Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bóng Hình Của Gió

Tên eBook: Bóng hình của gió (full prc, pdf, epub)  Tác giả: Carlos Ruiz Zafón Thể loại:  Lãng mạn, Tiểu thuyết, Văn học Tây Ban Nha Công ty phát hành: Nhã Nam  Nhà xuất bản: NXB Văn Học  Ngày xuất bản: 05/2014  Kích thước: 15 x 24 cm    Giá bìa: 118000 VNĐ   Hình thức: Bìa mềm  Chủ dự án: Phi Phi Yên Vũ  Chụp pic: Thiên Thiên  Type: Sư Tử, Aoi ChanChan, Quỳnh Như Nguyễn, Mai Ice, Yen Phan, Bon Bon, Kim Trâm Đặng  Beta: Gomu Gomu  Tạo prc: Annabelle Tran  Nguồn: Hội chăm chỉ làm eBook free  Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Tác giả Carlos Ruiz Zafón (sinh ngày 25/09/1964) Là một trong những nhà văn Tây Ban Nha thành công nhất hiện nay. Ông là tác giả nhiều tiểu thuyết viết cho lứa tuổi thiếu niên như El principe de la niebla (The Prince of Mist, 1993), El palacio de la medianoche (1994), Las luces de septiembre (1995) và Marina (1999). Năm 2001, ông cho in Bóng hình của gió (La sombra del viento) về sau bán được hàng triệu bản trên thế giới, được giới phê bình khen ngợi và giành được nhiều giải thưởng quốc tế. Sau đó, năm 2008, ông cho ra đời El juego del angel (Trò chơi của thiên thần), và El prisionero del cielo (Tù nhân của trời, 2011), hai cuốn trong một bộ tứ khởi đầu bằng Bóng hình của gió. Sách của Zafón đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng trên thế giới. “Một trong những cuốn tiểu thuyết hiếm hoi kết hợp cốt truyện đặc sắc với văn chương kỹ tuyệt... chỉ cần người này bảo người kia thôi cũng đã thành sách bán chạy.” -Sunday Times- “Zafón đưa vào câu chuyện một liều lượng tình yêu thật lớn, rồi thì đủ ma thuật, đủ giết người và đủ điên loạn để khiến ngay cả người đọc miễn cưỡng nhất cũng bị hút vào không dứt ra được. Hay đến kinh người.” -Elle- “Bóng hình của gió là một tiểu thuyết đầy những huy hoàng lừa mị và những cửa bẫy kêu ken két, một tiểu thuyết mà ngay cả các tuyến truyện phụ cũng có tuyến truyện phụ riêng... một tiểu thuyết hay vô cùng.” -Stephen King- ***   Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên, nơi chốn mang cái tên kỳ dị này ẩn chứa những gì? Sau khi Daniel Sempre, mười tuổi, mang ra khỏi đó một cuốn sách do cậu tự chọn với sự cho phép của cha, gần như ngay sau đó cậu bị một kẻ lạ gớm ghiết đáng sợ có khuôn mặt hoàn toàn biến dạng theo sát gót. Hắn muốn gì? Cuốn sách kia, Bóng hình của gió mà cậu giữ trong tay, nó hay tác giả của nó mang những bí mật u tối nào khiến cho dường như nhiều phận người bị liên lụy với nó đến vậy? Trong cơn xoáy lốc chầm chậm nhưng chết chóc tỏa ra từ Bóng hình của gió và những bí ẩn đằng sau nó, Daniel phải chiến đấu ra sao để bảo vệ người mình yêu cũng như những người khác ban đầu xa lạ song cũng dần dần trở nên thân thiết với cậu?   ~*~   Một câu chuyện thật đẹp nơi mà tình yêu, hận thù, tình bạn, ý thức nghĩa vụ... đều tuyệt đỉnh. Và bàng bạc khắp là thành phố Barcelona, thủ phú xứ Catalan nước Tây Ban Nha, kỳ vĩ, diễm lệ, bí ẩn, một trong những nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết. *** Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên   -o0o-   TÔI VẪN CÒN NHỚ CÁI NGÀY CHA DẪN TÔI tới Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên lần đầu tiên. Đó là vào đầu hè năm 1945, chúng tôi rảo bước qua những con phố của một Barcelona bị giam hãm dưới những khoảng trời xám tro khi bình minh trút xuống Đại lộ Rambla de Santa Mónica một dòng sáng cuồn cuộn sắc đồng đỏ.   “Daniel, con không kể với bất kỳ ai những gì sắp thấy ngày hôm nay,” cha tôi cảnh cáo. “Kể cả cậu bạn Tomás của con. Không một ai hết.”   “Kể cả mẹ ư?”   Cha tôi thở dài, lẩn vào sau nụ cười buồn cứ đằng đẵng bám theo ông suốt đời như một cái bóng.   “Đương nhiên là với mẹ thì được,” ông trả lời, lòng nặng trĩu. “Chúng ta không giữ bí mật gì với mẹ cả. Con có thể kể cho mẹ mọi chuyện.”   Không lâu sau cuộc nội chiến, một đợt dịch tả bùng phát đã đem mẹ tôi đi mất. Chúng tôi an táng bà trên đồi Montjuïc vào ngày sinh nhật lần thứ tư của tôi. Điều duy nhất tôi nhớ được là hôm ấy trời mưa cả ngày lẫn đêm, và khi tôi hỏi cha liệu phải chăng Thượng đế cũng đang khóc thương, ông đã không thể cất tiếng trả lời. Sáu năm sau đó sự vắng bóng của mẹ vận còn đọng lại trong bầu không khí bao trùm quanh cha con tôi, một sự câm lặng đến chói tai mà tôi mãi không học được cách khắc chế bằng lời nói. Hai cha con tôi sống trong một căn hộ tầm tầm trên khu phố Santa Ana, cách quảng trường nhà thờ một quãng ngắn. Căn hộ của chúng tôi nằm ngay trên tiệm sách, một cửa tiệm tạp nham nhưng đầy sức quyến rũ, nơi đặc biệt chỉ chuyên mua sách hiếm và sách cũ – một di sản ông tôi để lại, mà cha hy vọng một ngày kia tôi sẽ kế thừa. Lớn lên giữa bao cuốn sách, tôi kết thân với những người người bạn vô hình trong các trang giấy dường như đúc từ bụi mà thành và mùi của họ đến tận bây giờ hai tay tôi vẫn còn mang đậm. Lúc còn nhỏ tôi học được cách chìm vào giấc ngủ giữa khi đang nói chuyện với mẹ trong bóng tốicăn phòng ngủ của tôi, thao thao với bà về những sự kiện trong ngày, chuyến phiêu lưu của tôi ở trường, những điều tôi được thầy cô chỉ dạy. Tôi không nghe được giọng nói hay cảm nhận được những vuốt ve của bà, nhưng sự rạng ngời và hơi ấm của bà ngập tràn mọi ngóc ngách trong ngôi nhà, và với sự ngây thơ của những đứa trẻ vẫn còn đếm ssược số tuổi của mình trên mười đầu ngón tay, tôi tin rằng nếu tôi nhắm mắt lại và thủ thỉ với mẹ thì mẹ có thể nghe thấy giọng tôi dù bà có đang ở nơi đâu đi nữa. Có đôi lần khi đang ngồi trong phòng ăn , cha nghe thấy tôi đang lầm rầm, ông thầm khóc trong im lặng.   Vào buổi sáng tháng Sáu hôm đó, trời vừa hừng sáng tôi đã bật dậy hét toáng lên. Tim tôi đấp thình thịch trong lồng ngực như thể chính linh hồn tôi đang muốn xé toang lối ra và   bỏ chạy khỏi thang gác. Cha vội vã xộc vào phòng và bao bọc tôi trong vòng tay ông, gắng sức trấn an tôi.   “Con không thể nhớ nổi. Con không nhớ được khuôn mặt của mẹ,” tôi thều thào, không ra hơi.   Cha siết chặt tay tôi.   “Đừng lo, Daniel. Cha sẽ nhớ cả hai chúng ta.”   Chúng tôi nhìn nhau trong căn phòng chạng vạng sáng, gắng sức thốt lên những từ ngữ vốn không hề tồn tại. Lần đầu tiên, tôi nhận ra rằng cha đang già đi. Ông đứng dậy vén rèm để cho ánh ban mai nhợt nhạt tràn vào.   “Đi nào, Daniel, mặc quần áo vào. Cha muốn cho con xem một thứ,” ông nói.   “Có những thứ chỉ nhìn thấy được trong bóng tối,” cha tôi nói, thoáng lên một nụ cười bí ẩn dường như vay mượn đâu đó từ những cuốn tiểu thuyết lãng mạn của Alexandre Dumas cũ nát của ông.   Lính tuần tra ban đêm vẫn đang loanh quanh trên các con phố mù sương khi chúng tôi bước ra cửa chính. Hàng đèn đường dọc khu RamBlas phác nên một đại lộ trong làn sương sớm khi thành phố bát đầu thức tỉnh, giống như một bức tranh màu nước chầm chậm trở thành thực tại. Sau khi tới được phố Nhà Hát Cổng Vòm[1], chúng tôi tiếp tục đi dọc theo dãy mái vòm của con phố dẫn về phía quận Raval, cùng tiến vào một vòm mù sương xám. Tôi theo bước cha dấn sâu vào lòng con hẻm hẹp, giống một vết sẹo hơn là một con phố, cho tới khi hình bóng của khu Ramblas dần tan mất phía sau hai chúng tôi. Ánh ban mai bị những ban công và mái đua gạn xuống thành những dải sáng xiên yếu ớt hòa tan vào bầu không trước khi chạm được tới mặt đất. Cuối cùng cha tôi dừng lại trước một cách cổng lớn bằng gỗ chạm, úa đen vì ẩm mốc và thời gian. Trước mắt chúng tôi lù lù hiện ra một công trình mà trong mắt tôi trông như xác chết của một toà lâu đài, nơi chốn của những tiếng vọng và bóng đen.   [1. Nguyên gốc: Arco del Teatro.]   “Daniel, con không được kể với bất kỳ ai những gì sắp thấy ngày hôm nay. Kể cả cậu bạn Tomás của con. Không một ai hết.”   Một người đàn ông nhỏ thó với khuôn mặt diều hâu đóng khung trong mái tóc xám dày ra mở cửa cho chúng tôi. Đôi mắt ông xoáy vào tôi một ánh nhìn sâu thẳm đầy cảnh giác như của loài chim ưng.   “Chào buổi sáng, Isaac. Đây là con trai tôi, Daniel,” cha tôi thông báo. “Nó sắp mười một tuổi rồi, về sau cửa hiệu sẽ là của nó. Giờ là lúc nó nên biết tới nơi này.”   Người đàn ông tên Isaac gật đầu và mời chúng tôi vào. Một cảnh u minh nhuốm sắc xanh làm mờ đi các đường quanh lượn sóng của một cầu thang đá cẩm thạch và dãy tranh tường đầy các nhân vật là những thiên thần và các sinh vật trong truyền thuyết. Chúng tôi theo chủ nhà đi qua dãy hành lang nguy nga dẫn tới một đại sảnh lớn hình tròn, cả một vương cung thành đường bóng tối hình xoắn ốc cuộn lên, bị những tia nắng từ mái vòm bên trên xuyên thủng. Những lối đi giữa các giá cao lên kín sách từ chân đến đỉnh làm nên cả một mê cung như một tổ ong kết hợp từ vô số đường hầm, nấc thang, bậc thềm và cầu nối – cho thấy trước về một thư viện khổng lồ có cấu trúc hình học tưởng như không thể tồn tại trên đời. Tôi ngước lên nhìn cha, sững người kinh ngạc. Ông cười và nháy mắt với tôi.   "Chào mừng con đến với Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên, Daniel.”   Tôi nhìn ra được chừng hơn chục người rải rác khắp các lối đi và thềm thư viện. Một vài trong số họ quay ra chào tôi từ xa, tôi nhận ra khuôn mặt các đồng nghiệp của cha tôi, họ là những người bạn cùng phường buôn sách cũ. Qua góc nhìn của đứa trẻ mới mười tuổi là tôi, họ trông như thể một hội kín các nhà giả kim đang nghiên cứu trong lén lút. Cha quỳ xuống cạnh tôi, đăm đăm nhìn vào mắt tôi mà nói bằng giọng thì thầm vốn chỉ dành để thốt ra các bí mật và lời thề.   “Đây là một nơi chốn của bí mật, Daniel, một thánh đường. Mỗi câu chuyện, mỗi tập sách con thấy ở đây đều chứa đựng một tâm hồn. Tâm hồn của người đã viết nên cuốn sách, của những người đã đọc, sống và mơ ước cùng nó. Mỗi lần một cuốn sách qua tay một người đọc khác, mỗi lần người nào đó lướt mắt qua từng trang sách là một lần linh hồn của cuốn sách ấy trưởng thành và trở nên mạnh mẽ hơn. Thư viện này đã rất lâu đời khi ông con dẫn cha tới đây lần đầu, nhiều năm về trước. Có lẽ nó cũng nhiều tuổi như thành phố này vậy. Không ai biết rõ thư viện này có từ khi nào, hay ai đã lập ra nó. Dù vậy, cha sẽ truyền lại hết cho con những điều đã được ông con chỉ dạy. Khi một thư viện biến mất, hay một hiệu sách phải đóng cửa, khi một cuốn sách bị ký thác cho sự lãng quên, những người biết rõ nơi này như chúng ta, những người bảo hộ cho cuốn sách, phải đảm bảo rằng cuốn sách ấy được đem tới đây. Ở nơi này, những cuốn sách không còn được ai nhớ tới, những cuốn sách bị quên lãng theo thời gian, đều sẽ tồn tại mãi mãi, im lìm chờ một ngày kia tới được tay một người đọc mới. Ở cửa tiệm chúng ta mua đi bán lại những cuốn sách, nhưng thực tế chúng không hề có chủ. Mỗi cuốn sách con thấy ở đây đều từng là người bạn thân thiết nhất của ai đó. Giờ chúng chỉ còn mỗi chúng ta thôi, Daniel ạ. Liệu con có thể giữ kín một bí mật nhường này chăng?”   Ánh nhìn của tôi lạc lối trong sự kỳ vĩ và trò ảo thuật ánh sáng của thư viện. Tôi gật đầu, và cha khẽ mỉm cười.   “Con có biết điều tuyệt vời nhất trong chuyện này không?” ông hỏi.   Tôi lắc đầu.   “Theo truyền thống, khi ai đó tới đây lần đầu tiên, anh ta phải chọn một cuốn sách, bất kể cuốn gì, và nhận bảo trợ cho nó, đảm bảo rằng cuốn sách ấy sẽ không bao giờ biến mất, rằng nó sẽ mãi tồn tại. Đó là một lời thề vô cùng quan trọng. Nó sẽ theo con suốt cuộc đời,” cha tôi giải thích. “Hôm nay đến lượt con đấy.”   Trong suốt một tiếng rưỡi đồng hồ, tôi thơ thẩn trong lòng chốn mê cung quanh co ấy, hít thở trong mùi giấy cũ và bụi bặm. Tôi lướt tay qua hàng hàng gáy sách trên giá, trầm ngâm suy nghĩ xem mình sẽ chọn cuốn gì. Trong số những dòng nhan đề bị phai mờ theo thời gian, tôi nhìn ra các từ thuộc những thứ ngôn ngữ quen thuộc và những từ khác tôi không thể nhận biết. Tôi lang thang khắp những dãy dài lèn kín hàng trăm, hàng nghìn tập sách. Sau một hồi tôi chợt ngộ ra rằng giữa những trang bìa của mỗi cuốn sách kia đều tồn tại một vũ trụ không bờ bến đang chờ được khám phá, trong khi ấy, bên kia những bức tường này, tại thế giới bên ngoài, người ta để mặc cho cuộc sống trôi qua với những buổi chiều chìm đắm trong bóng đá và các xê ri kịch truyền thanh sướt mướt, hài lòng với chuyện chả quan tâm gì hơn những vấn đề của riêng mình. Có lẽ là chính cái ý nghĩ ấy, hoặc cũng có thể chỉ do ngẫu nhiên, hay do số phận  –  người họ hàng hoa mỹ hơn của sự ngẫu nhiên, song chỉ biết rằng đúng vào thời khắc ấy tôi thấy mình đã chọn được cuốn sách cần phải bảo trợ, hay có khi chính cuốn sách ấy mới bảo trợ cho tôi. Nó nổi bật một cách khiêm tốn trên góc một giá sách, bọc bìa da có màu rượu vang. Những con chữ nhan đề bằng vàng long lanh trong những giọt nắng từ mái vòm phía trên rỉ xuống. Tôi lại gần, vừa nhẹ nhàng mân mê dòng chữ bằng đầu ngón tay vừa thầm thì đọc lên:   BÓNG HÌNH CỦA GIÓ   Julián Carax   Tôi chưa bao giờ biết đến nhan đề hay tác giả này, nhưng tôi không để tâm tới điều đó. Ý đã quyết rồi. Cẩn trọng hết mức, tôi nhấc cuốn sách xuống giở lướt qua các trang giấy, mặc chúng khẽ kêu lật phật. Được giải thoát khỏi nơi giam cầm trên giá sách, Bóng hình của gió toả ra một đám mây bụi vàng óng. Hài lòng với lựa chọn của mình, tôi kẹp cuốn sách vào nách rồi lần ngược lại các bước chân mình trong thư viện để quay trở ra, với một nụ cười trên môi. Có lẽ bầu không khí mê ảo nơi đây đã mạnh hơn tôi, song dù sao tôi cũng chắc chắn rằng Bóng hình của gió đã nằm đây bao năm chỉ để đợi chính tôi, thậm chí có khi còn từ trước cả khi tôi ra đời.   