sẽ sống và thể hiện tình yêu, bản chất con người mình ra sao?Warcross của Marie Lu quá khác biệt so với những cuốn sách tôi từng đọc — tài tình, thông minh, lãng mạn — nhưng cũng bùng nổ đầy màu sắc, hành động và tốc độ.” Sabaa Tahir, tác giả của An Ember in the Ashes, tiểu thuyết bán chạy số 1 trên New York Times. Nguồn Facebook: Hải Lit *** Marie Lu là nhà văn người Mỹ chuyên viết dòng tiểu thuyết phiêu lưu kỳ ảo dành cho giới trẻ. Trước khi trở thành một nhà văn toàn thời gian, cô là chỉ đạo nghệ thuật ở một công ty sản xuất trò chơi điện tử. Bên cạnh Warcross, các tác phẩm nổi bật của cô gồm có loạt truyện Legend, loạt truyện Young Elites, tiểu thuyết truyện tranh Batman: Nightwalker,… *** Đúng hôm trời rét kinh khủng thế này thì phải đi săn. Tôi rùng mình, kéo khăn choàng che miệng rồi lau đi một vài bông tuyết trên mi mắt. Đoạn, tôi giậm mạnh lên tấm ván trượt điện. Như mọi món đồ khác của tôi, tấm ván này đã cũ và mòn quá rồi. Tuy lớp sơn xanh gần như đã bị trầy hết cả, để lộ ra một lớp nhựa màu bạc rẻ tiền bên dưới, nhưng nó vẫn còn tạm dùng được. Khi tôi nhấn gót ủng thật mạnh, nó rốt cuộc cũng khởi động, kéo tôi bất thình lình về phía trước, len lỏi giữa hai hàng ô tô. Mái tóc sáng, màu cầu vồng của tôi theo gió quất lên trên mặt. “Ê!” Một tài xế hét lên khi tôi vọt qua chiếc xe của ông ta. Tôi ngoái lại về phía cửa kính xe đang mở và thấy ổng đang dứ dứ một nắm đấm về phía tôi. “Tí thì tông vào tao rồi!” Tôi cứ ngoảnh mặt đi và mặc kệ. Thường thì tôi không xấu tính thế này, hoặc ít nhất là cũng hét lên một câu xin lỗi thật to, nhưng sáng nay khi tôi vừa tỉnh dậy, đập vào mắt tôi đã là một tờ giấy thông báo có dòng chữ được in bằng phông chữ lớn nhất từng có: THANH TOÁN TRONG 72 GIỜ TỚI! KHÔNG THÌ BIẾN! Nghĩa là: Tôi đã chậm tiền thuê nhà ba tháng rồi. Thế nên tôi phải có 3.450 đô la ngay và luôn, không thì đến cuối tuần này sẽ phải ra đường ngủ. Thông báo ấy làm tôi nẫu hết cả ruột. Má tôi lạnh buốt vì gió rét. Bầu trời phía trên những tòa nhà vốn đã xám xịt nay ngày càng xám hơn, báo hiệu cơn mưa tuyết bất ngờ này sẽ rơi dày hơn trong vài giờ nữa. Xe ô tô tắc nghẽn cả đường phố, tạo ra một dãy dài toàn đèn phanh và tiếng còi xe, suốt từ đây đến tận Quảng trường Thời đại. Thỉnh thoảng, tiếng còi từ người kiểm soát giao thông lại nổi lên trên nền những âm thanh hỗn loạn. Không khí dày đặc mùi khí thải ô tô, hơi nước bốc lên cuồn cuộn từ một lỗ thông hơi mở gần đó. Từng dòng người đổ xô hết lên lại xuống vỉa hè. Rất dễ nhận ra đám sinh viên tan trường lẫn trong đám đông nhờ những chiếc ba lô và tai nghe nhạc cỡ bự. Đáng ra tôi phải là một trong số đó. Đáng lẽ ra năm nay là năm đầu ở đại học của tôi. Nhưng tôi đã bắt đầu trốn tiết sau khi bố qua đời và bỏ học hẳn từ cách đây vài năm. (Rồi, thực ra, là tôi bị đuổi học, nhưng đằng nào tôi cũng bỏ học mà thôi. Sẽ bàn vụ đó sau.) Tôi ngó xuống điện thoại một lần nữa và tâm trí tôi ngay lập tức trở về với cuộc săn. Hai ngày trước, tôi đã nhận được tin nhắn sau: ... Mời các bạn mượn đọc sách Warcross Thợ Săn Tiền Thưởng của tác giả Marie Lu & Nhóm TownH (dịch).
