Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sau Cánh Cửa Đóng

Jack tài năng và lịch lãm, còn Grace xinh đẹp và thành công. Trong mắt mọi người, họ là một cặp đôi hoàn hảo. Thậm chí, thử thách duy nhất cho mối quan hệ tưởng chừng không gì có thể hủy hoại của họ - sự xuất hiện của Millie, người em gái bị bệnh Down và hoàn toàn sống dựa vào Grace - dường như chỉ là chất xúc tác để họ nhận ra vẻ đẹp tâm hồn, sự bao dung và lòng vị tha vô bờ bến của nhau… Nhưng, liệu có thật là như thế, hay thực ra, cái tam giác Jack - Grace - Millie chính là căn nguyên cho một bi kịch khủng khiếp, là vỏ bọc hoàn hảo để kẻ ác tự do đùa giỡn và hành hạ con mồi của mình?  Và, có mấy ai biết đến sự tồn tại của những bí mật kinh khủng, trái ngang đằng sau cánh cửa luôn khép chặt của một gia đình lý tưởng, nơi hạnh phúc hoàn hảo và tội ác hoàn hảo nhiều khi chỉ cách nhau một cánh cửa đóng? *** HIỆN TẠI Chai sâm panh va vào bệ đá hoa cương trong bếp khiến tôi giật nẩy người. Tôi đưa mắt nhìn Jack, hy vọng anh không nhận thấy tôi đang căng thẳng đến nhường nào. Anh mỉm cười khi bắt gặp tôi đang nhìn. “Hoàn hảo,” anh nhẹ nhàng nói. Jack cầm tay tôi dắt ra chỗ khách khứa đang chờ. Trên đường đi qua hành lang, tôi thấy cây loa kèn đang nở hoa được Diane và Adam tặng để chúng tôi trồng trong vườn. Hoa màu hồng đẹp đến mức tôi hy vọng Jack sẽ trồng ở nơi tôi ngắm được từ cửa sổ phòng ngủ. Chỉ cần nghĩ tới khu vườn là nước mắt đã trào lên trong lòng, nhưng tôi vội nuốt xuống. Vào một đêm sống còn như đêm nay, tôi phải tập trung vào thực tại. Lửa đang cháy đều trong lò sưởi cổ tại phòng khách. Đã là cuối tháng Ba nhưng không khí vẫn tê cóng, mà Jack thì muốn khách khứa của chúng tôi được thoải mái hết mức. “Nhà cậu tuyệt thật đấy, Jack ạ,” Rufus ngưỡng mộ nói. “Em có thấy thế không, Esther?” Tôi không biết cả Rufus lẫn Esther. Họ mới chuyển tới khu này và đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, thành ra tôi càng căng thẳng. Nhưng vì không được phép để Jack thất vọng nên tôi phải cố nhoẻn miệng cười, thầm cầu nguyện họ sẽ quý mình. Esther không mỉm cười đáp lại, tôi đoán cô đang dè dặt phán đoán. Nhưng tôi không trách cô được. Kể từ tháng vừa rồi sau khi cô kết bạn với chúng tôi, tôi biết chắc cô đã được nghe đi nghe lại rất nhiều lần rằng Grace Angel, vợ của chàng luật sư sáng giá Jack Angel, là ví dụ hoàn hảo cho một phụ nữ có mọi thứ trên đời - ngôi nhà hoàn hảo, tấm chồng hoàn hảo, cuộc sống hoàn hảo. Nếu là Esther, tôi cũng sẽ dè dặt với tôi như thế. Ánh mắt tôi rơi xuống hộp kẹo sô cô la đắt tiền cô vừa lấy ra khỏi túi xách và một cảm giác kích động chợt dấy lên trong lòng. Không muốn cô đưa hộp kẹo cho Jack, tôi nhẹ nhàng đưa tay về phía cô và theo bản năng, cô chìa hộp kẹo cho tôi. “Cảm ơn cô, trông ngon quá,” tôi cảm kích nói, đặt hộp kẹo lên mặt bàn uống nước để lát nữa khi uống cà phê sẽ mở ra. Tôi thấy khoái Esther. Cô đối lập hoàn toàn với Diane - cao, tóc vàng, người mảnh dẻ, tính kín đáo - và tôi không thể không đánh giá cao cô vì cô là người đầu tiên bước vào nhà chúng tôi mà không nói mãi về vẻ đẹp của nó. Jack nhất quyết đòi tự chọn nhà, bảo ngôi nhà chính là quà cưới cho tôi, vậy nên mãi đến khi chúng tôi trở về sau tuần trăng mật, tôi mới thấy nó lần đầu tiên. Mặc dù Jack đã nói trước là ngôi nhà thực hoàn hảo cho chúng tôi, nhưng tôi không hoàn toàn hiểu hết ý anh, cho tới lúc tận mắt nhìn thấy nó. Nằm trên khu đất rộng lớn ở tận cuối làng, ngôi nhà mang lại sự riêng tư Jack hằng khao khát, đồng thời trao cho anh đặc quyền được làm chủ ngôi nhà đẹp nhất Spring Eaton. Và cũng là ngôi nhà an ninh nhất, được trang bị hệ thống báo động phức tạp, với những cánh cửa chóp bằng thép bảo vệ cửa sổ tầng trệt. Quả cũng kỳ quặc khi những cánh cửa này thường xuyên đóng im ỉm cả ngày, nhưng như Jack vẫn luôn nói mỗi khi có người hỏi đến, một trong những ưu tiên hàng đầu với một người làm công việc như của anh chính là an ninh. Tường phòng khách nhà chúng tôi treo rất nhiều tranh, nhưng mọi người thường bị thu hút bởi bức tranh vải bạt khổ lớn màu đỏ phía trên lò sưởi. Mặc dù đã từng thấy bức tranh này, Diane và Adam vẫn không cưỡng nổi mà phải bước lại gần ngắm thêm lần nữa, Rufus cũng theo họ, còn Esther thì ngồi xuống một trong những chiếc sofa da màu kem. “Thật kỳ diệu,” Rufus nói, mê mẩn ngắm hàng trăm đốm nhỏ li ti đã làm nên phần lớn bức tranh. “Tên tranh là Đom đóm,” Jack nói trong khi tháo sợi dây thép cột nút cổ chai sâm panh. “Tôi chưa từng thấy thứ gì tương tự thế này.” “Grace vẽ đấy,” Diane bảo anh ta. “Anh có tin được không?” “Anh phải xem các bức tranh khác của Grace mới được.” Jack bật nút chai rượu, chỉ làm vang lên một âm thanh nhỏ xíu. “Chúng thật sự ấn tượng lắm đấy.” Rufus nhìn quanh phòng vẻ hứng thú. “Trong phòng này hả?” “Không, chúng được treo ở những nơi khác trong nhà cơ.” “Chỉ để một mình Jack ngắm,” Adam đùa. “Và cả Grace nữa. Phải không, em yêu?” Jack nói, mỉm cười nhìn tôi. “Chỉ để hai ta ngắm.” “Vâng, đúng thế,” tôi đồng tình, quay đầu đi chỗ khác. Chúng tôi ra sofa ngồi cùng Esther và Diane thích thú reo lên khi Jack rót sâm panh vào những chiếc ly cao thành. Cô ta nhìn sang tôi. “Chị đã đỡ hơn chưa?” cô ta hỏi. “Hôm qua, Grace không đi ăn trưa cùng tớ được vì bị ốm,” Diane quay sang nhìn Esther giải thích. “Chỉ nhức đầu thôi mà,” tôi phản đối. “Thật không may, Grace rất hay bị nhức đầu.” Jack nhìn tôi thông cảm. “Nhưng ơn trời, chúng không bao giờ kéo dài quá.” “Lần này là lần thứ hai chị lỡ hẹn với em đấy nhé,” Diane nhận xét. “Tôi rất tiếc,” tôi xin lỗi. “Chậc, ít ra thì lần này không phải do chị quên,” cô ta đùa. “Sao ta không hẹn vào thứ Sáu tuần tới để bù lại nhỉ? Chị có rảnh không, Grace? Không có cuộc hẹn khám răng nào chị đột nhiên nhớ ra vào phút chót đấy chứ?” “Không, và hy vọng cũng sẽ không có cơn nhức đầu nào hết.” Diane quay sang Esther, “Cậu có muốn đi cùng không? Sẽ phải chọn quán trong thị trấn để tớ còn đi làm.” “Cảm ơn cậu, tớ rất thích.” Cô đưa mắt nhìn tôi, chắc để đảm bảo tôi không phiền khi có cô cùng tham dự, và khi mỉm cười đáp lại cô, tôi cảm thấy áy náy kinh khủng vì biết mình sẽ không đến được. Gọi to để mọi người chú ý, Jack đề nghị nâng ly chúc mừng Esther và Rufus, chào mừng họ tới sống trong khu. Tôi nâng cốc nhấp một ngụm sâm panh. Tăm rượu sủi trong miệng khiến cảm giác hạnh phúc chợt bừng lên và tôi cố níu giữ nó. Nhưng nó tan biến nhanh không kém gì lúc ùa tới. Tôi nhìn Jack đang sôi nổi chuyện trò với Rufus. Anh với Adam gặp Rufus tại câu lạc bộ golf hai tuần trước và đã mời Rufus chơi cùng. Khi phát hiện ra Rufus là một tay golf tuy cừ khôi nhưng chưa đủ để đánh bại mình, Jack bèn mời anh ta cùng Esther đến nhà ăn tối. Quan sát hai người họ, có thể thấy rõ mười mươi Jack đang cố gây ấn tượng với Rufus, có nghĩa tôi sẽ phải cố gắng lái Esther theo ý mình. Nhưng việc đó chẳng dễ chút nào; trong khi Diane đơn giản chỉ thán phục tất thảy mọi thứ, Esther lại có vẻ phức tạp hơn nhiều. Tôi cáo lỗi vào bếp để lấy món canapé[1] đã làm từ trước và hoàn thành những công đoạn cuối cùng cho bữa tối. Jack rất mô phạm với các phép tắc xã giao nên tôi không được phép vắng mặt quá lâu. Tôi nhanh tay đánh bông lòng trắng trứng đang chờ sẵn trong tô rồi đổ lên kem bánh souffle đã làm khi nãy. Vừa xúc hỗn hợp này vào từng chiếc khuôn, tôi vừa căng thẳng nhìn đồng hồ, sau đó đặt các khuôn bánh vào khay cách thủy và đưa vào lò nướng, ghi nhớ chính xác thời gian. Tôi thoáng hoảng hồn, sợ mình sẽ không làm xong mọi thứ, nhưng sau khi nhắc nhở bản thân rằng sợ hãi chính là kẻ thù, tôi cố bình tĩnh mang khay canapé quay lại phòng khách. Tôi mời mọi người, cảm kích đón nhận những lời khen ngợi của họ, vì Jack cũng nghe được chúng. Quả vậy, sau khi tặng tôi một nụ hôn lên đỉnh đầu, anh đồng ý với Diane rằng tôi đúng là một đầu bếp xuất sắc và tôi khẽ thở phào nhẹ nhõm. Kiên quyết tạo tiến triển với Esther, tôi ngồi xuống cạnh cô. Thấy thế, Jack liền đỡ khay bánh giùm tôi. “Em nên nghỉ một chút, em yêu, sau những vất vả suốt cả ngày hôm nay,” anh nói, những ngón tay thon dài thanh lịch giữ khay bánh thăng bằng. “Có vất vả gì đâu,” tôi phản đối, mặc dù đó là một lời nói dối và Jack biết rõ điều đó, vì chính anh đã lên thực đơn. Tôi bắt đầu hỏi Esther những câu hỏi hợp tình hợp lý: cô đã thấy hòa nhập với khu này chưa, có thấy tiếc vì đã bỏ Kent ra đi không, hai đứa nhỏ đã ổn định ở trường mới chưa. Chẳng hiểu vì sao, cô có vẻ khó chịu vì thấy tôi biết nhiều thế, vậy nên, tôi cố