CHIỀU HÔM ĐÓ, ở căn hộ trên phố Santa Ana, tôi nhốt mình trong phòng để nghiền ngẫm những dòng đầu sách. Trước khi kịp nhận ra, tôi đã mê đắm nó tự lúc nào. Cuốn tiểu thuyết kể câu chuyện về một người đàn ông trên hành trình tìm lại cha ruột của mình, người mà anh chưa từng được biết đến cho tới khi mẹ anh tiết lộ về sự tồn tại của ông lúc bà đang hấp hối trên giường bệnh. Câu chuyện về hành trình tìm cha ấy trở thành một cuộc phiêu lưu siêu tưởng mà trong đó nhân vật chính phải đấu tranh để giành lại thời thanh xuân đã mất, và trong đó bóng ma của một tình yêu bị nguyền rủa dần dần hiện ra ám ảnh anh cho tới tận hơi thở cuối cùng. Khi bí ẩn được hé lộ, câu chuyện gợi tôi nhớ đến một trong những con búp bê Nga, loại có thể chứa vô số bản sao mỗi lúc một nhỏ dần của chính nó ở trong mình nó. Từng bước từng bước câu chuyện cứ tách ra thành hàng ngàn câu chuyện, như thể cuốn tiểu thuyết đó bước vào một khu trưng bày gương kính, khiến nhân dạng của nó phân mảnh rồi tan hoà vào vô cùng tận những ảnh ảo phản xạ. Từng phút từng giờ lướt qua cứ nhanh như trong mơ. Khi tiếng chuông nhà thờ báo hiệu nửa đêm, tôi hầu như chẳng nghe thấy. Dưới ánh sáng ấm áp từ chiếc đèn bàn hắt xuống, tôi bị ném vào một thế giới xa lạ đầy những hình ảnh và xúc cảm, với những nhân vật mà với tôi cũng thật như bầu không khí tôi đang hít thở. Trang này nối tiếp trang kia, tôi mặc cho bản thân bị ma thuật của cuốn sách và thế giới bên trong nó bỏ bùa hoàn toàn, cho tới khi hơi thở của bình minh chạm tay vào cửa sổ phòng và đôi mắt mỏi mệt của tôi lướt qua trang cuối cùng. Tôi nằm trong ánh mờ nhập nhoạng sắc xanh với cuốn sách trên ngực, lắng nghe tiếng lầm rầm của thành phố còn say ngủ. Mắt tôi dần trĩu nặng, nhưng tôi cố cưỡng lại cơn buồn ngủ. Tôi còn chưa muốn ma thuật của câu chuyện tan biến đi, cũng chưa muốn nói lời chia tay với những nhân vật trong đó.   MỘT LẦN NỌ, trong cửa hàng sách của cha, tôi nghe một khách hàng quen nói rằng hiếm có gì để lại dấu ấn trong lòng người đọc sâu đậm như cuốn sách đầu tiên tìm được đường vào trái tim người đó. Những hình ảnh đầu tiên ấy, tiếng vọng của những từ ngữ mà ta tưởng mình đã bỏ quên lại phía sau tự khi nào, chúng vẫn đồng hành cùng ta trong suốt cuộc đời, chúng khắc tạc một lâu đài trong ký ức ta, nơi mà sớm hay muộn – bất kể ta có đọc bao nhiêu cuốn sách, khám phá ra bao nhiêu thế giới, thậm chí học được cách lãng quên bao nhiêu điều  –  chúng ta vẫn sẽ quay trở lại. Với tôi, những trang sách nhiệm mầu đó sẽ luôn là những trang sách tôi khám phá ra trong hành lang nơi Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên      Mời các bạn đón đọc Bóng hình của gió của tác giả Carlos Ruiz Zafón.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Pachinko (Tiểu Thuyết)
TÁC PHẨM VÀO CHUNG KHẢO NATIONAL BOOK AWARD 2017 MỘT TRONG MƯỜI CUỐN SÁCH XUẤT SẮC NĂM 2017 DO THE NEW YORK TIMES BÌNH CHỌN Tiểu thuyết mê hoặc và cuốn hút này xoay quanh 4 thế hệ của một gia đình người đánh cá ở một ngôi làng gần thành phố cảng Busan, Hàn Quốc, bắt đầu từ năm 1910, khi Nhật Bản thôn tính Nam Hàn. Đứa con trai duy nhất còn sống sót của họ - Hoonie - bẩm sinh bị hở vòm miệng và vẹo chân, rốt cuộc cũng lấy được vợ - con gái út của một tá điền mất đất. Để che giấu sự xấu hổ khi đứa con gái mới tuổi thanh thiếu niên của Hoonie, Sunja, trót mang thai với một doanh nhân đã có gia đình, Baek Isak - một vị mục sư tốt bụng đã cưới cô và đưa cô đến sống ở Osaka. Sau khi ông này mất, Sunja đã kiên cường làm việc chăm chỉ để nuôi sống gia đình trong những năm chiến tranh khốc liệt. Con trai lớn của bà đỗ Đại học Waseda. Con trai út phát đạt nhờ mở hàng chơi pachinko, nơi các con bạc dùng các cỗ máy chơi một trò tương tự pinball. Thế nhưng tương lai của họ lại bị những bí mật và sự bội phản trong quá khứ phủ lên một bóng đen u ám… Pachinko là một câu chuyện về tình yêu, sự hy sinh, tham vọng và lòng trung thành. Từ các chợ đường phố nhộn nhịp đến các trường đại học tốt nhất Nhật Bản, các nhân vật phức tạp và nhiệt huyết của Min Jin Lee - những phụ nữ mạnh mẽ, bướng bỉnh, những người con trai tận tụy, những người cha bị lung lay bởi cuộc khủng hoảng luân lý - tồn tại và phát triển chống lại sự thờ ơ vòng cung của lịch sử. NHẬN XÉT VỀ TÁC PHẨM “Trong tác phẩm hoành tráng đầy ám ảnh này, không câu chuyện nào là phụ và chỉ để lướt qua. Lee đã cho chúng ta thấy rằng, đằng sau vẻ ngoài của những con người rất khác nhau là vô số ham muốn, hy vọng và những nỗi niềm riêng tư, chỉ cần chúng ta có đủ kiên nhẫn và từ bi để nhìn ngắm và lắng nghe.” _The New York Times Book Review “Thật đáng kinh ngạc. Bóng dáng bút pháp của Dickens và Tolstoy đã được áp dụng cho câu chuyện về một gia đình người Hàn sống ở Nhật trong thế kỷ 20.” _Gary Shteyngart, tác giả ăn khách nhất theo The New York Times “Pachinko đã đưa Lee lên hàng những tiểu thuyết gia tài giỏi nhất của chúng ta.” _Junot Díaz, nhà văn đoạt giải Pulitzer 2008 ______ Trích dẫn “Hãy chi tiêu những gì con cần nhưng hãy bỏ dù chỉ vài đồng xu vào một cái lọ và quên rằng mình có nó. Một người phụ nữ lúc nào cũng nên dành dụm chút ít. Hãy chăm sóc chồng con thật chu đáo. Nếu không, người đàn bà khác sẽ làm việc đó. Hãy đối xử với gia đình nhà chồng bằng sự kính trọng. Hãy nghe lời họ. Nếu con phạm sai lầm, thì họ sẽ nguyền rủa gia đình ta. Hãy nghĩ đến người cha tốt bụng của con, người luôn làm điều tốt nhất cho mẹ con ta.” *** "Pachinko" lấy bối cảnh thuộc thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Hàn Quốc và bắt đầu Thế chiến thứ 2. Trong không gian ấy, quyển tiểu thuyết xoay quanh 4 thế hệ một gia đình Hàn Quốc. Một người dân chài lớn tuổi cùng vợ mở nhà trọ ở ngôi làng gần thành phố cảng Busan. Hai ông bà sinh được ba người con trai nhưng chỉ có một đứa con sống sót – đứa yếu đuối nhất và bị dị tật bẩm sinh - Hoonie. Thật may, cậu con trai cũng lấy được vợ, nhưng hai ông bà mất sau ngày con trai cưới 3 năm. Số phận gia đình Hoonie cũng chẳng khá gì hơn, lần lượt sinh được 4 đứa con thì chỉ duy đứa con thứ 4 sống sót – đó là Sunja.  Khi Sunja lớn trạc tuổi thiếu niên thì cô trót mang thai với một doanh nhân tình cờ ghé qua làng chài Yeongdo, Busan. Khi ông ta bỏ đi, một vị mục sư tốt bụng đã cưới cô và đưa cô đến sống ở Osaka. Sau khi chồng mất, Sunja đã cố gắng để nuôi sống gia đình trong những năm chiến tranh khốc liệt. Mọi thứ tưởng như được đền đáp, con trai lớn của Sunja đỗ Đại học Waseda, con trai út làm ăn thuận lợi nhờ mở hàng chơi pachinko – một trò chơi rất phổ biến tại Nhật. Tuy nhiên, tương lai của họ lại bị phủ lên bởi bóng đen u ám và những bí mật của quá khứ. Pachinko là một trong 10 cuốn sách xuất sắc nhất năm 2017 do The New York Times bình chọn. Bình luận về tác phẩm này, The New York Times Book Review viết: “Trong tác phẩm hoành tráng đầy ám ảnh này, không câu chuyện nào là phụ và chỉ để lướt qua. Lee đã cho chúng ta thấy rằng, đằng sau vẻ ngoài của những con người rất khác nhau là vô số ham muốn, hy vọng và những nỗi niềm riêng tư, chỉ cần chúng ta có đủ kiên nhẫn và từ bi để nhìn ngắm và lắng nghe”. Trong khi đó, Gary Shteyngart, tác giả ăn khách nhất theo The New York Times, nhận xét: “Thật đáng kinh ngạc. Bóng dáng bút pháp của Dickens và Tolstoy đã được áp dụng cho câu chuyện về một gia đình người Hàn sống ở Nhật trong thế kỷ 20.” Min Jin Lee sinh năm 1968 tại Seoul. Là nhà văn đương đại người Mỹ gốc Hàn; nổi tiếng với những tiểu thuyết chủ đề di dân. Năm 7 tuổi, Min Jin Lee cùng gia đình di cư sang Mỹ. Cô học lịch sử tại Đại học Yale và luật tại Đại học Georgetown; làm luật sư tại New York vài năm trước khi bắt đầu sự nghiệp văn chương. Min Jin Lee từng ở Nhật trong bốn năm. Hiện cô đang sống và viết tại New York. *** TIỂU THUYẾT PACHINKO CỦA MIN JIN LEE ĐƯỢC OBAMA KHUYÊN ĐỌC Cựu tổng thống Mỹ Barack Obama vừa chia sẻ trên trang cá nhân về những cuốn sách yêu thích gần đây của ông, một trong số đó chính là tiểu thuyết Pachinko của nhà