1493 - Diện Mạo Tân Thế Giới Của Columbus
1493 – Diện mạo Tân thế giới của Columbus là cuốn sách xuất sắc nhất năm theo tạp chí TIME bình chọn; đồng thời là tác phẩm nổi bật của năm theo New York Times và Washington Post bình chọn. 1493 – Diện mạo Tân thế giới của Columbus là phần tiếp theo của cuốn sách 1491 - Những Khám Phá Mới Về Châu Mỹ Thời Kỳ Tiền Columbus đã được xuất bản bởi Huy Hoàng Book. Tác giả Charles C. Mann không hề làm người đọc thất vọng khi dùng sự hiểu biết sâu rộng của mình để lý giải những gì xảy ra đối với châu Mỹ, đối với thế giới sau sự kiện Columbus tìm ra châu Mỹ. Cuốn sách này đi ngược với những ý nghĩa mà chúng ta thường biết về cuộc phát kiến châu Mỹ. Thay vì tập trung vào việc người châu Âu thay đổi châu Mỹ ra sao, Charles C. Mann lại tập trung vào việc châu Mỹ thay đổi thế giới như thế nào. Sự thay đổi ấy diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, văn hóa, con người, sinh thái học… mà tác giả gọi bằng thuật ngữ: Cuộc trao đổi Columbus. Cuộc trao đổi Columbus mang thực vật từ châu Mỹ tỏa đi khắp thế giới; khoai tây đến với châu Âu; khoai lang cứu đói ở Trung Quốc; và cả những cánh rừng cao su bất tận mà thế giới đang thấy ngày nay cũng xuất phát từ châu Mỹ. Thế giới đang dần tiến tới điều mà các nhà nghiên cứu gọi là “Kỷ nguyên đồng hóa sinh học” – đa dạng sinh học trên trái đất mất đi, các hệ sinh thái dần trở nên giống nhau. Thông qua chuyến hải hành của Columbus, ký sinh trùng gây bệnh sốt rét, sốt vàng da tới châu Mỹ trong khi nơi đây đang bị khai thác thuộc địa. Chế độ nô lệ cũng từ đây mà hình thành. Thông qua chuyến hải hành đến châu Mỹ của Columbus, các nền kinh tế gặp gỡ, giao lưu với nhau tạo nên mạng lưới kinh tế toàn cầu. Bạn có bao giờ tự hỏi, tại sao người châu Phi sống ở châu Phi, phần lớn người châu Á ở châu Á và phần lớn người châu Mỹ bản địa sống ở châu Mỹ. Ngược lại, người mang dòng giống châu Âu lại có mặt đông đúc ở châu Úc, châu Mỹ và miền Nam châu Phi không? Do người châu Âu ưu việt hơn hẳn các dân tộc khác chăng? Câu trả lời trong cuốn sách này sẽ làm bạn phải ngạc nhiên đấy. *** Review Cuốn sách 1493 - Diện mạo tân thế giới của Columbus là một dẫn chứng cho thấy thế nào là loại sách lịch sử hay nhất. Vòng xoáy sinh tồn khốc liệt Một cuốn sách vừa làm thay đổi cách nhìn của bạn về thế giới, vừa giàu thông tin thú vị. Ấn tượng hơn cả là việc tác giả đã xoay sở, trải nghiệm thực địa đa dạng xuyên qua nhiều quốc gia và xử lý nguồn tư liệu hợp lý trải dài theo nhiều giai đoạn khắc nghiệt của lịch sử. Rực rỡ và thảm hoạ trong hành trình viễn chinh của Columbus. 