Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Việc Máu - Michael Connelly

Terry McCaleb không ở  đỉnh cao phong độ của một đặc vụ FBI dày dặn kinh nghiệm. Ông mới ngoài bốn mươi tuổi, lẽ ra vẫn còn có thể tiếp tục cày xới thế giới tội  ác ở Los Angeles, nhưng trái tim của ông đã  đầu hàng, ông phải thay tim và thấy trước mặt  mình một cuộc sống khác hẳn. Rồi người phụ nữ  đó xuất hiện, không hề báo trước, ngay tại nơi trú ẩn tuổi già của ông. Và McCaleb buộc phải gắng gượng tìm lại phong độ tưởng chừng đã vĩnh viễn mất đi, lần mò theo những lối  đi gian nan nhất của sa mạc và của trí tuệ, với một trái tim của người khác đập trong lồng ngực. Terry McCaleb và Graciela Torres bỗng chốc khám phá ra rất nhiều điều bí ẩn của các tội ác, cũng như bí ẩn trong mối quan hệ tình cảm con người. Michael Connelly ở độ chín của tài năng và phong cách, một cuốn tiểu thuyết trinh thám có nhịp điệu mạnh liên hồi, tàn khốc nhưng không mất đi sự mềm mại, nhân bản, thậm chí là lãng mạn. *** Michael Connelly sinh ngày 21.7.1956. Ông là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Văn đàn thế giới coi M. Connelly là "ông hoàng trinh thám Mỹ", có lẽ bởi nhiều tác phẩm thuộc thể tài này của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và bản thân M. Connelly đã đoạt nhiều giải thưởng văn học quan trọng nhờ số truyện trinh thám mà ông đã viết. Người biết M. Connelly nói ông viết truyện trinh thám không phải do tình cờ, cũng chẳng phải do sự bồng bột, một "tình yêu sét đánh nào đó", mà là do ông có vốn sống giàu có về lĩnh vực điều tra tội phạm. Tất cả bắt đầu từ khi M. Connelly tốt nghiệp Đại học Florida năm 1980 và khởi đầu sự nghiệp bằng những bài viết trên tờ Daytona Beach News Journal về vấn đề tội phạm Mỹ, sau đó là viết cho tờ Fort Lauderdale News and Sun-Sentinel, cũng về lĩnh vực này. Những giải thưởng đầu tiên đến với M. Connelly vào năm 1985, khi bài phỏng vấn những nạn nhân còn sống sót sau vụ rớt máy bay Delta Flight 191 của ông lọt vào danh sách đề cử giải Pulitzer - giải thưởng báo chí danh giá bậc nhất dành cho một nhà báo. Hai năm sau, chuyển đến sống tại California, M. Connelly cho ra đời tác phẩm trinh thám đầu tay của mình và gần như ngay sau đó, cuốn The Black Echo được xuất bản và đoạt giải Edgar Award năm 1992. *** McCaleb thấy nàng trước khi nàng thấy ông. Ông đang bước xuống ụ tàu chính, băng qua dãy thuyền của cánh nhà binh thì nhìn thấy người đàn bà đứng trên mũi chiếc Biển Theo Ta. Lúc đó là mười rưỡi sáng một ngày thứ Bảy, tiếng thì thầm ấm áp của mùa xuân khiến nhiều người rời khỏi nhà kéo đến các ụ tàu ở San Pedro. McCaleb đang sắp hoàn tất cuộc đi dạo vào mỗi sáng - đi trọn một vòng quanh Cabrillo Marina, dọc theo đê chắn sóng xây bằng đá rồi quay về. Đến đoạn này thì ông đã mệt bở hơi tai, nhưng ông bước còn chậm rì hơn khi tiến lại gần thuyền. Ý nghĩ đầu tiên của ông là bực bội - người phụ nữ đó đã lên thuyền ông mà không đợi ai mời. Nhưng khi đến gần hơn, ông gạt ý nghĩ đó qua bên mà tự hỏi nàng ta là ai, nàng muốn cái gì. Nàng không mặc quần áo dùng để đi thuyền. Nàng mặc bộ đầm mùa hè suông nhẹ dài tới giữa đùi. Làn gió nổi lên từ mặt nước cứ chực tốc váy nàng khiến nàng phải ép một tay vào hông để giữ yên. McCaleb không thấy hai bàn chân nàng, nhưng qua đường nét cơ bắp săn chắc ông nhìn thấy nơi đôi chân rám nắng của nàng, ông đoán nàng không mang giày dùng để đi thuyền. Nàng nhón gót lên. McCaleb lập tức hiểu ra, nàng đứng đây nhằm để gây ấn tượng với ai đó. McCaleb thì ăn mặc sao cho chẳng gây ấn tượng gì. Ông mang chiếc quần jeans cũ rách te tua vì mặc quá lâu chứ không phải để làm dáng, áo phông mặc từ hồi dự giải Catalina Gold Cup tận mấy mùa hè trước. Quần áo lấm bê lấm bết, chủ yếu là máu cá, đôi phần là máu của chính ông, axit hydrochloric, nhựa poliuretan và dầu máy. Bộ đồ này ông thường mặc để đánh cá nhưng cũng mặc cả khi sửa máy. Cuối tuần này ông định sẽ sửa máy trên thuyền nên ông đang mặc bộ đồ phù hợp. Ông bắt đầu có ý thức hơn về ngoại hình mình trong khi lại gần thuyền và thấy người đàn bà rõ hơn. Ông rút hai miếng mút của máy nghe nhạc ra khỏi tai rồi tắt CD giữa lúc bài “I Ain’t Superstitious” qua giọng Howlin’ Wolf đang phát nửa chừng. “Tôi giúp gì được cho cô?” ông hỏi trước khi bước xuống thuyền của mình. Giọng ông dường như khiến nàng giật mình, đang đứng nơi cánh cửa trượt dẫn vào buồng khách của thuyền nàng liền quay phắt lại. McCaleb đồ rằng nàng gõ lên mặt kính vì cứ nghĩ ông đang ở trong đó. “Tôi tìm Terrell McCaleb.” Nàng là một phụ nữ hấp dẫn ngoài ba mươi đôi chút, trẻ hơn McCaleb tròn chục tuổi hay hơn. Trông nàng quen quen, nhưng ông không nhớ ra ai. Chỉ là ngờ ngợ như quen, thật ra chưa chắc đã phải. Đồng thời ông lại thấy dường như ký ức mình bị đánh động khiến cho ông nhận ra, nhưng rồi điều đó qua nhanh và ông biết mình lầm, ông không quen biết người đàn bà này. Ông thường nhớ được mặt người ta. Mà cô nàng này thì mặt đủ xinh để ông không quên được. Nàng phát âm sai tên ông, đáng lẽ Mác-cây-lép thì nàng nói Mác-ca-lớp, rồi thì nàng lại dùng tên ghi trên giấy tờ của ông, cái tên chẳng ai dùng trừ cánh báo chí. Chính khi đó ông bắt đầu hiểu. Giờ thì ông biết điều gì đã đưa nàng tới con thuyền. Lại một linh hồn lạc lõng đến nhầm nơi phải đến. “McCaleb,” ông chữa lại. “Terry McCaleb.” “Xin lỗi. Tôi, ờ, tôi cứ nghĩ ông đang ở trong thuyền. Tôi không biết nếu bước lên thuyền mà gõ cửa thì có được không.” “Thì cô vẫn làm đó thôi.” Nàng lờ đi lời trách mà nói tiếp. Cứ như thể những điều nàng đang làm và những gì nàng phải nói, nàng đã phải tập đi tập lại nhiều lần. “Tôi cần nói chuyện với ông.” “Ồ, hiện giờ tôi hơi bận.” Ông chỉ tay về phía cánh cửa dẫn xuống hầm thuyền vẫn đang mở toang, may phước là cô nàng chưa lọt xuống, chỉ tay vào đống đồ nghề ông đã trút ra trên một tấm vải màn cạnh cửa sổ đuôi tàu. “Tôi đi loanh quanh tìm cái thuyền này gần cả tiếng rồi,” nàng nói. “Không lâu đâu mà. Tên tôi là Graciela Rivers, tôi chỉ muốn...” “Này, cô Rivers,” ông nói, giơ hai tay lên ngăn lại. “Thực sự là tôi... Cô đọc được về tôi trên báo có đúng không?” Nàng gật. “Thôi được, trước khi cô bắt đầu chuyện của cô, tôi phải nói với cô rằng cô không phải người đầu tiên tới đây tìm tôi hay kiếm số phôn của tôi mà gọi tôi. Và với tất cả những người khác tôi nói gì thì với cô tôi cũng nói thế thôi. Tôi không phải đang tìm việc. Thành thử nếu chuyện là cô muốn thuê tôi hay nhờ tôi giúp cách này cách nọ thì rất tiếc, tôi không làm được. Tôi không phải đang tìm loại việc ấy.” Nàng chẳng nói gì và ông cảm thấy lòng xốn xang cảm thông với nàng, cũng như ông từng cảm thấy với những người khác tới tìm ông trước nàng. “Này, tôi có biết vài ba điều tra viên tư, tôi có thể giới thiệu họ với cô. Hội này giỏi đấy, làm ăn chăm chỉ, họ không lừa cô đâu.” Ông bước lên mép đuôi thuyền, nhặt chiếc kính râm ông quên mang theo khi đi bộ, đeo vào, ra hiệu rằng cuộc nói chuyện thế là dứt. Nhưng cử chỉ và lời lẽ của ông cứ như nước đổ lá khoai đối với nàng ta. “Bài báo nói ông tốt bụng. Nói rằng bất cứ khi nào có kẻ chuồn được là ông ghét cay ghét đắng.” Ông thọc tay vào túi quần, nhún vai. “Cô phải nhớ một điều. Không bao giờ chỉ mình tôi cả. Tôi có người cộng tác, tôi có đội xét nghiệm, tôi có cả Cục ở sau lưng hỗ trợ tôi. Khác xa cái kiểu anh chàng đơn thân độc mã làm gì cũng lầm lũi một mình. Khác nhiều lắm. Dù có muốn, e tôi cũng không giúp cô được.” Nàng gật đầu nên ông đinh ninh đã làm nàng ta thấu hiểu rồi, và với cô này tới đây là hết chuyện. Ông bắt đầu nghĩ tới cái van trên một trong các động cơ thuyền mà ông đang thao tác dở, ông định sẽ làm cho xong nội cuối tuần này. Nhưng ông đã lầm về nàng. “Tôi nghĩ ông có thể giúp tôi,” nàng nói. “Có khi còn giúp chính ông nữa.” “Tôi không cần tiền. Tôi kiếm đủ.” “Tôi không nói chuyện tiền nong.” Ông nhìn nàng trong khoảng một nhịp tim trước khi đáp. “Tôi không biết cô nói thế là ý gì,” ông nói, cố tình tỏ ra cáu kỉnh. “Nhưng tôi không giúp cô được. Tôi không còn phù hiệu, mà cũng chả phải là điều tra viên tư. Tôi mà làm việc như điều tra viên tư hoặc nhận tiền mà không có giấy phép của nhà nước thì sẽ là bất hợp pháp đấy. Nếu đã đọc bài báo thì ắt cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Thậm chí tôi còn không được lái xe nữa kìa.” Ông trỏ xuống bãi đỗ xe bên ngoài dãy ụ tàu và cầu tàu. “Cô thấy cái xe trùm kín mít như quà Giáng sinh kia không? Xe tôi đó. Nó sẽ còn nằm đó chừng nào tôi chưa được bác sĩ chuẩn y cho lái xe lại. Đến nước này thì tôi còn là cái thứ điều tra viên nào nữa chứ? Đến mà phải đi xe buýt suốt.” Nàng lờ đi lời phản đối của ông, chỉ nhìn ông với vẻ kiên quyết khiến ông lúng túng. Ông chẳng biết làm cách nào điệu nàng ta đi khỏi thuyền ông được đây. “Để tôi đi lấy tên mấy người kia cho cô.” Ông đi vòng qua nàng rồi đẩy cánh cửa trượt của phòng khách ra. Vào trong rồi, ông đóng chặt cửa sau lưng mình. Ông cần sự ngăn cách. Ông đi tới chỗ mấy ngăn kéo dưới bàn vẽ hải đồ, bắt tay tìm cuốn danh bạ điện thoại. Đã quá lâu không cần tới nên bây giờ ông chẳng biết nó nằm ở đâu nữa. Ông liếc ra ngoài qua cánh cửa, quan sát cô nàng bước tới chỗ đuôi tàu, tựa hông vào ô cửa sổ nhỏ trong khi chờ đợi. Trên mặt kính cửa có lớp màng phản chiếu. Nàng không thể thấy ông đang quan sát nàng. Cảm giác quen quen lại xâm chiếm tâm trí ông và ông cố nhớ ra xem mình đã gặp khuôn mặt này ở đâu. Ông thấy nàng thật nổi bật. Đôi mắt hình quả hạnh sẫm màu vừa có vẻ u sầu lại vừa có vẻ thấu hiểu điều bí mật nào đấy. Ông biết giá như ông từng gặp nàng hay thậm chí chỉ từng quan sát nàng trước đây thì hẳn ông sẽ dễ dàng nhớ ra nàng. Nhưng ông chẳng nhớ được gì cả. Mắt ông bất giác chuyển sang hai bàn tay nàng, tìm xem có chiếc nhẫn nào không. Không có. Về chuyện giày dép của nàng thì ông đoán đúng. Nàng mang xăng đan có gót làm bằng bần, cao năm phân. Móng chân nàng sơn màu hồng, nổi bật trên làn da màu nâu mềm mại. Ông tự hỏi có phải lúc nào nàng cũng trông thế này không, hay nàng ăn mặc thế chỉ để nhử ông nhận làm cho nàng. Ông tìm ra cuốn danh bạ điện thoại trong ngăn kéo thứ hai, liền nhanh chóng tìm mấy cái tên Jack Lavelle và Tom Kimball. Ông ghi lại tên và số điện thoại của họ vào một tờ rơi quảng cáo cũ của hãng dịch vụ tàu biển rồi mở cánh cửa trượt. Nàng đang mở ví trong khi ông ra khỏi buồng khách. Ông chìa tờ giấy cho nàng. “Đây là tên hai người. Lavelle là thám tử Los Angeles đã nghỉ hưu còn Kimball hồi trước làm ở FBI. Tôi từng làm việc với cả hai, người nào cũng có thể làm việc tốt cho cô. Chọn một người mà gọi. Nhớ bảo anh ta rằng cô có được tên anh ta là nhờ tôi. Anh ta sẽ lo cho cô.” Nàng không nhận mấy cái tên từ tay ông. Thay vì vậy nàng rút một tấm ảnh ra khỏi ví chìa cho ông. McCaleb cầm lấy không nghĩ ngợi gì. Ông nhận ra ngay đó là một sai lầm. Trong tay ông là bức ảnh một phụ nữ mỉm cười ngắm một đứa bé trai đang thổi tắt nến trên cái bánh sinh nhật. McCaleb đếm được bảy ngọn nến. Đầu tiên ông nghĩ đó là ảnh của Graciela hồi trẻ hơn bây giờ vài tuổi. Nhưng rồi ông nhận ra không phải là nàng. Người phụ nữ trong ảnh mặt tròn hơn, môi mỏng hơn. Cô ta không đẹp như Graciela Rivers. Tuy cả hai đều có mắt màu nâu sẫm, nhưng mắt người phụ nữ trong ảnh không có cái vẻ mãnh liệt như mắt người đàn bà đang quan sát ông lúc này. “Em gái cô à?” “Phải. Và con của nó.” “Người nào?” “Sao cơ?” “Người nào chết?” Câu hỏi đó là sai lầm thứ hai của ông, làm trầm trọng thêm sai lầm thứ nhất bởi nó lôi ông dấn vào sâu hơn nữa. Ngay lúc hỏi, ông đã biết rằng đáng lẽ ra ông nên khăng khăng đòi nàng ta nhận lấy họ tên hai thám tử tư kia rồi chấm dứt mọi chuyện ở đây. “Em tôi. Gloria Torres. Cả nhà tôi gọi nó là Glory. Đây là Raymond, con của nó.” Ông gật đầu rồi đưa trả bức hình nhưng nàng không nhận. Ông biết nàng muốn ông hỏi chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng ông kịp kìm lại. “Nào, thế này chả ích gì đâu,” rốt cuộc ông nói. “Tôi biết cô đang làm gì rồi. Chả ích với tôi đâu.” “Ý ông là ông không hề có lòng thông cảm phải không?” Ông ngần ngừ trong khi cơn giận sôi lên trong họng. “Tôi có lòng thông cảm. Cô đã đọc bài báo, cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Xưa nay tôi gặp rắc rối gì cũng đều do thông cảm mà ra cả.” Ông nuốt khan và cố gột sạch mọi cảm xúc khó chịu. Ông biết cô nàng này đang bị nỗi thất vọng khủng khiếp làm cho héo hon tiều tụy. McCaleb từng biết hàng trăm người như nàng. Những người thân yêu bị tước đi khỏi họ chẳng vì lý do nào hết. Không bắt bớ, không buộc tội, không phá án. Một vài người trong số đó chỉ còn như cái thây sống, đời họ bị thay đổi vô phương cứu chữa. Những linh hồn lạc lõng. Graciela Rivers giờ đây là một người như thế. Chắc chắn nàng là thế, không thì nàng đã chẳng tìm mọi cách lùng ra tung tích của ông. Ông biết, dù nàng nói gì với ông hoặc dù ông có tức giận đến mấy, nàng cũng không đáng phải hứng chịu thêm những cơn thất vọng của chính ông. “Thôi nào,” ông nói. “Tôi không làm được đâu mà. Tôi rất tiếc.” Ông đặt một tay lên tay nàng để đưa nàng trở lại bậc lên xuống thuyền. Da nàng ấm. Ông cảm nhận được bắp cơ khỏe mạnh dưới sự mềm mại đó. Ông lại đưa nàng tấm ảnh, nhưng nàng vẫn từ chối không chịu cầm. “Xem lại đi. Xin ông làm ơn. Chỉ thêm một lần thôi, rồi tôi sẽ để ông yên. Nói cho tôi biết liệu ông có cảm thấy gì khác không?” Ông vừa lắc đầu vừa phác một cử chỉ yếu ớt bằng bàn tay như muốn nói đằng nào thì cũng vậy thôi. “Tôi là cựu nhân viên FBI chứ không phải nhà ngoại cảm.” Nhưng ông vẫn làm ra vẻ giơ tấm ảnh lên nhìn. Người phụ nữ và chú bé xem chừng hạnh phúc. Là tiệc sinh nhật mà. Bảy ngọn nến. McCaleb nhớ rằng hồi ông bảy tuổi cha mẹ ông còn ở với nhau. Nhưng sau đấy thì không ở với nhau lâu nữa. Mắt ông bị hút vào đứa bé nhiều hơn vào người phụ nữ. Ông tự hỏi bây giờ không có mẹ thì thằng nhỏ sống ra sao. “Tôi xin lỗi, cô Rivers ạ. Thực sự là tôi rất tiếc. Nhưng tôi chẳng làm gì được cho cô hết. Cô có muốn lấy ảnh này lại không?” “Tôi có hai cái. Ông biết đấy, rửa một tặng một mà. Tôi tưởng ông sẽ giữ lại một cái.” Lần đầu tiên ông cảm thấy có cái gì đó ngầm ẩn trong dòng cảm xúc. Có cái gì đó hệ trọng nữa đây, nhưng ông không biết là gì. Ông nhìn kỹ cô Graciela Rivers và có cảm tưởng rằng nếu dấn thêm một bước, hỏi cái câu hỏi thật hiển nhiên, ông sẽ bị cuốn hẳn vào. Ông không kìm được. “Sao tôi lại muốn giữ tấm ảnh dù tôi sẽ không thể giúp cô được?” Nàng mỉm cười một cách buồn bã thế nào đó. “Bởi nó là người đàn bà đã cứu mạng ông. Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ, hẳn ông cần tự nhắc mình nhớ cô ta trông thế nào, cô ta là ai.” Ông nhìn nàng chằm chằm một hồi lâu nhưng thật ra ông không nhìn Graciela Rivers. Ông đang nhìn vào bên trong mình, lục lọi trong ký ức và hiểu biết của mình điều nàng vừa nói, nhưng vẫn không hiểu được ý nghĩa của nó. “Cô nói cái gì vậy?” Ông chỉ hỏi được có thế. Ông có cảm giác quyền kiểm soát cuộc nói chuyện và mọi thứ khác đều đang tuột khỏi ông mà trượt qua boong tàu về phía nàng. Cái dòng chảy ngầm kia đã tóm được ông. Nó đang đưa ông đi. Nàng giơ tay lên, nhưng rướn tay qua bức ảnh ông vẫn đang chìa ra cho nàng. Nàng đặt lòng bàn tay lên ngực ông, miết tay dọc xuống ngực áo ông, mấy ngón tay nàng lần theo vết sẹo giống như đoạn thừng dày cộm sau lần áo. Ông để yên cho nàng làm vậy. Ông đứng như hóa đá mà để nàng làm vậy. “Trái tim ông,” nàng nói. “Nó từng là của em tôi. Nó là người đã cứu mạng ông.” ... Mời các bạn đón đọc ​Việc Máu của tác giả Michael Connelly.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chạy Án
Cũng khoe cho anh em vui, anh chị mình có cổ phần trong một quán bar ở nội thành Hà Nội. 12h cái đêm định mệnh ấy, mẹ mình tự nhiên nóng ruột gọi điện thoại giục về liên tục, chị mình tặc lưỡi - Thôi, nốt chén rồi mày lấy xe đưa chị về. Đang vui mà cứ càu nhà càu nhàu. - Đêm nào cũng đi thế này, mẹ lo là phải thôi để em lấy xe đưa chị về, tí anh đi oto về sau ( chị mình không phải loại hay đi đêm, nhưng quán bar nhà mới khai trương, chủ yếu là anh em bạn bè, không ra tiếp không được với người ta,anh rể mình vừa góp vốn vừa làm quản lý trên bar nên không về trước giờ được) - Mày xuống trước lấy xe đi. Chị ra chào mấy đứa bạn chị một câu rồi ra ngay. Mình vừa bước chân xuống cửa mấy đồng chí bảo vệ đã lon ton chạy ra - Anh, anh lấy xe à? - Vâng lấy em con 16M....., không có vé đâu, để ở chỗ nhân viên ý. - Vâng, vâng.- Đồng chí trông xe lon ton cầm chìa đi lấy, cơ bản mình mấy hôm khai trương cũng lên đây mấy lần, anh em cũng có quen mặt, dù gì là em của ông chủ, cũng khá có tí vai vế. Khốn nạn là mọi hôm, mình hay đi con Sh của nhà, hoặc đi taxi, không thì thường là đi cùng oto với anh. Hôm nay chẳng hiểu sao lại tiện tay dắt con wave ghẻ dựng ngoài hè khách mới cầm ban chiều đi luôn. Mọi sự khốn nạn bắt đầu từ đây. Hai chị em đang đi, gần về đến nhà, thì 4 đồng chí cơ động bất ngờ áp sát xe, dồn mình vào dọc đường. - Yêu cầu dừng xe xuất trình giấy tờ. - Anh ơi, bọn em mũ mão xi nhan đầy đủ mà. Chị mình lên tiếng. - Bây giờ là 12h15, chúng tôi có quyền kiểm tra hành chính với phương tiện giao thông. Hơn nữa anh chị đội mũ nhưng không cài quai. - Thôi anh ơi, giờ muộn rồi, nhà em cũng ở ngay đây cách có mấy mét nữa thôi, anh cho em xin nộp phạt ngay, đây 1 mũ là 150k. Em gửi anh, anh cho bọn em về ạ.- Chị mình vẫn cứ khéo léo xin. - Chúng tôi yêu cầu cho kiểm tra hành chính, xuất trình giấy tờ và cho kiểm tra xe. Mình chột dạ, mẹ chứ, chúng nó cò quay rồi. xe mới cầm chiều nay làm quái gì có giấy tờ, hơn nữa mình cũng chẳng có bằng lái và tệ nhất hai chị em chẳng có CMT. Mình quay sang thì thầm với chị " Chị ơi, để em gọi bác B... ( nhà làm kinh doanh nhạy cảm nên cũng có cơ số ô dù) xe không giấy tờ đâu". Chị mình lừ mắt " Mày nhìn đồng hồ xem giờ mấy giờ, chuyện cỏn con thế này mày dựng bác ấy dậy làm gì." Rồi chị quay sang nói chuyện với mấy anh cơ động - Anh đợi em chút, em gọi cho chồng em, hai chị em đi vội quá quên mang giấy tờ rồi. - Alo, anh ạ, anh ơi, hai chị em bị cơ động bắt ở ngã tư X, anh mang cho em giấy tờ qua đây ngay với. Độ 2 phút sau anh mình phóng con wave ra( mẹ lại wave). - Anh ơi đây là vợ em, nhà em mở quán bar ngay gần đây nên về hơi khuya, có gì hai anh linh động cho. - Anh chị đi xe máy đội mũ nhưng không cài quai. Không xuất trình được giấy tờ. - Thôi đêm cũng muộn rồi, anh cho bọn em nộp phạt rồi còn về đi ngủ. - Về đi ngủ hay là đi làm.- Một đồng chí cơ động cười khẩy. Nghe tới đoạn này là anh chị em mình đã nóng tai rồi, nhưng vẫn kiềm chế cười. - Ngủ thôi anh, làm lụng gì nữa. Lúc nào có dịp mời các anh qua chỗ chúng em chơi, trước lạ sau quen.- Anh mình cười cười. - Thôi thế này nhé, anh kia đội mũ, cho về, còn chị này không đội mũ theo chúng tôi về đồn xác minh lại. - Thôi xin các anh linh động cho. - Linh cái gì, ông cũng có đội mũ đâu, chúng tôi không bắt ông là may lắm rồi. Nói thật tưởng bọn này không biết đấy à. Giờ này đi ngoài đường ăn mặc thế kia ( xác nhận chị mình ăn mặc hôm ấy có hơi phản cảm) là xe ôm đi dắt gái chứ gì. Cái bọn nhà quê Thái Bình (biển 16-???) chúng mày lên đây chỉ làm phò phạch với xe ôm là nhanh, bẩn đất thủ đô. - Đ...M chúng mày nói ai nhà quê đấy, mày nhìn lại chứng minh thư nhà tao đi.- Ông anh mình vừa nói vừa rút ví ra. - Không nói nhiều, về đồn hết. - một thằng vừa nói vừa giật tay chị mình lôi xềnh xệch ép lên xe, Anh lao vào đẩy ra.Bọn cơ động thấy thế lập tức rút dùi cui ra phang tới tấp, ông anh mình vừa tránh vừa đỡ, chạy ra ngoài rút điện thoại gọi thêm người. Một lúc sau thì bạn anh mình, làm bảo vệ ở đấy đi con SH ra, nhìn thấy ông ấy mặt đỏ gay mình đã chán rồi. Vừa xuống xe, bố trẻ đã khệnh khạnh - Làm sao làm sao? Ai đánh em tao? - Bắt nốt thằng này về đồn cho đủ bộ.- Tiếng một đồng chí cơ động. - Đ..M thằng nào dám bắt tao.- Ông bỏ mũ bảo hiểm đập tan xuống đất.Tay chỉ trỏ lung tung. Chưa đợi ông trẻ nói hết câu, đội cơ động đã lao vào cưỡng chế, vật nhau một lúc, ông này giở đủ trò cắn xe, cào cấu ( say mà các bác thông cảm) quan trọng nhất là ông ý đã giật được cái dùi cui của mấy đồng chí cơ động và một mình chống maphia. Có lúc cao điểm ông ấy khua khoắng cái dùi cui chẳng khác gì phim chưởng nhưng sức người thì có hạn, một lúc sau đã thấy có đồng chí cơ động xách được cả cổ ông ấy lên, nhấc hẳn ra khỏi mặt đất. Ông anh mình lấy xe chạy đi gọi thêm người, còn mình và chị chỉ dám đứng nhìn không kịp ý kiến gì. Sau khi đã ăn cơ số đòn và anh hùng chống trả, nói thì lâu chứ mọi việc diễn ra rất nhanh và gấp gáp, một lúc sau khoảng gần 30 người cả nhân viên quán bar và khách đa phần trong tình trạng có hơi men khi ấy đúng lúc ông bảo vệ đang bị bóp cổ mặt đỏ gay thở hồng hộc tay chân quều quào trong không khí, mình thì đang bị một đồng chí cơ động khác quẻ quặt tay ra đằng sau vì có dấu hiệu định lao vào can ngăn. Các bác phải biết cái âm thanh của mấy chục con người toàn đầu xanh, đầu đỏ hoặc đầu trọc, có bố xăm kín tận mang tai, tiếng bô xe máy tiếng chửi rủa. " Cơ động đánh người" " ĐM bọn cơ động" " quay clip lại tung lên mạng" " Giết chết hết chúng nó đi"... Nó có một sức uy hiếp vô cùng lớn, một đồng chí cơ động rút bộ đàm ra đồng thời một đồng chí khác lắp đạn vào sung Ak 47 bắn chỉ thiên. Đèn cả khu phố bắt đầu lác đác có nhà sáng. Bốn đồng chí cơ động rú ga chạy mất mạng. Anh em qua hỏi han mọi người có làm sao không, riêng ông bảo vệ vừa bị đánh mặc anh em giữ lại vẫn giãy đạp miệng hét ầm ĩ " thả tao ra để tao đi giết bọn cơ động, giết hết chúng nó". Đang ầm ĩ thì anh mình hét lên tay vẫn cầm điện thoại: - Chúng nó gọi người quay lại rút đi. Tất cả lại ầm ầm tản đi mỗi người một phía. Mình với chị thì về nhà, nghĩ đơn giản mọi chuyện kết thúc ở đấy, xong. Mình gần sáng còn nghe anh chị cười cười nói nói với nhau, hôm qua phải 3 người mới ép được ông kia lên xe máy, về tới bar rồi mà ông ý còn lấy "hàng" rồi bắt taxi đi săn bọn cơ động kia, tới 5h sáng mới về thanh toán hết gần triệu tiền taxi. Mời các bạn đón đọc Chạy Án của tác giả Lê Vũ Trọng Nghĩa.
Chuyện Không Công Bố Của Sherlock Holmes
Enleri đang suy ngẫm.           Và suy ngẫm khá lâu.           Sau đó nhà thám tử danh tiếng đứng lên, giật phắt tập muời trang giấy vừa đánh máy, xé toạc thành bốn mảng không đều nhau.           Anh ta cau có nhìn chiếc máy chữ câm lặng,  nó thì nhìn lại ông chủ cáu kỉnh với vẻ diễu cợt ra mặt.           Điện thoại chợt vang lên khiến thám tử chạy vội lại.           - Này, anh gầm gừ gì với bố anh thế! - vẳng ra giọng nói với âm điệu rầu rầu - Bố đang giải trí..theo đúng lệnh của anh rồi đấy thây.           - Bố ạ, đấy là do việc của tôi không có gì hay ho, bố có hiểu không. Các vấn đề chẳng  ăn nhập gì cả. Này, bố ơi, tình hình tam giác Bes-mut chỗ bố ra sao nhỉ?           - Nắng thiêu đốt, nước xanh lóa mắt giữa một biển cát, buồn nôn lên đuợc. Bố đang chuẩn bị quay về đây.           - Ồ, không, không - Enleri đáp cả quyết - Chuyến đi này tốn bao nhiêu tiền và tôi muốn có gì bù lại bố ạ.           Thanh tra Kuin thở dài thiểu não.           - Anh là kẻ độc tài thực sự mỗi khi có công việc đụng chạm đến tôi. Cần phải nghĩ rằng bố anh là kẻ tàn phế rồi nhá.           - Bố chỉ quá mệt đấy thôi.           - Có lẽ dẫu sao bố với anh vẫn thỏa thuận đuợc với nhau chứ nhỉ? - Vẻ hy vọng lộ rõ qua giọng nói của thanh tra Kuin           - Bố đã nhận đuợc lệnh phải nghỉ ngơi, tiêu khiển và không đuợc nghĩ chuyện gì..           - Thôi đuợc, thôi đuợc. Đối diện với ngôi nhà nhỏ của bố đang có trò chơi - quăng vòng vào cổ vịt. Bố sẽ ra đó chơi một lúc vậy.           - Chơi thật lực đi bố ạ. Sáng mai con sẽ gọi điện xem kết quả ra sao.           Enleri đặt ống nghe rồi lại căm tức nhìn chiếc máy chữ. Vấn đề vẫn không giải quyết đuợc, anh ta đi quanh chiếc bàn rồi lại sải buớc trong gian phòng từ đầu nọ đến đầu kia.           Thật may, lúc đó quả chuông con treo ngoài cửa chính reo lên reng reng.           - Cứ để bánh mì kẹp thịt ngoài bàn ấy - Enleri quát với ra - và cầm lấy tiền ở đấy.           Nhưng kẻ giật chuông không chịu nghe theo. Anh ta đi qua phòng khách vào căn buồng, nơi nhà thám tử vĩ đại đang khổ sở. Enleri làu bàu:  - Ra là anh à? Tôi cứ nghĩ là tay mang thức ăn từ  nơi chế biến tới.           Grant Ame bằng vẻ buông tuồng đặc quyền của một triệu phú cứ tiến thẳng vào ngăn đồ uống. Anh ta nhét vào đó một phong bì lớn bằng giấy thô đang cầm trong tay rồi    với chai Wisky và chiếc cốc lớn.           - Nhân thể thông báo là tôi cũng có mang thứ gì tới. Còn nguyên lành hơn chai Wisky của anh - Anh ta ngồi chễm chệ lên đi-văng - Wisky của ngài khá đấy, Enleri.           - Rất mừng là ngài ưng nó. Cứ cầm nó đi theo. Tôi đang làm việc.           - Nhưng tôi yêu cầu có sự đối xử đặc biệt với tôi như với một nguời quý trọng anh. Tôi đọc tất cả các cuốn sách anh viết cơ mà.           - Những cuốn sách mà anh chôm ở chỗ các ông bạn bừa bãi của anh chứ gì. Anh có mua sách bao giờ đâu.           - Thế là đối xử bất công. Ngài sẽ phải xin tha lỗi, khi biết vì sao mà tôi đến đây.           - Vì sao nào?           - Thì tôi đã nói là có mang đến thứ gì đó. Chẳng lẽ anh không nghe thấy tôi nói à?           - Thứ gì thế nhỉ?           - Cái phong bì kia. Gần chai Brandy.           Enleri quay đầu về phía đuợc chỉ nhưng Grant ngăn lại.           - Đầu tiên tôi phải nhập đề cho ngài đã thám tử ạ.           Lại có tiếng chuông vang lên ngoài cửa. Lần này đúng là họ mang bánh mì kẹp chả đến. Enleri ra phòng ngoài rồi quay vào với cái mồm nhét đầy thức ăn.           - Tại sao anh không thích làm việc nhỉ, Grant? Thu xếp chỗ ngồi ở một trong các nhà máy đồ hộp của bố anh hoặc làm chân thu nhận đậu. Muốn làm gì thì làm nhưng hãy để cho tôi yên. Tôi nhắc lại là đang bận việc.           - Đừng nhảy sang chuyện khác - Grant nói - chỗ anh có dưa chuột ngâm không nhỉ? Tôi khoái món dưa chuột ngâm với gia vị lắm.           Enleri chìa cho hắn ta một khoanh dưa chuột, rồi ngồi phịch xuống chiếc ghế tựa.           - Thôi vậy, tuôn gì thì tuôn ra đi. Mau mau cho xong chuyện đó. Anh muốn để tôi nhập đề à. Chuyện gì nhỉ?           - Đầu tiên là mọi chuyện khởi đầu ra sao đã. Hôm qua sau bữa chính có một nhóm tụ tập đến Wetchero. Tôi có mặt trong nhóm đó. Tiêu khiển tí chút.           - Người đời may mắn thế đấy- Enleri nói với vẻ ghen tị.           - Bơi một lúc, chơi vài tua quần vợt và mấy trò nữa. Dân chúng không lấy gì làm đông cho lắm.           - Bây giờ phần đông dân chúng có thói quen xấu là làm việc sau khi ăn...           - Vì Chúa, anh đừng nói nhăng nói cuội. Tôi cóc thấy xấu hổ đâu - Tay lêu lổng trong đám dân giao tế nói vậy. Tôi đang tỏ sự phục vụ với anh. Có một chiếc phong bì bằng cách bí mật nào đó lọt vào xe của tôi,  và tôi giao lại nó cho anh theo đúng yêu cầu.           - Yêu cầu của ai?           En leri vẫn chưa ngó sang chiếc phong bì lần nào           - Tôi không có khái niệm gì về chuyện đó. Khi định chui ra ngoài xe thì thấy ở trên đệm chiếc "Jaguar" có chiếc phong bì. Trên có ghi: "Xin nhờ chuyển cho Emleri Kuin". Thừa nhận là người ta đã sợ anh đến nỗi không dám tự làm mà phải nhờ đến quan hệ gắn bó giữa tôi với anh.           - Một câu chuyện tẻ ngắt. Nghe này Grant. Chính anh nghĩ ra chuyện đó phải không? Giờ tôi chẳng còn lòng dạ nào mà đùa. Thời hạn đang co lại, không còn lúc nào nghỉ lấy hơi. Tốt hơn là anh đi tán gẫu với cô bạn đẹp gái nào của anh đi thôi.           - Còn chiếc phong bì? - Grant nhỏm phắt dậy như một võ sĩ nhà nghề, anh ta cầm chiếc phong bì từ quầy giải khát đưa lại cho Enleri - Đây, tôi đưa cho anh theo như họ đã ấn định. Chuyển giao tận tay. Anh muốn làm gì với nó thì làm.           - Vậy tôi phải làm gì đã nào? - Enleri hỏi với giọng ngán ngẩm.  - Tôi chẳng hiểu ra sao. Đây là một bản ghi chép, vẻ như cũ lắm rồi. Có lẽ anh cần phải đọc hết nó.  - Có nghĩa là anh đã xem bên trong nó rồi phải không?  - Tôi coi đó là nghĩa vụ của mình. Vì người ta có thể viết bằng mực có chất độc, hoặc tuồn ảnh khiêu dâm vào đó. Tôi biết tính cách của anh, bạn thân mến ạ. Không có cách xử sự nào khác.  Tuy bất đắc dĩ nhưng không khỏi có đôi chút tò mò, Enleri cầm lấy chiếc phong bì.  - Nét chữ đàn bà.  - Tôi cảm thấy nội dung hoàn toàn vô hại - Grant nói, tay xoay xoay chiếc cốc - Vô hại nhưng rất thú vị.  - Phong bì đúng chuẩn cỡ- Enleri lầm bầm - dùng cho loại giấy có có kích thước 8.5 x 11 in*.  - Lạy Chúa, Enleri, anh có một tâm hồn kế toán quá đấy. Giá anh nhòm vào bên trong nó tí chút thì hơn.  Enleri bóp cong miệng chiếc phong bì để lấy cuốn vở có bìa cứng bằng các- tông, trên đó có viết mấy chữ to tuớng, kiểu chữ cổ  "Để ghi chép".  Mời các bạn đón đọc Chuyện Không Công Bố Của Sherlock Holmes​ của tác giả Enleri Kuin.
Bí Mật Bức
        Natalia Alecsandrovna sinh ra ở Leningrad (hiện giờ là Saint Peterburg). Tốt nghiệp đại học kĩ thuật điện Leningrad. Bà đã từng là kĩ sư, lập trình viên, nhà báo của đài phát thanh Saint Peterburg và làm ở bộ phận tiếng Nga đài BBC.           Là tác giả của một loạt các truyện trinh thám, được xuất bản ở nhà xuất bản “Eksmo” trong seri “những tác phẩm Nga bán chạy nhất”, đồng thời là tác giả của những truyện trinh thám hiện thực ăn khách nằm trong tuyển tập các truyện trinh thám của nhà xuất bản “Olma-Press” và nhà xuất bản “Nheva”. Số lượng bản in các tác phẩm của bà ước tính khoảng ba triệu bản.           Natalia Alecsandrovna có một khả năng kiếm có trong việc nhận biết những điều bất thường trong cuộc sống hằng ngày. Văn phong đặc biệt giản dị và phong cách luôn thay đổi đã cuốn hút những nhà phê bình văn học hiện đại. Các mẩu truyện trinh thám của bà luôn kì dị và nhiều màu sắc, những người anh hùng hết sức giản dị và dễ gần, tình tiết cuốn hút và bất ngờ. Tư liệu cho các câu truyện đó được lấy từ những chuyến tham quan nước ngoài của bà và chồng. Sức tưởng tượng và khả năng làm việc của nữ văn sĩ gần như không có giới hạn, bà đã cho ra đời không dưới sáu mươi tiểu thuyết các thể loại.           Câu chuyện dưới đây với tựa đề là “Bí mật bức “Tuần tra đêm” là tác phẩm thứ hai trong bộ hai tác phẩm đã viết của bà. Cuốn thứ nhất với tựa đề “Code de Vinci” kể về cuộc tìm kiếm bức tranh “Madonna Litta” của Starugin và nữ cộng sự - một nữ nhà báo trẻ tuổi. Câu chuyện thứ hai kể về cuộc phiêu lưu của Starugin xung quanh những bí ẩn của bức tranh “Tuần tra đêm”…                                                                                        Dương An *** Lời nhà xuất bản           Một âm mưu táo bạo muốn phá hủy kiệt tác của thiên tài Rembrandt- bức tranh “Tuần tra đêm”.           Một vụ tự tử không giải thích nổi của hung thủ, kẻ có những hiểu biết về những điều huyền bí…           Bí mật gì ẩn giấu sau những lá bài Taro cổ?           Bí ẩn gì phía sau những phép màu trong tấm vải tranh kiệt tác của danh họa Hà Lan vĩ đại…           Để tìm kiếm đáp án, nhà phục chế nổi tiếng Starugin đã đến Praha. Thành phố huyền bí, trung tâm của những truyền thuyết Trung Cổ và của sự mê hoặc, dường như không chịu tiết lộ những bí mật của nó. Ai và vì cái gì đã giết những bản sao của các nhân vật chính trong bức tranh của Rembrandt. Bí ẩn gì trong tâm hồn người phụ nữ đã giúp đỡ Starugin trong chuyến đi đầy hiểm nguy của anh? Liệu có phải dòng máu phù thủy đang chảy trong người cô ta…           Một cuốn truyện trinh thám huyền bí đầy lôi cuốn!                                                                         Lidia Alecsandrovna nhắm mắt trong giây lát. Tất nhiên, điều này là không được phép, nhưng sự chuyển động không ngừng của đám đông phía trước khiến cô cảm thấy chóng mặt. Hôm nay ở bảo tàng Hermitage (*) đã có một sự ồn ào không thể tưởng tượng nổi, đặc biệt là ở đây, nơi cô đang trực – phòng Nhicolaiskii. (* Hermitage: Bảo tàng quốc gia Nga Hermitage là một trong những triển lãm nghệ thuật và bảo tàng lớn nhất, lâu đời nhất, quan trọng nhất và nổi tiếng nhất trong lịch sử văn hóa nhân loại thế giới. Những bộ sưu tập đồ sộ của Hermitage được trưng bày trong sáu tòa nhà lớn, mà tòa nhà lớn nhất là Cung điện mùa đông, thời trước cách mạng tháng Mười là nơi ở chính thức của Sa hoàng Nga. Những điểm nổi bật của bảo tàng Hermitage là những tác phẩm nghệ thuật của Michelangelo, Leonardo da Vinci, Rubens, Van Dyck, Rembrandt, Poussin, Claude Lorrain, Watteau, Tiepolo, Canaletto, Canova, Rodin, Monet, Pissarro, Renoir, Cezanne, Van Gogh, Gauguin, Picasso, Matisse,… Ngoài ra còn rất nhiều tác phẩm nổi tiếng khác, bao gồm những đồ dùng trong hoàng cung, một loạt các đồ kim hoàn của Faberge – một nhà kim hoàn Nga nổi tiếng thế giới, và vô số các đồ kim hoàn cổ từ Đông Âu và Bắc Á.) Điều đó thật dễ hiểu, hôm nay người ta đã mở triển lãm một bức tranh- một bức tranh đặc biệt. Nó nổi tiếng không chỉ khắp châu Âu, kiệt tác “Tuần tra đêm” của danh họa Rembrandt. (Về Rembrandt : http://en.wikipedia.org/wiki/Rembrandt_Harmenszoon_van_Rijn ) Đúng là một sự kiện gây ấn tượng mạnh mẽ. “Tuần tra đêm”, bức tranh vốn chưa từng rời khỏi bảo tàng ở Amsterdam, đã thực hiện một chuyến chu du đầy bất ngờ qua một loạt thành phố châu Âu. Người ta muốn kỉ niệm sự kiện tác giả của bức tranh – Rembrandt van Rijn tròn bốn trăm tuổi. Madrid, Florences, Praha, và cuối cùng là Saint Petersburg… Dễ dàng đoán được, ngày hôm nay, buổi trưng bày đầu tiên, bảo tàng đông đến không thể chen nổi. Lidia Alecsandrovna mở mắt ra. Đám đông phía trước đã dày đặc đến không thể chịu nổi. Giọng nói đều đều của cô hướng dẫn viên át đi tiếng xì xào của đám đông:           - Cái tên “Tuần tra đêm” được đặt bởi Rembrandt chỉ bởi vì trong rất nhiều năm, bức tranh đã bị phủ một lớp bồ hóng từ lò sưởi than trong phòng họp của Đại đội dân quân Amsterdam. Thực sự mọi chuyện trong tranh diễn ra vào ban ngày, và ban đầu bức tranh mang tên: “ Sự khởi hành cùa đội cảnh binh dưới sự chỉ huy của Đại úy Frans Banning Cocq và Trung úy Willem van Ruytenburg”. Chỉ sau khi phục chế vào năm 1889 mới hiện ra lớp sơn ban đầu của bức tranh, và lúc đó người ta mới hiểu được ý tưởng của Rembrandt… (*Dân quân - những người khỏe mạnh đủ tiêu chuẩn để khi cần có thể được gọi để bảo vệ thành phố hay dập tắt bạo loạn*) Cô nhân viên day day ngón tay lên thái dương. Cô cảm thấy khó thở, không khí trong gian phòng đã ngột ngạt như ở vũng lầy. Trong góc phòng, một chàng trai bảo vệ đang đứng nhìn đám đông một cách lười biếng, chốc chốc lại nói gì đó vào chiếc máy bộ đàm màu đen. Lidia Alecsandrovna cố gắng khích lệ bản thân giữ trấn tĩnh. Một cậu bé tám tuổi tiến đến rất gần bức tranh, và cô nghiêm khắc nhắc nhở cậu bé lùi lại. Cô vẫn chưa hết khó chịu, giờ lại có thêm dự cảm bất thường, tuồng như có chuyện gì đó sắp xảy ra. Cô chưa từng bao giờ có linh cảm. Được giáo dục một cách kĩ lưỡng theo chủ nghĩa duy vật, cô hoàn toàn phản đối những gì thuộc về thần bí, và lúc này cô đang cố gắng loại bỏ cảm giác tồi tệ này. Để trụ được, cô lấy từ trong túi một lọ thuốc, đổ ra lòng bàn tay một viên nhỏ màu trắng và cho vào miệng.  Và đúng vào giây phút đó đã xảy ra chuyện mà cô sợ hãi nhất, việc mà thỉnh thoảng cô vẫn thấy trong những cơn ác mộng. Từ dòng người vô tận, một người nổi bật lên – một khuôn mặt trắng toát như thể đang đeo mặt nạ thạch cao, đôi mắt to đen và sâu hoắm, giống như hai cửa sổ trong bóng đêm. Lidia Aleksanđrovna không nhận ngay ra được đó là một bộ mặt phụ nữ. Cô chỉ cảm thấy rằng, linh cảm khó chịu lúc này đang trở thành hiện thực. Cần phải làm gì đó để có thể ngăn điều khủng khiếp sắp diễn ra, nhưng cô bỗng thấy toàn thân nặng như chì. Cô không thể nhúc nhích được, thậm chí không thể rời mắt khỏi bộ mặt trắng vô cảm kia… Ác mộng khủng khiếp của Lidia sắp trở thành hiện thực… Cô thường nghe các đồng nghiệp già kể rằng, vào khoảng hai mươi năm trước, tức vào năm 1985, một kẻ điên rồ đã mang theo một lọ axit và dao găm vào gian triển lãm tranh Rembrandt. Hắn hỏi nhân viên ở đó xem bức tranh nào giá trị nhất, và những người phụ nữ khi đó đã không nghi ngờ gì chỉ cho hắn bức “Danaju”. Tên điên khùng tiến đến gần bức tranh, hắt axit lên đó và như một con thú điên cuồng dùng dao đâm không ngừng lên bức tranh. Lidia đã có lúc cố thử hình dung cảm giác của những đồng nghiệp đó, khi mà tận mắt chứng kiến thảm kịch xảy ra, tưởng tượng rằng, họ đã phải trải qua cảm giác, dường như trước mặt họ là cái chết của một thiên tài thế giới… Và bây giờ chuyện đó đang xảy ra với cô! Người phụ nữ với bộ mặt trắng bệch vô cảm đang cố tách ra khỏi đám đông và từng bước tiến dần đến bức tranh. Viên thuốc trong miệng cô bắt đầu phát huy tác dụng. Lidia thở hắt ra, dường như đã xua hết những cảm giác khó chịu. Cô hô toáng lên và bắt đầu lao đến chỗ kẻ điên khùng. Trong tay kẻ lạ mặt là một thứ gì đó nhọn và sáng lấp loáng. Tiếng hô của cô được hơn mười người hưởng ứng, nhưng những vị khách tham quan hoảng hốt đã giạt sang hai bên, mở rộng lối đi cho kẻ điên rồ. Chỉ còn mình Ladia đang lao đến chỗ cô ả. Từ góc phòng, chàng trai bảo vệ mặc complê đen lao tới, nhưng anh ta còn ở rất xa. Lidia bị vấp, nhưng cô gượng đứng lên. Kẻ điên rồ bị vướng vào cô, ả cố gắng đẩy cô ra xa, đồng thời vươn tay cầm dao về phía bức tranh, cố gắng đâm thẳng xuống mặt vải… Cùng lúc đó, một người bảo vệ chạy tới nơi, anh ta nhanh chóng bