Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Viên Nhộng Xanh

Vụ án viên nhộng xanh là một trong các tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhất của John Dickson Carr. Trong tác phẩm, Marcus Chesney – chủ sở hữu những nhà kính trồng đào tại Sodbury Cross – đã bị đầu độc chết trong một màn trình diễn do chính mình sắp đặt. Khi ấy, Marcus đang dùng một loạt bẫy tâm lí để chứng minh lập luận: nhân chứng không thể kể lại chính xác những điều đã xảy ra ngay trước mắt mình. Và tệ thay, ông đã đúng. Tất cả các nhân chứng đều mục kích vụ sát nhân nhưng dường như họ đều đang đeo một cặp kính đen, mọi thứ đều bị che phủ và lừa mị. Thấy vậy nhưng không hẳn là vậy, nghe thế nhưng chưa chắc là thế. Nhân chứng bị bưng tai bịt mắt bằng các bẫy gài liên hoàn dù cho họ vẫn mở mắt lắng tai. Qua Vụ án viên nhộng xanh, John Dickson Carr không chỉ dẫn dắt người đọc vào ma trận của những lời khai không trùng khớp mà còn nêu bật được một lập luận mới mẻ về giá trị của các nhân chứng trong làng văn trinh thám. *** Câu chuyện bắt đầu, theo trí nhớ của người đàn ông, trong một căn nhà ở thành phố cổ Pompeii. Anh ta không bao giờ quên được buổi chiều yên tĩnh, nóng bức đó, khi những giọng nói tiếng Anh phá vỡ sự tĩnh mịch của “Con Đường Hầm Mộ”. Vạt trúc đào nở hoa đỏ rực trong khu vườn đổ nát, và cô gái mặc váy trắng đứng im lìm giữa nhóm người đeo kính râm, trông như thể bị bao quanh bởi những chiếc mặt nạ. Người đàn ông nhìn thấy quang cảnh trên đã đến Napoli công tác được một tuần. Công việc anh ta cần làm ở Napoli không hề liên quan đến chuyện này. Nhưng công việc đó chiếm hầu hết thời gian của anh, và mãi đến buổi chiều thứ hai, ngày 19 tháng Chín, anh mới thư thả được đôi chút. Tối ấy người đàn ông này dự định sẽ đến Rome, và rồi bay qua Paris và về đến London. Chiều hôm đó anh đang ngắm cảnh trong tâm trạng thảnh thơi, và đối với anh quá khứ luôn có sức hút mãnh liệt không hề thua kém hiện tại. Đó là nguyên nhân tại sao, vào lúc yên tĩnh nhất trong ngày, dưới sự êm ả của ánh mặt trời rực rỡ, anh lại nhận ra mình đang đi trên Con Đường Hầm Mộ. Con Đường Hầm Mộ nằm bên ngoài những bức tường của thành Pompeii. Nó bắt đầu từ cổng Herculaneum và thoải xuống một ngọn đồi thấp, trông giống một cái máng xối lát gạch rộng với vỉa hè ở hai bên. Những cây bách mọc khắp chỗ và khiến con đường chết chóc này dường như có thêm phần sinh khí. Đây là nơi xây cất những hầm mộ của quý tộc La Mã, những bệ thờ thấp hai bên đường chưa đến mức hóa thành phế tích. Nghe tiếng chân mình vang vọng, người đàn ông mơ hồ có cảm giác mình như lạc vào một vùng đất bị quên lãng. Ánh nắng chói chang, nóng nực chiếu xuống những viên đá lát đường đã mòn võng vì bị không biết bao nhiêu bánh xe ngựa nghiến xuống, từ đám cỏ trồi lên từ các kẽ nứt, những con thằn lằn nâu nhỏ xíu phóng qua trước mắt anh ta nhanh như vệt ảnh tối màu. Phía trước anh ta, đằng sau những lăng mộ là ngọn núi Vesuvius mang màu xanh xỉn trong màn sương từ đất bốc lên vì thời tiết oi nồng, nhưng không quá gây ấn tượng với anh ta vì nó còn cách đây chừng năm, sáu dặm. Người đàn ông thấy ấm áp và hơi ngầy ngật buồn ngủ. Những con đường dài với những cửa tiệm chỉ còn trơ lại bốn bức tường này, những khoảnh sân hoa lệ điểm xuyết những hàng cột chống đây đó kia, tất cả đều tác động đáng ngại đến trí tưởng tượng của anh ta. Anh ta đã lang thang hơn một tiếng đồng hồ; và từ khi đặt chân vào thành phố cổ này, anh ta chưa hề thấy bóng dáng của bất cứ sinh vật sống nào, ngoại trừ một nhóm người bí ẩn đi cùng hướng dẫn viên thình lình xuất hiện ở cuối đường Vận Mệnh rồi biến mất một cách đầy ma quái giữa những tiếng rào rạo của đám đá nhỏ. Con Đường Hầm Mộ dần đưa anh đi tới cuối thành phố. Đang cân nhắc xem nên ngừng cuộc thăm thú và trở về, hay quay gót tiếp tục khám phá thêm, đột nhiên anh ta trông thấy một căn nhà nằm giữa những ngôi mộ. Ngôi nhà đó khá lớn, đúng kiểu trang viên ngoại ô biệt lập những quý tộc La Mã hay xây dựng hồi thành phố còn phồn thịnh. Anh ta bước lên bậc thềm và vào nhà. Khoảnh sân nhỏ trong nhà tối tăm và bốc mùi ẩm ướt, lại không được giữ gìn tốt như những ngôi nhà tôn tạo anh đã nhìn thấy. Nhưng phía bên kia khoảnh sân là khu vườn cảnh có những hàng cột đá trang trí bao quanh, tắm trong ánh mặt trời rực rỡ. Khu vườn khá um tùm, mọc đầy trúc đào nở hoa đỏ rực và xung quanh phế tích