Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bọn Làm Bạc Giả

Paris, những năm đầu thế kỷ 20, định mệnh đã mang tên thiếu niên ngông cuồng bỏ nhà đi, chàng nhà văn lãng tử mê phiêu bạt, gã tú tài nuôi mộng thi thư, quý phu nhân bạc nhược vì tình, tay sinh viên trường y bội bạc và cậu học sinh sa đọa bởi cám dỗ đến với nhau, rồi từng người họ lại nối kết với những người khác, tạo nên một mạng lưới quan hệ chằng chịt… Không có một cốt truyện rõ ràng, không có một đường dây xuyên suốt, từ đầu đến cuối Bọn làm bạc giả là dòng chảy tùy hứng của số phận mà qua đó, bằng ngòi bút tài tình André Gide đã tạo nên một thế giới nhân sinh sâu thẳm, đi tới tận cùng vùng tăm tối trong bản thể con người. Được xem là tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của Gide, cuốn sách này hàm ẩn cái chân lý văn chương trác tuyệt của ông và nhờ vậy mà trở nên bất tử. Nhận định "Bọn làm bạc giả là một cuốn bách khoa hiếm hoi về sự hỗn hoạn, nhu nhược và tuyệt vọng của nhân loại." - Nhà xuất bản Penguin Books "Tiểu thuyết của Gide mải mê chiêu đãi chúng ta một bữa tiệc đầy ắp những nốt nhạc và thanh âm, một mạng lưới chồng chéo những âm mưu và định mệnh. Nhưng sự hòa trộn đó không tạo nên một bản tạp âm chối tai mà là một phức điệu đích thực, một sự hỗn độn trong trật tự, hệt như một khúc fugue đầy biến động và vô phương hướng của Bach." - Giáo sư Robert Wexelblatt *** “Hình như họ muốn làm chúng ta tưởng rằng con người không có lối thoát nào khác ra khỏi tính ích kỷ, ngoài một lòng vị tha còn gớm ghiếc hơn! Tôi cho rằng nếu có cái gì đấy bỉ ổi hơn con người, và đê hèn hơn, thì đấy là số đông người. Chẳng có lí lẽ nào có thể thuyết phục được tôi là đem cộng những cá thể nhớp nhúa lại sẽ cho ra được một tổng thể tuyệt vời. Chẳng lần nào bước chân lên xe điện hoặc xe lửa mà tôi không ao ước xảy ra một tai nạn khủng khiếp biến cái đám người rác rưởi đó thành một đống nhão nhoét; ồ, kể cả tôi, tất nhiên…” ------------------- “Bọn làm bạc giả” là cuốn tiểu thuyết được coi như dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của André Gide. Chính bản thân tác giả cho rằng, đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong sự nghiệp của ông, bất chấp cả việc nó được viết  khi A. Gide đã 60 tuổi và có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ trước đó. “Bọn làm bạc giả” có nhiều tầng hình ảnh được đan lồng với nhau: những thiếu niên bị sa đà vào cuộc hoan vui; sự lưu hành tiền giả khiến người ta phải đặt ra câu hỏi: tiền giả chỉ đơn giản là tiền hay là sự phơi bày cảm xúc dối trá của con người; chuyện ngoại tình của các ông bố bà mẹ; chuyện sáng tác văn chương, chữa bệnh tâm thần bằng phương pháp tâm lí,…những vấn đề mang tính chất thời sự nóng hổi lúc bấy giờ. Cuốn tiểu thuyết mở ra từng dòng tự sự về thiếu niên ngông cuồng bỏ nhà đi, chàng nhà văn lãng tử mê phiêu bạt, gã tú tài nuôi mộng thi thư, quý phu nhân bạc nhược vì tình, tay sinh viên trường y bội bạc và cậu học sinh sa đọa bởi cám dỗ đến với nhau, rồi từng người họ lại nối kết với những người khác, tạo nên một mạng lưới quan hệ chằng chịt…Các nhân vật được xây dựng rất phức tạp với nhiều lớp lang về xuất thân, tư tưởng, hành động, tái hiện một bức tranh toàn cảnh đời sống tầng lớp thị dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.  “Bọn làm bạc giả” không được sắp xếp theo trình tự thời gian nhất định mà bị phá vỡ khi A.Gide đã đưa vào tác phẩm những trang nhật ký của nhân vật nhà văn Édouard. Ông đã viết rất nhiều tác phẩm và tác phẩm tiếp theo đây cũng có cái tên “Bọn làm bạc giả”, nói cách khác, cuốn sách của A.Gide là tiểu thuyết bên trong tiểu thuyết .  *** Bernard tự nhủ: - Bây giờ nghe như có tiếng bước chân ngoài hành lang thì phải. Hắn ngẩng đầu nghe ngóng. Không phải: cha và anh hắn ở lại tòa án, mẹ hắn bận đi thăm viếng, chị gái đi dự hòa nhạc; còn thằng út, thằng Caloub, thì trường học đã cầm chân hắn mỗi ngày sau khi bãi trường. Bernard Profitendieu ở nhà hì hục học thi tú tài, còn ba tuần lễ trước mặt hắn nữa thôi. Gia đình tôn trọng sự tịch mịch của hắn, ngạ quỷ thì không. Bernard đã cởi áo veston mặc ngoài mà vẫn khó thở. Từ khung cửa sổ mở ra đường, chỉ có sức nóng ùa vào. Trán hắn nhễ nhại. Một giọt mồ hôi chảy xuống sống mũi, và rơi xuống lá thư hắn đang cầm nơi tay. Hắn nghĩ: “Diễn trò nước mắt rồi đây. Nhưng thà chảy mồ hôi còn hơn là chảy nước mắt.” Phải, ngày tháng đã rành rành. Không nghi ngờ vào đâu được: thư liên quan đến Bernard, chính hắn. Thư gửi cho mẹ hắn, một lá thư tình mười bảy năm xưa, không kí tên. - Chữ cái này là nghĩa gì? Chữ V, cũng có thể là N lắm chứ... Có nên hỏi mẹ không?... Mình hằng tin tưởng ở sự biết điều của mẹ. Mình tự do tưởng tượng một ông hoàng nào đó. Còn hơn nếu vỡ lẽ mình là con của một tên ma cô nào thì sao? Không biết cha đẻ là ai, mình mới đỡ sợ phải giống ông ta. Mọi cuộc điều tra đều sinh trói buộc. Đáng kể chăng là sự nhẹ nhõm. Đừng đào sâu. Hôm nay thế cũng đủ cho ta rồi. Bernard gấp thư lại. Thư cùng một khổ giấy với mười hai lá thư khác trong gói. Một dải màu hồng buộc lại tất cả mà hắn không cần phải tháo ra, hắn chuồi thư vào đó để thắt cả xấp lại như cũ. Hắn đặt xấp thư vào chiếc hộp nhỏ rồi đặt chiếc hộp vào ngăn kéo bàn. Ngăn kéo không phải mở ra, nó đã tiết lộ bí mật bằng ngỏ trên. Bernard chắp nối những miếng rời của mặt gỗ đỡ tấm mã não phủ lên. Hắn nhẹ tay thận trọng, sập tấm mã não xuống, đặt lại lên trên đó hai giá đèn bằng pha lê cùng với chiếc đồng hồ kềnh càng mà hắn vừa mới đem ra sửa chơi. Đồng hồ gõ bốn tiếng. Hắn vặn lại cho đúng giờ. - Hai cha con ông dự thẩm và ông luật sư không về trước sáu giờ đâu. Ta đủ thì giờ. Thế nào cũng phải cho ông dự thẩm về thấy trên bàn tờ thư đẹp đẽ trong đó ta sẽ nói ý nghĩa sự ra đi của ta. Nhưng trước khi viết, mình thấy rất cần giải thông tư tưởng một chút đã và đi tìm gặp thằng bạn Olivier để cầm chắc một chỗ đậu, ít nữa là tạm thời. Olivier bạn thiết của ta ơi, đã đến lúc ta thử lửa tính chiều lòng của cậu và để cho cậu chứng tỏ giá trị của cậu với ta. Cái đẹp trong tình bạn của hai đứa chính là từ trước tới nay chúng ta chưa hề lợi dụng nhau. Nào! Yêu cầu giúp đỡ một việc ngộ nghĩnh chắc không đến nỗi tẻ nhạt. Phiền nỗi Olivier không ở một mình. Mặc, ta sẽ tìm cách tách riêng hắn ra. Ta muốn cho hắn hoảng kinh vì sự trầm tĩnh của ta. Chính trong cõi