văn gốc Hàn Min Jin Lee. "Đây là một cuốn sách vô cùng hấp dẫn mà tôi được một bạn nhân viên trẻ gợi ý đọc - một cuốn tiểu thuyết lịch sử về trải nghiệm nhập cư của người Hàn Quốc ở Nhật Bản thời chiến. Min Jin Lee thu hút bạn đọc ngay từ dòng đầu tiên: “Lịch sử đã làm chúng ta thất vọng, nhưng không sao.” - “History has failed us, but no matter.” Tựa sách được đặt theo tên của trò chơi pinball phổ biến tại Nhật Bản, một trò chơi may rủi nơi người chơi có thể điều chỉnh tốc độ và hướng đi của quả bóng, nhưng một khi bóng đã được phát đi thì kết quả sẽ được quyết định bởi một mê cung các chướng ngại vật. Tương tự như bản chất của trò chơi này, tiểu thuyết của Min Jin Lee đưa chúng ta qua bốn thế hệ của một gia đình cùng với hành trình tìm kiếm căn cước và thành công của mỗi nhân vật. Pachinko là một câu chuyện mạnh mẽ về sự bền bỉ và lòng trắc ẩn." *** Lấy hình ảnh chiếc máy trò chơi may rủi pachinko của Nhật Bản làm biểu tượng, nữ tác giả người Mỹ gốc Hàn Min Jin Lee đã viết lên thiên tiểu thuyết "Pachinko" kể về lịch sử của một gia đình Hàn Quốc sống lưu vong trên đất Nhật. Câu chuyện bắt đầu ở một làng chài duyên hải Hàn Quốc năm 1910, nơi người dân sống một cuộc đời lầm lũi, đói nghèo dưới ách cai trị lúc bấy giờ của đế quốc Nhật. Cô bé Sunja sinh ra trong gia đình có người cha bị dị tật bẩm sinh, sớm qua đời, bỏ lại cô cùng bà mẹ góa điều hành một nhà trọ tồi tàn. Trong một cuộc gặp gỡ định mệnh, cô phải lòng một người đàn ông giàu có, từ đây số phận của cô hoàn toàn thay đổi… Những nhân vật trong tiểu thuyết này cũng giống như viên bi trong trò pachinko, phó mặc số phận mình cho may rủi, bị ném đi khắp bàn, hay bị đánh tơi tả bởi những thanh chắn mà không tự làm chủ được vận mệnh. Đối với họ, cuộc đời là một chiếc máy pachinko khổng lồ, còn họ chỉ là những đồng xu hay viên bi trong cỗ máy đời ấy. Cô bé Sunja không muốn chấp nhận cuộc sống giàu sang nhưng mang thân vợ lẽ, dấn thân vào dòng đời đầy gian truân, chấp nhận xa lìa tổ quốc, chịu biết bao khổ nạn. Ở "Pachinko", ta có thể bắt gặp những con người đê tiện, cơ hội, ăn hôi trên xương máu đồng bào hay táng tận lương tâm nhưng đồng thời ta cũng thấy những con người độ lượng và bao dung, đối xử với nhau bằng tình thương, chan hòa và bác ái. Min Jin Lee sinh năm 1968 ở Seoul, di cư sang Mỹ cùng gia đình năm lên 7. Trưởng thành trong một xã hội được xem là văn minh hiện đại nhưng đầy rẫy những mâu thuẫn về sắc tộc, cô bé da vàng Min Jin Lee hiểu thế nào là thân phận lưu vong. Trong ấn bản tiếng Việt (dịch giả: Nguyễn Bích Lan; Phanbook và NXB Phụ nữ, quý IV, 2018), độc giả được chứng kiến Sunja từ một thiếu nữ côi cút biến thành một lão bà con đàn cháu đống hay Noa từ lúc còn là một bào thai trong bụng Sunja cho đến khi thành ông bố 4 con, tiểu thuyết "Pachinko" ôm gần như trọn vẹn cả thế kỷ XX của một gia đình Hàn trên đất Nhật. Tài năng của Min Jin Lee được ghi nhận khi "Pachinko" lọt vào vòng chung khảo giải National Book Award và được tờ The New York Times bầu chọn là một trong mười cuốn sách xuất sắc nhất năm 2017. Mời các bạn đón đọc Pachinko (Tiểu Thuyết) của tác giả Min Jin Lee & Nguyễn Bích Lan (dịch).
Khi Loài Vật Lên Ngôi
Đây thực chất là một cuốn tiểu thuyết khôn ngoan, dí dỏm về bản chất man rợ của con người, và sa giông chỉ là một công cụ để biểu đạt cái ẩn dụ sâu sa ấy. Thuyền trưởng người Hà Lan, Đại úy Van Toch, trong một cuộc đi săn tìm ngọc trai, đã phát hiện ra những con sa giông khổng lồ, chỉ có thể được tìm thấy trên một hòn đảo gần Sumatra. Những người bản địa gọi chúng là “tapa”, hoặc "quỷ biển". Những con sa giông muốn ăn hàu nhưng chúng không thể tách vỏ được. Van Toch muốn ngọc trai nhưng rất khó khăn trong việc lặn sâu để bắt được hàu. Ngoài ra các loài động vật ăn thịt lớn như cá mập luôn là mối đe dọa với sa giông. Và chính từ đó, Van Toch đã nghĩ ra một phi vụ làm ăn, có thể xem là mấu chốt của mọi vấn đề. Vị thuyền trưởng bắt đầu cung cấp cho những con sa giông dao để chúng có thể tách hàu, và đâm cá mập. Hơn nữa, kế hoạch nhân rộng sa giông sang những vùng khác cũng bắt đầu được lan rộng. Thuyền trưởng Van Toch tìm thấy một người đầu tư tài chính, và bắt đầu từ đó những con sa giông được rao bán trên thế giới. Sa giông không chỉ thu gom ngọc trai và san hô, chúng con được thuê để làm tất cả những công việc dưới nước như xây đập, thủy điện, đê điều, kéo dài đường bờ biển... Khi Van Toch chết, công ty mang tên Salamander Syndicate đã được thành lập, và bắt đầu khai thác sa giông giống như một lực lượng lao động giá rẻ. Hàng tỷ con sa giông đã lan rộng đến tất cả các bờ biển và các quốc gia. Cuối cùng, con người và sa giông đã đi đến xung đột, để tranh giành địa bàn, tranh giành sự sống, và quyền lực. Karel Capek chính xác là một bậc thầy của thể loại hài hước đen. Ông đã biến tất cả mọi thứ âm mưu xấu xa thành một câu chuyện mang lại niềm vui thú vị. Ông chế giễu cách thủy thủ nguyền rủa sa giông, châm biếm sự thông minh, chợ đen, các doanh nhân, chủ nghĩa tư bản, Ki Tô giáo, nhà sưu tập, rượu, xu hướng và lý thuyết trong giáo dục, khai thác, một nhất thời, thời trang, chú thích, thói tham lam, đạo đức giả, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa Phát xít, những người cố gắng để tiếp tục chương trình nghị sự của của chính họ. Ông chế giễu ô nhiễm, phân biệt chủng tộc, tôn giáo, thói tự cao tự đại, ngụy biện, chiến tranh, những người giàu có, những câu lạc bộ phụ nữ, và đặc biệt là khoa học, những nghiên cứu, hội nghị, khám phá tranh luận dài dòng về loài sa giông.... đã khiến câu chuyện trở thành một bức tranh châm biến lý thú, vạch trần đầy đủ bộ mặt của xã hội, với một thứ văn chương sâu cay, hài hước, và thông minh. Cuốn sách được xuất bản lần đầu vào năm 1936, “khi nó vẫn còn có thể cười vào Adolph Hitler”. Trong cuốn sách có nhiều đoạn thú vị về nước Đức. Ví dụ chi tiết  người Đức quyết định rằng con sa giông của họ là cấp trên, nhạt màu, đi bộ nhiều hơn xây dựng, và có những đặc tính vượt trội hơn hẳn sa giông ở nơi khác. Với thái độ khinh bỉ, họ mô tả những con sa giông Địa Trung Hải thoái hóa, còi cọc cả về thể chất và đạo đức, xem chúng là các con sa giông man rợ nhiệt đới, và hoàn toàn là loài sa giông cấp dưới. Khi loài vật lên ngôi hài hước, châm biếm, bất ngờ, súc tích. Với cách giới thiệu nhân vật mới, phong cách tự sự mở, trong hầu hết các chương, chỉ với một không khí châm biếm. Câu chuyện sa giông cũng có thể được xem là một câu chuyện ngụ ngôn cho những kinh nghiệm của nhiều dân tộc bị áp bức và những nạn nhân của chủ nghĩa thực dân, luôn bị yếu thế, nhưng cũng luôn có ý thức nỗ lực để được văn minh, để trở thành thành viên của xã hội da trắng châu Âu, chiếm đoạt các nghi lễ văn hóa, và tất nhiên là chế độ nô lệ. Đây là một cuốn sách, trong đó có đám đông, và cần được đọc bởi đám đông. Không có nhân vật chính trong Khi loài vật lên ngôi, thay vào đó câu chuyện được trình bày như một bài học lịch sử lâu dài mang tính giải trí. Người kể chuyện trích từ bài báo khoa học, các cuộc phỏng vấn, và những bài báo được sưu tập bởi ông Povondra. Povondra là một nhân vật khá xuyên suốt, và thú vị trong cuốn sách. Ban đầu ông cảm thấy rất tự hào rằng mình là một người có tác động to lớn quan trọng đến sự phát triển của lịch sử văn minh loài người, nhưng rồi đến cuối đời, lại chết trong nỗi ám ảnh tội lỗi về sự xuất hiện của sa giông tại dòng sông nơi quê hương mình. Capek tự hỏi mình: "Này anh, anh không thấy hối tiếc cho loài người hay sao?"  