đài phun nước là những cây tùng châu Á. Đột nhiên anh nghe có tiếng sột soạt trên đám cỏ mọc cao, và những giọng nói tiếng Anh. Cạnh đài phun nước, một cô gái mặc đồ trắng đang đứng quay mặt về phía anh ta. Và anh ta thấy cô ấy không chỉ đẹp mà còn có nét thông minh lanh lợi. Mái tóc nâu sẫm được rẽ đôi và vén ra sau tai, tạo thành những lọn xoăn nhỏ buông lơi qua gáy. Cô có khuôn mặt trái xoan, đôi môi nhỏ, căng mọng, và đôi mắt to thể hiện nét giễu cợt bất chấp gương mặt đang nghiêm nghị. Đôi mắt cô mang sắc xám, với mí mắt hơi dày và mang nét suy tư. Tư thế tạo dáng của cô rất đơn giản, chỉ vu vơ xòe vạt váy. Nhưng rõ ràng cô gái đang rất căng thẳng, chỉ cần nhìn vòng cung lông mày của cô là biết. Đối diện với cô gái là một chàng trai trẻ tóc đen mặc bộ vét vải nỉ xám, đang cầm chiếc máy quay và dán mắt vào ống ngắm. Chiếc máy quay bắt đầu kêu xè xè và phát ra tiếng lách cách nho nhỏ. Với má tì vào một bên máy, chàng trai trẻ nói với cô gái qua khóe miệng. “Này, em làm gì đi chứ!” Anh chàng thúc giục. “Mỉm cười, cúi đầu hay châm thuốc hoặc gì cũng được, nhưng hãy làm gì đó! Nếu em chỉ đứng yên đấy thì có khác gì chụp ảnh đâu.” “Nhưng, George, em biết làm gì bây giờ?” “Anh vừa nói với em còn gì. Mỉm cười hay cúi đầu hoặc… ” Rõ ràng cô gái đang bị ảnh hưởng bởi Hội chứng Tự ý thức, điều mà mọi người thường mắc phải khi họ biết rõ máy quay sẽ ghi lại bất cứ chuyển động nào trên cơ thể mình. Lúc đầu khuôn mặt cô có vẻ cực kì lo lắng, sau đó cô xoay xở để mỉm cười với vẻ hối lỗi. Cô nhấc chiếc túi xách màu trắng của mình lên và ve vẩy nó trong không khí. Sau đó cô ngó quanh tìm cơ hội lảng đi, và cuối cùng quyết định nhìn thẳng về hướng chiếc máy quay rồi cười lớn. “Chúng ta đang sử dụng hết phim rồi,” chàng trai rên lên, cứ như một nhà sản xuất phim. Người quan sát đứng ở cửa ra vào, cách nhóm người trong khu vườn khoảng hơn chục bước chân, bỗng nhiên tin chắc rằng cô gái này đang ở trong tình trạng căng thẳng đầu óc nguy hiểm, rằng cô ấy chỉ giả vờ khỏe mạnh; và rằng chiếc máy quay phim nhỏ đứng yên một chỗ không ngừng kêu lách cách đang bắt đầu ảnh hưởng đến cô, tựa như cơn ác mộng kinh hoàng có một con mắt cứ nhìn mình chằm chằm. “Sao, em có thể làm gì được?” “Đi dạo xung quanh, hoặc làm gì đó chẳng hạn. Di chuyển qua đó, đến bên phải. Anh muốn quay được những cây cột trụ đằng sau em.” Một thành viên khác trong nhóm, người đã đứng chống nạnh quan sát mọi chuyện nãy giờ, bật ra một tiếng khịt mũi. Đó là một người đàn ông nhỏ bé có vẻ lanh lợi và chiếc kính đen đang đeo giúp che đậy sự thật rằng ông già hơn rất nhiều so với bộ quần áo nghỉ mát đang mặc trên người. Bạn có thể thấy được điều đó qua làn da nhăn nheo chảy xệ dọc quai hàm, và qua đuôi tóc lốm đốm bạc dưới vành mũ cói sụp xuống trên đầu ông. “Hời hợt!” ông ta nói với vẻ khinh miệt. “Đó là thứ cậu đang cố làm: một kẻ hời hợt. Cậu muốn quay những cây cột sau lưng con bé, hả? Cậu không muốn có hình ảnh của Marjorie. Cậu thậm chí cũng không muốn có hình ảnh ngôi nhà cổ ở Pompeii. Thứ cậu muốn chỉ là hình ảnh Marjorie trước một căn nhà Pompeii, để chứng tỏ mình từng ở đó. Tôi cho rằng điều đó thật kinh tởm.” “Như vậy thì có gì sai?” Một giọng nói vang như sấm phát ra. Giọng nói đó là của một người đàn ông cao lớn và vạm vỡ có bộ râu hoe đỏ, người đứng đối diện cặp đôi đang bị mắng. “Thì hời hợt chứ sao,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Em hoàn toàn không đồng ý với anh,” người đàn ông vạm vỡ đáp lời. “Và em cũng chẳng hiểu nổi thái độ của anh, Marcus. Cứ mỗi lần chúng ta đến được nơi nào đó có vài cảnh đẹp, anh lại muốn tránh xa chúng ra (nếu em hiểu đúng) chỉ bởi vì đó là địa điểm tham quan. Vậy chúng ta chỉ được tìm hiểu về địa ngục thôi chắc,” ông ta gầm lên giữa khu vườn, “hay là anh thích đến nơi không có mấy địa điểm ngắm cảnh hơn? Anh phản đối việc hàng ngàn người tìm đến chỉ để nhìn thấy những quang cảnh đó. Nhưng có bao giờ anh nghĩ rằng, nếu hàng ngàn người đến đây chỉ để nhìn tận mắt một địa điểm hàng nghìn năm lịch sử, thì có thể là do nó có thứ gì đó đáng xem không?” “Ăn nói cho cẩn thận,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Và dừng ngay trò la hét đi. Cậu không hiểu, và sẽ không bao giờ hiểu được. Chẳng hạn như, cậu đã thấy được gì? Hoặc là, cậu có biết bây giờ chúng ta đang ở đâu không?” “Dễ ợt,” người kia nói. “Anh bạn trẻ, chỗ này là chỗ nào?” Người đàn ông vạm vỡ quay sang hỏi chàng thanh niên trẻ đang cầm máy quay phim. Người này đã miễn cưỡng dừng việc chụp hình cô gái lại, bây giờ cô ấy đang cười to một cách thoải mái. Anh ta cất máy quay vào chiếc túi đeo vai, sau đó rút từ trong túi áo ra một cuốn sách hướng dẫn du lịch và cần mẫn lật qua lật lại các trang. Sau đó anh ta hắng giọng. “Số ba mươi bốn, hai sao. Trang viên của Arrius Diomedes,” anh ta đọc với vẻ xúc động sâu sắc. “Ngôi nhà có tên gọi đó bởi vì…” “Vớ vẩn,” người đàn ông vạm vỡ lên tiếng. “Chúng ta vừa tham quan cái nhà đó mười phút trước. Chỗ họ tìm thấy mấy bộ xương ấy.” “Những bộ xương nào?” Cô gái phản đối. “Chúng ta có thấy bộ xương nào đâu, bác sĩ Joe.” Sau cặp kính râm tối màu, khuôn mặt của người đàn ông vạm vỡ dường như đang bốc hỏa. “Tôi không nói chúng ta đã nhìn thấy những bộ xương,” ông ta đáp, điều chỉnh lại chiếc mũ bằng vải tuýt trên đầu. “Tôi chỉ nói đó là nơi người ta tìm thấy mấy bộ xương. Chỗ ngay dưới đường ấy, cô không nhớ à? Tro nóng từ núi lửa nhốt những người nô lệ ở trong, sau đó các nhà khảo cổ tìm thấy họ, la liệt khắp sàn nhà như những bộ ki trên sân bowling. Ngôi nhà có những cây cột sơn màu xanh lá cây đó.” Người đàn ông già nhỏ con, lanh lợi đội mũ cói khoanh tay lại. Trong một thoáng, khuôn mặt ông ta thoáng lên vẻ ác ý rõ ràng. “Có thể thú vị với cậu, Joe, nhưng họ thì không.” “Không cái gì?” bác sĩ Joe gặng hỏi. “Không hứng thú với căn nhà xanh lá bạc màu. Hết lần này đến lần khác tôi đã chứng minh cho luận điểm của mình,” người đàn ông nhỏ con tiếp tục nói, “rằng những con người bình thường, như cậu – hay cậu ta, hoặc con bé – hoàn toàn không thể thuật lại chính xác những điều đã nhìn hay nghe được. Cậu không quan sát. Chính xác hơn là cậu không thể quan sát. Nhỉ, giáo sư?” Ông ta quay đầu lại và liếc nhìn về phía sau. Nhóm này còn hai người đàn ông khác nữa, và họ đang đứng ngay trong bóng râm của những mái hiên, đằng sau hàng cột bao quanh khu vườn. Người quan sát hầu như không ý thức được sự tồn tại của họ; anh không nhìn được họ rõ như những người đang đứng dưới ánh sáng mặt trời kia. Anh chỉ nhận thấy một người trạc trung niên, còn người kia trẻ. Họ đang dùng kính lúp nghiên cứu một khối đá hay mảnh dung nham nào đó, có vẻ như họ đã nhặt được nó từ hàng lan can nối những cây cột. Cả hai đều đang đeo kính râm đen. “Đừng quan tâm đến trang viên của Arrius Diomedes nữa,” một giọng nói vang lên từ bên trong lan can. “Căn nhà này là của ai thế?” “Giờ cháu đang tìm đây,” người thanh niên trẻ với máy quay phim và cuốn sách hướng dẫn du lịch tìm kiếm một cách nhiệt tình. “Hồi nãy cháu lật sai trang. Đây là số ba chín, đúng không? Đúng vậy. Đây rồi. Số ba mươi chín, ba sao. Nhà của kẻ đầu độc Aulus Lepidus.” Xung quanh bỗng nhiên trở nên cực kì yên lặng. Cho đến lúc này, đám người trông có vẻ giống một gia đình – hoặc – một nhóm bạn, với những thành viên lớn tuổi nóng tính có chút bực bội bởi ảnh hưởng của thời tiết hoặc sự mệt mỏi của chuyến đi. Nếu đây là một gia đình, theo thái độ mà họ nói chuyện với nhau, có thể suy ra rằng bác sĩ Joe và người đàn ông nhỏ con đội mũ cói (tên là Marcus) là hai anh em. Cô gái được gọi là Marjorie cũng có thể có quan hệ họ hàng với hai người đó. Không ngạc nhiên lắm. Tuy nhiên, khi những từ ngữ trong cuốn sổ hướng dẫn du lịch được đọc lớn lên, rõ ràng không khí giữa họ bỗng trở nên lạnh lẽo và u ám hơn cái sân này rất nhiều. Chỉ có chàng trai trẻ cầm cuốn sách là không ý thức được điều đó. Mọi người còn lại thì đều quay đầu nhìn quanh; và sau đó hướng về cùng một chỗ. Bốn cặp mắt kính đen nhìn thẳng về hướng cô gái, mặc dù cô đứng ngay chính giữa mọi người. Ánh sáng mặt trời lia trên bề mặt những cặp kính, khiến chúng có vẻ tối tăm và hung hãn như những chiếc mặt nạ. Bác sĩ Joe khó khăn lên tiếng: “Nhà của ai cơ?” “Kẻ đầu độc,” chàng trai trẻ nói. “Bằng hình thanh kiếm và cây liễu lột vỏ (‘lepidus’ nghĩa là ‘tước vỏ’ ‘làm bóng’, nghĩa củ là ‘dí dỏm’ hoặc là ‘dễ chịu’) nằm trên vỉa hè lát đá ghép mảnh, Mommsen đã xác định trang viên này thuộc quyền sở hữu của…” “Biết rồi, nhưng mà ông ta đã làm gì?” “… người, theo Varro, đã giết năm thành viên của gia đình mình bằng cách cố ý bỏ thuốc độc vào món súp nấm,” chàng trai trẻ tiếp tục. Anh ta ngẩng đầu nhìn xung quanh với vẻ hứng thú, như thể mong được thấy các thi thể vẫn đang nằm