tình hỏi tên con trai và con gái cô, mặc dù đã biết thừa chúng là Sebastian và Aisling. Tôi còn biết chúng lên mấy nữa, một đứa lên bảy và một đứa lên năm, nhưng tôi vờ như chưa biết. Jack đang lắng nghe từng từ tôi nói nên tôi biết chắc anh sẽ tự hỏi tôi đang chơi trò gì. “Chị chưa có con, đúng không,” Esther nói, nghe như một lời khẳng định hơn là câu hỏi. “Chưa, vẫn chưa. Chúng tôi định dành hai năm đầu tiên cho riêng mình đã.” “Tại sao chứ, hai người đã kết hôn được bao lâu rồi?” Giọng cô biểu lộ sự ngạc nhiên. “Một năm,” tôi thú nhận. “Họ vừa kỷ niệm ngày cưới vào tuần trước,” Diane xen vào. “Và tôi vẫn chưa muốn chia sẻ cô vợ xinh đẹp của mình với ai hết,” Jack nói, rót thêm rượu vào ly cô ta. Nhất thời xao lãng, tôi nhìn một giọt rượu nhỏ xíu trượt khỏi miệng ly rơi xuống đầu gối chiếc quần chino mới tinh của Jack. “Tôi hy vọng hỏi thế này không làm chị khó chịu,” Esther lại nói, nỗi tò mò đã thắng thế, “nhưng đã ai trong hai người từng qua một lần đò chưa?” Có vẻ cô muốn câu trả lời là rồi, như thể một anh chồng cũ hoặc một cô vợ cũ đầy thù hận ẩn nấp trong lai lịch của Jack và tôi sẽ là bằng cớ chứng tỏ chúng tôi không hoàn hảo. “Chưa, cả hai chúng tôi đều kết hôn một lần,” tôi nói. Cô đưa mắt nhìn Jack và tôi biết cô đang băn khoăn tại sao một người đẹp trai như vậy lại có thể độc thân lâu đến thế. Cảm thấy ánh mắt cô đổ dồn vào mình, Jack mỉm cười thiện chí. “Phải thú nhận là ở tuổi bốn mươi, tôi đã bắt đầu tuyệt vọng nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ tìm được người phụ nữ hoàn hảo. Nhưng ngay khi thấy Grace, tôi đã biết cô ấy chính là người mình mong chờ bấy lâu nay.” “Lãng mạn thật,” Diane thở dài, biết rõ chuyện tôi với Jack gặp nhau thế nào. “Tớ không còn đếm được mình đã cố giới thiệu cho Jack bao nhiêu cô gái nữa, mối nào cũng không thành cho đến khi anh ấy gặp Grace.” “Còn chị thì sao, Grace?” Esther hỏi. “Với chị cũng là tình yêu sét đánh chứ?” “Đúng,” tôi nói và nhớ lại. “Đúng thế.” Choáng ngợp trước kỷ niệm, tôi đứng dậy hơi nhanh, Jack liền xoay đầu về phía tôi. “Món souffle,” tôi điềm tĩnh giải thích. “Chắc đã chín rồi. Mọi người sẵn sàng ngồi vào bàn chưa?” Được Diane hối thúc và giải thích rằng món souffle không đợi bất kỳ ai, mọi người uống cạn ly rồi ra bàn. Tuy nhiên, Esther đang đi thì dừng lại để nhìn kỹ bức Đom đóm hơn, và khi Jack tới ngắm cùng Esther thay vì giục cô vào bàn, tôi nhẹ nhõm thở hắt ra vì món souffle còn lâu mới chín. Nếu chúng đã chín thì chắc sự kề cà này sẽ khiến tôi phát khóc vì căng thẳng mất, đặc biệt là khi Jack bắt đầu giải thích vài kỹ thuật khác nhau tôi đã sử dụng để vẽ bức tranh. Năm phút sau, khi cuối cùng tất cả đã yên vị, món souffle cũng vừa chín đến độ hoàn hảo. Lúc Diane biểu lộ sự kinh ngạc, Jack mỉm cười nhìn tôi từ đầu bàn đối diện và bảo mọi người rằng tôi quả thực nấu nướng rất khéo. Chính những buổi tối thế này khiến tôi nhớ ra vì sao mình đem lòng yêu Jack. Quyến rũ, vui tính và thông minh, anh biết chính xác mình phải nói gì và nói ra sao. Vì Esther và Rufus mới chuyển đến nên Jack đảm bảo chúng tôi vừa ăn souffle vừa trò chuyện về những điều có ích cho họ. Anh gọi cho Diane và Adam kể ra những thông tin riêng có thể giúp ích cho hai người bạn mới của chúng tôi, chẳng hạn như họ mua sắm ở đâu và chơi môn thể thao nào. Mặc dù Esther lịch sự lắng nghe danh sách các trò tiêu khiển của họ, tên của những người làm vườn và các cô trông trẻ, hay nơi bán cá ngon nhất, nhưng tôi biết mình mới là chủ đề cô quan tâm, tôi cũng biết cô sẽ quay lại với chuyện Jack và tôi kết hôn khá muộn, hy vọng sẽ tìm ra điều gì đó - điều gì cũng được - giúp cô thấy mọi chuyện không hoàn hảo như vẻ bề ngoài. Không may cho Esther, rồi cô sẽ thất vọng thôi. Cô chờ Jack cắt xong miếng thịt bò Wellington rồi ăn cùng khoai tây bỏ lò và cà rốt láng mật ong. Còn có cả những hạt đậu Hà Lan bé xíu tôi đã nhúng vào nước sôi ngay trước khi lấy thịt bò ra khỏi lò. Diane kinh ngạc khi thấy tôi có thể thu xếp hoàn thành tất cả các món cùng lúc, rồi thú nhận rằng mình luôn chọn một món chính như cà ri để có thể nấu sẵn từ sớm và trước khi ăn chỉ việc hâm nóng lên là xong. Tôi muốn nói với cô ta rằng tôi cũng muốn làm như thế, rằng việc tính toán khó nhọc cùng những đêm mất ngủ chính là cái giá tôi phải trả để cho ra mắt một bữa tối hoàn hảo đến thế. Nhưng nấu một bữa ăn thiếu hoàn hảo không phải là lựa chọn dành cho tôi. Esther nhìn tôi từ phía bên kia bàn. “Thế chị với Jack gặp nhau ở đâu?” “Tại công viên Regent,” tôi đáp. “Vào một chiều Chủ nhật.” “Chị kể chi tiết cho cô ấy nghe đi,” Diane giục, làn da nhợt nhạt ửng hồng vì sâm panh. Tôi lưỡng lự trong giây lát vì trước đây đã từng kể chuyện này. Nhưng đó là câu chuyện Jack thích nghe tôi kể nên lặp lại lần nữa sẽ có lợi cho tôi. May thay, Esther giải vây cho tôi. Tưởng tôi lưỡng lự vì ngại, cô nhảy ngay vào. “Chị kể đi,” cô giục. “Chậc, rất có thể tôi sẽ khiến những người đã nghe chuyện này phát ngấy đấy nhé,” tôi bắt đầu với một nụ cười hối lỗi. “Lúc đó, tôi đang cùng em gái, Millie, chơi ngoài công viên. Chúng tôi thường ra công viên vào chiều Chủ nhật. Hôm ấy, tình cờ có một ban nhạc đang chơi. Millie rất thích âm nhạc, nó thích đến nỗi đứng dậy khỏi ghế rồi bắt đầu nhảy trước bục biểu diễn. Nó mới học nhảy valse nên vừa nhảy vừa dang tay ra trước mặt, hệt như đang khiêu vũ cùng ai đó.” Tôi thấy mình mỉm cười trước kỷ niệm này, tuyệt vọng ao ước cuộc đời tôi vẫn đơn giản và trong sáng như trước. “Mặc dù mọi người nói chung rất độ lượng và vui vẻ khi thấy Millie thích thú như thế,” tôi kể tiếp, “nhưng tôi có thể thấy một hai người khó chịu và tôi biết mình nên làm gì đó, tỷ dụ như gọi em mình quay lại ghế ngồi. Nhưng một phần trong tôi cảm thấy miễn cưỡng không muốn làm thế, vì…” “Em gái chị bao nhiêu tuổi?” Esther cắt ngang. “Mười bảy.” Tôi dừng lời một lát, không muốn đối diện với thực tại. “Gần mười tám.” Esther nhướn mày. “Thế thì con bé thuộc loại thích được chú ý rồi.” “Không, không phải vậy, chỉ là…” “Chớ còn gì nữa. Ý tôi là, chẳng ai tự nhiên lại đứng dậy khiêu vũ trong công viên, phải không?” Cô đắc thắng nhìn quanh bàn và khi ai cũng tránh ánh nhìn của cô, tôi không thể không thấy thương hại Esther. “Millie mắc hội chứng Down.” Giọng Jack phá tan sự im lặng khó xử đã buông xuống cả bàn. “Thế nên con bé thường có những hành động cực kỳ bột phát.” Nét mặt Esther ngập tràn vẻ bối rối và tôi thấy khó chịu khi mọi người kể lể đủ chuyện về tôi với cô mà không hề nhắc đến Millie. “Dù sao thì, trước khi tôi kịp quyết định nên làm gì,” tôi nói để giải vây cho Esther, “quý ông hoàn hảo đây bỗng đứng dậy, tới chỗ Millie đang khiêu vũ, cúi chào rồi đưa tay ra cho con bé. Chà, Millie thích lắm. Khi cả hai bắt đầu nhảy valse, mọi người cũng bắt đầu vỗ tay, sau đó vài cặp khác đứng lên và cũng bắt đầu khiêu vũ. Thực là một khoảnh khắc vô cùng, vô cùng đặc biệt. Và tất nhiên rồi, tôi yêu Jack ngay lập tức vì anh ấy đã khiến chuyện đó xảy ra.” “Lúc ấy, Grace không hề biết rằng tôi vốn đã thấy cô ấy cùng Millie trong công viên từ tuần trước và ngay lập tức đem lòng yêu cô ấy. Cô ấy vô cùng ân cần với Millie, không một chút vị kỷ. Tôi chưa bao giờ chứng kiến một tấm lòng tận tụy đến thế và nhất quyết phải làm quen với cô ấy.” “Còn Jack lúc ấy lại không biết một điều,” đến lượt tôi nói, “rằng tôi đã chú ý đến anh ấy từ tuần trước nhưng không bao giờ nghĩ anh ấy lại để ý đến một người như tôi.” Thấy mọi người gật đầu tán thành, tôi thích lắm. Mặc dù tôi là một cô gái hấp dẫn, nhưng vẻ ngoài điển trai như ngôi sao điện ảnh của Jack khiến mọi người nghĩ rằng tôi thật may mắn khi anh muốn kết hôn với tôi. Nhưng ý tôi không phải thế. “Grace không còn anh chị em nào khác nên cô ấy cứ nghĩ vì một ngày nào đó cô ấy rồi sẽ trở thành người duy nhất chăm sóc cho Millie, nên hẳn tôi sẽ mất hết hứng thú,” Jack giải thích. “Như đã xảy ra với những người khác,” tôi bổ sung. Jack lắc đầu. “Ngược lại, khi biết Grace sẽ làm bất cứ điều gì cho Millie, tôi nhận ra cô ấy chính là người phụ nữ tôi đã tìm kiếm cả đời. Với nghề nghiệp của tôi, người ta rất dễ mất niềm tin vào con người.” “Hôm qua, tôi đọc báo thấy đã đến lúc chúc mừng anh một lần nữa,” Rufus nói, nâng ly về phía Jack. “Đúng thế, cừ lắm.” Adam, luật sư cùng công ty với Jack, cũng hùa vào. “Lại một chiến thắng nữa trong tay cậu.” “Vụ ấy khá rõ ràng,” Jack khiêm tốn đáp. “Mặc dù có đôi chút khó khăn vì phải chứng minh những vết thương đó không phải do thân chủ của tôi tự gây