Ông tự đáp:" Lạy Chúa, hãy để tôi yên! Tôi biết làm sao bây giờ?" “Tôi nói cho anh biết: ngay cả lúc này, khi một phần năm châu Âu đã chìm dưới nước, anh có biết ai vẫn ngày đêm làm việc như điên cuồng trong các phòng thí nghiệm để cố sáng chế ra những máy móc và vật liệu phá hủy cho hiệu quả hơn không? Anh có biết ai vẫn cho sa giông vay tiền, ai đang tài trợ cho sự tận diệt thế giới này, cho trận Tân Đại Hồng Thủy hay không?” Capek hẳn có tiếc, nhưng đó là tiến trình phát triển tự nhiên của loài người. Các ông nhà văn chẳng bao giờ có thể can thiệp vào điều đó. Đây không phải là suy đoán về những gì trong tương lai, mà là tấm gương phản chiếu cái đang tồn tại và chúng ta đang sống chung với nó. Khi loài vật lên ngôi dành được rất nhiều lời khen ngợi của những tác giả nổi tiếng. Nhà văn Milan Kundera từng nói “Khi loài vật lên ngôi sẽ không bao giờ rơi vào quên lãng… Čapek có lẽ là nhà văn châu Âu đầu tiên có những tác phẩm hình dung trước được viễn cảnh khủng khiếp của thế giới toàn trị.” Cuốn sách này còn là cảm hứng cho vô số tác phẩm lừng danh được xuất bản sau, có thể liệt kê ra như: 1984 hay Trại súc vật của George Orwell; hay The Sirens of Titan, Harrison Bergeron của Kurt Vonnegut… và ngay cả ý tưởng sinh sản đơn tính của khủng long trong Công viên kỷ Jurassic… Čapek được đề cử giải Nobel Văn học bảy lần, nhưng ông không bao giờ giành chiến thắng. Tuy nhiên, một số giải thưởng lại mang tên ông, như giải Karel Čapek, được trao tặng hàng năm bởi Czech PEN Club cho tác phẩm văn học góp phần củng cố và duy trì các giá trị dân chủ và nhân văn trong xã hội.  Ông cũng là một nhân vật chủ chốt trong việc tạo ra các PEN Club Tiệp Khắc là một phần của Văn Bút Quốc tế.  Phong Linh - Zing.vn *** Tôi thường được hỏi, điều gì đã thôi thúc tôi viết “Khi loài vật lên ngôi”, và tại sao tôi lại chọn loài động vật lưỡng cư để làm hình tượng cho cái gọi là tiểu thuyết viễn tưởng của mình về sự diệt vong của nền văn minh loài người. Thành thực mà nói, ban đầu tôi không hề có ý định viết tiểu thuyết viễn tưởng. Tôi cũng không có mối quan tâm yêu thích nào đặc biệt đối với hình thức viễn tưởng; trước khi bắt đầu viết về những con vật lưỡng cư này, thậm chí trong đầu tôi là một tiểu thuyết hoàn toàn khác. Tôi nghĩ ra hình mẫu một người tốt, hơi giống với người cha quá cố của tôi, một bác sĩ tỉnh lẻ với các bệnh nhân; đó phải là một bài ca về ngành y, và phần nào đó về bệnh lý xã hội. Tôi đã khá hứng thú với ý tưởng đã nghiền ngẫm trong đầu tuần này qua tháng khác, nhưng lại không tài nào thấu cảm hoàn toàn. Tôi hoài nghi, liệu nhân vật bác sĩ tốt bụng có thể làm gì trong cái thế giới hỗn loạn này, như bấy lâu nay. Vâng, ông ấy có thể chữa lành vết thương cho mọi người, nhưng hầu như không liên can gì đến sự bất lực và nỗi đau mà thế giới chúng ta đang chịu đựng. Tôi nghĩ về người bác sĩ tốt bụng, nhưng cả thế giới này lại đang quay cuồng với khủng hoảng kinh tế, bành trướng dân tộc và ngòi nổ chiễn tranh. Tôi không thể nào hóa thân vào nhân vật bác sĩ của mình, bởi tôi - cho dù không ai đòi hỏi điều này ở các nhà văn - vẫn luôn trăn trở một điều: Cái gì đang đe dọa thế giới loài người? Sự thật hiển nhiên là tôi không thể xoay chuyển được hiểm họa của văn minh nhân loại, nhưng ít nhất tôi không thể ngồi nhìn và không thể thôi nghĩ đến điều đó. Mùa xuân năm ngoái, thời kỳ mà kinh tế thế giới xấu đi và chính trị còn tồi tệ hơn, tôi có lần đã viết câu này: “Bạn không được phép nghĩ rằng, sự phát triển đang bùng nổ trong cuộc sống của chúng ta là cơ hội phát triển duy nhất trên hành tinh này”. Và đây rồi. Câu này là nguyên nhân khiến tôi viết “Khi loài vật lên ngôi”. Điều này luôn đúng: Chúng ta không thể loại trừ khả năng là, trong những điều kiện phù hợp, một loài sinh vật khác con người cũng có thể trở thành cái nôi của sự phát triển văn minh. Nếu xét theo con người với nền văn minh và văn hóa của mình, trong suốt lịch sử phát triển từ một loài linh trưởng, từ các bộ lạc nguyên thủy, ta có thể mường tượng một nguồn năng lượng tiến hóa tương tự có thể chi phối quá trình phát triển của các loài động vật khác. Không thể loại trừ khả năng là, trong những điều kiện sống nhất định, ong hay kiến có thể trở thành những giống loài thượng đẳng, năng lực văn minh của chúng không thua gì chúng ta. Cũng không thể loại trừ khả năng này ở các sinh vật khác. Trong những điều kiện sinh học thuận lợi, một nền văn minh khác có thể xuất hiện, không thấp kém hơn nền văn minh của chúng ta, kể cả dưới sâu thẳm đại dương. Đấy là ý tưởng ban đầu; và ý tưởng thứ hai: Giả sử một loài động vật khác con người đạt được cái trình độ mà chúng ta gọi là nền văn minh, thì bạn nghĩ gì? Chúng cũng làm những điều vô nghĩa như loài người? Cũng châm ngòi các cuộc chiến tranh? Cũng gây ra các thảm họa lịch sử? Và chúng ta nhìn nhận thế nào về chủ nghĩa đế quốc của loài bò sát, chủ nghĩa dân tộc của loài mối, về sự bành trướng kinh tế của chim hải âu hay cá mòi? Chúng ta sẽ nói gì khi một loài động vật khác con người, với tri thức và số đông áp đảo, tuyên bố rằng chỉ có chúng mới có quyên ngự trị cả thế giới và thống soái muôn loài? Khi so sánh với lịch sử loài người, và với những gì nóng bỏng nhất vừa xảy ra, tôi buộc phải ngồi vào bàn mà viết “Khi loài vật lên ngôi”. Giới phê bình liệt nó vào tiểu thuyết viễn tưởng. Tôi phản đối từ này. Đây không phải là viễn tưởng, mà là hiện thực. Đây không phải là suy đoán về những gì trong tương lai, mà là tấm gương phản chiếu cái đang tồn tại và chúng ta đang sống chung với nó. Đây không phải truyện hoang đường, thứ mà tôi có thể cho không và còn tặng thêm bất cứ lúc nào, bao nhiêu tùy thích và cho bất cứ ai. Đây chính là hiện thực. Biết làm sao được, nhưng văn chương nếu không quan tâm đến thực tại và những gì thực sự xảy ra trên thế giới, nếu không có những phản ứng mạnh mẽ mà chỉ là ngôn từ và ý nghĩ sáo rỗng, thì đó không phải văn chương của tôi. Thế đấy, tôi viết về những con vật lưỡng cư vì tôi nghĩ đến loài người, tôi đã chọn một loài vật giống con sa giông làm hình tượng, không phải vì tôi thích hay không thích nó hơn những sản phẩm khác của Tạo Hóa, mà vì chuyện dấu tích của loài sa giông khổng lồ tiền sử ở Phân kỷ Đệ tam đã từng bị lầm tưởng là hóa thạch của tổ tiên loài người; do đó trong tất cả các loài vật, sa giông có vị trí lịch sử đặc biệt để có thể bước lên khán đài như là hình ảnh của chúng ta. Và nếu như có một cái cớ để có thể miêu tả những việc liên quan đến con người mà tác giả buộc lòng phải hóa thân vào những con sa giông thì đây là một trải nghiệm hơi lạnh lẽo, nhưng rốt cuộc nó cũng quyến rũ và kinh hoàng như khi hóa thân làm Nhân loại. KAREL ČAPEK (1936) Mời các bạn đón đọc Khi Loài Vật Lên Ngôi của tác giả Karel Čapek & Đăng Thư (dịch).
Đêm Núm Sen
  “Ba giờ đêm, dưới phố, lại lào xào một cuộc hành binh dài dặc, về làng… Tôi tỉnh giấc. Sứa nằm thiêm thiếp bên vai tôi. Tôi nghe tiếng Sứa thở. Tôi vuốt nhẹ, dọc cái lưng trần. Vuốt nhẹ. Tôi nhớ cặp đùi. Khi nãy, nó giãy. Nó giãy cuống quýt. Tôi đưa tay vuốt. Sứa vẫn thiêm thiếp. Tôi vuốt. Căn buồng đỏ mênh mông. Tôi vuốt sự ngây thơ rơm rớm. Con nai nằm nghiêng đùi hơi co. Tôi vuốt… Dưới phố, những ki lô mét hành quân… Tôi vuốt. Sứa tỉnh dậy. Sứa thẹn. Sứa co người lại. Tôi vuốt. Con nai ngây thơ của tôi ơi! Tôi vuốt con nai bị thương của tôi. Rơm rớm… Rơm rớm…” Khi kiến Gầy phải lòng một cô gái vú vểnh, và sục sạo đến tận nhà của cô nàng, tức biệt thự Đá Đỏ, để tìm hiểu và tỏ tình, anh chàng không sao ngờ được cuộc chinh phục của mình lại có thể gian nan đến thế và nhất là, có thể bị chia cắt đến như vậy. Bởi cuộc chiến. Tình yêu của kiến Gầy, như của bao nhiêu người-kiến kiến-người khác, đã bị chiến tranh tràn qua, như một cơn hồng thủy. Đêm núm sen, hơn cả một cuộc phiêu lưu vào một thế giới giả tưởng, nơi mà cuộc sống cá nhân, bị nghiền nát và cuốn đi bởi chiến tranh, bởi đời sống tập thể, trước hết, là một cuộc trình diễn ngôn ngữ của một tác giả mà từ vựng là của thi ca và cảm xúc là của thi sĩ. Ai có thể tả những phấp phỏng, thẹn thùng, nhớ nhung, đay khổ, say đắm như Trần Dần? Ai có thể tả đêm núm sen phập phồng cảm xúc và sexy như Trần Dần? Với Đêm núm sen, sự viết của Trần Dần một lần nữa khẳng định rằng tiếng Việt đẹp thế nào và vì sao ông vẫn là một thành lũy vời vợ Chẳng phải vậy ư, khi những trang bản thảo ố vàng, tìm được đường trở lại sau hơn nửa thế kỷ bị cất giấu, bị gián nhấm và thất lạc, vẫn tỏa nguyên một “quyền lực man mác” lên chúng ta hôm nay. *** Tác giả Trần Dần lựa chọn hình thức ngụ ngôn để viết Đêm núm sen, thay vì chọn bối cảnh thực như Những ngã tư những cột đèn. Hình thức ngụ ngôn khiến cho tiểu thuyết xa rời quy chiếu có tính hiện thực, tạo ra một không gian có tính ước lệ, biểu tượng. Câu chuyện làng Mận, cuộc chiến ở đây gần như là phản chiếu của rất nhiều cuộc chiến, của rất nhiều thân phận con người. Nhà văn Trần Dần thường vượt qua cái khung một thể loại văn chương ở nhiều điểm. Với Đêm núm sen, Dương Tường gọi là một ngụ ngôn đen, giống như những ngụ ngôn đen của Gunter Grass thể hiện gương mặt bị lãng quên của lịch sử. Tác phẩm là một ngụ ngôn đen kể chuyện con vật, nhưng câu chuyện đi rất xa so với tác phẩm đồng thoại. Ở đây, loài kiến không chỉ gợi ra ý niệm nhỏ bé, mà nó sống theo bầy. Khi nhìn kiến, ta chỉ có thể nhìn nó khi cúi thật thấp. Quan hệ của loài kiến là mối quan hệ giữa cá nhân và bầy đàn, mà cá nhân thường bị đẩy ra bên lề lịch sử. Tác phẩm được viết với nhịp độ nhanh, mạnh, gấp gáp, mang hơi thở trên từng bề mặt câu chữ. Tác giả Trần Dần trong những nhật ký có nói ý chiến tranh không cho phép người ta nghĩ được nhiều. Trong cuộc chiến, mọi thứ diễn ra quá nhanh, tất cả câu chuyện dù lớn lao hay nhỏ bé, chiến tranh không làm cho người ta nghĩ. Đêm núm sen dưới lớp vỏ nhanh, gấp gáp, các sự kiện liên tục diễn ra, các nhân vật liên tục xuất hiện, nhưng trong cái cách hối hả đó là sự suy nghĩ thật chậm, thật sâu vào chiến tranh. Tất cả những câu đối thoại ngắn gọn, những nhịp đi gấp gáp trong sách được nhà văn tính toán kỹ lưỡng để người đọc buộc phải suy nghĩ. Nhà phê bình văn học Mai Anh Tuấn thừa nhận “Tôi không đủ sức để đuổi theo hết ý tưởng của Trần Dần. Cuốn sách này làm cho ta ngỡ ngàng về tính hiện đại. Đọc nó, cho tôi những cặp tri nhận khác nhau: chiến đấu – lao động, tình yêu – sự thù oán, đau khổ – hèn nhát, mộng tưởng – tuyệt vọng…" Những cặp cảm giác mà Mai Anh Tuấn nêu ra trong sách không chỉ đúng với con người ở một thời đại, mà đúng với chúng ta ở thời đại ngày hôm nay. Chính vì thế, độc giả hôm nay khi chạm đến cặp cảm giác đó có vẫn có thể tìm được tiếng nói chung ở tác phẩm. Và cũng vì thế, mà tác phẩm dẫu được viết ra từ hơn nửa thế kỷ trước, tới nay vẫn phù hợp và mới mẻ.  *** TRẦN DẦN sinh ngày 23.8.1926 trong một gia đình khá giả tại phố Năng Tĩnh, thành phố Nam Định. Ông học trung học tại Hà Nội, đậu tú tài Pháp và bắt đầu làm thơ. Năm 1946, Trần Dần lập nhóm thi sĩ tượng trưng cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương... Cũng trong năm này, tạp chí Dạ Đài ra số 1, đăng bản tuyên ngôn của phái Tượng trưng do Trần Dần chấp bút. Năm 1954, Trần Dần viết Người người lớp lớp, cuốn tiểu thuyết duy nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đó về Điện Biên Phủ. Sau đó Trần Dần viết Nhất định thắng (thơ, 1955); Đi! Đây Việt Bắc (trường ca, 1957), Cổng tỉnh (thơ, 1960); Đêm núm sen (tiểu thuyết, 1961), Jờ Joạcx (thơ, 1963), Mùa sạch (thơ, 1964) Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết, 1964)... Năm 1976, Trần Dần và Dương Tường thử nghiệm Thơ thị giác. Năm 1980, Trần Dần viết bộ tam 36 thở dài - Tư Mã dâng sao, năm 1987 viết Thơ mini... Trần Dần mất ngày 17 tháng 1 năm 1997 tại Hà Nội. Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Một số tác phẩm khác của Trần Dần được Nhã Nam xuất bản: — Trần Dần thơ — Đi! Đây Việt Bắc — Những ngã tư và những cột đèn   *** "Mỗi lần đứt tay... lại đau một lần.” Mỗi lần đau, lại một lần thấy có "nhiều im-lặng biết nói”, cùng “nhiều câu nói không-nói-gì”. Đấy là những nỗi đau lặp lại. Đấy là thân phận của một nhân vật kiến, của nhiều nhân vật kiến của cả loài kiến. Đấy là ngôn từ, chẳng thể chỉ dành riêng cho một người, cho nhiều người hoặc cho cả loài người. Đêm núm sen là cuốn sách như thế về một xã hội côn trùng khép mình trong lịch sử của chính nó, một xã hội có thừa đau thương đến nỗi chỉ có thể an bình mà chịu kiếp cô lập, bởi vì mọi lối ra bên ngoài lại chính là những lối vào của nguy hiểm và chiến tranh. Một xã hội mà ở đấy lũ kiến yêu thích giả buồn để mua vui, để sau đó lại “không nên đùa với cái buồn”. Đêm núm sen là cuốn tiểu thuyết về một cộng đồng nhân loại mà ở đấy có “sáng tác tập thể”, có “những tác giả nặc danh của chiến thắng”, có “quá nhiều nước mắt”, có những bữa tiệc mà mỗi lần “đi dự tiệc, cứ phải ngâm thơ”, có diễn thuyết, có những thở dài vì “ai có thể cãi được với tin đồn?” Đêm núm sen cũng là một bài trí sân khấu khổng lồ để đưa khán giả vào những “ki lô mét nhớ”, vào “những ngã tư, cột điện lằng nhằng”, vào phố Bồ Đào, phố Gầm Cầu, phố Xu Xê, phố Hoa Mười Giờ, đại lộ Mùa Thu, chẳng hề tồn tại ở bất cứ nơi nào... rồi vào những phố Hy Lạp, những xóm La Tinh... rồi tới phố Hàng Gà và phòng tuyến Chèm là những địa danh có thật ở Hà Nội. Nhưng trên hết, Đêm núm sen chính là tình yêu, là cuộc đi tìm tình yêu. Và bởi vì tình yêu mà lũ kiến có thể hóa thân thành người hoặc ngược lại con người sẵn sàng mang kiếp của kiến. Nhưng thực ra kiếp người hay kiếp côn trùng, đâu có khác gì nhau. Những loại chủng này bao giờ cũng lủng củng yêu thương, ngay cả khi chiến tranh ập đến, ngay cả khi chúng bị cuốn vào đau thương và mất mát. Cái còn lại chỉ là tình yêu. Và quan niệm về tình yêu thì làm sao thay được. Đấy là khi anh kiến Gầy thổ lộ lời yêu với nàng kiến: “Sứa có tin là tôi yêu Sứa thế này, tức là tôi chỉ yêu độc có mình tôi thôi không?” Đấy cũng là lúc mà kiến Gầy trong những khổ sở vì tình yêu, bất chợt quên cả tổ tiên và nguồn gốc mà than thở, rằng ở nơi mà lũ kiến đang sống “mỗi người là một tiểu thuyết”. Ngôn từ này của anh kiến Gầy, kéo dài trong những độc thoại cùng đối thoại, có đôi chút ngây ngô cụt lủn và kém văn học của loài kiến, có không ít nhạy cảm và phức tạp của loài người, để không thể không nhắc tới chàng trai trẻ của Cổng tỉnh năm 1960, và Trần Dần trong những bài thơ lẻ 1963. Chàng trai tỉnh lẻ, nhà thơ, và anh kiến, cả ba chia nhau cùng những từ vựng, cùng một tình yêu phố phường, cùng một cảm thụ một cảm xúc thẩm mỹ. Chính vì vậy mà đâu đó trong suốt chiều dài lời kể chuyện vụng dại của kiến, thể nào cũng lấp lánh những ngôn từ thô tục mà chỉ Trần Dần mới chắp lại được thành thơ. Viết năm 1961, Đêm núm sen cũng như nhiều tác phẩm khác của cùng tác giả, phải đợi nhiều thập niên mới đến được với công chúng. “Có cần kể nữa không?” câu hỏi chẳng biết trả lời ra sao của anh kiến Gầy, khi mà 56 năm đã qua kể từ khi Trần Dần hoàn thành bản thảo, khi mà Đêm núm sen đã được gấp rút biên soạn trong những ngày đầu năm 2017. Vào đúng lúc mà 20 năm về trước nhà thơ đã vội vã ra đi. Một lần cho mãi mãi. 1 TRẦN TRỌNG VŨ   Mời các bạn đón đọc Đêm Núm Sen của tác giả Trần Dần.
Một Mùa Đông Ở Stockholm
Đã bao giờ trong cuộc sống này, chúng ta muốn bật ra một câu hỏi tan nát cõi lòng rằng, vì sao chúng ta không được yêu thương như tình yêu chúng ta đã cho đi? Có thể là câu hỏi ấu trĩ, ích kỷ, trẻ con, nông cạn, quá xấu hổ để thốt ra nhưng có lẽ nó thật sự tan nát cõi lòng khi buộc phải vang lên. Trong Một mùa đông ở Stockholm, Agneta Pleijel có đưa ra một trích đoạn: “NÀNG CÔNG CHÚA bị giam trên chòi cao, nàng công chúa trên quả núi thủy tinh của mình, bị vua cha yểm bùa. Không một kẻ cầu hôn nào tìm ra lời giải cho câu đố, không một ai trong số bọn họ đưa nổi con ngựa của mình tới đỉnh những thành vách trơn nhẫy. Đó là điều mà câu chuyện kể khẳng định. Nhưng có phải nàng công chúa đã bị vua cha yểm bùa hay không? Chị không nghĩ như vậy. Cha chị là một con người tốt bụng và hiểu biết lẽ phải.” Một câu chuyện cổ quen thuộc. Rapunzel? Cha? Hay là mẹ? Có lời yểm bùa nào cản ngăn hạnh phúc? Hay là chính chúng ta? Khi gấp lại trang cuối cùng của Một mùa đông ở Stockholm, tôi chợt nhận ra trong cơn xao động dữ dội của lòng mình, tôi không những không rơi nước mắt mà còn mỉm cười. Tôi đã muốn kể ngay lập tức về quyển sách này cho một số người thân quen, báo cho họ biết sự tồn tại của câu chuyện trên trang giấy, những dòng chữ bộc bạch chân thành mà một phụ nữ khác đã viết nên: một vài người chị, một vài người em gái và có lẽ cả một vài người bạn gái nữa. Bởi vì họ – tất cả những người phụ nữ dịu dàng ấy – đã bị nghiền vụn trước một thế giới mà tình yêu thương giống như “thế giới bơi trong đàn cá y như đàn cá bơi trong đại dương”. Một cuốn sách tràn đầy tính nữ. Tính nữ chảy tràn như cách Agneta Pleijei viết về nước tuyết tan tù đọng dưới những bước chân lữ khách của một mùa đông vùng cực bắc lạnh giá. Tinh khiết nhưng lần hồi bị vấy bẩn, bị khuấy lên dữ dội và tung toé nhưng chậm rãi lắng lại trong sự tĩnh lặng soi bóng bầu trời. Những người phụ nữ đã vỡ tan thành từng mảnh từ thẳm sâu đáy lòng nhưng cũng như một trò chơi xếp hình nếu nhìn quá gần hay quá xa đều không thể dễ dàng nhận ra những khớp nối hay mép viền. Mà chúng thì luôn tồn tại. Một mùa đông ở Stockholm cũng là một tác phẩm có cấu trúc phân mảnh như vậy. Cuốn này là những mảnh vỡ, giống như pha lê, như bụi lân tinh, như những cánh hoa hồng rơi rụng, như những bông tuyết trắng rất mềm rất nhẹ. Tác phẩm đa dạng đến nỗi dưới con mắt nghiên cứu người ta có thể khảo sát nó từ nhiều góc độ phê bình khác nhau, từ phân tâm với những giấc mơ tràn đầy hình ảnh, tái dựng huyền thoại với các biểu tượng kinh điển, những câu chuyện cổ tích, v.v… đến phê bình nữ quyền với quá nhiều những thăm dò tinh tế vào địa hạt của mối quan hệ về giới. Một quyển sách mỏng giống như cánh cửa nhỏ mở vào một thế giới nội tâm trùng điệp, như chiếc hang thỏ đã dẫn bước Alice đến với Wonderland. Nhưng từ một cách tiếp cận gần gũi hơn, đây là lời tự thuật của nhân vật nữ chính – một nhà trí thức, một giáo sư thành đạt ở độ tuổi trung niên – người đã ly hôn hai lần và có mối quan hệ tình ái với một người đàn ông đã có vợ. Cô kể về tất cả những gì cô có thể kể, dường như không theo một trật tự nào ngoài sự phức tạp ngẫu nhiên của hồi ức. Chính từ các dữ kiện và sự ngẫu nhiên sắc sảo ấy, Một mùa đông ở Stockholm vì vậy không chỉ là câu chuyện tuyến tính giả lập về một đời người. Nó chính là bản vẽ về nội hàm bên trong toà thành của một người phụ nữ. Hay nói cách khác, nó chính là chân dung đa chiều của một người nữ. Chúng ta sẽ không chỉ thấy Agneta Pleijei tạo nên một bức tranh sống động từ câu chữ. Thay vào đó, bà đổ xuống trang giấy một làn nước lấp lánh, uốn lượn và mềm mại như cực quang Bắc cực. Làn nước ấy vừa sâu hun hút, vừa dịu dàng, ngây thơ lại có lúc hoang dại, bén nhọn, kiến tạo nên sự sống và cũng hàm chứa sức mạnh hủy hoại chính bản thân mình. Thật hiếm có một cuốn sách nào có thể đem đến nhiều sự chia sẻ chân thành đến vậy dành cho phái nữ với những đối thoại thẳng thắn về mối quan hệ trong gia đình, về cách tìm kiếm tình yêu thương. Sự thật cay đắng nhưng sự thật cần được nói ra, để hiểu với nhau rằng, chẳng có ai đơn độc. Cũng chẳng ai là có lỗi. “MỘT TRUYỆN CỔ TÍCH Một đứa trẻ khi mới ra đời là một cái bánh xe quay tít. Khi mọi người chất lên nó những gánh nặng, đứa bé trở thành một con lạc đà. Nó đi vào sa mạc. Ở đó nó gặp sự giận dữ của nó: đó là con sư tử. Lạc đà và sư tử giao chiến với nhau. Lạc đà chiến thắng. Đúng lúc ấy, nó bị biến trở lại thành đứa bé. Và đứa bé trở thành một cái bánh xe, xoay tròn lăn đi, tự do, trong thế giới.” Tôi đã tự hỏi, nếu con sư tử chiến thắng thì sao? Nhưng rồi tôi đã hiểu, chiến thắng đi kèm thất bại và thất bại cũng quan trọng như chiến thắng vậy, bởi vì đó chính là kết quả. Cuộc sống này quan trọng chính vì nó sẽ có và cần có điểm kết thúc. Chúng ta, là những con lạc đà, khuân trên lưng nỗi đau của tình thương, một món nợ truyền đời, chạy qua chạy lại trên sa mạc, đánh nhau với sư tử, “dọn cho mọi người thịt của chính mình để cho họ ăn chán ăn chê”. Nhưng “nỗi đau là cá thể”. Và rốt cuộc thì, người ta phải học cách thua trước cuộc đời để được tự do. Chiễm Phong (c) ReadingCafe.wordpress.com *** Nguyên Nguyên's review Dec 09, 2016 Một quyển nhật ký, chính xác là vậy. Tôi vẫn chưa định hình hoàn toàn cảm xúc của mình sau khi đọc về cuộc đời người phụ nữ ấy.  Những câu chữ nhẹ nhàng, lơ lửng, trôi đi nhanh chóng như 1 dòng nước uốn lượn, quanh co có khi rối tung ở 1 chỗ, tưởng như phập, lụa đứt. Một mùa đông u ám ở Stockholm, cùng với 1 nỗi lòng cũng đầy rẫy những vết nứt tưởng chừng chẳng bao giờ có thể lấp lại. "Một đứa trẻ khi mới ra đời là một cái bánh xe quay tít. Khi mọi người chất lên nó những gánh nặng, đứa bé trở thành một con lạc đà. Nó đi vào sa mạc. Ở đó nó gặp sự giận dữ của nó: đó là con sư tử. Lạc đà và sư tử giao chiến với nhau. Lạc đà chiến thắng. Đúng lúc ấy, nó bị biến trở lại thành đứa bé. Và đứa bé trở thành một cái bánh xe, xoay tròn lăn đi, tự do, trong thế giới.” Đứa trẻ ấy bị đè lên vai với cảm xúc của quá nhiều người, oằn mình chịu đựng làm sao cho vừa lòng tất cả. Một gia đình tan vỡ, những vết nứt sâu không thấy đáy. Mà họ, lại đổ nỗi đau ấy lên 1 đứa bé quá đỗi tinh linh. Một đứa bé mang trong mình tình thương vô tận, để rồi nó cứ đi phân phát chỉ hi vọng cũng nhận lấy 1 chút gì đó yêu thương. Nhưng cuối cùng nhận lại, là sự phản bội, khinh thường, giận dữ, xấu xa.  