ở đâu đó. “Ngay tại đây, điều này hay ho đây!” Cậu ta nói thêm. “Cháu nghĩ thời đó việc đầu độc hàng loạt diễn ra khá dễ dàng.” Và sau đó, người thanh niên đột nhiên biết rằng có điều gì đó không đúng đang xảy ra; lông tơ sau gáy anh ta dường như dựng đứng hết cả lên. Anh ta gập cuốn sách lại và nhẹ giọng hỏi. “Có vẻ như,” anh ta buột miệng nói. “Có vẻ như, cháu đã nói điều gì đó không phải sao?” “Dĩ nhiên là không,” Marjorie trả lời với vẻ điềm tĩnh tuyệt vời. “Ngoài ra, sở thích của bác Marcus là nghiên cứu về các tội ác. Đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bác Marcus gật đầu. Ông quay sang nói với chàng trai trẻ. “Nói cho tôi biết, cậu… gì nhỉ, tôi cứ quên tên cậu hoài?” “Bác biết rõ tên anh ấy mà,” Marjorie la lên. Nhìn vào sự kính trọng thái quá mà chàng thanh niên dành cho Marcus, người quan sát có thể nhận ra Marcus không chỉ là bác của Marjorie, ông ấy hành động như cha mẹ của cô vậy. “Harding, thưa bác. George Harding,” chàng trai trả lời. “A, đúng rồi. Giờ thì, cậu Harding, nói cho tôi biết, cậu từng nghe đến một nơi gọi là Sodbury Cross, gần Bath bao giờ chưa?” “Không, thưa bác. Sao bác lại hỏi thế?” “Chúng tôi đến từ nơi đó,” Marcus nói. Ông ta thoăn thoắt bước đi và ngồi xuống mép đài phun nước với tư thế như thể đang chuẩn bị đọc một bài diễn văn dài. Ông bỏ cả mũ và kính mát xuống rồi đặt chúng nằm thăng bằng trên đầu gối mình. Việc tháo bỏ phụ kiện che mặt giúp người quan sát nhận ra Marcus có một mái tóc xám thẳng trông như bướu lạc đà, có lẽ sáu mươi năm chải đầu cũng không thể khuất phục được mái tóc đó. Đôi mắt xanh của ông rất sáng sủa, thông minh và ác ý. Thỉnh thoảng, ông ta lại dùng tay chà xát làn da nhăn nheo ở quai hàm mình. “Giờ, cậu Harding,” ông tiếp tục, “chúng ta hãy đối mặt với sự thật này. Tôi giả sử như mối quan hệ giữa cậu và Marjorie không chỉ là loại tán tỉnh bất chợt trên tàu. Tôi giả sử là cả hai đứa đều nghiêm túc, hoặc hai đứa đều nghĩ là mình nghiêm túc.” Có một sự thay đổi khác nữa lại diễn ra trong nhóm người. Sự thay đổi đó cũng ảnh hưởng đến hai người đàn ông đứng cạnh những cây cột bao quanh khu vườn. Một trong số họ (người quan sát nhận thấy) là một người đàn ông trung niên có vẻ ngoài vui vẻ với chiếc đầu hói và có đội mũ phớt. Mắt ông cũng bị kính râm che mất, nhưng khuôn mặt ông thì tròn đầy và hồng hào ưa nhìn. Ông hắng giọng. “Tôi nghĩ,” ông ấy nói, “nếu mọi người thứ lỗi, tôi sẽ đi xuống phía sau và… ” Người đứng cạnh ông ta, một chàng trai trẻ tuổi có khuôn mặt không mấy ưa nhìn, quay đi và bắt đầu tế nhị lờ đi nghiên cứu nội thất ngôi nhà. Marcus nhìn hai người bọn họ. “Vớ vẩn,” ông quả quyết nói. “Có thể các anh không phải là thành viên của gia đình này, cả hai người. Nhưng hai người đều biết những gì chúng tôi biết, vậy nên cứ ở yên đó. Và dừng ngay kiểu tế nhị quái quỷ đó đi.” Cô gái khẽ hỏi. “Bác Marcus, bác có nghĩ đây là chỗ để nói chuyện đó ra?” “Có, cháu yêu.” “Hoàn toàn chính xác,” bác sĩ Joe mạnh mẽ đồng ý. Ông đưa ra một cái nhìn lạnh lùng, nghiêm túc và tỏ vẻ quan trọng. “Lần đầu tiên trong đời, Marcus – đã hoàn toàn đúng.” George Harding tỏ vẻ dũng cảm một cách lạnh lùng, nghiêm túc. “Thưa bác, cháu chỉ có thể đảm bảo rằng…” chàng trai nói với vẻ mạnh mẽ. “Ừ, biết rồi, tôi biết hết mà.” Marcus nói. “Và làm ơn đừng có làm khuôn mặt đáng xấu hổ như vậy. Chẳng có gì bất thường hết. Mọi người đều cưới nhau đấy thôi, và họ đều biết phải làm gì khi kết hôn, và tôi tin tưởng cả hai đứa. Giờ thì, cuộc hôn nhân này có diễn ra hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của tôi.” “Và của tôi nữa,” bác sĩ Joe cứng rắn nói. “Đương nhiên rồi,” Marcus lên tiếng với vẻ hơi bực mình. “Và em trai tôi, dĩ nhiên. Chúng tôi mới biết cậu được một tháng hoặc cỡ đó, chỉ trong chuyến du lịch này. Ngay khi cậu bắt đầu hẹn hò với cháu gái tôi, tôi đã lập tức gửi điện tín cho luật sư để hỏi về tất cả các thông tin của cậu. Chà, cậu có vẻ cũng được. Thành tích học tập tốt, và tôi cũng không phàn nàn gì về việc cậu là trẻ mồ côi và không có gia sản…” George Harding bắt đầu giải thích gì đó, nhưng Marcus ngắt lời anh chàng. “Rồi, rồi. Tôi biết toàn bộ cái quy trình sản xuất hóa chất của cậu, thứ có thể tạo ra cả một gia tài hay đại loại thế. Nếu cả hai đứa quyết định sống dựa vào nó thì hai đứa nên biết rằng tôi sẽ không đời nào đầu tư vào đó lấy một cắc đâu. Tôi cũng không mấy quan tâm đến cái gọi là ‘quy trình mới’, tôi ghét cay ghét đắng các quy trình mới, đặc biệt là trong ngành hóa học. Chúng tôn vinh bộ não của những kẻ ngốc và khiến tôi phát ngấy vì sự non nớt. Nhưng có lẽ cậu sẽ vẫn thu được gì đó. Nếu làm việc nghiêm túc và chăm chỉ, cậu sẽ kiếm đủ sống, và có lẽ sẽ kiếm được thêm một chút từ Marjorie. Cậu đã hiểu chưa?” George lại bắt đầu giải thích gì đó nữa. Lần này thì chính Marjorie là người ngắt lời anh ta. Khuôn mặt cô hơi hồng lên, nhưng đôi mắt của Marjorie rất thẳng thắn và cho thấy sự điềm tĩnh tuyệt vời. “Anh chỉ nên trả lời ‘vâng’ thôi,” cô khuyên. “Đó là tất cả những gì anh được phép nói.” Người đàn ông hói đầu đội mũ phớt đang đứng dựa khuỷu tay vào lan can và hơi cau mày khi lắng nghe cuộc trò chuyện, giờ đây bỗng vẫy tay như thể cố thu hút sự chú ý của giáo viên trong lớp học. “Chỉ một chút thôi, Marcus,” ông ta ngắt lời. “Anh đã yêu cầu Wilbur và tôi có mặt trong cuộc trò chuyện này, mặc dù chúng tôi không phải thành viên gia đình. Vậy nên hãy để tôi nói điều này. Có cần thiết phải thẩm vấn chàng trai kia như thể cậu ta là…” Marcus nhìn ông ấy. “Tôi ước,” Marcus nói, “một số người sẽ loại bỏ được quan niệm ngớ ngẩn rằng bất cứ dạng câu hỏi nào cũng đều là ‘thẩm vấn’ cả. Hình như mọi tiểu thuyết gia đều có quan điểm như vậy. Kể cả anh nữa, giáo sư, dường như chính anh cũng thế. Điều đó khiến tôi bực mình đấy. Tôi chỉ đang kiểm tra cậu Harding mà thôi. Chuyện đó không rõ ràng à?” “Đúng ạ,” George nói. “Ồ, thế thì tốt,” vị giáo sư hòa nhã. Marcus dịch người ngồi cách xa chiếc đài phun nước nhất có thể để không bị ngã nhào vào đó. Biểu cảm trên khuôn mặt ông trông hòa dịu hơn nhiều. “Bởi vì cậu đã hiểu hết điều đó,” ông tiếp tục nói với giọng hơi khác hồi nãy, “bước tiếp theo là cậu cần biết về gia đình chúng tôi. Marjorie đã kể gì cho cậu nghe chưa? Tôi nghĩ là chưa. Nếu cậu nghĩ chúng tôi là những thành viên giàu có nhàn rỗi thích dạo bộ, những người quen với việc nghỉ mát suốt ba tháng tại thời điểm này trong năm, thì ném chúng ra khỏi đầu ngay cho tôi. Đúng là tôi giàu có thật, nhưng tôi không rảnh rỗi và cũng hiếm khi nào đi tản bộ. Những người khác cũng vậy, tôi biết rõ điều đó. Tôi làm việc, và mặc dù tôi xem bản thân mình là một học giả chứ không phải doanh nhân, tôi cũng không phải một người kinh doanh tồi. Em trai tôi là một bác sĩ đa khoa làm việc ở Sodbury Cross. Nó cũng làm việc, bất chấp tính cách lười biếng của mình. Tôi cũng biết rõ điều đó. Nó không phải một bác sĩ giỏi, nhưng mọi người đều thích nó.” Khuôn mặt dưới cặp kính đen của bác sĩ Joe dường như đang bốc hỏa.   Mời các bạn đón đọc Vụ Án Viên Nhộng Xanh của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trước Khi Nhắm Mắt - Higashino Keigo
Bạn gây ra lỗi lầm, bạn đã nhận lỗi và chịu phạt, và đột nhiên bạn quên đi đúng cái đoạn lỗi lầm đó, với những ký ức còn lại thì bạn biết lỗi lầm như thế 99% là mình không sẽ không mắc phải, vậy 1% đó liệu có uẩn khúc gì, bạn muốn tìm hiểu nó hay đơn giản chỉ là tiếp tục cuộc sống hiện tại, liệu chúng ta có bỏ lỡ gì không?  *** Minae mở to mắt, cố nhìn xem chuyện gì đang diễn ra. Khi ấy, “thứ đó” ở ngay trước mắt cô. “Thứ đó” là bộ hãm xung của ô tô. Cái hãm xung đó đang cố nuốt trọn cơ thể cô... Xương sườn cô gãy răng rắc, dạ dày, nội tạng như đang vỡ tung. Mọi việc diễn biến như thước phim quay chậm. Minae hiểu ra cái ô tô đang cố nghiền nát mình. Sau lưng cô có một bức tường, cô đang bị kẹp giữa ô tô và bức tường đó như nhân bánh sandwich… *** Vẫn là Higashino Keigo với phong cách dung dị thân thuộc không lẫn đi đâu được nhưng cũng thổi bùng ngọn gió mới lạ trong quá trình xây dựng mô-típ ngỡ quen mà lạ. Ký ức của Shinsuke tựa hồ một cuốn phim đen trắng bị hỏng đôi chỗ với những âm thanh rè rè và thứ ánh sáng chớp nhoáng không rõ nội dung. Anh cũng không mấy quan tâm lắm, bởi lẽ, đó là đoạn ngắn cuộc đời chẳng mấy tốt đẹp, vui vẻ gì - thứ “trải nghiệm” mà anh những muốn quên đi. Thế nhưng, khi người đàn ông xa lạ mang tên Kishinaka Reiji tấn công anh, rồi sau đó tự sát tại nhà riêng, với cuốn sổ phác họa những khuôn mặt ma nơ canh kì dị để lại, phần tò mò trong con người anh bị đánh thức. Anh lao vào công cuộc sửa chữa cuốn phim đời mình. Để rồi sau đó, ngỡ ngàng và kinh hoàng nhận ra sợi dây liên đới giữa anh với người đàn ông đã chết, giữa anh với cô gái có khuôn mặt y hệt bức phác họa ma nơ canh mang ánh mắt thê lương đến rợn người ở trang cuối cùng của cuốn sổ phác họa. Sợi dây trói nghiến anh với những người đã chết, sợi dây thít chặt anh với những người đang sống. Tất cả nối với nhau bằng vụ tai nạn giao thông xảy ra một năm rưỡi về trước! Vụ tai nạn cướp đi mạng sống của một cô gái trẻ, để lại nỗi đau cho người chồng hết mực yêu thương vợ, cứa những nhát âm thầm mà sắc bén khiến tâm hồn kẻ gây tai nạn rỉ máu. Có một kiểu lý luận, đại ý như thế này: kẻ bị tai nạn giao thông bao giờ cũng có lý lẽ của riêng mình. Nhưng tai nạn cũng như một quân súc sắc, chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện nhiều mặt xấu. Và rằng, người gây tai nạn đã tìm cách bù đắp bằng tiền, bằng những năm tháng  trong tù, bằng nỗi ăn năn “được thể hiện” trước người thân của người bị hại. Vậy, không phải nên bằng lòng với những khoản bồi thường ấy, rồi thanh thản sống tiếp hay sao? Tuy nhiên, bấy nhiêu đó có đủ cho mạng sống của một con người, có cân xứng với bấy nhiêu năm lẽ ra phải được sống rực rỡ và hạnh phúc, mà rốt cuộc, chỉ còn là những mảnh vụn xương và thịt bị nghiến nát dưới bộ hãm xung của ô tô, như số phận của Kishinaka Manae - cô gái tuổi đời còn rất trẻ, còn đong đầy niềm ham sống mãnh liệt hay không? Liệu với người bị tai nạn, khi hình ảnh cuối cùng còn in vào đồng tử họ là khuôn mặt của kẻ đã giết mình, họ có thanh thản ra đi, hay tận sâu đáy mắt là “ánh sáng còn vương vấn cuộc sống, ánh sáng uất hận khi phải đón nhận cái chết, ánh mắt căm phẫn dành cho kẻ khiến mình lâm vào cảnh ngộ này”? *** Higashino Keigo, sinh năm 1958 tại Osaka, là nhà văn trinh thám hàng đầu hiện nay tại Nhật Bản. Năm 1985, Higashino Keigo giành được giải Edogawa Rampo lần thứ 31 cho tác phẩm trinh thám hay nhất với tiểu thuyết Giờ tan học. Các năm sau đó, Higashino Keigo liên tục được đề cử vô số giải thưởng văn học lớn. Năm 1999, ông đoạt giải Mystery Writers of Japan Inói chuyện với tiểu thuyết Bí mật của Naoko, và năm 2006, là giải Naoki lần 134 cho Phía sau nghi can X. Năm 2012 tiểu thuyết Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya giành giải thưởng Chuokoron lần thứ 7. Higashino Keigo là cái tên bảo chứng tuyệt đối cho sức hút của dòng văn trinh thám thiên về phân tích tâm lý nhân vật. Chất liệu trong tác phẩm của ông bình dị và gần gũi đến mức, dù là độc giả lần đầu tiên làm quen hay là fan trung thành đã theo ông qua từng ấy tác phẩm đều phải thốt lên ngạc nhiên, bởi dưới ngòi bút của ông lại có thể trở nên nhức nhối mà đa chiều đến vậy. Một số tác phẩm của Higashino Keigo đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam:  Phía Sau Nghi Can X - Higashino Keigo Bạch Dạ Hành - Higashino Keigo Bí mật của Naoko - Higashino Keigo Thánh Giá Rỗng - Higashino Keigo Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt ... Mời các bạn đón đọc Trước Khi Nhắm Mắt của tác giả Higashino Keigo.
Ngăn Kéo Trên Cùng - Nakamura Fuminori
Một cuốn tiểu thuyết ấn tượng của tác giả Nakamura Fuminori - tiểu thuyết gia sáng giá của nền văn học Nhật và nhận được rất nhiều các giải thưởng. "Ngăn kéo trên cùng phần tăm tối" là câu chuyện về Kozuka Ryodai một cậu bé lớn lên trong một gia đình “không bình thường” và cậu bị chính mẹ mình tống vào Trung tâm Hỗ trợ Trẻ em và bị bỏ mặc kể từ đó. Sau này, cậu được nhận nuôi và rồi trở thành bác sĩ.  Kozuka đã gặp gỡ và nhận điều trị tâm lý cho Yukari - một cô gái bất hạnh đang phải chịu đựng những chấn thương tâm lý vô cùng nghiêm trọng. Tình cảm nảy sinh đã thôi thúc Kozuka không ngừng nỗ lực chữa trị cho Yukari, thế nhưng biện pháp duy nhất giúp được cô gái ấy là xoá sạch những ký ức đau buồn của cô. Và điều này đồng nghĩa với việc cô cũng sẽ quên luôn cả Kozuka. Yukari rời khỏi Kozuka, bắt đầu một cuộc sống mới nhưng rồi tình cờ gặp lại người quen cũ, những ký ức đau khổ ngày xưa theo đó bị khơi dậy và cô biến mất. Sự biến mất của Yukari khiến Kozuka gần như sụp đổ. Và rồi anh khám phá ra một bí mật, và một kế hoạch "ăn miếng trả miếng", một kế hoạch tinh vi của một bác sĩ điều trị tâm lý đồng thời cũng là một bệnh nhân có vấn đề về tâm lý đã sẵn sàng. *** Ngăn kéo trên cùng – phần đen tối là tác phẩm thứ mười bảy của Nakamura Fuminori, kể về cuộc hành trình tìm kiếm danh tính thật của gã đàn ông mang tên Kozuka Ryodai. Ngay từ khi bắt đầu câu chuyện, tác giả đã đặt ra một bối cảnh tăm tối, nhân vật chính lần mò trong bóng đêm để tìm kiếm câu trả lời xem thực sự hắn là ai? Tại một căn nhà ọp ẹp, đồ đạc đơn giản, phía góc tường một chiếc va li trắng toát nằm chỏng trơ, toát lên mùi vị của địa ngục. Hắn nín thở đọc từng trang hồi ký ai đó vứt lại. Mỗi chương hồi qua đi, chân tướng của Kozuka Ryodai dần dần xuất hiện tựa hồ một ngọn đèn hải đăng đang soi rọi xuyên đêm tối. Chiếc chìa khóa trong ngăn kéo thứ ba dẫn đến cái va li, manh mối cuối cùng để khép lại màn kịch. Không cưỡng lại được sự tò mò, hắn mở vội mở thứ đáng nhẽ không nên mở. Giống như chiếc hộp pandora thuộc về bóng tối, mọi tai ương đã giáng thẳng xuống hắn ngay khi tiếng “tách” của va li vang lên. Đột nhiên một gã đàn ông xa lạ tiến vào, kéo hắn chạy trốn. Hóa ra Kozuka Ryodai là cậu bé lớn lên trong một gia đình “không bình thường” và hắn bị chính mẹ mình tống vào Trung tâm Hỗ trợ trẻ em và bị bỏ mặc kể từ đó. Sau này, hắn được nhận nuôi và rồi trở thành bác sĩ. Kozuka đã gặp gỡ và nhận điều trị tâm lý cho Yukari - một cô gái bất hạnh đang phải chịu đựng những chấn thương tâm lý vô cùng nghiêm trọng. Tình cảm nảy sinh đã thôi thúc Kozuka không ngừng nỗ lực chữa trị cho Yukari, thế nhưng biện pháp duy nhất giúp được cô gái ấy là xoá sạch những ký ức đau buồn của cô bằng cách đau đớn. Và điều này đồng nghĩa với việc cô cũng sẽ phải quên cả Kozuka. Yukari rời khỏi Kozuka, bắt đầu một cuộc sống mới nhưng rồi tình cờ gặp lại những thằng khốn đã hạ đời cô, những ký ức đau khổ ngày xưa theo đó bị khơi dậy và cô đột ngột biến mất. Sự biến mất của Yukari khiến Kozuka gần như sụp đổ. Và rồi anh khám phá ra một bí mật, và một kế hoạch "ăn miếng trả miếng", một kế hoạch tinh vi của một bác sĩ điều trị tâm lý đồng thời cũng là một bệnh nhân có vấn đề về tâm lý. Vậy gã đàn ông mở chiếc va li là ai? Người giúp hắn bỏ trốn là kẻ nào? Và quan trọng nhất Kozuka Ryodai là nhân vật mấu chốt ra sao? Nakamura Fuminori tung hỏa mù độc giả. Anh đánh lừa, dắt mũi người đọc bằng những bằng chứng tưởng chừng như chắc chắn nhưng vẫn khiến người ta bất ngờ khi đi tới cái kết. Trong Ngăn kéo trên cùng – phần tăm tối, không có ai là chính diện hay phản diện. Họ chỉ đơn giản đang thực thi lý tưởng và giải quyết tư thù cá nhân. Kẻ nào cũng có lý do để cho rằng mình đang làm đúng. Một ván bài mở ra, nhân vật chính là một kẻ thông minh khi thâu tóm nạn nhân của mình bằng những trò chơi tâm lý. Trong tác phẩm thứ mười bảy của mình Nakamura có sử dụng những chi tiết có thực để xây dựng câu chuyện. Đó là vụ thảm án liên hoàn do một tử tù mang tên Miyazaki gây ra. Một nguồn cảm hứng lớn lao giúp Ngăn kéo trên cùng ra đời thành công. *** Nakamura Fuminori là một trong những tiểu thuyết gia sáng giá của văn học Nhật Bản đương đại. Trong sự nghiệp văn chương của mình, anh tập trung thể hiện và sáng tác các tác phẩm mang hơi hướm tự sự trinh thám, phảng phất không khí kinh dị, tạo cho độc giả một cảm giác hồi hộp, lạnh gáy mỗi khi lật giở từng trang sách. Nakamura Fuminori đã gặt hái không ít giải thưởng danh giá, mặc dù tuổi đời, tuổi nghề còn rất trẻ. Điển hình là tác phẩm Đứa bé trong lòng đất đã chiến thắng giải thưởng Akutagawa năm 2005 và giải thưởng Ōe Kenzaburō cho Kẻ móc túi vào năm 2010. Chưa dừng lại ở đó, cùng Đen tối, anh trở thành người Nhật Bản đầu tiên được trao giải David Goodis – một giải thưởng văn học của Hoa Kỳ dành cho những tác giả có cống hiến lớn trong năm. Giới phê bình Nhật Bản luôn dành cho Nakumura những lời khen ngợi có cánh. Dưới ngòi bút sắc sảo của mình, anh đã tái hiện một kỷ nguyên chân thực về tầng lớp đói nghèo, khốn khổ trong xã hội Nhật Bản đương đại. Tội ác cũng xuất phát từ bối cảnh ấy, mối quan tâm này thường xuyên bị tảng lờ trong địa hạt văn chương và tác giả cũng cho rằng tình thế đó luôn tiềm tàng chết chóc, nguy hiểm như một quả bom trực chờ phát nổ. Khác với những tiểu thuyết gia đương thời, Nakamura Fuminori đi sâu hơn vào khía cạnh tâm lý. Anh cố gắng lý giải những khoái cảm chết chóc và cơn cuồng sát của kẻ sát nhân dưới lăng kính tâm lý và khoa học. Chính vì vậy yếu tố trinh thám và sự li kỳ có thể bị kéo giảm nhưng tác giả đã kịp để lại dấu ấn cho người đọc bằng một kho kiến thức tâm lý được đan cài khéo léo, dễ hiểu xuyên suốt mạch chính tác phẩm. Mời các bạn đón đọc Ngăn Kéo Trên Cùng của tác giả Nakamura Fuminori.
Kẻ Móc Túi - Nakamura Fuminori
Một gã trai sống lang bạt ở Tokyo bằng tài móc túi thiên bẩm: móc túi thuận cả hai tay. Gã với tay móc mọi thứ của người khác nhưng lại quay lưng với thế giới. Một ngày, tay trùm Yazuka bắt gã thực hiện ba phi vụ “nhỏ”: lấy trộm điện thoại di động của một người đàn ông; lấy một vật nhỏ có dính vân tay của một người đàn ông khác kèm theo vài sợi tóc của hắn; đánh tráo tập tài liệu mà một người đàn ông luôn mang theo bên người sao cho ít nhất hai ngày sau hắn mới phát hiện ra. Hai phi vụ đầu được gã thực hiện suôn sẻ, cho tới phi vụ cuối cùng… Và số phận hai mẹ con cô gái điếm mới quen đột nhiên nằm trong tay gã… Giữa sự sống và cái chết, ánh sáng bất ngờ soi rọi lên cuộc đời kẻ móc túi… “Cuốn sách này không dành cho những người ưa thích tiểu thuyết trinh thám truyền thống. Một câu chuyện thông minh, thuyết phục và cảm động bất ngờ.” – Laura Wilson, The Guardian *** Cuốn sách viết về cuộc đời của một chàng trai hành nghề móc túi, anh sống cô độc, quay lưng với thế giới loài người. Nhưng ẩn sâu trong con người ấy tình thương vẫn luôn thổn thức... Chắc hẳn với những ai đã quá quen với dòng tiểu thuyết noir (tiểu thuyết đen) sẽ không còn xa lại với cái tên Nakamura Fuminori. Bước chân vào văn đàn Nhật Bản, ông đã nhận được khá nhiều giải thưởng như Shincho với tác phẩm Ju (Khẩu súng), giải thưởng Noma dành cho tác giả mới với tác phẩm Shako (Chắn sáng), giải Akutagawa với tác phẩm Tsuchi No Naka No Kodomo (Đứa trẻ trong lòng đất), giải Oe Kenzaburo với tác phẩm Kẻ móc túi...   Với tác phẩm Kẻ móc túi, nam tác giả đã gây được tiếng vang lớn trong lòng fan tiểu thuyết đen. Minh chứng rõ ràng nhất là tác phẩm đã bán trên 250.000 bản tại Nhật Bản và được dịch sang 12 thứ tiếng. Tác phẩm kể về một chàng trai tên Nishimura, anh sống lang bạt ở Tokyo bằng tài móc túi thiên bẩm của mình. Nishimura hành nghề điêu luyện đến mức có thể móc túi thuận cả 2 tay. Đặc biệt, điều khiến độc giả phải tò mò ở chàng trai này cách hành xử và suy nghĩ. Bản thân anh có thể với tay móc mọi thứ gì của những người xung quanh nhưng lại quay lưng với thế giới thực tại. Nishimura chọn cách sống cô độc. Trong thâm tâm anh luôn tồn tại ý nghĩ cuộc đời mình sống cũng chẳng khác gì một người đã chết, không người thân, bạn bè, không gì hết. Số phận đưa đẩy, một biến cố lớn đã đến trong cuộc đời chàng trai có tài móc túi thiên bẩm này. Anh đã được một ông trùm Yazuka để mắt tới, ông yêu cầu Nishimura phải làm cho mình 3 việc: lấy trộm điện thoại di động của một người đàn ông; lấy một vật nhỏ có dính vân tay của một người đàn ông khác kèm theo vài sợi tóc của anh ta và cuối cùng là đánh tráo tập tài liệu mà một người đàn ông luôn mang theo bên người sao cho ít nhất 2 ngày sau người chủ nhân mới phát hiện ra đồ mình đã bị đánh cắp. Mời các bạn đón đọc Kẻ Móc Túi của tác giả Nakamura Fuminori.
Tội Ác Trong Bóng Đêm - Georges Simenon
G eorges Simenon (1903-1989) trong cuộc đời sáng tác của mình đã từng xuất bản đến hơn 400 tác phẩm và được coi là “nhà chế tạo tiểu thuyết” tài danh. Thậm chí có người còn ví ông với Balzac và cho rằng trong tác phẩm của cả hai nhà văn đều miêu tả rất chi tiết diện mạo nước Pháp. Đọc tác phẩm của Balzac sẽ thấu hiểu diện mạo chân thực của xã hội nước Pháp nửa đầu thế kỷ XIX, còn khi đọc tiểu thuyết của Georges Simenon sẽ hiểu khá tường tận tình hình xã hội nước Pháp nửa đầu thế kỷ XX. Thật vậy, trong mỗi tác phẩm của Georges Simenon dù là tiểu thuyết trinh thám hay tâm lý xã hội đều phản ánh rất chân thực cuộc sống với đủ mọi hạng người trong xã hội. Tội Ác Trong Bóng Đêm đã thể hiện rất rõ những thế mạnh của Georges Simenon. Câu xoay quanh vụ phá án tài tình của ngài chánh thanh tra Maigret nổi tiếng trong series truyện của Georges Simenon và có tính chất trinh thám đặc thù. Khả năng phân tích, mổ xẻ tâm lý tội phạm đầy sức thuyết phục của Maigret làm độc giả luôn thích thú, say mê. Chánh thanh tra Maigret lần này đối mặt với một băng nhóm tội phạm rất tinh vi, xảo quyệt. Chúng giết người trong đêm mà ít để lại dấu vết nhất và đặc biệt chúng có một mối liên kết kỳ lạ, khó lý giải. Những tình tiết của vụ án lúc đầu khiến Maigret thực sự bối rối... Song cuối cùng, bằng trí thông minh, tài suy luận và cách phân tích tâm lý rất lôgic, ngài thanh tra đã khám phá ra bản chất của vụ việc và trừng trị kẻ phạm tội một cách thích đáng. Nhà xuất bản Công an nhân dân trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Mời các bạn đón đọc Trước Tòa Đại Hình của tác giả Georges Simenon.