1493: khởi nguồn từ những cuộc viễn chinh "vĩ đại" của Columbus cùng cộng sự. Hành trình ấy, đầy rẫy hoài nghi - thiên tai - dịch bệnh. Như cánh chim thiên di xuyên Đại Tây Dương, những chuyến hải trình đổi lụa lấy bạc vượt Thái Bình Dương luôn ẩn họa nhiều nguồn lây nhiễm - dịch bệnh. Giấc mơ cuồng vọng vẫn không vì thế mà khép lại, mà chúng được viết tiếp bởi kẻ cuồng danh nhằm xây dựng đế chế cho riêng mình. Biến công nhân thành nô lệ theo đế chế cao su Julio Cesar Arana - con trai một người thợ làm mũ Peru. Đem đến thức ăn lẫn bệnh tật, nạn đói và nụ cười, nguồn dịch và nông sản đa dạng, thuốc trừ sâu và ô nhiễm hay những con ốc bươu vàng ăn tạp giết chết ruộng bậc thang tại nhiều quốc gia vùng Đông Á.. 1493 kèm theo nhiều câu chuyện gai góc, lì lợm của kẻ chinh phục vô tình mang theo mầm dịch bệnh. Giải đáp hàng loạt câu hỏi, hiện tượng: Những nốt sần chứa hoạt chất ung thư trên khoai tây làm thế nào để ức chế. Sự dịch chuyển của nhiều giống loài ra ngoài môi trường phát tích, vì sao lại là khởi nguồn cho việc bùng phát dân số, những mầm bệnh dịch và cả câu chuyện nô lệ đi cùng. Đắt giá hơn, là hàng loạt dẫn chứng, kiến giải thuật ngữ "vàng đen" đánh dấu một cuộc cách mạng công nghiệp rực rỡ. Để rồi, nước mắt "vàng đen" đọng lại nhiều trăn trở với người đọc, vì đâu? 1493 trả lời gần như chỉn chu - khoa học nhất cho toàn bộ quá trình này. Đặc biệt là những nhận định xung quanh cuộc chiến khoai tây. Chúng không chỉ đem giống khoai siêu năng suất tới Châu Âu và Bắc Mỹ, còn mang đến những kỹ thuật trồng khoai tây siêu năng suất, dựa trên việc kế thừa nguồn phân chim khổng lồ từ Peru. Nơi người vùng Andes đã khai thác qua hàng thế kỷ từ những mỏ phân mà các loài chim biển đã để lại, thậm chí có nơi cao gần 45m. Đủ để cuốn hàng trăm chuyến tàu chở phân vượt Đại Tây Dương. Khi cuộc cách mạnh công nghiệp nổ ra, với 3 nhân tố chính: thép, các nguồn nhiên liệu hoá thạch và đặc biệt là cao su. Trong đó, quá trình lưu hoá cao su góp tiếng nói quan trọng trong cuộc cách mạng công nghiệp, mang đến nhiều phát minh vượt trội. Khi cao su nhóm lên ngọn lửa danh vọng cuồng nhiệt, cũng là lúc hàng loạt cánh rừng nhiệt đới biến mất, vì phải dùng củi đốt để làm sôi mủ cao su và làm nhiên liệu cho các chiến thuyền chuyên chở vượt biển. Môi trường bị tàn phá, từng đoàn người nô lệ được triệu hồi để xây dựng đế chế cao su cho riêng mình - Arana. Với nguồn tri thức khổng lồ được cập nhật, logic theo từng giai đoạn qua 4 phần chi tiết trong 1493, cho thấy góc nhìn đa chiều được - mất thông qua cuộc trao đổi Columbus. Khởi nguồn từ cuộc viễn chính, giờ đây Columbus trực tiếp góp phần thay đổi diện mạo Tân Thế