bất thường mình mới cảm thấy mình tự nhiên hơn hết. Con đường T..., nơi Bernard Profitendieu sống cho tới hôm nay ở gần sát vườn Luxembourg. Tại đây, cạnh hồ nước Médicis, trên lối đi nhìn xuống hồ nước, mấy đứa bạn hắn có thói quen hẹn nhau mỗi ngày thứ tư từ bốn đến sáu giờ, chuyện trò về nghệ thuật, triết học, thể thao, chính trị và văn học, Bernard bước đi rất nhanh, nhưng khi qua khỏi cổng vườn, hắn nhác thấy Olivier Molinier và lập tức chậm chân lại. Cuộc hội họp hôm đó đông đảo hơn lệ thường, có lẽ vì đẹp trời. Có vài đứa nhập bọn mà Bernard chưa quen. Mỗi đứa trong bọn trẻ này, hễ đứng trước cả bọn, là đóng một vai trò và hầu như mất hết tự nhiên. Olivier bừng đỏ mặt khi thấy Bernard đi tới và, khá đột ngột, hắn bỏ người thiếu nữ đang chuyện trò, lảng ra xa. Bernard là bạn thân thiết nhất của hắn, vì thế Olivier vô cùng thận trọng không làm ra vẻ gì là kiếm tìm hắn; đôi khi hắn còn vờ vĩnh không trông thấy Bernard nữa là khác. Trước khi tới với Olivier, Bernard phải đối đầu với nhiều nhóm, và chính vì cũng giả vờ không tìm kiếm Olivier nên Bernard còn chần chờ. Bốn đứa bạn trong bọn đang đứng quanh một đứa nhỏ người để râu đeo kính xấp xỉ lớn tuổi hơn mấy đứa kia, đang cầm cuốn sách. Hắn tên Dhurmer. Dhurmer ngỏ lời với một đứa trong bọn một cách đặc biệt hơn, nhưng lấy làm sung sướng rõ rệt vì được cả bọn lắng nghe. Dhurmer nói: - Mày nghĩ coi. Tao gắng tới trang ba mươi vẫn không thấy màu sắc gì hết, một chữ để mô tả cũng không. Chàng ta nói về một người đàn bà, áo đỏ hay xanh tao cũng chẳng hay chứ đừng nói gì. Tao, hễ không có màu sắc thì giản dị lắm, tao chẳng nom thấy gì. Và vì cần đại ngôn, nhất là vì hắn cảm thấy mình bị coi như mất bớt vẻ chững chạc, hắn nhấn mạnh: - Tuyệt đối không thấy gì hết. Bernard không để tai tới thằng khoa ngôn nữa, hắn xét thấy không nên bỏ đi quá vội, nhưng hắn đã bắt đầu nghe bọn kia cãi cọ ở sau lưng và Olivier trở lại nhập bọn sau khi bỏ rơi người thiếu nữ; một đứa ngồi trên chiếc ghế dài đọc báo Action Française. Olivier Molinier, giữa bọn chúng, sao trông trịnh trọng thế! Hắn vẫn là một trong mấy đứa nhỏ tuổi nhất. Khuôn mặt còn trẻ thơ và ánh mắt của hắn biểu lộ sự sơ khai của tư tưởng. Hắn dễ đỏ mặt. Tính tình đằm thắm. Dù hắn tỏ ra hòa nhã đối với mọi người, không hiểu một sự dè dặt khó hiểu nào đó, một sự e ấp nào đó vẫn ngăn cách hắn với bạn bè. Hắn khổ tâm vì điều đó. Không có Bernard thì hắn đã khổ hơn. Giống như Bernard lúc này, Molinier ghé vào từng nhóm một lát vì nể bạn, nhưng những điều hắn nghe, không có gì khiến hắn lưu tâm. Hắn nhòm qua vai thằng đọc báo. Bernard, không quay lại, nghe Olivier nói: - Mày không nên đọc báo, nó làm mày ứ huyết. Và tên kia đáp trả lại chanh chua: - Còn mày, hễ ai nói tới Maurras(1) là mày xanh mặt. Tiếp theo, một tên thứ ba, giọng giễu, hỏi: - Bộ mày thích những bài của Maurras sao? Và tên thứ nhất đáp: - Chán ngấy, nhưng tao thấy Maurras có lí. Kế đó, một tên thứ tư mà Bernard không nhận ra giọng: - Còn cái gì không làm mày ngấy, mày đều tưởng là thiếu bề sâu? Tên thứ nhất cãi lại: - Mày tưởng chỉ cần ngốc là chọc cười được ư? - Lại đây! - Bernard vừa nói nhỏ giọng, vừa đột ngột nắm lấy tay Olivier. Hắn kéo Olivier đi ra xa mấy bước. - Trả lời mau, mình có chuyện gấp. Cậu có nói với mình là cậu không ngủ cùng một tầng lầu với hai ông bà, đúng không? - Mình đã chỉ cửa phòng mình cho cậu rồi, cửa phòng mở ra ngay cầu thang, đi một nửa tầng lầu là lên nhà chính. - Cậu có nói em cậu ngủ chung với cậu? - Phải, thằng Georges. - Cậu và Georges không thôi? - Ừ. - Thằng nhỏ biết kín miệng không? - Nếu cần. Tại sao thế? - Là thế này. Mình đã bỏ nhà, hay nói đúng hơn, tối hôm nay mình sẽ bỏ nhà. Mình chưa biết đi đâu. Cậu có thể chứa mình một đêm không? Olivier mặt tái bệch hẳn ra. Chấn động quá mãnh liệt, hắn không đủ sức nhìn Bernard. Olivier bảo: - Được, nhưng đừng đến trước mười một giờ. Mỗi đêm má xuống thăm hỏi trước khi đi ngủ rồi khóa cửa. - Thế thì làm sao... Olivier cười: - Mình có chìa khóa khác. Cậu sẽ gõ cửa khe khẽ để khỏi đánh thức Georges nếu hắn ngủ. - Liệu bác gác cổng có để mình vào không? - Mình sẽ báo cho bác biết. Yên trí! Mình với bác ăn ý nhau lắm. Chính bác cho mình cái chìa khóa kia đấy. Hẹn gặp lại. Hai người từ giã không bắt tay nhau. Và trong khi Bernard bỏ đi, nghiền ngẫm lá thư muốn viết mà ông dự thẩm sẽ phải bắt gặp khi trở về, thì Olivier, vốn không muốn người ta bắt gặp mình đứng riêng với Bernard, nên tìm tới Lucien Bercail mà bọn kia để cho đứng hơi riêng rời. Nếu không yêu Bernard nhất thì Olivier đã yêu thích Lucien lắm đấy. Bernard bạo gan bao nhiêu thì Lucien rụt rè bấy nhiêu. Ai nấy cảm thấy Lucien yếu ớt, dường như hắn chỉ sống bằng trái tim và trí tuệ. Hắn ít khi có can đảm sấn sổ tới, nhưng hắn đã mừng ra mặt ngay khi thấy Oilivier lại gần. Lucien có làm thơ chăng, mọi người đều nghi hoặc; tuy nhiên thiết tưởng Olivier là kẻ độc nhất được Lucien thổ lộ dự định. Cả hai lần ra mé khuôn viên. Lucien bảo: - Tôi muốn làm sao thuật lại, không phải chuyện một nhân vật, nhưng câu chuyện về một địa điểm, - đấy, chẳng hạn câu chuyện một lối đi công viên, như lối đi này, thuật lại những gì xảy ra - từ sáng tới chiều. Trước tiên bọn giữ em đến, rồi bọn vú em đeo những tấm dải... Không, không hẳn... trước tiên là người toàn màu xám tất cả, không phân biệt đàn ông đàn bà tuổi tác, để quét dọn lối đi, tưới cỏ, thay hoa, tóm lại để sửa soạn sân khấu và trang trí trước khi cổng mở, anh hiểu chứ? Bấy giờ bọn vú em vào. Bọn bé con vọc cát cãi cọ, bọn giữ em tát bọn nhỏ. Kế đó là các lớp học nhỏ bãi ra... thêm bọn đàn bà thợ thuyền nữa. Có những kẻ nghèo khó đến ngồi ăn trên ghế. Sau đó là bọn thanh niên kiếm tìm nhau, bọn khác trốn tránh nhau, bọn nữa đứng ngồi riêng, tư lự. Và kế đó là dân chúng, vào lúc nhạc trỗi lên và lúc các nhà hàng đóng cửa. Bọn học sinh, sinh viên như hiện giờ. Buổi chiều, bọn tình nhân hôn nhau, có những kẻ chia tay khóc lóc. Cuối cùng, hết ngày, một cặp người già... Và thình lình, một hồi trống khua: đóng cổng. Mọi người đi ra. Kịch chấm dứt. Anh hiểu chứ: một cái gì đó cho mình cái cảm giác thôi hết rồi của mọi thứ, cái cảm giác của sự chết... nhưng vẫn không nói tới cái chết, cố nhiên. - Phải, tôi hiểu lắm, - Olivier đáp, hắn đang nghĩ tới Bernard chứ có nghe lọt chữ nào đâu. Lucien hăng say nói tiếp: - Chưa hết, chưa hết! Tôi muốn, trong phần coi như màn vĩ thanh, chứng minh chính cái lối đi này đây, ban đêm, sau khi mọi người bỏ đi hết rồi, thì thanh vắng, đẹp hơn ban ngày nhiều; trong cảnh im lặng mênh mông, mọi tiếng động trong thiên nhiên xuất thần: tiếng vòi nước, tiếng gió trong lá, và tiếng lảnh lót của con chim đêm. Ban đầu tôi nghĩ tới chuyện thêm vào đó những bóng tối, có lẽ thêm những bức tượng... nhưng tôi cho rằng như thế lại nhạt nhẽo hơn; cậu nghĩ sao? Mời các bạn đón đọc Bọn Làm Bạc Giả của tác giả André Gide.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Án Mạng Trên Sân Golf
Một bức thư kêu cứu kéo thám tử Hercule Poirot tới Pháp. Nhưng anh đến quá trễ. Khách hàng của anh đã chết. Cái xác bị đâm dã man giờ nằm sấp mặt trong một cái hố nông trong sân golf đang xây. Nhưng vì sao người chết lại mặc một chiếc áo choàng quá khổ? Và bức thư tình ngọt ngào trong túi áo khoác viết cho ai? Trước khi Poirot kịp trả lời những nghi vấn này thì vụ án bị lật ngược khi cái xác thứ hai được phát hiện, cách thức giết người y như lần đầu. *** Review Phong: Vị thám tử nhỏ bé người Bỉ Hercule Poirot nhận được một bức thư cầu cứu từ ông triệu phú Renauld đang sinh sống tại Pháp, ông ta đề cập đến việc mình đang giữ một bí mật và có người muốn mưu sát ông để bí mật đó mãi mãi được giữ im lặng. Nhưng khi Poirot cùng người bạn đồng hành là đại úy Hastings đến ngôi biệt thự nơi Renauld đang sinh sống thì hay tin ông ta đã bị đâm chết sáng hôm đó. Cảnh sát điều tra tìm thấy một bức thư tình đề tên người gửi là Bella trong túi áo khoác của Renauld, cùng một mẩu ngân phiếu có tên Duveen trong phòng làm việc của ông ta. Khi Poirot lên đường đi Paris để tìm những thông tin liên quan đến vụ án thì lúc về ông được Hastings cho hay lại có thêm một cái xác bị đâm tại khuôn viên trong biệt thự của ông Renauld. Khác với lần trước, nạn nhân thứ hai này là một người hoàn toàn xa lạ mà không ai nhận diện được người này là ai. Cuộc điều tra càng kịch tính hơn với màn đấu trí giữa Hercule Poirot - người quan tâm đến bản chất vụ án để tìm ra lời giải thích cuối cùng, và ông thám tử người Pháp Girauld - người quan tâm đến những bằng chứng hữu hình để tìm ra thủ phạm. Cuốn này là một bằng chứng rõ ràng cho nhận định: “Tiểu thuyết cổ điển thường dài dòng, chậm rãi và khiến người đọc mệt mỏi, nhưng vượt qua được giai đoạn đó rồi thì phần còn lại sẽ rất hay”. Mạch truyện khá từ từ, nhưng tác giả vẫn rất công bằng khi gieo rắc những chi tiết tưởng chừng nhỏ khiến người đọc không chú ý đến nhưng lại liên quan mật thiết đến vụ án. Thông thường, phần phá án trong các truyện của Agatha diễn ra ở 20 - 30 trang cuối, nhưng cuốn này lại khá đặc biệt: Đến trang 230, bạn có thể thấy toàn bộ vụ án đã được giải quyết rất thuyết phục rồi, nhưng khoảng 40 trang cuối những diễn biến mới liên tục được đưa vào và khiến kết quả quay ngoắt 360 độ, chắc chắn sẽ khiến bạn ngạc nhiên và thầm thán phục tài năng tạo twist của nữ hoàng truyện trinh thám. Khi bạn tưởng như mình đã nắm mọi thứ trong tay, thì Agatha tuyên bố: “Cưng nghĩ cưng bắt bài được motif truyện của chị? Còn khuya!” Điều mình không thích nhất trong truyện là dàn nhân vật có phần mờ nhạt và chưa tạo được điểm nhấn riêng. Và mình không thể ưa nổi thủ phạm của vụ này: quyết đoán, nhanh nhẹn và hơn hết là quá ác. “Án mạng trên sông Nile” có kiểu thủ phạm với tính cách tương tự như cuốn này nhưng mình lại thích thủ phạm trong truyện đó hơn nhiều. Đây là một cuốn không hề dễ đọc dành cho các bạn mới đọc truyện của Agatha, vì như mình đã nói, diễn biến phần lớn truyện tiến triển khá chậm, nhưng vẫn là một cuốn hay và đáng đọc, các fan của Agatha thì chắc chắn không thể bỏ qua. Nếu đây là cuốn đầu tiên của Agatha mà mình đọc thì mình thấy nó rất hay, nhưng do đã đọc được một số truyện của bà rồi nên tất nhiên không tránh khỏi có sự so sánh giữa các cuốn với nhau. Về độ hay mình nghĩ nó ngang ngửa với “Chuỗi án mạng ABC”, nhưng vì một số lý do mà mình lại có cảm tình với “Chuỗi án mạng ABC” hơn, vì lẽ đó mà mình chỉ có thể chấm “Án mạng trên sân golf” 3 sao trên obook thôi, nhưng nhìn chung vẫn cảm thấy hài lòng với khoảng thời gian 2 ngày đọc nó. Đánh giá: 3,5/5 *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Có một giai thoại kể rằng, một nhà văn trẻ quyết tâm làm cho câu chuyện của mình thật độc đáo nhằm thu hút sự chú ý của ngay cả những biên tập viên hờ hững nhất, đã mở đầu bằng câu: “Kệ thây! nữ công tước thốt lên.” Thật lạ đời, câu chuyện của tôi cũng bắt đầu gần đúng như thế. Chỉ có điều cô nàng thốt lên cái câu ấy chẳng phải nữ công tước. Đó là một ngày đầu tháng Sáu. Tôi vừa giải quyết xong vài việc ở Paris và bắt chuyến tàu sớm trở về London, nơi tôi vẫn đang sống cùng người bạn lâu năm là cựu thám tử người Bỉ – Hercule Poirot. Hôm ấy chuyến tàu tốc hành Calais trống vắng khác thường, cả khoang tàu này chỉ có tôi và một người nữa. Do rời khách sạn tương đối vội vã nên lúc tàu khởi hành, tôi còn bận kiểm tra mớ đồ đạc xem có quên gì không. Cho tới lúc đó, tôi gần như không để ý tới người đồng hành, nhưng bây giờ thì tôi buộc phải nhận ra sự có mặt của cô ta. Bởi vì cô ta vừa nhảy dựng lên khỏi ghế, hạ cửa sổ xuống, thò đầu ra ngoài rồi lập tức lại thụt vào và kêu lên: “Kệ thây!” Là tuýp người cổ điển nên với tôi, phụ nữ là phải thùy mị. Tôi chẳng ưa nổi những cô gái hiện đại loạn thần kinh cứ nhảy nhót suốt từ sáng đến tối, hút thuốc như ống bễ, còn nói năng thì đến cả mấy bà hàng cá ở Billingsgate cũng phải đỏ mặt. Tôi khẽ cau mày ngước lên. Trước mắt tôi là gương mặt vừa xinh xắn vừa xấc xược của một cô gái đội chiếc mũ đỏ ngang tàng, với những lọn tóc đen dày che khuất hai tai. Tôi đoán chừng cô ta chỉ mới hơn mười bảy tuổi, nhưng mặt thì đầy phấn còn môi thì đỏ chót. Cô gái đón nhận cái nhìn của tôi chẳng chút thẹn thùng, lại còn nhăn mặt tình tứ. “Cưng ơi, tụi mình làm quý ngài đây choáng rồi!” cô ta vờ như đang nói với một người khác. “Tôi xin lỗi vì cách ăn nói của mình. Chẳng đoan trang gì cả, nhưng… thật tình… tôi có lý do mà. Ngài có biết rằng tôi vừa lạc mất người em gái duy nhất của mình không?” “Vậy sao?” tôi nhã nhặn đáp. “Bất hạnh thật.” “Ông ấy mỉa mai cơ đấy!” cô nàng nhấm nhẳng. “Ông ấy mỉa mai, cả tôi lẫn em tôi. Mà thế thì thật bất công bởi vì ông ấy thậm chí còn chưa gặp con bé!” Tôi toan cất tiếng