ra, trong khi cô ấy có xu hướng tự gây thương tích cho mình.” “Nhưng nhìn chung, chẳng phải các vụ ngược đãi thường rất dễ chứng minh sao?” Rufus hỏi, trong khi Diane nói với Esther, phòng trường hợp cô chưa biết, rằng Jack là người bênh vực cho những người yếu thế, cụ thể hơn là cho những người vợ bị ngược đãi. “Tôi không muốn chê bôi những việc làm tuyệt vời của anh, nhưng các vụ ấy thường có bằng chứng vật lý hay nhân chứng mà, đúng không?” “Jack có biệt tài khiến các nạn nhân tin tưởng và kể hết cho anh ấy nghe những chuyện đã xảy ra,” Diane giải thích, tôi nghi cô ta đã đem lòng thích Jack. “Rất nhiều phụ nữ không biết phải trông cậy vào ai và sợ sẽ chẳng ai tin mình.” “Cậu ấy còn đảm bảo những kẻ gây ra tội ác phải trả giá trong một thời gian dài,” Adam thêm vào. “Trước những kẻ bị phát hiện giở trò bạo lực với vợ mình, tôi không có cảm giác gì khác ngoài khinh thường,” Jack tuyên bố chắc nịch. “Chúng xứng đáng nhận mọi hình phạt dành cho mình.” “Tôi xin uống mừng điều đó,” Rufus lại nâng ly. “Anh chưa bao giờ thua vụ nào, đúng không Jack?” Diane hỏi. “Chưa, tôi cũng không có ý định sẽ để thua vụ nào hết.” “Thành tích không gián đoạn - đúng là tuyệt vời,” Rufus trầm ngâm vẻ ấn tượng. Esther nhìn sang tôi. “Em gái Millie của chị nhỏ hơn chị khá nhiều tuổi nhỉ,” cô nhận xét, hướng cuộc trò chuyện về chủ đề chúng tôi đang nói dở. “Đúng, chúng tôi cách nhau mười bảy năm. Millie ra đời khi mẹ tôi đã bốn mươi sáu. Lúc đầu, do không biết mình đang mang thai nên mẹ tôi có hơi sốc trước việc sẽ được làm mẹ một lần nữa.” “Millie sống với cha mẹ chị à?” “Không, nó học nội trú tại một ngôi trường tuyệt vời ở Bắc London. Nhưng nó sẽ lên mười tám vào tháng Tư nên phải rời trường vào mùa hè này, âu cũng đáng tiếc vì nó rất thích ngôi trường ấy.” “Vậy con bé sẽ đi đâu? Về nhà cha mẹ chị à?” “Không.” Tôi dừng một lát vì biết điều mình sắp nói sẽ khiến cô sửng sốt. “Cha mẹ tôi sống ở New Zealand.” Mất một lúc Esther mới phản ứng lại. “New Zealand?” “Đúng thế. Họ nghỉ hưu và chuyển đến đó vào năm ngoái, ngay sau đám cưới của chúng tôi.” “Tôi hiểu rồi,” cô nói. Nhưng tôi biết cô chẳng hiểu gì. “Millie sẽ chuyển đến sống cùng chúng tôi,” Jack giải thích. Anh nhìn tôi mỉm cười. “Tôi biết đó là điều kiện để Grace đồng ý kết hôn với tôi và tôi hoàn toàn vui lòng chấp nhận.” “Anh cao thượng thật đấy,” Esther nói. “Hoàn toàn không phải thế - tôi rất mừng vì Millie sẽ sống ở đây. Việc đó sẽ mở ra một khía cạnh mới cho cuộc sống của chúng tôi, phải không, em yêu?” Tôi nâng ly nhấp một ngụm rượu để khỏi phải trả lời. “Rõ là anh rất hòa hợp với con bé,” Esther nhận xét. “Chậc, tôi hy vọng con bé cũng yêu quý tôi như tôi yêu quý nó, mặc dù vẫn phải mất một thời gian sau khi tôi và Grace kết hôn mới được như thế.” “Sao lại thế?” “Tôi nghĩ việc chúng tôi kết hôn với nhau khiến con bé bị sốc,” tôi trả lời cô. “Con bé ngay từ đầu đã rất quý Jack, nhưng khi chúng tôi trở về sau tuần trăng mật và Millie hiểu ra Jack sẽ ở bên tôi mãi mãi, nó lại thấy ghen tị. Nhưng giờ thì ổn rồi. Jack lại là người con bé yêu quý nhất rồi.” “May sao, George Clooney đã thế chỗ tôi trở thành đối tượng đáng ghét trong lòng Millie,” Jack phá lên cười. “George Clooney?” Esther thắc mắc. “Đúng thế.” Tôi gật đầu, hài lòng vì Jack đã đề cập đến việc này. “Tôi thích anh ta…” “Ai mà chẳng thích,” Diane lẩm bẩm. “… và Millie ghen tị đến nỗi, khi mấy người bạn tặng tôi một tờ lịch in hình George Clooney vào lễ Giáng sinh, nó đã nguệch ngoạc viết lên đó ‘Tôi không thích George Clooney’, có điều nó viết tên anh ta theo cách phát âm - J-O-R-J K-O-O-N-Y - con bé gặp khó khăn khi phát âm chữ ‘L’,” tôi giải thích. “Đáng yêu thế chứ.” Ai cũng cười. “Giờ thì gặp ai nó cũng nói chỉ thích tôi chứ không thích anh ta. Nghe gần như tụng kinh vậy - ‘Em thích anh, Jack ạ, nhưng em không thích George Clooney.’ “ Jack mỉm cười. “Phải thừa nhận là tôi thấy rất khoái khi được so sánh với anh ta,” anh khiêm tốn nói thêm. Esther nhìn Jack. “Anh biết không, trông anh cũng khá giống anh ta đấy.” “Trừ một điều, Jack đẹp trai hơn nhiều.” Adam nhe răng cười. “Cô không hình dung nổi tất cả chúng tôi đã cảm thấy nhẹ nhõm đến mức nào khi cậu ấy kết hôn với Grace đâu. Ít ra thì đám phụ nữ trong văn phòng không còn mộng tưởng về Jack nữa, cả nam giới cũng vậy,” anh ta vui vẻ thêm vào. Jack thở dài hiền hậu. “Đủ rồi đấy, Adam.” “Chị không đi làm, đúng không?” Esther quay sang hỏi tôi. Tôi nhận ra giọng cô thoáng ẩn giấu sự coi thường mà phụ nữ đi làm thường dành cho những người chỉ ở nhà, điều đó thôi thúc tôi phải bào chữa cho mình. “Ngày trước thì có, nhưng tôi đã nghỉ làm ngay trước khi chúng tôi kết hôn.” “Thật sao?” Esther nhíu mày. “Tại sao lại thế?” “Cô ấy không muốn thôi việc,” Jack xen vào. “Nhưng cô ấy đã có một công việc chức trọng quyền cao và tôi không muốn về nhà khi đã kiệt sức chỉ để thấy Grace cũng kiệt sức như mình. Có lẽ tôi đã ích kỷ khi đề nghị cô ấy thôi việc, nhưng tôi muốn được về nhà để trút bỏ mọi căng thẳng trong ngày hơn là bị người khác trút lên mình. Công việc của cô ấy cũng đòi hỏi phải đi lại khá nhiều và tôi không muốn về một ngôi nhà trống, như cách tôi đã sống suốt bao năm qua.” “Chị làm gì?” Esther hỏi, đôi mắt xanh nhạt nhìn thẳng vào tôi. “Tôi nhập hàng cho Harrods[2].” Mắt cô sáng lên, cho thấy cô rất ấn tượng, nhưng việc cô không hỏi thêm nữa chứng tỏ cô chưa muốn cho tôi thấy điều đó. “Chị ấy thường đi khắp thế giới trên khoang hạng nhất,” Diane nín thở nói. “Không phải khắp thế giới đâu,” tôi chỉnh lại. “Chỉ tới Nam Mỹ thôi. Tôi tìm nguồn hoa quả ở đó, chủ yếu từ Chile và Argentina,” tôi bổ sung, chủ yếu để cho Esther biết. Rufus nhìn tôi đầy thán phục. “Chắc là thú vị lắm.” “Đúng thế.” Tôi gật đầu. “Tôi yêu từng giây từng phút được làm công việc của mình.” “Thế thì chắc chị nhớ lắm,” Esther lại tuyên bố. “Không, cũng không hẳn,” tôi nói dối. “Ở đây có khối việc chiếm trọn thời giờ của tôi rồi.” “Chẳng mấy chốc, chị lại phải chăm sóc cho cả Millie nữa.” “Millie rất tự chủ và dù sao thì con bé cũng sẽ dành phần lớn thời gian làm việc ở Meadow Gate.” “Ở nhà vườn ấy hả?” “Đúng thế. Con bé rất thích cây cối hoa lá và đã may mắn được nhận vào làm một công việc hoàn hảo.” “Thế cả ngày chị thường làm gì?” “Thì cũng như hiện tại thôi - cô biết rồi đấy, nấu ăn, dọn dẹp, làm vườn - nếu thời tiết cho phép.” “Sau này cô phải tới dự bữa trưa Chủ nhật để thăm vườn mới được,” Jack nói. “Grace mát tay trồng trọt lắm.” “Trời ạ,” Esther nhẹ nhàng nói. “Chị nhiều tài thật đấy. Thật mừng là tôi được mời làm việc ở St Polycarp. Ở nhà cả ngày tôi thấy chán lắm.” “Bao giờ cô bắt đầu?” “Tháng sau. Tôi thế chỗ cho một cô giáo nghỉ sinh con.” Tôi quay sang Rufus. “Jack nói với tôi vườn của anh lớn lắm,” tôi gợi ý, và trong khi tôi lấy thêm thịt bò Wellington được giữ ấm cùng rau quả trên bếp điện, cuộc chuyện trò bên bàn bắt đầu xoay quanh chủ đề phong cảnh thay vì về tôi. Khi mọi người cười nói với nhau, tôi thấy mình bâng khuâng nhìn hai người phụ nữ kia, tự hỏi nếu mình là Diane hoặc Esther thì sẽ ra sao, hay nếu không phải chăm lo cho Millie thì tôi sẽ thế nào. Tôi lập tức thấy có lỗi vì tôi yêu Millie hơn cả cuộc đòi này và sẽ không đánh đổi con bé để lấy bất cứ thứ gì. Chỉ cần nghĩ đến Millie, lòng tôi dâng lên một quyết tâm mới và tôi cố ý đứng dậy. “Đã ai muốn ăn tráng miệng chưa?” tôi hỏi. Jack và tôi dọn bàn, sau đó anh theo tôi vào bếp. Tôi bỏ đĩa bát gọn gàng vào bồn rửa để lát nữa xối nước cho sạch, trong khi Jack cất con dao lạng thịt về chỗ cũ. Món tráng miệng tôi làm quả là kiệt tác - một ổ bánh trứng đường hoàn hảo, không một vết rạn, cao bảy phân, phủ đầy kem tươi Devon. Tôi lấy số hoa quả đã chuẩn bị từ trước rồi cẩn thận xếp các khoanh xoài, dứa, đu đủ và kiwi lên trên lớp kem, sau đó thêm dâu tây, mâm xôi và việt quất. Khi cầm quả lựu lên, cảm giác của nó trong lòng bàn tay đưa tôi quay về một thời điểm khác, một địa điểm khác, nơi ánh mặt trời ấm áp rọi trên mặt và tiếng trò chuyện háo hức là những thứ tôi coi như nghiễm nhiên được hưởng trên đời. Tôi nhắm mắt lại trong giây lát, nhớ tới cuộc đời mình từng sống trước đây. Nhận thấy Jack đang giơ tay ra đợi, tôi đưa quả lựu cho anh cắt ra làm đôi, rồi tôi dùng thìa nạo hạt rắc lên chỗ hoa quả kia. Món tráng miệng đã hoàn thành, tôi bê ra phòng ăn, nơi những tiếng trầm trồ trước sự xuất hiện của nó khẳng định Jack đã đúng khi chọn món này thay vì bánh ga tô sô cô la hạt dẻ tôi muốn làm. “Cậu có tin là Grace chưa bao giờ học nấu ăn không?” Diane nói với Esther và cầm thìa lên. “Tớ thật ngưỡng mộ sự hoàn hảo này, cậu có thấy thế không? Mặc dù tớ sẽ không tài nào mặc vừa bộ bikini vừa mua nữa,” cô ta đế thêm, rên rỉ vỗ tay vào bụng dưới lớp váy lanh màu xanh nước biển. “Tớ không nên ăn mới phải, nhất là khi vừa đặt một chuyến nghỉ mát vào mùa hè này, nhưng ngon thế kia thì làm sao cưỡng nổi!” “Hai người định đi đâu?” Rufus hỏi. “Thái Lan,” Adam trả lời. “Chúng tôi định đi Việt Nam, nhưng sau khi xem ảnh kỳ nghỉ vừa rồi của Jack và Grace ở Thái Lan, chúng tôi quyết định sẽ đi Việt Nam vào năm sau.” Anh ta nhìn Diane cười. “Mọi chuyện được quyết ngay khi Diane trông thấy khách sạn họ đã ở.” “Vậy hai người sẽ ở đúng khách sạn ấy chứ?” “Không, khách sạn ấy đã kín chỗ. Không may là chúng tôi không được phép đi nghỉ ngoài thời gian làm việc.” “Hãy cố tận hưởng hết mức có thể,” Esther nói, quay sang nhìn tôi. “Tôi cũng định thế.” “Năm nay hai cậu có định quay lại Thái Lan không?” Adam hỏi. “Nếu có thì phải đi trước tháng Sáu, nhưng chắc tôi không đi được vì vụ Tomasin sắp tới,” Jack nói. Anh ném một cái nhìn đầy ẩn ý về phía tôi ở đầu bàn bên kia. “Còn sau đó thì Millie sẽ đến sống cùng chúng tôi.” Tôi nín thở, hy vọng không ai gợi ý rằng nếu kiên nhẫn chờ đợi, chúng tôi sẽ có thể đưa cả Millie đi cùng. “Vụ Tomasin hả?” Rufus nhướn mày. “Tôi có nghe được chút ít. Có phải vợ anh ta là một trong số các thân chủ của anh?” “Đúng thế.” “Dena Anderson,” anh ta trầm ngâm. “Chắc là một vụ rất thú vị.” “Quả vậy,” Jack đồng tình. Anh quay lại nhìn tôi. “Em yêu, nếu mọi người đã ăn xong, sao em không cho Esther xem ảnh lần trước bọn mình đi nghỉ ở Thái Lan nhỉ?” Tim tôi chùng xuống. “Chắc cô ấy không muốn xem ảnh đi nghỉ của chúng mình đâu,” tôi cố tình nói sao cho thật nhẹ nhàng. Nhưng chỉ một dấu hiệu nhỏ nhoi cho thấy sự bất hòa giữa hai chúng tôi cũng đã đủ cho Esther. “Tôi rất thích xem!” cô kêu lên. Jack đẩy ghế lùi lại rồi đứng dậy. Anh lấy cuốn album ảnh ra khỏi ngăn kéo và đưa cho Esther. “Vậy thì tôi với Grace đi pha cà phê trong khi cô xem ảnh nhé. Sao cô không sang phòng khách mà ngồi, ở đó thoải mái hơn nhiều.” Lúc chúng tôi mang khay cà phê trở lại từ trong bếp thì Diane đang trầm trồ khen ảnh, trong khi Esther chẳng nói gì nhiều. Tôi phải thừa nhận đó là những tấm ảnh tuyệt vời. Tôi có mặt ở tấm nào là y như rằng đều phô ra ưu điểm của mình trong tấm đó: làn da rám nắng tuyệt đẹp, thân hình thanh mảnh như hồi còn đôi mươi, mặc một trong hằng hà sa số các bộ bikini của mình. Hầu như trong ảnh nào tôi cũng đang đứng trước một khách sạn hạng sang, hoặc nằm dài trên bãi biển riêng, hay ngồi ở một quầy bar hoặc nhà hàng, bên cạnh ly cocktail sặc sỡ cùng một đĩa đồ ăn mới lạ trước mặt. Xem ảnh nào cũng thấy tôi tươi cười nhìn máy ảnh, quả là một ví dụ hoàn hảo về kiểu phụ nữ vô lo được cưng chiều và yêu chồng tha thiết. Jack khá cầu toàn khi chụp ảnh và thường chụp đi chụp lại một kiểu đến khi nào ưng mới thôi, vậy nên tôi đã học cách diễn cho chuẩn ngay lần đầu. Cũng có một số tấm ảnh hai chúng tôi chụp chung, do những người lạ dễ tính nháy máy hộ. Chính Diane đã trêu chọc và chỉ ra rằng trong những bức ảnh ấy, Jack với tôi thường nhìn nhau say đắm chứ chẳng hề nhìn đến ống kính. Jack rót cà phê. “Có ai muốn ăn sô cô la không?” tôi hỏi, cố hết sức làm ra vẻ ngẫu nhiên với lấy hộp sô cô la Esther mang tới. “Anh nghĩ tất cả đều đã ăn khá no rồi,” Jack gợi ý, nhìn quanh tìm kiếm sự đồng tình. “Quả vậy,” Rufus nói. “Tôi không thể ăn thêm bất cứ thứ gì nữa,” Adam rên rỉ. “Thế thì tôi cất đi để dịp khác vậy.” Jack chìa tay đón hộp kẹo. Tôi đang tưởng sẽ phải chấp nhận không bao giờ được nếm chúng thì Diane đã kịp đứng ra giải cứu. “Đừng cất đi - em nghĩ mình còn ăn được một, hai viên sô cô la.” “Nhắc cho em nhớ tới bikini chắc cũng vô ích,” Adam thở dài, lắc đầu tuyệt vọng chế giễu vợ. “Hoàn toàn vô nghĩa,” Diane đồng ý rồi lấy một viên sô cô la từ chiếc hộp Jack đưa cho mình, sau đó chuyền cho tôi. Tôi lấy một viên, bỏ tọt vào miệng và đưa hộp cho Esther. Thấy cô từ chối không ăn, tôi lại lấy thêm một viên nữa trước khi trả hộp cho Diane. “Sao chị làm được như thế?” Diane hỏi, nhìn tôi đầy băn khoăn. “Làm gì cơ?” “Ăn nhiều thế mà chẳng tăng cân chút nào.” “Nhờ may mắn,” tôi nói, thò tay ra lấy thêm một viên kẹo nữa. “Và có kiểm soát.” Đến tận khi đồng hồ nhích đến mười hai rưỡi, Esther mới nhắc đến chuyện đi về. Jack đưa áo khoác cho mọi người khi chúng tôi ra tới hành lang. Trong lúc anh giúp Diane và Esther mặc áo khoác, tôi đồng ý sẽ gặp họ trong thị trấn vào thứ Sáu tới để ăn trưa tại nhà hàng Chez Louis lúc mười hai rưỡi. Diane ôm tôi chào tạm biệt. Khi bắt tay Esther, tôi nói tôi mong được gặp lại cô vào bữa trưa đã hẹn. Hai người đàn ông hôn tạm biệt tôi và trong lúc tất cả ra về, họ đều cảm ơn chúng tôi vì một buổi tối hoàn hảo. Trên thực tế, từ “hoàn hảo” cứ vang lên khắp hành lang khi Jack đóng cửa sau lưng các vị khách, khiến tôi biết chắc mình đã thắng cuộc. Nhưng tôi phải đảm bảo Jack biết rằng tôi đã thắng. “Ngày mai ta sẽ phải lên đường vào lúc mười một giờ,” tôi nói, xoay lại nhìn anh. “Để tới nơi đúng giờ đưa Millie đi ăn trưa.” Mời bạn đón đọc Sau Cánh Cửa Đóng của tác giả B. A. Paris & Lan Young (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Đen
Nhà Đen từng đoạt giải Nhất Tiểu thuyết Kinh dị Nhật Bản năm 1997. Một truyện dài vô tận dẫn vào địa hạt của bất nhân. … Wakatsuki làm việc tại một hãng bảo hiểm, công việc chuyên môn là thẩm định tiền bảo hiểm tử vong. Hằng ngày anh phải tiếp xúc với rất nhiều thành phần khách hàng, trong đó có cả những kẻ lừa đảo rắp tâm chiếm đoạt tiền bảo hiểm. Sau một lần tư vấn quá mức chân tình cho khách, anh bị lợi dụng, bị biến thành nhân chứng đầu tiên cho một cái xác thiếu niên treo lủng lẳng. Tuy bố mẹ cậu bé khẳng định là con mình tự tử, nhưng trực giác mách bảo Wakatsuki rằng đây là một vụ giết người. Do gián tiếp ngăn cản việc chi trả tiền bảo hiểm, chuỗi ngày tiếp theo của anh không còn yên bình như trước. Các màn khủng bố triền miên, sát khí nặng nề lởn vởn, và hơn hết thảy, thi thể không toàn vẹn của những người hoặc vô tình hoặc cố ý nhảy vào làm chậm trễ quá trình chi trả đều là lời cảnh cáo bằng máu gửi tới anh chuyên viên bảo hiểm. Bất chấp tất cả, Wakatsuki vẫn bền bỉ khai quật sự thật, nhưng anh không ngờ mình phải đối mặt với quá nhiều sững sờ và run rẩy. Trong ngôi nhà đen ngập ngụa hôi thối, từ điểm bắt đầu là cái xác treo cổ, Wakatsuki đã đào lên cả một ổ dòi… *** Review NHÀ ĐEN - Kishi Yusuke Người dịch: Nguyệt Phùng #Nhà_Đen #Kishi_Yusuke #TrinhthamNhatBan ------------------------- Một tác phẩm khác của Kishi Yusuke. Mình không biết review này có thiên vị hay không nhưng vì mình quá thích Mê cung đỏ nên cuốn này cũng sẽ khen không ngoại lệ. Mình đọc xong lâu rồi nhưng giờ mới viết. Giọng văn của Kishi đặc biết đến cái độ mà dù không biết cùng một tác giả, một khi đã đọc được một tác phẩm của tác giả này rồi thì dễ dàng nhận ra văn phong đặc trưng của ông trong những tác phẩm sau. Kỳ lạ, lôi cuốn, hồi hộp. Nếu như Mê cung đỏ là một chuyến phiêu lưu thì Nhà đen chính là một án mạng kinh hoàng. Nhưng nó đáng sợ không phải những màn dọa ma hay jumpscare kinh dị, nó đáng sợ từ chính những con người. Câu chuyện kể về Wakatsuki - một nhân viên chịu trách nhiệm kiểm định các hợp đồng bảo hiểm, bỗng một ngày được khách hàng mời đến nhà và chứng kiến thằng con trai treo cổ tự sát. Dẫn theo sau đó là những vụ giết người kinh tởm mà thủ phạm là một kẻ thái nhân cách không bình thường. Đọc truyện mình có thể thấy tác giả phải nghiên cứu sâu về tâm lý học tâm lý tội phạm và tâm lý nhân vật ra sao mới có thể vẽ nên từng nhân vật đặc sắc và diễn biến nội tâm hợp lý đến thế, dù chỉ là những nhân vật phụ như trợ giảng đại học Kanaishi hay bảo hiểm đen Miyoshi. Ngoài ra truyện cho người đọc tiếp thu một lượng kiến thức khổng lồ về ngành bảo hiểm, quy trình hợp đồng và những kẽ hở lách luật hay những án bảo hiểm đầy mưu mô, tác giả có lẽ phải đọc rất nhiều mới có thể khiến tình tiết đi hợp lý đến thế. Nếu Mê cung đỏ là dùng câu chuyện kỳ ảo để nói về bản thể con người thì trong Nhà đen bản thể con người được khắc họa qua những câu chuyện vô cùng thực tế vốn tồn tại xung quanh ta. Chi tiết về con sâu bướm cuối truyện như vẽ nên một viễn cảnh về xã hội tương lai khi mà con người ta chính là đàn kiến đang sợ hãi hoang mang trước thế lực quá mới mẻ mang tên tâm lý băng hoại của loài người, không còn đến từ cá nhân, mà đến với số lượng khổng lồ. Megumi -bạn gái Wakatsuki đã nói thế này "Không, họ hoàn toàn bình thường. Có thể nói là hầu như tất cả đều bình thường. Vấn đề là họ có chung một nỗi bi quan đến mức bệnh hoạn, cả nỗi tuyệt vọng vô bờ bến đối với nhân loại nữa. Mọi thứ họ nhìn đều phản chiếu nỗi tuyệt vọng tăm tối đó. Họ tuyệt nhiên không chấp nhận một điều, rằng thiện ý và tình cảm của con người sẽ làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Cho nên, chắc chắn họ có ác cảm trên mức cần thiết đối với mọi sự việc trên đời. Họ bảo vệ bản thân bằng thứ mánh khóe vô cùng tinh tế, đó là không kết nối tình cảm và yêu thương bất cứ thứ gì để dù bị phản bội cũng sẽ không tổn thương. Và họ áp đặt thành kiến độc ác lên mọi đối tượng đe dọa sự tồn tại của họ, ngộ nhỡ có bất trắc xảy ra cũng sẽ dễ dàng rũ bỏ mà không cảm thấy đau đớn." Nói tóm lại, Nhà đen không phải truyện trinh thám, không có yếu tố thủ phạm bất ngờ, cũng không phải truyện kinh dị như kiểu The ring, đây là câu chuyện mang yếu tố hình ảnh khắc họa con người rất tốt, tính gợi cao và lối kể chuyện hấp dẫn. Giống như Ktakami Jiro đã bình về cuốn này, nó mô tả bi kịch hiện đại của một xã hội phải đối mặt với sự suy đồi đạo đức thông qua những câu chuyện phụ được liên kết phức tạp cũng như ngòi bút tạo dựng nhân vật xuất chúng, lột tả một cách cảm động sự tôn nghiêm và kỳ vọng của con người. Người viết: Ngoc Anh Pham - fb/trinhthamgroup *** KISHI YUSUKE Sinh năm 1959 tại Osaka, tốt nghiệp khoa Kinh tế học Đại học Kyoto. Năm 1996, tác phẩm ISOLA - Nhân cách thứ 13 của ông đoạt giải xuất sắc Tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản. Sau đó, các tác phẩm khác của ông như: Nhà đen (1997), Búa thủy tinh (2004), Tân Thế Giới (2005), Giờ học của ác quỷ (2008) cũng lần lượt được nhận các giải thưởng văn học khác nhau. Một anh nọ làm ở công ty bảo hiểm nhân thọ, chuyên môn thẩm định tiền bồi thường tử vong. Một ngày kia, anh ta được khách gọi đến tận tư gia, và bất ngờ trở thành người đầu tiên phát hiện ra thi thể treo cổ của đứa con trai nhà ấy. Qua thái độ của bố mẹ chúng, anh ngờ rằng đây không phải là tự tử, mà là giết con để lấy tiền bảo hiểm, nên khi đơn yêu cầu bồi thường được gửi tới, anh đã âm thầm tiến hành điều tra. Từ đó, ác mộng dồn dập tấn công cuộc sống của anh. Nỗi khủng hoảng triền miên, sát khí nặng nề lởn vởn quanh nghi can sát nhân. Và hơn hết thảy, cái chết của những người vô tình hoặc cố ý đã nhảy vào làm chậm trễ quá trình chi trả đều là lời cảnh cáo bằng máu gửi tới anh chuyên viên bảo hiểm. Một truyện dài bất tận dẫn vào địa hạt của bất nhân và run rẩy… Nhà đen đoạt giải Nhất tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản năm 1997. *** Ngày 8 tháng Tư năm 1996, thứ Hai. Ngừng bàn tay đang cầm cây bút chì xanh lại trong chốc lát, Wakatsuki Shinji khẽ vươn vai. Anh vén rèm lên, để ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ phía Đông của phòng Tổng hợp, tạo thành những đốm nắng nhỏ trên mặt bàn. Những tia sáng li ti lấp lánh trên các đồ vật nằm trong khay bút, nào nắp bút bi, con dấu, kính lúp soi dấu hồ sơ và cả com-pa nữa. Wakatsuki nhìn ra bên ngoài cửa sổ, bầu trời Kyoto trong vắt, đâu đó có những vệt mây đang lặng lờ trôi, như thể được quệt bởi đầu bút vẽ. Anh hít căng không khí trong lành của buổi sáng rồi lại tiếp tục kiểm tra số hồ sơ yêu cầu tiền bảo hiểm tử vong đang chất đống trên bàn làm việc. Một thợ mộc 48 tuổi, ho ra máu, nhập viện và bị chẩn đoán mắc ung thư dạ dày. Một nhân viên văn phòng 60 tuổi, ngất xỉu trong lúc chơi golf và bị phát hiện mắc bệnh u não. Một sinh viên đại học vừa làm lễ trưởng thành[1] năm nay, chạy xe quá tốc độ nên đâm phải cột điện ở khúc cua… Wakatsuki đang đối diện với cái chết của những con người anh chưa một lần gặp mặt. Xem ra, khởi đầu mỗi buổi sáng bằng công việc như thế này thật chẳng mấy dễ chịu. Trong vòng năm năm sau khi vào công ty, Wakatsuki được phân bổ về ban Đầu tư trái phiếu quốc tế ở trụ sở chính. Bấy giờ, trong đầu chỉ rặt những vấn đề kinh tế vĩ mô như lãi suất dài hạn của Mỹ hay tỉ giá hối đoái, thành ra anh cứ ý thức một cách mơ hồ rằng mình đã trở thành nhân viên của một cơ quan tài chính chứ nào phải công ty bảo hiểm nhân thọ. Tuy nhiên, vào mùa xuân năm ngoái, anh đã chuyển đến chi nhánh Kyoto làm công việc thẩm định tiền bảo hiểm tử vong. Kể từ đó, anh mới có cảm giác mình thật sự là nhân viên của một doanh nghiệp liên quan đến chuyện sống chết của con người. - Hôm nay lại có hàng tá vụ tử vong nữa nhỉ. Phó phòng Kasai Yoshio ngồi kế bên, nhìn sang bàn Wakatsuki và cất tiếng. - Đang mùa xuân mà... Tội nghiệp quá. Ngẫm lại, đúng là số người chết nhiều đến bất thường. Theo thống kê, lượng người chết nhiều nhất là vào mùa đông vì người già hay bệnh nhân sức khỏe yếu thường không vượt qua nổi giá rét. Chắc chắn phải có nguyên do nào đó mới dẫn đến quá nhiều cái chết ngay giữa mùa xuân thế này... Wakatsuki thử lật mớ hồ sơ. Ngay dưới đơn yêu cầu tiền bảo hiểm do người thụ hưởng điền đều có biên bản xác nhận tử vong của bác sĩ, bản phô tô hộ khẩu gia đình, vài trường hợp có biên bản chứng minh tai nạn giao thông. Ẩn số ngay lập tức được giải đáp. - Ồ, hồ sơ vụ hỏa hoạn ở quận Sakyo đây mà. Khoảng ba tuần trước, một xưởng mộc bị thiêu rụi khiến năm người trong gia đình thiệt mạng. Hiện tại, có tổng cộng mười lăm yêu cầu tiền bảo hiểm tử vong cùng một lúc nên thoạt nhìn, số trường hợp có vẻ nhiều hẳn lên. Già nửa số đó là những loại bảo hiểm có tính tiết kiệm cao, chẳng hạn như bảo hiểm dưỡng lão kì hạn năm năm. Chắc toàn những người không nỡ từ chối đây mà, Wakatsuki tưởng tượng. Họ đã động lòng vì lời nài nỉ “bị áp lực chi tiêu” của đám nhân viên bán bảo hiểm và cứ liên tiếp bỏ tiền ra mua giúp. Tỉ lệ tham gia bảo hiểm nhân thọ của Nhật Bản cao nhất thế giới, phần lớn là nhờ công của những khách hàng như thế. - Mà này, có kẻ đốt đúng không? Biết thủ phạm chưa vậy? - Chưa anh ạ, nhưng khả năng có người thụ hưởng rất thấp nên em nghĩ việc thanh toán không vấn đề gì đâu. - Rõ thật là... Cứ phải tử hình hết cái bọn đốt nhà người khác làm vui đi cho rồi! Kami lẩm bẩm. Anh xắn tay áo sơ mi lên, để lộ cánh tay to như lực sĩ, thi thoảng lại lấy khăn mùi soa lau mồ hôi trán. Chiều cao tầm 1m75, cân nặng lên đến 120 kilogam có lẻ nên nhiệt lượng thoát ra từ anh hẳn phải lớn hơn nhiều so với người bình thường. Mới buổi sáng đầu xuân mà lưng và phần nách chiếc áo sơ mi dài tay màu xanh da trời cỡ XXL trên người anh đã ướt đẫm. Điện thoại đổ chuông. Kasai nhấc ống nghe không chút chần chừ rồi ấn chiếc nút đang nhấp nháy. Anh cố thực hiện kế hoạch chỉ đạo âm thầm đối với các nhân viên nữ rằng phải trả lời điện thoại ngay lập tức. - Bảo hiểm Nhân thọ Showa chi nhánh Kyoto xin nghe! Xin lỗi đã để quý khách chờ lâu! Giọng nam cao sang sảng của Kasai vang lên khắp phòng. - Nhờ anh nhé, chủ nhiệm Wakatsuki. Sakagami Hiromi đặt lên bàn tập hồ sơ yêu cầu tiền bảo hiểm trợ cấp nằm viện sau khi kiểm tra xong một lượt. Cô là nữ nhân viên xuất sắc đã có kinh nghiệm năm năm làm việc tại công ty. Ngoài hồ sơ mới, số hồ sơ đã được phân loại theo màu cũng nằm la liệt trên mặt bàn, nào là thanh toán bảo hiểm hết thời hạn, thanh toán bảo hiểm sinh kì, thanh toán lương hưu, vay tiền theo hợp đồng bảo hiểm, cắt hợp đồng, đăng kí con dấu, thay đổi người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng tiền bảo hiểm, đính chính địa chỉ hoặc ngày tháng năm sinh, thậm chí còn đính chính thông tin người thân hay giới tính của người mua, và cả tái phát hành bảo hiểm rủi ro chứng khoán nữa. Nói chung là muôn hình vạn trạng hồ sơ, không có thời gian mà đủng đỉnh. Wakatsuki nhanh chóng bắt tay vào kiểm tra. Ngoại trừ vụ cháy xưởng mộc, hầu hết đều là người chết do bệnh tật kinh niên, không thấy vấn đề gì. Nhưng gần đến cuối, anh phát hiện ra một trường hợp. Bảo hiểm trọn đời 10 triệu yên, tham gia bảo hiểm đã hai mươi năm. Một hồ sơ rất bình thường, nhưng đáng chú ý nhất là dòng chữ “Biên bản xác nhận tử vong” đã được thay thế bằng dòng chữ “Biên bản khám nghiệm tử thi”. Sự khác nhau của hai biên bản này nằm ở chỗ, bác sĩ lập biên bản có khám cho người đó trong vòng 24 giờ trước lúc chết hay không. Nếu là “Biên bản khám nghiệm tử thi” thì ngay từ đầu, bác sĩ đã chỉ tiếp xúc với tử thi nên chưa thể khẳng định chắc chắn nguyên nhân gây ra cái chết. Wakatsuki kiểm tra các mục theo thứ tự từ trên xuống dưới. Mời các bạn đón đọc Nhà Đen của tác giả Kishi Yusuke.
Hiệp Hai
Thiếu tướng Reinga Helen, cục trưởng cục tình báo quân sự Đức “Những đội quân nước ngoài ở phương Đông”, ngay từ năm 1944 đã đi đến kết luận rằng sự diệt vong của Hitler đã đến gần và đó là điều không thể nào tránh khỏi. Trong tình trạng hoảng loạn bao trùm lên cả nước Đức hồi đó, Helen là một trong số rất ít người không hoảng sợ trước nguy cơ bị trả thù, mà biết bắt đầu hành động. Helen đã thảo một bản kế hoạch luân chuyển và rút lui các nhân viên tin cẩn nhất vào hoạt động bí mật. Kế hoạch được Himmler tán thưởng rồi đưa trình lên Hitler và Helen được phong lên cấp bậc trung tướng. Theo kế hoạch này, trong những điều kiện vô cùng cẩn mật, một cuộn micro phim dài hàng ngàn mét được gấp rút chuẩn bị để chụp danh sách các điệp viên của cục tình báo do Helen chỉ huy. Cuộn phim được cuộn vào trong những chiếc hộp nhỏ bằng kim loại và niêm phong cẩn thận. Vào một đêm tối trời tháng hai năm 1945, dưới tiếng đệm của những làn đạn đại bác, từ thị trấn nhỏ Sosen, ngoại thành Berlin, nơi đóng quân của bộ chỉ huy các lực lượng lục quân phát xít, ba chiếc xe tải bịt kín mít và một chiếc xe bọc thép hộ tống từ từ đi ra. Đoàn vận tải bí mật này vượt qua những quãng đường núi lởm chởm ổ gà một cách dễ dàng rồi đến vùng thượng lưu Bavaria, ở đây, ba chiếc xe tải cùng với chiếc xe bọc thép vượt biên giới. Một đoàn người ăn mặc giống hệt các vận động viên leo núi khoác lên vai những chiếc túi nặng rồi biến vào núi. Đoàn người đến một căn cứ nằm sâu trong núi, một túp lều gọi là Elenslam, vào một đêm giông tố bão bùng. Ở đây, trưởng đoàn, không phải ai xa lạ, mà chính là Reinga Helen cùng với hai sĩ quan SS cận vệ dồn những hộp kim loại kia vào những chiếc thùng dài rồi đem giấu vào chiếc hầm bí mật đã được đào sẵn từ trước. Sau bữa ăn tối, điều mà sau này mới rõ, hai sĩ quan cận vệ “đột nhiên” cảm thấy khó chịu và mấy phút sau lăn ra chết. Xác họ bị quẳng xuống một vực sâu gần đấy. Ở Elenslam, những “nhà du lịch” còn sống sót tiếp tục sống hơn hai tháng. Ở đây, hàng ngày, đài và vô tuyến điện thông báo cho chúng biết tình hình cục diện chiến tranh. Được tin chiến cuộc kết thúc, Helen liền hạ lệnh cho các nhân viên của hắn xuống núi và ra đầu hàng nhưng chỉ được đầu hàng quân Mỹ! Còn chính hắn và một số tay chân thân cận khác thì mấy ngày sau mới xuống. Có mặt trong đoàn thiết giáp thuộc quân đoàn bảy của Mỹ, Helen yêu cầu, phải lập tức đưa hắn về quân đoàn bộ. Tại đây, hắn yêu cầu phải nhanh chóng đưa hắn về bộ chỉ huy của cục tình báo Mỹ. Không phải chờ đợi lâu, một chiếc xe quân cảnh có hộ tổng cẩn thận được phái đến. Chiếc xe này được lệnh phải nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của người Đức bí ẩn này. Và đây, bước cuối cùng của cuộc chạy đua: Helen được tướng Paterson, một thủ lĩnh của CIC, cơ quan tình báo bảo vệ an ninh cho quân Mỹ ở Đức, tiếp. - Ngài Helen, tôi hy vọng ngài đã không gặp khó khăn gì trên đường đi? - Paterson hỏi hai người bạn đồng nghiệp Đức. - Cảm ơn tướng quân, mọi việc đều hoàn toàn thuận lợi! - Thế thì tuyệt! Bây giờ ngài đi nghỉ đi. Tôi sẽ không quấy rầy ngài. Chúng ta nói chuyện sau. - Chân thành cảm ơn ngài đã che chở cho chúng tôi. Nếu có thể, nhờ ngài chuyển tới Tổng thống Truman lòng biết ơn sâu sắc nhất của chúng tôi. Chúng tôi biết và nhớ rằng chính ngài Tổng thống đã nói: “Nếu thấy quân Nga sắp thắng, chúng ta sẽ giúp đỡ quân Đức”. - Than ôi! - Paterson khoa hai tay lên trời - Ngài nên nhớ rằng tất cả những gì đã xảy ra sau chiến dịch Stalingrad và sau này, lúc cuộc chiến tranh sắp kết thúc, hoàn toàn không nằm trong kế hoạch của chúng tôi… Sáng hôm sau, được biết cấp bậc của “tên tù binh” Đức, Allen Dalles, cục trưởng cục tình báo châu Âu, sau này là kẻ cầm đầu CIA, đã đáp máy bay đến Visbac. Việc này càng tăng thêm tốc độ của các sự kiện kế tiếp. Ngay ngày hôm đó, Helen và một số nhân viên tin cẩn khác cùng với những tài liệu quan trọng nhất của cục tình báo phát xít, đáp chuyến máy bay đặc biệt đi Washington. Và lại những cuộc gặp gỡ thân mật nữa. Trong phạm vi rất hạn chế của các nhà lãnh đạo tình báo Mỹ, mà cụ thể là: Cục trưởng cục tình báo chiến lược Mỹ - tướng Wiliam Donovan, cục phó Magrude, nhà lý thuyết cục tình báo Mỹ - giáo sư Sheman Kent và một nhân vật quan trọng khác, Helen đã báo cáo về những “kho báu” của mình, và đã làm cho các ông chủ mới phải hoa mắt bởi những hiểu biết sâu rộng về nghiệp vụ và những tài liệu phong phú về Liên Xô của hắn. Để kết thúc, Helen đề nghị thành lập ngay những cơ quan tình báo gián điệp tại Đông Âu để tiến hành các hoạt động phá hoại chống các nước này và thu thập các tài liệu có liên quan đến Liên Xô. Các nhà lãnh đạo tình báo Mỹ từ lâu chỉ biết mơ ước về một đề nghị như thế, nên đã không do dự, đồng ý đề nghị này của Helen. Còn về phía mình, ngoài những điều kiện khác, hắn đã đưa ra những yêu cầu sau: - Toàn bộ nhân viên, mà trước hết những nhân vật lãnh đạo của các tổ chức tình báo gián điệp đã được thành lập, phải là người Đức, trừ những điệp viên được tuyển dụng và huấn luyện ngay ở các nước mục tiêu. - Không ai có quyền giao những nhiệm vụ nhằm chống lại “những quyền lợi của nước Đức” cho Helen và bất kỳ nhân viên nào của hắn, dù là trực tiếp hay gián tiếp. Và những quyền lợi này phải do chính Helen xác định. Một khi Tây Đức trở thành một quốc gia độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, Helen và cơ quan của hắn sẽ trở lại phục vụ cho nước Đức mới. Thế là trong những ngày, khi mà những người đứng đầu của bốn cường quốc ngồi lại xung quanh chiếc bàn tròn trong điện Saesilenchov ở Postdam để vĩnh viễn kết liễu chủ nghĩa phát xít, quét bỏ nguy cơ chiến tranh ở châu Âu, thì ờ Washington, một thành viên của bộ tứ - Tổng thống Hari Truman, đã làm một bước đầu tiên cho cuộc “chiến tranh lạnh”. Và hơn thế nữa, cuộc chiến tranh thầm lặng bí mật nhằm chống lại Liên Xô và các nước đang có ý định xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều tên quân phiệt và tội phạm chiến tranh có nhiều tội ác, không những không bị trừng phạt mà còn trở lại tiếp tục hoạt động, bất chấp cả lời khuyên của Helen, và không chỉ tuân theo mệnh lệnh của hắn… *** - Tôi mời anh đến đây là để hỏi xem anh đã nghỉ ngơi thế nào và đã chuẩn bị xong cho chuyến đi Brussels chưa? - Cảm ơn tướng quân! Tôi đã chuẩn bị đâu vào đấy. Công việc đào đất và cái yên tĩnh đồng quê, dĩ nhiên, bao giờ cũng làm cho thần kinh bớt căng thẳng, song phải thú thực rằng những ngày gần đây tôi đã sống với công tác trước mắt… nhiều lúc tôi muốn được ngồi lên xe để vù ngay đến Rensburg. - Nghĩa là anh đã sẵn sàng? Rất sung sướng được nghe anh nói như thế. Tôi tin tưởng anh sẽ hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Ý tôi muốn nói những kinh nghiệm của anh, và cả việc anh đã từng ở đấy. Hồi đó là năm… - Mùa hè năm 1956, cùng với vị thủ tướng đã quá cố. Người Nga là những người hết sức mến khách. Họ đã để cho chúng tôi nghỉ lại ở khách sạn Xô viết, một trong những khách sạn tốt nhất Moscow. Họ tham quan quanh thành phố. Tuy vậy, chúng tôi còn có thời gian để đi bách bộ, mà cái đó đặc biệt có lợi… - Thế còn thứ ngoại ngữ ấy ra sao rồi? Tôi muốn nói đến trình độ hiểu biết tiếng Nga của anh? - Chuyến đi hồi đó làm cho tôi sung sướng. Tôi đã đến được cả những vùng Baltic. Song, việc lợi dụng sự có mặt ở Moscow để làm những việc quan trọng hơn đã không thành. Bộ chỉ huy cho rằng chúng tôi bị cơ quan phản gián Nga theo dõi nên đã chỉ thị cho chúng tôi phải tuyệt đối thận trọng, và chuyển tôi sang kiểm tra hoạt động của các sĩ quan thuộc cục A-I và A-III. - Còn bây giờ anh sẽ phải giữ một vai trò khác. Trước tiên, đây là một công việc độc lập và có mục tiêu rõ ràng. Tôi chưa kịp làm quen với các chỉ tiết của kế hoạch, song cảm thấy rằng mục tiêu mà các bạn đồng nghiệp của ta ở Đại Tây Dương đang quan tâm. Anh đã xác định được cách tiếp cận thuận lợi rồi thì phải. - Vâng, đúng thế. Một nhân viên của tôi đã làm được một số việc. - Vâng, tôi đã xem qua báo cáo của anh. Anh đã quyết định đến đó bằng cách nào chưa? - Theo tôi, con đường thuận lợi nhất vẫn là qua Bắc Âu. Sau khi ở lại Brussels một vài ngày, tôi sẽ đi Oslo và Stokholm và sau đó đến Moscow. - Tuyệt lắm! Anh có muốn hút thuốc không? - Không, thưa tướng quân. Chỉ còn ít lâu nữa là tròn hai mươi ngày kể từ ngày người bạn đồng nghiệp của tôi - Paul Kad - mất. Hồi anh ấy còn sống, tôi đã thề là sẽ không bao giờ hút thuốc. Còn rượu thì chỉ uống trong những trường hợp hết sức cần thiết. Và tất cả những cái đó là để giữ gìn sức khỏe cho cuộc đấu tranh vĩ đại của chúng ta. Cho đến nay, như tướng quân thấy, tôi vẫn giữ trọn lời thề đó. - Có phải anh nói cái đó là có nhã ý khuyên tôi từ bỏ những thói đáng yêu đó không? Nhưng dù sao, tôi cũng vẫn thành thật cảm phục nghị lực của anh. Thôi, chúc anh thành công, và mong anh sẽ sớm đưa đến cho tôi những tin tức đáng mừng. - Vâng, thưa tướng quân…   Mời các bạn đón đọc Hiệp Hai của tác giả Alesandr Taradankin & Igor Phesenco.
Truy Sát
Nước Mỹ đã vô thức kéo kẻ thù nguy hiểm nhất trên thế giới gần mình. Brad Thor - tác giả cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất nước Mỹ đã cho thấy “Không khoan nhượng” vẫn chưa phải là tác phẩm trinh thám hay nhất của mình bằng một tác phẩm mới về đặc vụ chống khủng bố Scot Harvath, cựu đặc nhiệm Hải quân Hoa Kỳ, người phải một mình đối mặt với trận chiến chống khủng bố mà những nhân viên tình báo kỳ cựu nhất của cường quốc này chưa bao giờ hình dung được. Sau nhiều năm không bị tấn công, một nhóm khủng bố đã chọn kỳ nghỉ cuối tuần là Ngày Độc lập 4-7 làm mốc chấm hết cho sự yên bình trên đất Mỹ. Bằng một chiến dịch tấn công hoàn hảo, hệ thống cầu và hầm đường bộ ra vào đường đi nghỉ cuối tuần. Lợi dụng các nỗ lực tìm kiếm và cứu hộ nạn nhân khủng bố đang diễn ra, một nhóm biệt kích tinh nhuệ nước ngoài đã thâm nhập vào New York chỉ để tìm một người của họ - một đối tượng với sự nguy hiểm và ảnh hưởng lớn đến mức nước Mỹ sẽ làm mọi thứ cần thiết và bằng mọi giá để kiểm soát được. Trong tình huống đó Scot Harvath là hy vọng duy nhất của nước Mỹ. Bằng mọi cách, băng qua những con phố đổ nát và cháy sập của Manhattan, Scot thực hiện nhiệm vụ của mình, anh tìm bắt đối tượng mà chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thậm chí không chính thức công nhận sự hiện hữu. Với phong cách viết thể loại hành động đặc trưng, ly kỳ và kiến thức phong phú của mình, Brad Thor đã mang lại một tác phẩm trinh thám hàng đầu mà chắc chắn khi đọc độc giả sẽ nhiều lần phải nín thở khi lật sang trang mới. *** Thường thì người ta chỉ nhận ra được là mình đã xuất hiện nhầm chỗ, vào thời điểm không thích hợp, vào lúc đã quá muộn. Đó chính là trải nghiệm trớ trêu của Steven Cooke, vì đến tận phút chót của đời mình, Cooke vẫn nghĩ rằng mình đã may mắn trúng giải độc đắc trong nghề điệp viên tình báo. Chàng trai 26 tuổi tóc vàng và mắt xanh đã có mặt tại cuộc gặp hoàn toàn vô tình. Thật ra, Cooke chẳng có việc gì phải đến khu chợ ngoài việc cô em gái đã nhờ anh mua và mang về một chiếc áo choàng dài kiểu Thổ Nhĩ Kỳ có đai thắt ngang lưng trong chuyến về thăm nhà cuối tuần đã dự định từ lâu nhưng vẫn chưa thực hiện được. Còn cả đống việc phải giải quyết trước khi về nhưng Steven vẫn không thể từ chối yêu cầu của Alison. Hai người thân nhau thậm chí hơn cả anh em ruột và là bạn thân từ hồi còn bé. Alison thực ra là người duy nhất biết Steven làm nghề gì, thậm chí bố mẹ Steven cũng không hề biết con trai mình là một điệp viên CIA. Steven mới đến Marocco được gần một năm và cũng khá thông thạo Marrakech. Nằm tại trung tâm thành phố, khu chợ là một mê cung của những lối đi hẹp và ngoắt ngoéo. Xe lừa chất nặng hàng nằm ngổn ngang lộn xộn trên những con phố nóng nực, bẩn thỉu trong lớp bụi mờ cố hữu dày đến mức đứng trên khu quảng trường lớn cũng không thể nhìn thấy những bức tường gạch xây bằng bùn của thành phố, thậm chí người ta chẳng nhìn thấy dãy núi Atlas từ khu chợ. Cái nóng gay gắt khó chịu khiến cho Cooke cảm thấy hài lòng khi đi vào trong dãy chợ có mái che để tìm mua áo choàng cho Alison. Khi đi tắt qua những lối đi chính của khu chợ, Steven lướt mắt qua một cửa hàng nhỏ bán cà phê và đột ngột dừng ánh mắt của mình vào một người khách - một người đàn ông đã biệt tăm hai ngày trước vụ tấn công 11/09 mà nước Mỹ vẫn đang tìm kiếm kể từ đó đến nay. Nếu đúng thế thì phát hiện của anh sẽ không chỉ là một chiến công của ngành tình báo Mỹ mà còn là cơ hội để bản thân trở thành một điệp viên trẻ nổi bật. Hấp dẫn đấy, nhưng Cooke tự nhủ rằng mình gia nhập CIA để phụng sự tổ quốc trước tiên chứ không phải chỉ cố gắng để nhận khen thưởng. Steven dùng điện thoại di động gọi cho cấp trên và thông báo về những gì mình thấy, cộng thêm cả thông tin là có một đối tượng nam chưa rõ danh tính khác vừa vào quán cà phê và ngồi cùng bàn với người đàn ông đó. Vì không có ai hỗ trợ, điều khả dĩ nhất cấp trên của Steven có thể làm là yêu cầu một trong những vệ tinh do thám của mình tập trung thu thập thêm thông tin. Thế nhưng phần lớn nhất của việc thu thập thông tin lại thuộc về Steven. CIA có một loạt những câu hỏi tối quan trọng và cần Steven thu thập thông tin nhiều nhất có thể về người đàn ông trong quán cà phê cũng như những dự định của anh ta. Cảm thấy chất adrenaline chảy rần rật trong máu, cả sự sợ hãi và cả sự phấn khích, Cooke cố tập trung vào những gì mình đã được huấn luyện để tự kiềm chế bản thân. Điều Steven cần làm đầu tiên là làm sao có được dữ liệu lưu lại cuộc gặp giữa hai người đàn ông trong quán cà phê. Không thể đường hoàng bước vào quán với gương mặt da trắng đậm chất Mỹ của mình vì điều đó sẽ đánh động đối tượng, Steven cần phải kiếm cho ra một cái máy ảnh. Đi nhanh nhất với tốc độ an toàn, cuối cùng anh cũng tìm được thứ mình cần, nhưng vấn đề duy nhất là Steven không có đủ tiền. Móc túi trong chợ nhiều như rươi, bản thân thì không bao giờ mang thẻ tín dụng còn tiền mặt chỉ mang vừa đủ tiêu vặt, vật giá trị duy nhất mà Steven có là chiếc đồng hồ đeo tay hiệu Kobold Chronograph và người bán hàng vui vẻ đồng ý đổi chiếc đồng hồ của anh lấy một chiếc máy ảnh kỹ thuật số Canon, loại có ống kính tương đối tốt đi kèm một thẻ nhớ dung lượng cao. Từ một vị trí trên mái nhà đối diện với quán cà phê, Steven vừa chụp ảnh, vừa quay những đoạn video ngắn với hy vọng chuyên gia phân tích của CIA ở Langley có thể giải đoán được. Lý do để người đàn ông lộ mặt ra nơi công cộng hẳn sẽ cực kỳ quan trọng không kém gì cuộc gặp này. Steven đã dùng hết thẻ nhớ dung lượng cao và chuẩn bị thay nó bằng thẻ nhớ đi kèm máy của nhà sản xuất, định sẽ dùng để chụp những bức ảnh về chiếc xe hơi của người đàn ông khi rời quán, thì nghe thấy một tiếng động sau lưng mình. Tiếng sợi dây rít lên trong không khí rồi thắt chặt vào cổ anh. Steven quờ quạng vô vọng vì một chân kẻ thắt cổ đã chẹn chặt vào lưng anh và bắt đầu cảm thấy đường thở của mình tắc nghẹn. Khí quản Steven thắt lại, chiếc máy ảnh rơi xuống mái nhà kêu lọc cọc. Kẻ ám sát không để ý đến hiện trường đổ vỡ lộn xộn khi lôi xác người điệp viên CIA trẻ ra khỏi bức tường rồi nhét cái máy ảnh và thẻ lưu dữ liệu vào túi. Điều duy nhất mà Abdul Ali quan tâm là làm sao để không có bất cứ chứng cứ gì về cuộc gặp ở quán cà phê được tồn tại. Người Mỹ sẽ sớm biết việc này và lúc đó thì đã quá muộn.   Mời các bạn đón đọc Truy Sát của tác giả Brad Thor.
Vòng Hoa Cúc
Vệt hơi nước cuối cùng đã bốc khỏi tấm gương và Maggie lại có thể nhìn thấy gương mặt của mình lần nữa. Vẫn là khuôn mặt đó, nhưng nhìn rất khác, có da có thịt hơn, và trước khi phẫu thuật sửa chỗ khoằm nơi mũi cô. Trước cuộc chỉnh nha đắt tiền nắn lại hàm răng khấp khểnh. Tóc cô không còn xanh nữa. Nó dài hơn, dày hơn, xoăn hơn, đen huyền như nhung. Đôi mắt cô có màu nâu hạt dẻ. Cô đã trở lại thành người phụ nữ mà cô đã từng, trước khi trái tim tan vỡ và nỗi xấu hổ trước tất cả mọi người buộc cô phải chạy trốn, phải thay đổi mình hoàn toàn. Cô đã trở lại, một lần nữa, làm người phụ nữ sẽ mãi trong sâu thẳm nơi cô; Và tiếng nói trong đầu cô thở ra một hơi thật dài, thật hài lòng, hạnh phúc. Cô là Daisy. *** Tôi béo, vì vậy khi nghe tới một cuốn sách trinh thám liên quan đến chủ đề béo, tôi đã không nén nổi tò mò, phải mua “Vòng hoa cúc” đọc ngay. Ngay từ khúc dạo đầu, câu chuyện đã tạo nên một tình huống gay cấn và dẫn dắt người đọc rất khéo léo. “Sắc đẹp cũng là một loại tài năng”. Người đẹp lúc nào cũng được mọi người yêu mến, tin tưởng, yêu quý hơn người thường. Giả dụ như người đẹp có phạm lỗi cũng dễ dàng được dung thứ hơn. Chính vì thế, những tên giết người hàng loạt thường có vẻ ngoài hấp dẫn để khiến những nạn nhân sa bẫy. Nghi can của chúng ta ở đây là một bác sĩ đứng đầu ngành giải phẫu ung thư, giỏi thể thao, có làn da rám nắng, thân hình cân đối, vai rộng, tóc sẫm màu nâu và một gương mặt đẹp như tượng, hiện đang có một cuộc sống hoàn mỹ với tiền tài, danh vọng rộng mở. Và hắn được-cho-là hung thủ của một chuỗi các vụ án giết người hàng loạt mà nạn nhân là những cô gái béo: Zoe: một cô bé béo bình thường nhút nhát, không xinh lắm, Jessie: một biên tập viên, hot blogger tuy béo nhưng thành đạt, ngoại hình nổi bật; Chloe: một nhà trang sức, béo khỏe béo đẹp; Myrtle: Một cô bé gia cảnh nghèo, ngoại hình xấu xí. Trừ nạn nhân đầu tiên ra, các nạn nhân còn lại đều được tìm thấy xác trong hang động sau một thời gian dài mất tích. Nạn nhân là những cô gái béo, thành phần bị hứng chịu body-shamming rất nhiều từ xã hội trong khi nghi can lại là nam giới thành đạt, có ngoại hình đẹp. Các bạn có tưởng tượng được một kẻ thủ ác, bị cho là hung thủ của vụ giết người hàng loạt lại là kẻ được hâm mộ như ngôi sao truyền hình, một tuần nhận được đến hơn trăm bức thư kết bạn của các cô gái, thậm chí có những cô còn khoe thân và nguyện gắn bó cả cuộc đời với hẳn không? Tuy “Vòng hoa cúc” chỉ là truyện và Hamish chỉ là nhân vật hư cấu nhưng ngoài đời không phải là không có những cô gái tâm lý bất thường, thậm chí có những cô thuộc tầng lớp tri thức như: cảnh sát, luật sư, giáo viên…. cũng kết hôn với những tên giết người hàng loạt, chịu mức án tù chung thân. Lý do tại sao thì Sharon cũng đã đưa ra một số giả thiết trong cuốn “Vòng hoa cúc” và chúng không phải là không có lý. Miễn án tử hình từng được xem như là một hành động nhân đạo, vì nhân quyền nhưng giả sử bạn là người thân của nạn nhân, chứng kiến cảnh họ chết tức tưởi, oan khuất, trong khi kẻ thủ ác dù ở trong tù vẫn sống nhởn nhơ bằng tiền thuế của dân còn có thể có vợ, sinh con, bạn cảm thấy ức không? Một xã hội dân chủ, tưởng tiến bộ nhưng hóa ra lại đang thụt lùi và nhân đạo không cần thiết Tác giả dẫn dắt độc giả khám phá vụ án dưới nhiều góc nhìn: góc nhìn của nữ Luật sư tóc xanh kiêm cây bút trinh thám và nhà điều tra tự do Magie Rose, của anh cảnh sát Weston, của nghi can Hamish Wolf…. Mỗi người đều có một phán đoán riêng, Hamish cũng kêu oan nhưng liệu có phải thật? Ở tác phẩm này, người đọc chỉ có thể xem họ hành động và diễn chứ không thể nào tiên đoán được đáp án bởi Sharon quá khéo léo trong việc tung hỏa mù, tạo tình huống và đánh lừa. Những bài thông cáo trên báo, phân tích tâm lý hay hồ sơ vụ án mà tác giả đưa vào truyện có thể giúp người đọc hiểu được chi tiết nhưng không thể nào giúp họ hình dung ra được những gì ở phía sau. Gần cuối, plot twist mới lộ ra, không chỉ có một mà là nhiều cú, dồn dập, bất ngờ và gay cấn. Tuy nhiên, nếu không đọc bìa sau, bạn mới có thể tận hưởng được trọn vẹn cảm giác adrenaline tràn về khi đối mặt với những cú twist liên tiếp còn nếu lỡ nghía vào bìa sau, tôi xin chia buồn vì hưng phấn của bạn sẽ bị giảm mất một nửa. Nếu Nxb Đinh Tị có đọc được bài review này xin hãy lưu ý giúp tôi: những người thích đọc trinh thám là những người có máu tò mò và rất ghét bi spoil truyện. Điểm đánh giá tác phẩm: 8/10 (Dạo này tôi lười đọc, ấy thế mà cuốn này 555 trang, tôi chỉ đọc trong 2 buổi vì thấy thích quá) Bài review của tác giả Ánh Chu (fb/profile.php?id=100009754968459) *** Dưới đây là bài review của bạn Biển – Camellia Phoenix Tác giả: Sharon Bolton. Dịch giả: Ngụy Thanh Tuyên Thể loại: Trinh thám hiện đại. Điểm: 8.5/10 “Đây có thể là một quyển truyện hơi đáng sợ đối với phụ nữ thừa cân hiu hiu hiu” – một phụ nữ thừa cân tên Biển vừa cười vừa giả vờ run rẩy cho biết sau khi đọc xong quyển sách “Vòng hoa cúc”. Nội dung truyện xoay quanh việc cô luật sư Maggie Rose và tên phạm nhân Hamish Wolfe. Hamish là một bác sĩ phẫu thuật đẹp trai, cường tráng, bị tố cáo đã giết 4 phụ nữ, trong đó có 1 người chưa tìm được xác, tất cả nạn nhân đều thừa cân. Sau khi cân nhắc nhiều yếu tố, đắn đo rất lâu thì Maggie Rose đã đồng ý làm luật sư cho Hamish Wolfe. Trước đó, cô đã cãi thắng và giúp 3 tên tội phạm bị kết án giết người được tự do. Trước và trong khi làm việc với vụ án của Hamish, Maggie đã dốc toàn bộ trí thông minh và khả năng của bản thân để điều tra về vụ án này. Cô làm thế để chứng minh mình tài giỏi hay cô cũng như nhiều phụ nữ khác, bị quyến rũ bởi một tên tội phạm giết người? Ngay từ khi bắt đầu đọc, Biển có cảm giác quyển “Vòng hoa cúc” hay hơn quyển “Con búp bê chắp vá”. Tuy bìa sách và tựa sách đều có vẻ dành riêng cho độc giả là phái nữ (thiếu nữ lãng mạn hoặc bà nội trợ bỉm sữa) nhưng khi khép quyển sách lại thì Biển đánh giá chủ quan rằng nội dung truyện cũng thích hợp với độc giả nam. Câu chuyện đề cập đến những vấn đề khá mới mẻ đối với Biển: người ta có thể bị khinh miệt / căm ghét chỉ vì ngoại hình hoặc cân nặng của mình; tình yêu đam mê cháy bỏng giữa người phụ nữ tự do và người đàn ông đang ở tù; cách thắng những trận ẩu đả trong tù vì nắm vững kiến thức giải phẫu học (điều này có lẽ ít nhiều hư cấu); cách thay đổi danh tính và biến mất dễ dàng như thế nào… Đoạn Biển thích nhất trong sách là lúc Hamish Wolfe đã chiến đấu ngoan cường khi bị 3 gã đánh hội đồng trong nhà vệ sinh trong tù, đọc đoạn đó mà nhớ đến bộ phim Sherlock Holmes phần 1 Biển từng xem. Ngay cách đặt tên nhân vật cũng gợi cho độc giả dễ hình dung về nhân vật: Rose là hoa hồng, cô luật sư Maggie Rose hiện lên như 1 phụ nữ xinh đẹp sắc sảo như đóa hồng; Wolfe là sói, Hamish Wolfe gợi liên tưởng đến loài mãnh thú rừng sâu với tốc độ, sức mạnh và những cơ bắp dẻo dai. Tác giả Sharon Bolton rất khéo léo lồng vào truyện những đoạn ngầm miêu tả tâm lý, những “cảnh quay” thể hiện rõ sự quyến rũ bùng cháy như lửa gặp xăng gây ra bởi bản năng giới tính. Sau khi tra cứu bài viết “Các thể loại truyện trinh thám” của Sadie Mẫn Nhi đăng trên FB Hội Thích Truyện Trinh Thám thì Biển cho rằng cuốn “Vòng hoa cúc” thuộc thể loại “whodunit” – cốt truyện phức tạp, nhiều manh mối rải rác. Người đọc có thể đoán thủ phạm trước khi đáp án được công bố ở đoạn kết. Lần đầu tiên sau khi đọc xong 1 quyển trinh thám mà Biển không căm ghét, chỉ thấy tội nghiệp hung thủ. Chợt nghĩ lan man về tình yêu, có phải ai yêu nhiều hơn thì cũng bị thiệt thòi trước đối phương? Vẫn biết trong xã hội loài người thì chuyện yêu nhiều người cùng lúc hay chuyện thay lòng đổi dạ theo thời gian là rất bình thường, nhưng khi chứng kiến một người rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục chỉ vì lụy tình thì Biển vẫn thấy họ thật đáng thương. Nếu có thể dùng lý trí để kiềm chế và lướt thắng bản năng của mình thì liệu con người có thể sống dễ dàng hơn không nhỉ? “Vòng hoa cúc” là 1 truyện trinh thám khá lôi cuốn, vài đoạn có thể khiến độc giả lạnh người. Cốt truyện mới lạ, văn phong dễ hiểu, tác giả nắm vững cách nhấn mạnh những gì cần nổi bật và làm chìm đi những gì cần che giấu. Còn vài chi tiết không nhất quán nhưng có thể bỏ qua, vì cũng nên thông cảm với sự dại khờ của phụ nữ trong tình yêu. Độc giả tinh ý và giỏi suy luận có thể sớm đoán được hung thủ, riêng Biển thì cứ ngu ngơ mù mờ đọc mãi mà chẳng đoán được gì! Tóm lại đây là 1 quyển trinh thám hay, khiến Biển sau khi đọc xong tự dưng muốn đi nhuộm tóc màu xanh lam sáng. (Sea, 7-7-2018) *** Review Vòng hoa cúc - Sharon Bolton người review Hana Bùi - fb/trinhthamgroup #Review #Vòng_hoa_cúc Một cuốn sách trinh thám không xuất sắc đến ngạc nhiên nhưng cũng đủ để mình thấy hài lòng. Vòng hoa cúc này thuộc dòng trinh thám tâm lý xoay quanh một nữ nhà văn, luật sư có mái tóc màu xanh thông minh và bí ẩn - Maggie Rose cùng anh chàng bác sĩ Hamish Wolfe hào hoa, thông minh không kém và mang tội giết người hàng loạt nhưng một mực khẳng định mình bị oan. Maggie Rose là một nhân vật phức tạp, cô độc và tách biệt, và lạnh lùng. Hamish thì dường như có tất cả, từ ngoại hình hấp dẫn, sự nghiệp bác sĩ trọng vọng, đến một gia đình với người mẹ yêu thương hắn ta; nhưng hắn lại là một người có phần toan tính và độc đoán. Và không kể đến các tuyến nhân vật phụ khác, chỉ việc trông ngóng sự tương tác cùng tìm hiểu những tình tiết, bí mật về 2 nhân vật này và mối quan hệ của họ cũng đã đủ khiến mình đủ tò mò để ngồi đọc hết câu chuyện này rồi. Ban đầu Maggie rất kiên quyết từ chối những đề nghị của Hamish nhưng sau đó cô đã đổi ý và quyết định đó thực sự là 1 bước ngoặt làm câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn. Mọi điều gay cấn thì sau đây sẽ rõ ^^ Đọc truyện mình có cảm giác các nhân vật trong truyện ai cũng có bên mình 1 chiếc mặt nạ và nhiều khi cũng không phân biệt được khi nào họ đang đeo mặt nạ, khi nào không. Mình nghĩ 1 điểm hấp dẫn và đáng được đánh giá cao trong cách viết của Bolton đó là việc dẫn dắt người đọc rất khéo, rất biết ""thả thính"" đưa ra các manh mối, tình tiết liên quan, phản ứng, suy nghĩ của người trong cuộc để người đọc có chút cơ sở phán đoán và đôi khi ngỡ ngàng vì... mình đoán sai rồi. Tóm lại là cuốn sách này đủ để khiến mình bất ngờ và hồi hộp từ đầu đến cuối, đặc biệt là cái kết truyện (spoil một tí). Bạn nào thích đọc trinh thám tâm lý thì có thể thử tìm đọc cuốn này, cũng ra trò ra phết đó   Mời các bạn đón đọc Vòng Hoa Cúc của tác giả Sharon Bolton.