Tôi lúc trước, vẫn luôn sợ hãi cái cảm giác mình cho đi quá nhiều nhưng người khác lại không thật lòng với mình. Đó là 1 sự đáng sợ, sợ hãi lòng tin bị vùi dập, sợ hãi không vừa lòng, sợ bản thân mình là 1 cái gì đó sai trái. ừ, chị ấy cũng vậy, cũng phải chịu sự đè nén tâm hồn như vậy. Tôi cứ nghĩ cái kết sẽ khác. Nhưng không, kết rẽ theo chiều hướng bất ngờ. Nhưng mà nghĩ lại, chính như thế mới đúng, tự do lòng, tự do thân thể, mới là hạnh phúc đích thực. *** Cái tên ấy nghe thật khác lạ ở miệng anh: êm ái hơn, nhẵn nhụi hơn. Lưỡi anh trượt qua những phụ âm chướng ngại, quyện các nguyên âm lại với nhau, trơn tuột như gió lùa qua các cây hạt dẻ. Sau này, khi còn một mình, chị thử lặp lại cách anh đọc tên thành phố đó mà không được. Cả cái tên lẫn thành phố làm chị sợ: SARAJEVO Xe buýt ở Stockholm phô ra ghê sợ hình ảnh những đàn ông đàn bà trong cảnh cùng quẫn, những đứa trẻ với ánh mắt tố cáo, và bên dưới là một tài khoản ngân hàng viết bằng những con số lớn, đen sẫm: đó là lời kêu gọi cứu trợ. Hai người đi sang bên kia đường; anh đưa tay che mặt. Anh bảo không thể tưởng tượng được là những hình ảnh nói lên sự khủng khiếp của nạn đói trong thế giới thứ ba kia lại là đến từ chính nước anh. Anh đã nói như vậy: “Đất nước tôi”. Tháng Mười một, tuyết trên hè tan ra bẩn thỉu, xe buýt làm bắn nước lên gấu quần, lên giày khách qua đường. Hai người đi đến chân ngôi nhà nơi anh vẫn ngồi viết, nằm trong khu Vasastan, mé thành phố mà chị rất ít khi lui tới. Gian phòng lạnh lẽo. Mùi khói thuốc phảng phất, lửng lơ, đọng lại. Bên cạnh ghế là một lò sưởi điện. Trên bàn, một chiếc máy xử lý văn bản anh mượn của ai đó, một máy in và một máy fax kiểu cổ. Trên gờ cửa sổ, một chiếc máy cát-xét nhỏ và tiếng đàn viôlôngxen. Nhạc Bach qua tiếng đàn Pablo Casals. Những cát-xét này anh mang từ nhà đến: tôi cần nghe thứ nhạc này khi suy nghĩ. Dải giấy từ chiếc máy in chạy ra. Anh đi lại trong phòng, tay đút túi, vẻ bồn chồn, chị cảm thấy thế. Vậy là chị đã khá hiểu anh để có thể cảm thấy nỗi lo âu đó. STOCKHOLM THÁNG MƯỜI MỘT: Một thành phố bắc cực trôi giạt, bầu trời xám nâu, những ngôi nhà nghiêng ngả từ từ lún xuống và mất hút dưới mặt đất. Một vầng đỏ lựng loé lên nhoáng một cái trong cái hẽm giữa mầu đen của mặt đất và mầu đen của bầu trời. Ánh đèn nê-ông nhợt nhạt bên kia cửa kính xe buýt như những lời kêu cứu bi ai. Stockholm tháng Mười một thật khó tả, một tấm khăn liệm quắng vào mùa đông. I HAVE BEEN CALLING FOR MORE THAN ANHOUR…[1] Điện thoại chắc đã đổ chuông lâu rồi chị mới nghe thấy và chạy vội đến trả lời, vấp cả vào dây cắm của chiếc máy hút bụi, rồi vào mấy thùng bìa, chồng sách, đôi ván trượt tuyết, gậy hốc-cây, những quả bóng đá, chồng đĩa hát, túi quần áo, đống báo, tất cả những thứ lỉnh kỉnh chị đã lôi ra từ trong tủ, mắc áo, ngăn kéo. Chị rủa to. Bên ngoài, trời đen kịt. Nhưng căn phòng tràn ngập ánh sáng. Thế lại tốt. Rất sáng, các ngọn đèn đều được bật lên hết. Thoạt tiên, chị không nhận ra ai gọi. Một giọng lạ. BUT IT’S ME! [2] Chị lấy chân đẩy một thùng bìa sang một bên, lấy ra từ đống lộn xộn một chiếc ghế đẩu rồi ngồi xuống. Nhận được một cuộc điện thoại của ai đó sau bao nhiêu năm trời không gặp mặt. Ai đó mà ta không còn nghĩ được nghe lại tiếng nói trên cõi đời này. Đúng thế, chị đã nói chuyện điện thoại lâu, dễ đến một tiếng đồng hồ. Sau đấy, chị cho chạy máy hút bụi. Anh làm gì ở Stockholm, anh đã nhập cư rồi ư? Anh giễu cợt sự bối rối của chị. Không đâu, anh không nhập cư vào đây. Mấy gã kiểm tra hộ chiếu đã rất cảnh giác khi anh đặt chân tới Thụy Điển, họ đã xem xét giấy tờ của anh rất kỹ và hỏi anh rất nhiều. Trong khi anh nói, chị thấy gương mặt anh hiện lên dần dần, như một bức ảnh hiện dần lên trong khay thuốc hiện hình: đôi mắt trong, có lẽ là mầu xám, chị không nhớ nữa, vành môi sắc nét, khóe miệng nhục cảm hoặc giễu cợt; chị đã sống qua một đêm với người đàn ông này, lâu lắm rồi. Từ bao nhiêu năm nay rồi? Mười một năm, anh nói thế. PHI TRƯỜNG SKOPJE. Có ai đó, một trong những người chủ trì hội nghị, đã đưa chị ra đấy, hôn lên má chị và trao cho chị một món quà kỷ niệm: một chiếc lọ gốm nhỏ quai khum khum. Qua cửa kiểm soát hộ chiếu xong, chị dựa lưng vào tường nhìn những hành khách khác, khuỷu tay tì lên lan can sắt chạy xung quanh phòng đợi. Nóng ngột ngạt. Nhiều người lao động nhập cư trở lại sau một chuyến về thăm quê hương; hành lý gồm nào là túi xách, thùng bìa, một số ngồi bệt xuống đất, ghế nào cũng có người ngồi cả rồi. Bên kia những tấm kính bụi bậm, có thể thấy cây cối khô cằn, kiệt quệ vì nóng, rễ cây khẳng khiu. Skopje đấy: chị còn nhớ những bài báo đăng sau ngày động đất năm 1963, hình ảnh những đống gạch đổ nát, những con người vô gia cư, những xác chết. Thành phố bị tàn phá trong vài giây đồng hồ. Giờ đây, người ta đã xây dựng lại rồi. Hiện đại, với những khu chung cư rẻ tiền sơn trắng kiểu trại lính. Chị đến từ Struga, nơi diễn ra hội nghị: một khách sạn rộng mênh mông; các nhà thơ từ khắp thế giới đến ngâm thơ vào ban tối, giữa quầng sáng của những ngọn đèn rọi, trên một chiếc cầu bắc ngang giữa sông. Người dân trong vùng, đàn ông lẫn đàn bà, đến nghe thơ, nằm ngồi ngoài bãi cỏ trên bờ sông cao trong đêm tối. Chị cũng vậy, ngồi trên một mảnh báo gấp lại, hai tay bó lấy gối, nghe được cả tiếng nước róc rách, để mặc cho ý nghĩ lang thang và thử nghe hiểu mấy từ tiếng nước ngoài trong lúc lời dịch song song vang lên trong loa phóng thanh. MƯỜI MỘT NĂM TRƯỚC. Tuy mọi người có hơi bị mê muội vì cái nóng và rượu vang, người ta vẫn nói chuyện không ngớt xung quanh những chiếc bàn gỗ dưới những vòm cây lớn; tiếng nói cứ rì rào, bay lên trời. Những ngôn ngữ thiểu số là những cái túi ký ức của nhân loại, một vị giáo sư ở Ljublijana đã nói vậy khi so sánh một cách bóng bẩy với đặc điểm địa lý của nơi họ đang ở, cách hồ Ohrid không xa, một trong những vùng trũng nhất thế giới, dấu vết của biển Egée từ thế mioxen muộn, với những chi lưu ngầm trong lòng đất và hệ động vật biển duy nhất của nó: một cái nôi cho những mô hình tiếp hợp nguyên thủy của tự nhiên. Một hôm, cảm thấy cần yên tĩnh, chị đã trốn đi và một mình đi xe ô tô đến tận Ohrid, một thành phố đẹp mà chị nghĩ có lẽ chị sẽ muốn trở lại sau này; những bậc thang dốc đứng bằng đá, những ngôi nhà trắng nhỏ xíu nằm giữa những bụi cây nhỏ tỏa hương từ những bông hoa đỏ và trắng, và ở mé dưới rất xa là mặt hồ xanh thẳm lặng như tờ. Chị đã đến thăm một bảo tàng sàn nhà đen xỉn, trên tường trang trí đầy tranh và tượng thánh: những con mắt u tối với cái nhìn soi mói, bàn tay giơ lên trong một động tác tiêu biểu, ngón giữa và ngón cái chạm vào nhau; có một con bướm vàng bay lạc vào giữa những bức tranh, ở mảnh sân có những chiếc bàn trống trơ, trước một bục biểu diễn bỏ không, chị đã uống một ly rượu vang trắng. Trời ngả về chiều, bóng đổ dài. Vài ba đứa trẻ chơi đá bóng, gió nhè nhẹ thổi, thật dễ chịu. ... Mời các bạn đón đọc Một Mùa Đông Ở Stockholm của tác giả Agneta Pleijel & Hoàng Cường (dịch).