Giới. Bắp cùng khoai lang, cây cung cấp lương thực cứu rỗi nạn đói ở Châu Á- Trung Quốc sản phẩm có được từ cuộc viễn chính của Columbus - giờ đây được trồng ở rìa sa mạc Gobi, khu Nội Mông  Di thực giống loài và những câu chuyện bi thương khác Cuộc trao đổi Columbus còn mang thực vật từ châu Mỹ tỏa đi khắp thế giới. Thông qua chuyến hải hành của Columbus, ký sinh trùng gây bệnh sốt rét, sốt vàng da tới châu Mỹ trong khi nơi đây đang bị khai thác thuộc địa. Chế độ nô lệ cũng từ đây mà hình thành. 70.000 hạt giống cây cao su đến nước Anh vào năm 1876 đã mang lại vinh quang cho Herry Wickham. Ông được phong tước hiệp sĩ năm 74 tuổi, nhờ vào việc chuyển lậu hạt giống. Trở thành vụ "ăn cướp sinh học" nổi bật không giấu diếm. Và quan trọng hơn, chính việc vận chuyển các giống loài có ích ra khỏi môi trường phát tích của chúng, là một phương tiện tối thượng - có lợi cho sự bành trướng của loài người. Thế nên, 1493 lôi cuốn người đọc - các nhà khoa học khi có cơ hội nhìn ngắm lại lịch sử một cách trọn vẹn, đa dạng đậm tính thừa hưởng lẫn khám phá đắt giá, tạo điểm nhấn rực rỡ trong hành trình viễn chinh của Columbus. Điểm nhấn chính từ 1493 còn là bài toán lương thực và nô lệ. Kéo theo nhiều cuộc chiến về di cư - môi trường - bệnh dịch. Biến mầm bệnh, những nông trại phân chim, các loài thực vật, côn trùng bước vào cuộc chiến sinh tồn tàn khốc để phô bày sự mạnh mẽ, tối - sáng của nhân vật trung tâm con người trong vòng xoay định hình diện mạo Tân thế giới của Columbus. Thông qua chuyến hải hành đến châu Mỹ của Columbus, các nền kinh tế gặp gỡ, giao lưu với nhau tạo nên mạng lưới kinh tế toàn cầu. Thúc đẩy thế giới tiến tới "Kỷ nguyên đồng hóa sinh học" – khiến đa dạng sinh học trên trái đất mất đi, các hệ sinh thái dần trở nên giống nhau. Để nhận ra, kiểu chinh phục bản năng sẽ không còn phù hợp dù bạn có là Colo "vĩ đại" trong thế giới Châu Âu. Ngày nay, cuộc trao đổi Columbus đã được tiếp cận và cải biến sao cho phù hợp, để chúng ta - những người thừa hưởng di sản giàu giá trị sống cân đối, đồng hành lựa chọn cuộc sống hướng đến sự tối giản xanh sạch. Tác giả Charles C. Mann, là phóng viên của các tạp chí The Atlantic Monthly, Science và Wired, chịu trách nhiệm mảng khoa học, công nghệ và thương mại. Ông còn là phóng viên tự do của National Geographic, The New York Times, The Wasington Post và là tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng. Hiện ông đang sinh sống cùng vợ và các con ở bang Masachusetts. Thành công với loạt tác phẩm cùng chủ đề: 1491, Pháp sư và nhà tiên tri và mới nhất là 1493 của Mann còn đến từ biệt đội săn lỗi ngữ pháp uyên bác, giúp cho Mann vượt qua nhiều  trở ngại trong việc đối mặt ngôn từ, các bản beta giàu trải nghiệm lẫn thử nghiệp, để hoàn thành xuất sắc một ấn bản khoa học, cuốn hút và chuẩn xác.  1493 – Diện mạo tân thế giới của Columbus là cuốn sách xuất sắc nhất năm theo tạp chí TIME bình chọn; đồng thời là tác phẩm nổi bật của năm theo New York Times và Washington Post bình chọn. Sách được mua bản quyền chuyển ngữ và xuất bản từ Huy Hoàng Book.   Đinh Quý Anh Mời các bạn mượn đọc sách 1493 - Diện Mạo Tân Thế Giới Của Columbus của tác giả Charles C. Mann & Liêu Nguyên (dịch).
Màu Của Nước
Màu Của Nước là cuốn tự truyện của nhà văn Mỹ James McBride viết để tưởng nhớ người mẹ của mình, một phụ nữ gốc Do Thái da trắng kết hôn với những người đàn ông da đen. Vượt lên bi kịch cá nhân, sự thiếu thốn về vật chất, sự ngược đãi về tinh thần và mọi sự phân biệt đối xử, bà đã nuôi dạy mười hai đứa con trở thành các bác sĩ, giáo sư, giáo viên, nhà khoa học. Đó cũng là câu chuyện về hành trình đi tìm cội nguồn, cái tôi, sự tự tin và ý nghĩa cuộc sống của một đứa con lai da đen, đại diện cho hàng triệu người da đen ở Mỹ. Màu Của Nước ra mắt bạn đọc lần đầu vào năm 1995, trở thành một hiện tượng xuất bản với kỷ lục nằm trong danh sách Sách bán chạy nhất của New York Times trong 100 tuần (hơn 2 năm) , được coi là tác phẩm văn học kinh điển của Mỹ, từng được trao các giải thưởng Anisfield-Wolf Book Award năm 1997 cho tác phẩm văn học xuất sắc, và là cuốn sách về người mẹ mà Amazon khuyên mọi độc giả nên đọc. - Trích từ bài giới thiệu của dịch giả Nguyễn Bích Lan. *** 'Màu của nước' - sách về nạn phân biệt chủng tộc Tự truyện của nhà văn Mỹ James McBride do dịch giả Bích Lan chuyển ngữ vừa ra mắt bạn đọc trong nước.  Nhà văn Mỹ James McBride mất 14 năm để "khai quật chuyện đời lạ lùng của mẹ" - con gái một giáo sĩ Do Thái chính thống kết hôn với một người đàn ông da đen vào năm 1942 ở Mỹ. Vượt lên thiếu thốn về vật chất, sự ngược đãi về tinh thần và mọi phân biệt đối xử, bà đã nuôi dạy 12 người con trở thành các bác sĩ, giáo sư, giáo viên, nhà khoa học. Cuốn sách là câu chuyện về hành trình đi tìm cội nguồn, sự tự tin và ý nghĩa cuộc sống của một đứa con lai - đại diện cho hàng triệu người da đen ở Mỹ.  Màu của nước được kể với giọng tự sự chân thực, hóm hỉnh, giản dị và không kém phần sâu sắc. Qua đó, tác giả gửi gắm ước mơ xóa nhòa ranh giới phân biệt chủng tộc. Theo James McBride, mỗi con người dù có màu da và xuất thân khác nhau đều cần được đối xử công bằng. Mọi phân biệt, kỳ thị không thể ngăn cản nhân loại chia sẻ tình yêu thương, lòng trắc ẩn. Theo tờ Wall Street Journal, "cuốn sách nói cho chúng ta về sự yếu kém liên quan đến vấn đề chủng tộc của quốc gia và về những khả năng vượt lên sự yếu kém đó". Trang Publisher Weekly đánh giá tác phẩm là tiểu thuyết có cốt truyện hấp dẫn, "bất cứ ai mang màu da nào, theo tôn giáo nào cũng nên đọc cuốn tự truyện cảm động và khó quên này".                          Màu của nước ra mắt bạn đọc năm 1995. Tác phẩm nằm trong danh sách "Sách bán chạy nhất" của tờ New York Times suốt 100 tuần, từng được trao giải thưởng Anisfield-Wolf Book Award năm 1997 cho tác phẩm văn học xuất sắc. Đến nay, tác phẩm bán được 2,5 triệu bản trên toàn thế giới, cuốn sách được dịch ra 16 thứ tiếng và xuất bản ở 20 nước. James McBride sinh năm 1957 tại New York, Mỹ. Ông là nhà báo, nhạc sĩ, nhà văn nổi tiếng. James từng đoạt giải National Book Award (Giải thưởng sách Quốc gia Mỹ năm 2013 với tác phẩm The Good Lord Bird (Con chim đầu đàn).  Vĩ Thanh *** Khi còn nhỏ tôi không biết gì về xuất thân của mẹ mình - Tôi không biết mẹ sinh ra ở đâu, ông bà ngoại của tôi là ai. Khi tôi hỏi về gốc gác của mẹ, mẹ nói: Chúa sinh ra mẹ. Khi tôi hỏi mẹ có phải là người da trắng không, mẹ nói: “Da mẹ sáng màu, rồi lập tức chuyển chủ đề. Mẹ nuôi mười hai đứa con da đen của mẹ, cho tất cả học đại học và hầu như tất cả đều tốt nghiệp đàng hoàng. Các con của mẹ trở thành bác sĩ, giáo sư, nhà hóa học, giáo viên - Tuy nhiên cả mười hai anh chị em chúng tôi không ai biết họ tên thời con gái của mẹ cho đến khi chúng tôi trở thành người lớn. Tôi phải mất tới mười bốn năm khai quật chuyện đời lạ lùng của mẹ - chuyện về con gái của một giáo sĩ Do Thái chính thống kết hôn với một người đàn ông da đen vào năm 1912 - và mẹ tiết lộ chuyện đời mình như một đặc ân dành cho tôi hơn là muốn ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Đây là câu chuyện cuộc đời mà mẹ kể cho tôi nghe, và xen kẽ giữa những trang viết về cuộc đời của mẹ, các bạn cũng sẽ tìm thấy những trang kể về cuộc đời tôi. *** Chết Con muốn mẹ kể về gia đình của mẹ, mà đối với cái gia đình ấy mẹ đã chết từ năm mươi năm trước rồi. Hãy để mẹ yên. Đừng làm phiền mẹ. Gia đình mẹ không muốn có mẹ chút nào và mẹ cũng chẳng hề muốn có họ. Có hỏi thì hỏi nhanh lên rồi kết thúc mau đi. Mẹ muốn ngắm Dallas. Mà này, nếu con là một phần của gia đình ấy, con sẽ không có thời gian dành cho điều vớ vẩn này đâu, không có thì giờ để nghĩ về gốc gác của con đâu. Thà con đi xem phim “Ba Chàng Ngốc” còn hơn là hỏi họ, hỏi cha đẻ của mẹ chẳng hạn, quên chuyện đó đi. Nếu ông ngoại của con gặp con, ông sẽ lên cơn đau tim. Dẫu sao ông cũng chết rồi, nếu không thì bây giờ ông đã một trăm năm mươi tuổi rồi. Mẹ sinh ra là một người Do Thái chính thống vào ngày 1 tháng 4 năm 1921, đúng vào ngày Cá tháng Tư ở Ba Lan đấy con ạ. Mẹ không nhớ tên của cái thị trấn nơi mẹ chào đời, nhưng mẹ còn nhớ tên Do Thái của mình: Ruchel Dwajra Zylska. Ông bà ngoại của con đã xóa cái tên đó khi họ đến Mỹ và đổi tên mẹ thành Rachel Deborah Shilsky, và chính mẹ đã tống khứ cái tên ấy ra khỏi cuộc đời mình khi mẹ mười chín tuổi, không bao giờ sử dụng nó nữa sau khi mẹ đi khỏi Virgina năm 1941 mà không bao giờ quay trở lại. Đối với mẹ, Rachel Shilsky đã chết. Cô ta chết để mẹ, phần còn lại của mẹ, được sống. Khi mẹ lấy cha của con, gia đình mẹ than khóc vật vã. Họ đọc Kinh kaddish và ngồi shiva[1]. Đó là cách người Do Thái chính thống khóc người thân qua đời. Họ cầu nguyện, úp các tấm gương xuống, ngồi trên những cái hộp trong bảy ngày và dùng khăn trùm đầu. Nó có tác dụng thật đấy và có lẽ đó là lý do tại sao giờ đây mẹ không còn là một người Do Thái nữa. Có quá nhiều luật lệ phải tuân theo, quá nhiều điều cấm kỵ và quá nhiều những điều “Mày không thể làm” và “Mày không được phép làm”, nhưng có ai nói họ yêu thương mẹ không nhỉ? Không, trong gia đình của mẹ không ai nói thế với ai. Gia đình mẹ không nói thế. Mọi người nói với nhau những lời đại loại như “Liệu hồn đấy,” hoặc ông ngoại con sẽ nói, “Hãy im miệng trong lúc tao ngủ.” Tên ông ngoại của con là Fishel Shilsky và ông là một giáo sĩ Do Thái chính thống. Ông đã trốn khỏi trại của quân Nga, lẩn sang biên giới Ba Lan và cưới bà ngoại của con trong một cuộc hôn nhân sắp đặt. Ông thường nói rằng khi ông chạy trốn ông phải chạy dưới những làn đạn và khả năng lẩn trốn những gì không tốt cho bản thân tồn tại cùng ông từ khi mẹ biết ông. Bọn mẹ gọi ông là Tateh. Trong tiếng Do Thái “Tateh” có nghĩa là cha. Ông là một con cáo, nhất là trong chuyện tiền bạc. Ông có dáng người thấp, nước da sẫm màu, râu tóc rậm và là người cộc cằn, lỗ mãng. Ông mặc sơ mi trắng, quần đen, quấn một chiếc tallis[2], và những thứ đó giống như đồng phục của ông. Ông mặc cái quần đen đó hoài cho tới khi nó nhẵn bóng và cứng queo đủ để tự đứng được bằng chính hai ống của nó mà không cần xỏ chân, nhưng chỉ Chúa Trời mới có thể cứu con nếu như con đụng phải cái quần đó trong lúc vội, bởi ông ngoại của con không phải là người để đùa giỡn. Ông khó tính lắm. Bà ngoại của con tên là Hudis và bà trái ngược hoàn toàn với ông, rất dịu dàng và nhu mì. Bà sinh năm 1896 ở thị trấn Dobryzn, Ba Lan, nhưng nếu bây giờ con hỏi thông tin thì không ai còn nhớ gia đình bà nữa bởi vì bất cứ người Do Thái nào không rời khỏi đó trước khi quân Hitler tràn vào Ba Lan cũng đều bị giết hại trong cuộc tàn sát người Do Thái rồi. Bà có khuôn mặt xinh xắn, mái tóc đen, gò má cao nhưng bà bị bại liệt. Chứng bệnh đó làm bà bị liệt nửa người bên trái và khiến sức khỏe của bà không được tốt. Tay trái của bà không sử dụng được. Nó bị khòng khèo ở cổ tay và nó cong lên gần đến ngực. Mắt trái của bà gần như bị mù và bà đi cà nhắc, kéo lê cái chân trái bị liệt. Bà là một người phụ nữ ít nói, Mameh yêu quý của mẹ. Đó là lý do tại sao bọn mẹ gọi bà là Mameh. Bà là người mà trong cõi đời này mẹ đã đối xử không tốt khi… Mời các bạn mượn đọc sách Màu Của Nước của tác giả James McBride & Nguyễn Bích Lan (dịch).