nhưng cô gái chặn ngay: “Đừng nói nữa! Chẳng ai thương tôi cả! Tôi sẽ ra vườn mà mổ sâu thôi! Hu hu. Đời tôi thế là tiêu rồi!” Nói đoạn cô ta núp luôn sau tờ báo biếm họa tiếng Pháp khổ lớn. Mấy phút sau, tôi thấy ánh mắt len lén nhìn mình qua tờ báo, khiến tôi chẳng thể nhịn cười. Và thế là cô gái lập tức đặt tờ báo xuống, bật cười giòn tan. “Tôi biết ngài không ngốc như vẻ bề ngoài mà!” Tiếng cười của cô nàng dễ lây tới nỗi tôi liền bị cuốn theo, dù chẳng bận tâm lắm tới từ ngốc. “Đấy! Giờ chúng ta là bạn rồi nhé!” cô gái ranh mãnh tuyên bố. “Hãy nói là ông rất tiếc vì chuyện em gái tôi đi…” “Tôi quả rất buồn lòng!” “Thế mới ngoan chứ!” “Để tôi nói nốt đã. Tôi đang định thêm rằng, dù rất buồn lòng, tôi sẵn sàng chịu đựng sự vắng mặt của cô đấy.” Tôi khẽ cúi đầu. Nhưng cái cô nàng kỳ quặc nhất trên đời ấy nổi giận và lắc đầu lia lịa. “Thôi ngay đi. Tôi thích cái trò ‘chê bai cao quý’ hơn đấy. Ôi trời, trông mặt ông kìa! Tỏ đúng cái thái độ ‘Không thuộc tầng lớp chúng ta’. Và chuyện đó thì ông đúng đấy - nhưng, xin nhắc ông rằng, ngày nay thì cũng khó mà nói được lắm. Không phải ai cũng phân biệt được một cô ả với một nữ bá tước đâu. Đấy, chắc tôi lại làm ông choáng nữa! Chắc người ta vừa mới khai quật được ông ở một chốn xa xôi hẻo lánh nào đấy, chắc chắn thế. Tôi thì chẳng để ý chuyện đó. Loại các ông có nhiều thêm một tí thì chúng tôi vẫn chịu được. Tôi chỉ không ưa nổi mấy gã thô bỉ bẩn thỉu thôi. Cái tính đó khiến tôi phát điên.” Cô lắc đầu quầy quậy. “Lúc phát điên thì cô sẽ thế nào?” tôi mỉm cười hỏi. “Một con quỷ nhỏ điển hình! Không quan tâm mình nói gì, hay làm gì! Có lần suýt nữa tôi đã xử luôn một gã. Vâng, thật đấy. Gã cũng đáng bị thế lắm.” Mời các bạn đón đọc Án Mạng Trên Sân Golf của tác giả Agatha Christie.
Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu
Ngôi trường nữ học danh giá nhất nước Anh xảy ra liên tiếp nhiều vụ án mạng. Với nhiều học sinh xuất thân từ hoàng tộc và gia đình giàu có, liệu nhà trường có liên quan đếm âm mưu nào lớn hơn? Giữa những nữ sinh và giáo viên nữ hiền lành, kẻ sát thủ giấu mặt như con mèo rơi vào giữa đàn bồ câu. *** Review Phong: Trước khi lên đường ra nước ngoài nhằm tránh khỏi cuộc cách mạng của phe nổi dậy, vị Quốc vương của Ramat là Ali Yusuf đã tin tưởng giao số đá quý trị giá bảy trăm năm mươi ngàn bảng cho viên phi công riêng là Bob Rawlinson. Sau khi cân nhắc, Bob đã tìm đến chị gái Sutcliffe của anh đang nghỉ dưỡng tại một khách sạn của Ramat. Nhưng khi đến nơi thì người chị gái đã đi ra ngoài, không có thời gian chờ đợi vì cuộc cách mạng có thể diễn ra bất cứ lúc nào, bằng cách nào đó Bob đã đưa được số đá quý vào hành lý trong phòng người chị kèm theo một lời nhắn. Sau này, con gái của Sutcliffe là Jennifer được nhận vào học tại Meadowbank, trường nữ sinh danh giá nhất của nước Anh, cùng nhập học với cô bé còn có cái tên đáng chú ý: Công nương Shaista, em họ của Quốc vương Ali Yusuf. Cũng kể từ đây, liên tiếp những vụ giết người với đối tượng hướng đến là các cô giáo trong trường đã khiến danh tiếng của Meadowbank gần như hoàn toàn sụp đổ chỉ sau vài tuần bắt đầu kì học mới. Cuốn thứ 7 của tác giả Agatha Christie mà mình đọc. So với những cuốn rất hay của bà mình đọc gần đây thì cuốn này chỉ dừng ở mức đọc được, bà viết cuốn này khi đã 69 tuổi nên mình thấy thế là được rồi. Vụ án không hấp dẫn, có nhiều hơn một cái chết nhưng tình tiết rất bình thường chứ không nhanh và hấp dẫn như những cuốn mình đọc trước đây như “Ngôi nhà quái dị”, “Án mạng trên sông Nile” hay “Tận cùng là cái chết”. Phần phá án của Hercule Poirot có lẽ là phần mình thấy thú vị duy nhất trong truyện. Mình thích truyện kết thúc ở chương 24 hơn, đúng với phong cách những điều bất ngờ dồn dập đến ở khoảng 20 trang cuối của bà. Chương 25 giúp giải quyết toàn bộ vấn đề còn lại được đưa ra, mình đọc thấy hơi dài dòng và cũng không hứng thú lắm nhưng mình tôn trọng toàn bộ dụng ý mà bà đưa ra trong truyện. Cuốn này thực sự là một thảm họa về khâu biên tập, xứng đáng là cuốn sách đáng xấu hổ nhất của Trẻ mà mình hiện có. Trẻ là một NXB lớn, nắm bản quyền các tác phẩm của Agatha Christie nhưng tại sao họ có thể phát hành một cuốn sách đầy lỗi thế này thì mình không biết, những cuốn trước cuốn nào không ít thì nhiều cũng có lỗi, nhưng dày đặc thế này thì mình mới thấy lần đầu. Mình có kiểm tra lại lời nói đầu, thì đúng là họ cam kết đem đến những bản dịch tốt, hình thức đẹp chứ không nói gì đến việc biên tập kĩ lưỡng. Khi mình đề cập vấn đề này với admin fanpage NXB Trẻ thì nhận được phản hồi như hình dưới. Vậy hóa ra mỗi lần tái bản NXB chỉ in lại chứ không hề rà soát lỗi biên tập, trong khi việc này đã phải làm kĩ ngay khi phát hành. Không nói ra thì không chịu được vì sách của tác giả mình yêu thích lại không được quan tâm biên tập cho đúng mực, mà nói ra rồi lại thấy ức hơn vì giờ phải đọc lại toàn bộ sách, ghi chú lỗi lại với hy vọng ở lần tái bản sau, cuốn sách này sẽ được chăm chút tốt hơn. Tương lai nào cho những đứa con tinh thần của Agatha Christie khi được xuất bản tại Việt Nam … *** Review Lucy:   Tại Ramat sắp có cuộc bạo động và quốc vương nước này được sắp xếp tẩu thoát ra nước ngoài. Ông đưa cho bạn thân đồng thời là phi công một chiếc túi chứa đầy kim cương dặn dò tìm cách đưa số kim cương này thoát ra khỏi Ramat. Bởi quốc vương nhận thấy cuộc tẩu thoát lành ít dữ nhiều và ông không muốn kẻ thù nhặt lấy nó từ xác của mình. Chàng phi công đã lén nhét vào hành lí của cô cháu gái Jennifer vì cô sắp về Anh để đi học. Đúng như dự đoán. Máy bay bị gài bom phát nổ, quốc vương và phi công lao vào núi rồi chết. Số kim cương cùng cô cháu gái đến trường Meadowbank một ngôi trường nữ sinh danh giá nhất nước Anh. Tại đây xảy ra hàng loạt vụ bắt cóc, giết người nhằm mục đích chiếm đoạt số kim cương mà Jennifer vẫn không hay biết mình đang giữ. Chương mở đầu khá là rối vì giới thiệu một loạt nhân vật giáo viên, công nhân viên, học sinh, phụ huynh. Các nhân vật nối tiếp nhau xuất hiện khiến người đọc không nắm bắt kịp. Chương mở đầu không cung cấp manh mối gì nhiều chủ yếu dùng để phô chất riêng của tác giả. Nhưng cũng đừng lo vì chương sau đó sẽ tóm tắt lại các nhân vật chính và vai trò chủ chốt. Có nhiều tình tiết khá là dài dòng như chuyện cô Bulstrode dự định nghĩ hưu lặp lại suốt, đọc ngán luôn.Nhân vật ấn tượng nhất cũng là cô Bulstrode, một người hiệu trưởng thực sự có bản lĩnh và luôn ghét từ "tẻ nhạt" Mình chấm tác phẩm này 6/10 điểm. Cảm thấy bình thường, không quá thất vọng nhưng cũng không được như kỳ vọng *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Hôm ấy là ngày khai giảng kì học hè ở trường Meadowbank. Ánh chiều tà đổ xuống con đường lát sỏi rộng thênh trước tòa học xá. Cửa trước rộng mở vui đón khách, và ngay ở cửa, tương xứng một cách đáng ngưỡng mộ theo đúng tỉ lệ kiến trúc thời Georgia của tòa nhà là cô giáo Vansittart, tóc gọn gàng, áo khoác và váy được cắt may không chê vào đâu được. Một số bậc phụ huynh không biết rõ đã nhầm bà với bà Bulstrode, mà đâu hay bà Bulstrode có lệ rút lui vào cấm cung, ở đấy chỉ số ít bậc phụ huynh chọn lọc được hưởng đặc quyền mới được đón tiếp. Đứng cạnh cô Vansittart, đang điều hành ở một mức độ hơi khác là bà Chadwick, với vẻ tự tin, hiểu biết, và ở Meadowbank này bà đóng một vai trò lớn đến độ thật khó tưởng tượng trường Meadowbank lại không có bà. Chưa bao giờ ngôi trường này thiếu vắng bà. Bà Bulstrode và bà Chadwick đã cùng nhau khởi lập Meadowbank. Bà Chadwick đeo kính không gọng, đầu hơi cúi, ăn mặc không mấy cầu kỳ, giọng nói hòa nhã, và tình cờ thay lại là một nhà toán học xuất sắc. Những lời chào đón ân cần của cô Vansittart ân cần vang khắp tòa nhà. “Bà có khỏe không, thưa bà Arnold? Ồ, Lydia, chuyến đi tàu Hellenic của em có vui không? Thật là một cơ hội tuyệt vời! Em có chụp được nhiều ảnh đẹp không? “Vâng, thưa bà Garnett, bà Bulstrode đã nhận được thư của bà về Lớp Nghệ thuật, tất cả đã được thu xếp rồi. “Bà khỏe không, thưa bà Bird?… Ô? Tôi nghĩ hôm nay bà Bulstrode không có thời gian để bàn bạc chuyện này. Cô Rowan ở đây, bà có muốn nói chuyện với cô ấy về vấn đề này không? “Chúng tôi đã chuyển phòng ngủ của em rồi, Pamela ạ. Em giờ ở chái nhà phía xa, cạnh cây táo… “Vâng, quả vậy, thưa bà Violet, từ đầu mùa xuân tới giờ thời tiết thật kinh khủng. Cháu bé nhất nhà bà đây phải không? Tên cháu gì nhỉ? Hector hả? Cháu có máy bay đẹp thế, Hector. “Très heureuse de vous voir, Madame. Ah, je regrette, ce ne serait pas possible, cette après-midi. Mademoiselle Bulstrode est tellement occupée.Rất vui được gặp bà, thưa bà. Ồ, tôi rất tiếc chiều nay thì không thể rồi. Bà Bulstrode rất bận. “Xin chào giáo sư. Ngài có khám phá thêm được điều gì thú vị không?” Trong căn phòng nhỏ ở tầng một, Ann Shapland, thư ký của bà Bulstrode, đang đánh máy thoăn thoắt và chính xác. Ann năm nay ba lăm tuổi, vẻ ưa nhìn, mái tóc vừa vặn như chiếc mũ sa-tanh đen đội lên đầu. Nếu muốn, cô có thể trông quyến rũ hơn, nhưng cuộc đời đã dạy cô rằng năng lực và hiệu quả thường được trả công cao hơn vẻ ngoài, lại tránh được những phiền toái bực mình. Ở thời điểm này, cô đang tập trung vào tất cả mọi công việc mà một người thư ký hiệu trưởng của một trường nữ sinh nổi tiếng cần làm. Thỉnh thoảng, khi đặt một tờ giấy vào máy chữ, cô lại nhìn ra cửa sổ và lộ rõ niềm thích thú về những vị khách mới đến. ‘Trời đất ơi!’ Ann tự nhủ, vẻ ngưỡng mộ, ‘Mình không biết ở nước Anh vẫn còn nhiều tài xế riêng đến vậy!’ Rồi cô bất giác mỉm cười, khi một chiếc xe Rolls uy nghi chạy đi và một chiếc xe Austin nhỏ xíu, cũ mèm và méo mó tiến vào. Một ông bố vẻ lo lắng từ xe bước ra, cùng cô con gái trông bình tĩnh hơn nhiều so với ông bố. Khi ông dừng lại chừng như sắp ngã đến nơi, thì cô Vansittart từ trong nhà bước ra và làm chủ tình huống. “Thiếu tá Hargreaves phải không ạ? Đây hẳn là Alison rồi? Xin mời vào trong nhà. Mong ngài vào xem phòng của Alison…” Ann nhếch mép cười rồi tiếp tục đánh máy. ‘Ôi đúng là Vansittart, người đóng thế vinh quang,’ cô tự nhủ. ‘Cô ta có thể học theo mọi mánh lới của bà Bulstrode. Quả thật, cô ta rất thuộc bài!’ Một chiếc xe Cadillac to lớn và xa hoa đến khó tin, sơn hai tông màu, đỏ mâm xôi và xanh dương, rẽ vào (hơi khó khăn do chiều dài của nó) và đỗ phía sau chiếc xe cũ của Thiếu tá Alistair Hargreaves. Tài xế bật mở cửa, một người da sẫm, bộ râu dày, mặc áo choàng aba là lượt bước ra, theo sau là một tín đồ thời trang Pari và sau đó nữa là một cô bé mỏng mảnh, da sẫm. ‘Đấy chắc hẳn là Công nương… tên là gì ấy nhỉ,’ Ann nghĩ. ‘Không thể tưởng tượng nổi cô bé ấy mặc đồng phục, nhưng mình cho rằng điều thần kỳ sẽ xuất hiện ngày mai…’ Lần này cả cô Vansittart và bà Chadwick đều xuất hiện. ‘Họ sẽ được đưa vào danh sách diện kiến,’ Ann quả quyết. Rồi cô nghĩ, cũng khá lạ, rằng người ta không thích đùa cợt về bà Bulstrode. Bà Bulstrode là Người Ai Cũng Biết. ‘Tốt hơn nên tập trung vào chuyên môn đi,’ cô tự nhủ, ‘và gõ xong mấy bức thư này không sai lỗi thì hơn.’ Ann không phải là người hay phạm lỗi lầm. Cô đủ giỏi để có quyền chọn việc như ý. Cô từng là trợ lý riêng cho tổng giám đốc một công ty dầu mỏ, thư ký riêng cho ngài Mervyn Todhunter, nổi tiếng về sự uyên bác, thói cáu bẳn và chữ viết tay khó đọc. Trong số những người thuê cô làm việc, có hai người là Chủ tịch Nội các và một vị công chức quan trọng trong cơ quan chính phủ. Nhưng nhìn chung, công việc của cô luôn là giữa đám đàn ông. Cô băn khoăn mình sẽ thế nào, như cách nói của cô, khi hoàn toàn giữa đám phụ nữ. Ờ - thì đằng nào cũng là những trải nghiệm thôi. Và dù thế nào cũng có Dennis! Dennis thủy chung từ Malaya, từ Burma, từ nhiều nơi trên thế giới trở về, và vẫn như xưa, vẫn tận tình, và hỏi cưới cô lần nữa. Dennis thân thương! Nhưng thật là tẻ nhạt lắm mới đi cưới Dennis. Trong tương lai sắp tới, cô sẽ nhớ đến thời gian được làm việc cùng nam giới. Tất cả những giáo viên ở đây - không có lấy một mống đàn ông nào cả, ngoại trừ lão làm vườn đã tám chục tuổi. Nhưng đến đây Ann bỗng ngạc nhiên. Nhìn ra cửa sổ, cô thấy một người đàn ông đang xén hàng rào ngay phía bên kia lối đi dành cho ô tô - rõ ràng là một người làm vườn nhưng mà còn lâu mới tám chục tuổi. Trẻ, tóc đen, và điển trai. Ann ngẫm ngợi, hình như người ta có nhắc đến chuyện thuê người phụ việc, nhưng người này đâu phải dân quê mùa. À thì, ngày nay người ta làm đủ thứ việc. Một số thanh niên đang cố tích góp tiền cho dự định này nọ trong tương lai, hay chỉ kiếm đủ sống qua ngày. Nhưng anh ta đang xén hàng rào theo cách rất chuyên nghiệp. Chắc hẳn anh ta là một người làm vườn thực thụ. Mời các bạn đón đọc Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu của tác giả Agatha Christie.  
Chuyến Tàu Định Mệnh
Tình yêu và chiến tranh: một chủ đề kinh điển, bởi vì dường như trong chiến tranh, tình yêu có thể hé lộ hết chiều sâu của nó. Và với Chuyến tàu định mệnh Georges Simenon nổi bật bằng một chuyện tình trong chiến tranh chân thực hiếm có. Sự chân thực ấy, vốn dĩ gắn bó với cả cuộc đời viết văn đồ sộ của Simenon, đã hết sức tự nhiên mà chọn lấy một tông giọng đẹp và chuẩn xác để kể câu chuyện về Marcel và Anna trên chuyến tàu hỏa huyền ảo, vào thời điểm chiến sự bắt đầu bùng nổ tại châu Âu, mùa hè năm 1940. Và hơn thế nữa, không ít chi tiết thuộc tiểu sử của Simenon cũng đi vào Chuyến tàu định mệnh theo một cách tự nhiên như bản thân cuốn tiểu thuyết lớn với vẻ ngoài rất giản dị này. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Khi tôi thức giấc, lớp rèm bằng vải mộc để lọt vào phòng thứ ánh sáng vàng nhạt mà tôi vốn quen thuộc từ lâu. Những khuôn cửa sổ phòng chúng tôi, ở lầu một, không có cánh chớp. Không cửa sổ nhà nào trên phố có cánh chớp. Trên bàn đầu giường, tôi nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức kêu tích tắc và, bên cạnh tôi, tiếng thở đều đặn của vợ tôi, to gần bằng tiếng thở của những bệnh nhân, trong một cuộc giải phẫu, trên phim ảnh. Vợ tôi lúc đó có mang được bảy tháng rưỡi. Cũng như lần mang thai Sophie trước, cái bụng vĩ đại của nàng buộc nàng phải nằm ngửa. Không nhìn đồng hồ báo thức, tôi thò một cẳng ra khỏi giường. Jeanne cựa quậy và nói ấp úng, giọng xa vắng: - Mấy giờ rồi anh? - Năm rưỡi. Cả đời tôi, tôi quen dậy sớm, nhất là sau những năm ở liệu dưỡng viện, nơi mùa hè người ta mang hàn thử biểu cho chúng tôi từ lúc sáu giờ sáng. Vợ tôi đã không còn để ý đến những gì xảy ra quanh nàng và một cánh tay nàng duỗi ra chỗ tôi vừa rời khỏi. Tôi lặng lẽ mặc quần áo, cử hành, theo thứ tự, nghi thức của mỗi buổi mai, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn con gái, hồi đó, giường nó còn kê trong phòng chúng tôi. Tuy chúng tôi đã sắp đặt cho nó căn phòng đẹp nhất trong nhà, phía mặt tiền, thông sang phòng chúng tôi. Nó không chịu ngủ ở đó. Tôi rời phòng, tay cầm giày đi trong nhà và chỉ xỏ vào khi xuống tới chân cầu thang. Chính lúc đó tôi nghe thấy những hồi còi thứ nhất của tàu bè, gần cửa cống Uf, cách gần hai cây số. Theo quy định, các cửa cống phải mở cho sà lan qua lại ngay từ lúc mặt trời mọc và sáng nào cũng có cuộc hòa nhạc đó. Trong bếp, tôi nhóm ga, đặt ấm đun nước. Ngày mới, thêm một lần nữa, lại báo hiệu nắng ấm. Trong suốt thời kỳ này, ngày nào cũng thắm tươi rực rỡ, và hẳn tôi vẫn còn có thể, mỗi giờ, chỉ chỗ các dấu mặt trời tại những gian phòng khác nhau trong nhà. Tôi mở cửa thông ra khoảng sân đã được chúng tôi lợp mái kính để vợ tôi có thể giặt giũ bất cứ lúc nào, mưa cũng như nắng, và con gái tôi có thể chơi đùa ở đó. Giờ, tôi vẫn nhìn thấy chiếc xe của búp bê và xa hơn chút nữa là con búp bê đang nằm lăn lóc trên những phiến gạch lát hình vuông màu vàng. Tôi tránh không vào xưởng ngay vì tôi đã nhất quyết theo đúng các nguyên tắc, như cách tôi gọi thời khóa biểu của tôi hồi ấy. Một cái thời khóa biểu tự nó thiết định lấy, dần dần từng chút một, do những thói quen tạo ra hơn là do nhu cầu. Trong khi chờ nước sôi, tôi đổ đầy bắp vào cái chậu cũ men xanh, lòng gỉ sét, chẳng dùng được cho việc gì khác và tôi băng qua sân đi cho gà ăn. Chúng tôi có sáu con gà mái trắng và một con gà trống. Sương lóng lánh trên những lá rau, trên cây tử đinh hương độc nhất của chúng tôi mà những bông hoa tím, năm nay nở sớm, đã bắt đầu úa héo, và tôi vẫn nghe thấy, không chỉ tiếng còi tàu bè trên sông Meuse, mà còn cả tiếng thở hổn hển của những tàu chạy dầu cặn. Tôi tha thiết muốn tuyên bố ngay rằng tôi không phải là một người đàn ông bất hạnh, cũng không phải một người buồn rầu. Ở tuổi ba mươi hai, tôi thấy mình thẳng tiến trong mọi kế hoạch mà tôi có thể lập ra, trong mọi niềm hy vọng của tôi. Tôi có một vợ, một nhà, một đứa con gái bốn tuổi hơi dễ kích động nhưng bác sĩ Wilhems cả quyết rằng nó sẽ hết thôi. Tôi đã tự tay dựng cơ nghiệp và khách hàng của tôi mỗi ngày mỗi đông thêm, nhất là mấy tháng gần đây, dĩ nhiên. Tất cả mọi người, vì nhiều biến cố, đều muốn có máy radio. Tôi không ngừng bán máy mới, sửa chữa máy cũ và, vì chúng tôi ở cách bến tàu có vài bước, tàu bè nghỉ đêm ở đó, tôi còn có cả khách hàng trong đám thủy thủ nữa. Tôi nhớ đã nghe thấy tiếng cửa mở tại nhà hàng xóm bên trái của chúng tôi, gia đình Matray, một cặp vợ chồng già rất lặng lẽ. Lão Matray, từng làm thủ quỹ ở Pháp quốc Ngân hàng trong suốt ba lăm hay bốn mươi năm gì đó, cũng là một người dậy sớm và bắt đầu mỗi ngày bằng cách đi lại thở hít không khí trong lành nơi vườn nhà. Mọi mảnh vườn trên phố đều y như nhau, mỗi mảnh rộng bằng bề ngang căn nhà, cách nhau bằng bức tường cao đúng tầm để người ta chỉ nhìn thấy chỏm đầu hàng xóm. Từ ít lâu nay, lão Marray có thói quen rình rập tôi, vì lẽ những chiếc máy của tôi cho phép bắt các loại sóng ngắn. - Sáng nay không có tin tức gì sao, ông Féron? Buổi sáng hôm đó, tôi trở vào nhà trước khi lão kịp hỏi tôi và chế nước sôi lên cà phê. Những đồ vật quen thuộc đều ở đúng chỗ của chúng, chỗ mà Jeanne và tôi đã định hoặc cuối cùng, theo thời gian, chúng đã tự chiếm lấy. Nếu vợ tôi không có bầu thì hẳn tôi đã bắt đầu nghe thấy tiếng bước chân nàng trên lầu một bởi vì, vào lúc bình thường, nàng vẫn dậy liền sau tôi. Tuy nhiên, theo thói quen, tôi thích tự sửa soạn cho mình ly cà phê đầu tiên trước khi vô xưởng. Cứ thế chúng tôi tuân thủ một số nghi thức nhất định và tôi cho rằng chắc gia đình nào cũng vậy. Lần mang bầu thứ nhất cực nhọc, sinh nở khó khăn. Jeanne đổ tính nóng nảy của Sophie cho cái gắp sắt mà người ta đã phải dùng đến và gây tổn hại cho đầu của đứa nhỏ. Từ khi có bầu trở lại, nàng sợ lại khó đẻ và bị ám ảnh sẽ cho ra đời một đứa trẻ bất thường. Bác sĩ Wilhems, người được nàng rất tin cậy, cũng không trấn an nổi nàng, giỏi lắm thì cũng chỉ được vài tiếng đồng hồ, và buổi tối, nàng thao thức không dỗ được giấc ngủ. Rất lâu sau khi chúng tôi vào giường, tôi còn nghe thấy nàng trăn trở tìm một thế nằm thoải mái và gần như bao giờ cuối cùng nàng cũng thì thào hỏi: - Anh ngủ chưa, Marcel? - Chưa. - Em tự hỏi không biết cơ thể em có thiếu chất sắt không. Em đã đọc thấy trong một bài báo... Nàng cố ngủ nhưng thường phải quá hai giờ sáng mới chợp mắt nổi và sau đó, cũng chẳng phải hiếm khi, nàng bỗng vùng dậy thét lên. - Em lại bị ác mộng nữa, Marcel. - Kể anh nghe. - Không. Em thích đừng nghĩ đến điều đó nữa thì hơn. Khủng khiếp lắm. Em xin lỗi đã làm anh mất giấc ngủ, anh phải làm việc nhiều biết bao nhiêu... Hồi gần đây, nàng thức dậy vào khoảng bảy giờ và sau đó xuống sửa soạn bữa sáng. Ly cà phê trên tay, tôi bước vào xưởng và mở cánh cửa lắp kiếng ngó xuống sân cùng mảnh vườn. Vào lúc này đây, tôi được tận hưởng tia nắng đầu tiên của ngày, xế bên trái cửa ra vào một chút, và tôi biết chính xác lúc nào nó sẽ lần tới cái bàn thợ của tôi. Thật ra đó không phải là một cái bàn thợ đúng nghĩa mà chỉ là cái bàn lớn rất nặng, từ một tu viện thải ra, tôi đã mua nó trong cuộc phát mãi. Luôn luôn trên bàn bao giờ cũng có dăm cái máy đang sửa. Dụng cụ của tôi được xếp vào giá treo trên tường, ngay trong tầm tay tôi. Khắp xung quanh phòng, hàng đống máy chồng chất ngổn ngang trên các tủ nhiều ngăn bằng gỗ trắng mà tôi đã kê, và được dán nhãn ghi tên khách hàng. Rốt cuộc tôi cũng vặn các nút, dĩ nhiên. Trì hoãn giây phút này hầu như là một trò chơi. Tôi thường tự nhủ, trái với mọi lý lẽ: “Nếu mình chờ một chút xíu nữa, có thể sẽ là ngày hôm nay.” Ngay sau đó, ngày hôm ấy, tôi hiểu cuối cùng có chuyện gì đó đã xảy ra. Tôi chưa hề thấy không khí bị bó rọ như thế bao giờ. Dù tôi chọn tần số nào thì các chương trình phát thanh cũng chằng chịt chồng lên nhau, những tiếng nói, những tiếng rít, những câu tiếng Đức, tiếng Hòa Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp và người ta cảm thấy trong không gian như thể có một sự dao động đầy kịch tính. - Đêm nay, các toán quân Quốc xã đã tấn công quy mô lớn vào... Chưa đến lượt nước Pháp - dù sao người ta cũng không nhắc đến nó - mà là Hòa Lan, nó vừa bị xâm chiếm. Đài tôi vừa nghe, là một đài Bỉ. Tôi kiếm Ba Lê, nhưng Ba Lê vẫn nín lặng. Vệt nắng rung rinh chập chờn trên sàn nhà xám và ở cuối vườn, sáu con gà mái trắng của chúng tôi xao xác xung quanh con gà trống mà Sophie gọi là Nestor. Tại sao đột nhiên tôi lại tự hỏi cái chuồng gà bé nhỏ của chúng tôi sẽ ra sao? Lòng tôi hầu như se lại trước số phận của nó. Tôi vặn các nút khác, tìm kiếm trong dải tần số ngắn nơi mà dường như tất cả mọi người đều nói cùng một lúc. Và thế là tôi bắt được, trong giây lát ngắn ngủi, một điệu quân nhạc mà tôi mất dấu ngay lập tức, đến nỗi tôi không thể biết điệu nhạc đó thuộc quân đội nào. Một người Anh vừa đọc một bản tin vừa nhắc đi nhắc lại mỗi câu mà tôi không hiểu, như thể hắn đọc chính tả cho một thông tín viên chép lại, và ngay sau đó tôi lạc vào một máy phát mà tôi chưa hề nghe bao giờ, một máy phát dã chiến. Máy phát đó chắc phải ở gần lắm, thuộc về một trong các trung đoàn từ hồi tháng Mười, hồi đầu của cuộc chiến kỳ quặc*, đã đóng quân trong vùng. Mời các bạn đón đọc Chuyến Tàu Định Mệnh của tác giả Georges Simenon.
Vệ Sĩ Vô Hình
Thi thể các thiếu nữ được tìm thấy ở thung lũng Baztán trong tình trạng bị siết cổ, quần áo rách toạc, khuôn mặt biến dạng. Trên vùng kín của mỗi nạn nhân còn được đặt một chiếc txatxingorri  - một loại bánh ngọt đặc trưng của vùng. Ngoài ra, người ta còn phát hiện lông động vật ở trên người các nạn nhân. Ngay lập tức, mọi mối nghi ngờ đều hướng đến basajaun - còn được biết đến dưới tên gọi “quý ông trong rừng” một sinh vật có thật trong truyền thuyết. Vụ án được giao cho thanh tra Amaia Salazar, vốn là người xuất thân từ thị trấn Elizondo - một vùng thuộc thung lũng Baztán. Đó là người phụ nữ thông minh, quyết đoán, được đào tạo bởi FBI, từng chỉ huy nhiều cuộc truy tìm tung tích những kẻ giết người hàng loạt. Với năng lực của mình, cùng sự trợ giúp đắc lực của đồng đội, Amaia Salazar đặt niềm tin mạnh mẽ vào cuộc điều tra nhằm vạch mặt hung thủ. Nhưng quay trở lại nơi gắn liền với tuổi thơ của mình, nơi vẫn còn những người thân trong gia đình lại không phải là nơi khiến cô cảm thấy bình yên. Nhất là một trong hai người chị của Amaia không hề chào đón sự xuất hiện của em gái mình. Áp lực Amaia phải chịu ngày càng lớn khi mà vụ án lâm vào ngõ cụt và những ký ức ám ảnh của tuổi thơ bỗng trỗi dậy mãnh liệt khiến buộc cô buộc phải đối mặt với góc khuất của chính bản thân mình. Bởi lẽ, vụ án này có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ - vốn là chấn thương tâm lý sâu kín mà cô luôn muốn chạy trốn suốt nhiều năm qua - của chính thanh tra Amaia. Đam mê và sự điên cuồng hòa quyện với nhau tạo nên một tác phẩm vô cùng bí ẩn, lôi cuốn và kịch tính về văn hóa, tín ngưỡng xứ Basque. Sự huyền bí của tác phẩm thể hiện sinh động ở những chi tiết: hiện trường gây án, nữ thần Maria, tiên nữ và phù thủy… Tác phẩm đặc tả xứ sở Navarre với núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút và sông nước mênh mang… tạo nên sự hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, làm say lòng độc giả. *** "Vệ sĩ vô hình" là tập đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết hình sự về thung lũng Baztan của tác giả Dolores Redondo. Thi thể các thiếu nữ được tìm thấy ở thung lũng Baztán trong tình trạng bị siết cổ, quần áo rách toạc, khuôn mặt biến dạng. Trên vùng kín của mỗi nạn nhân còn được đặt một chiếc txatxingorri  - một loại bánh ngọt đặc trưng của vùng. Ngoài ra, người ta còn phát hiện lông động vật ở trên người các nạn nhân. Ngay lập tức, mọi mối nghi ngờ đều hướng đến basajaun, - còn được biết đến dưới tên gọi “quý ông trong rừng” một sinh vật có thật trong truyền thuyết. Vụ án được giao cho thanh tra Amaia Salazar, vốn là người xuất thân từ thị trấn Elizondo - một vùng thuộc thung lũng Baztán. Đó là người phụ nữ thông minh, quyết đoán, được đào tạo bởi FBI, từng chỉ huy nhiều cuộc truy tìm tung tích những kẻ giết người hàng loạt. Với năng lực của mình, cùng sự trợ giúp đắc lực của đồng đội, Amaia Salazar đặt niềm tin mạnh mẽ vào cuộc điều tra nhằm vạch mặt hung thủ. Nhưng quay trở lại nơi gắn liền với tuổi thơ của mình, nơi vẫn còn những người thân trong gia đình lại không phải là nơi khiến cô cảm thấy bình yên. Nhất là một trong hai người chị của Amaia không hề chào đón sự xuất hiện của em gái mình. Áp lực Amaia phải chịu ngày càng lớn khi mà vụ án lâm vào ngõ cụt và những ký ức ám ảnh của tuổi thơ bỗng trỗi dậy mãnh liệt khiến buộc cô buộc phải đối mặt với góc khuất của chính bản thân mình. Bởi lẽ, vụ án này có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ - vốn là chấn thương tâm lý sâu kín mà cô luôn muốn chạy trốn suốt nhiều năm qua - của chính thanh tra Amaia. Đam mê và sự điên cuồng hòa quyện với nhau tạo nên một tác phẩm vô cùng bí ẩn, lôi cuốn và kịch tính về văn hóa, tín ngưỡng xứ Basque. Sự huyền bí của tác phẩm thể hiện sinh động ở những chi tiết: hiện trường gây án, nữ thần Maria, tiên nữ và phù thủy… Tác phẩm đặc tả xứ sở Navarre với núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút và sông nước mênh mang… tạo nên sự hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, làm say lòng độc giả. *** Bộ Thung Lung Baztán Xứ Basque gồm có: Vệ Sĩ Vô Hình Mối Bất Hòa Truyền Kiếp Lễ Vật Kinh Hoàng *** Dolores Redondo sinh năm 1969, tại Saint-Sébastien, một tỉnh thuộc xứ Basque, Tây Ban Nha. Bà từng học chuyên ngành Luật, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực thương mại trước khi trở thành tiểu thuyết gia. Với thành công của bộ ba tiểu thuyết hình sự đặc sắc về thung lũng Baztan, Redondo trở thành tác giả tác giả trinh thám nổi tiếng nhất suốt nhiều 5-10 năm qua tại nước này. Bà là  một trong số ít tác giả Tây Ban Nha được đề cử giải thưởng CWA International Dagger 2015. *** Ainhoa Elizasu là nạn nhân thứ hai của basajaun*, mặc dù báo chí vẫn chưa gọi hắn bằng cái tên ấy cho đến sau này, khi xuất hiện những sợi lông thú, những mẩu da và những lâu vết không thể nhận diện tìm thấy quanh các xác chết, cùng chứng cứ của một loại nghi lễ thanh tẩy rùng rợn. Quần áo nạn nhân bị xé rách, vùng kín của họ bị cạo sạch lông và hai bàn tay đặt ngửa, thi thể của các cô gái gần như trẻ con hình như bị một quyền lực độc ác, già lão như Trái đất đánh dấu. Nghĩa đen là “quý ông trong rừng”, cổ ngữ Tây Ban Nha. (Các chú thích của người dịch). Thanh tra Amaia Salazar thường theo đúng thói quen hằng ngày khi được gọi tới một hiện trường gây án lúc nửa đêm. Chị tắt báo thức buổi sáng để không làm phiền James, xếp gọn quần áo của chị và để điện thoại di động lên trên, rồi từ tốn xuống cầu thang vào bếp. Chị uống cốc cà phê sữa trong lúc mặc quần áo, để lại tin nhắn cho chồng rồi vào xe. Khi lái xe, tâm trí chị trống rỗng ngoại trừ âm thanh luôn đầy ắp trong đầu khi phải dậy từ trước rạng đông. Tàn dư của một đêm mất ngủ theo chị suốt dọc đường đến hiện trường, mặc dù từ Pamplona đến đó mất hơn một giờ chạy xe. Chị bẻ lái quá gấp và tiếng lốp xe rít lên khiến chị nhận ra mình đãng trí nhường nào. Sau đó, chị buộc mình phải chú tâm đến con đường ngoằn ngoèo dẫn lên khu rừng rậm bao quanh Elizondo. Năm phút sau, lúc đỗ xe cạnh tẩm biển của cảnh sát, chị nhận ra chiếc ô tô thể thao của bác sĩ Jorge San Martin và xe địa hình của thẩm phán Estébanez. Amaia xuống xe, chị đi vòng ra sau cốp lấy đôi ủng. Chị xỏ chân vào ủng đúng lúc phó thanh tra Jonan Etxaide và thanh tra Montes đến chỗ chị. — Không hay rồi sếp ạ, nạn nhân là một cô gái rất trẻ, - Jonan tra cứu các ghi chép, - chỉ mười hai hoặc mười ba tuổi. Mười một giờ đêm qua, bố mẹ cô bé đã báo cảnh sát khi vẫn chưa thấy con gái mình về nhà. — Hơi sớm để báo cô bé mất tích, - Amaia nhận xét. — Đúng vậy. Hình như lúc mười giờ tám phút, cô bé đã gọi vào di động cho anh trai, báo bị lỡ xe buýt ở Arizkun. — Cậu ta không nói gì cho đến mười một giờ ư? — Chị biết chuyện là thế nào rồi: “Aita và Ama* sẽ giết em mất. Anh đừng nói gì với bố mẹ nhé. Em sẽ nhờ bố mẹ của một cô bạn đưa về”. - Vì thế cậu anh trai im thin thít và tiếp tục chơi game. Đến mười một giờ, nhận ra em gái vẫn chưa về nhà và mẹ bắt đầu lo cuống lên, cậu ta mới nói cho bố mẹ. Bọn họ đến đồn cảnh sát ở Elizondo và khăng khăng rằng đã có chuyện gì đó xảy ra với con gái họ. Con bé không trả lời điện thoại di động, và họ đã gọi cho tất cả các bạn của nó. Một xe tuần tra đã tìm thấy cô bé. Cảnh sát phát hiện ra đôi giày của Ainhoa bên lề đường lúc họ đang vào chỗ rẽ. - Jonan chiếu đèn pin lên vệ đường, một đôi giày cao gót màu đen đắt tiền lấp lánh, xếp ngay ngắn ở đó. Aunaia nhìn xuống. Cha và Mẹ (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản). — Trông như chúng được xếp lại như thế này. Đã có ai chạm vào chưa? - Chị hỏi. Jonan kiểm tra lại ghi chép. Hiệu quả làm việc của viên phó thanh tra trẻ tuổi là thứ trời cho trong những vụ khó nhằn kiểu này. — Chưa, đôi giày vẫn y nguyên như lúc được tìm thấy, xếp cạnh nhau và mũi giày hướng ra đường. — Gọi các nhân viên kỹ thuật hiện trường lấy vân tay và kiểm tra mặt trong, khi nào họ xong việc. Ai xếp chúng như thế này đều phải chạm vào mặt trong cũng như bên ngoài giày. Thanh tra Montes cho đến lúc này vẫn đứng lặng lẽ, chăm chú nhìn đôi giày Ý hàng hiệu của mình, bỗng ngẩng lên như tỉnh khỏi giấc ngủ sâu. — Salazar, - anh lẩm bẩm chào Amaia rồi bước tới rìa đường, không đợi chị. Amaia cau mày bối rối và quay sang Jonan. — Anh ta làm sao thế? — Tôi không biết thưa sếp, chúng tôi đi cùng xe từ Pamplona đến đây và anh ấy chưa một lần mở miệng. Tôi nghĩ có khi anh ấy đã uống một hoặc hai cốc. Amaia cũng nghĩ như vậy. Từ khi ly dị, thanh tra Montes cứ dần dần sa sút, không chỉ trong sở thích giày Ý và những chiếc cà vạt sặc sỡ. Vài tuần lễ gần đây, Montes đặc biệt phân tâm, anh ta lạnh lùng và khó hiểu, rút sâu vào thế giới bé nhỏ của riêng mình, hầu như miễn cưỡng tiếp xúc với những người xung quanh. — Cô gái đâu? — Bên bờ sông. Chị phải đi xuống con dốc này, - Jonan đáp, và chỉ tay vẻ áy náy, như thể cái xác ở dưới kia là lỗi của mình vậy. Lúc Amaia đi xuống con dốc đã mòn bên dòng sông hơn một ngàn năm tuổi, chị trông thấy ở phía xa, nhiều ngọn đèn pha và dây chăng đánh dấu khu vực cảnh sát đang làm việc. Thẩm phán Estébanez đứng một bên, đang khẽ trò chuyện với nhân viên tòa án và liếc nhìn nơi xác chết. Hai nhân viên pháp y di chuyển vòng quanh, đèn flash chớp loe lóe từ mọi góc độ và một kỹ thuật viên thuộc Viện pháp y Navarre đang quỳ cạnh xác, hình như đang lấy nhiệt độ ở gan. Amaia hài lòng thấy mọi người đều tôn trọng lối vào mà các cảnh sát đầu tiên có mặt ở hiện trường đã thiết lập. Tuy nhiên, có quá nhiều người ở đó. Là một tín đồ Công giáo đáng lẽ chị phải làm việc gì đó, nhưng gần như vô lý vì bất cứ khi nào phải xử lý một xác chết, chị đều thấy thiếu hẳn cảm giác riêng tư và mộ đạo mà chị thường trải nghiệm trong một nghĩa địa. Dường như điều này bị xúc phạm bởi sự có mặt do nghề nghiệp của những con người xa lạ và không liên quan đang lượn quanh xác chết. Nạn nhân của kẻ giết người giống như một tác phẩm nghệ thuật nằm đó, im lìm và lặng lẽ, bất chấp nỗi kinh hoàng bẩm sinh. Mời các bạn đón đọc Vệ Sĩ Vô Hình của tác giả Dolores Redondo.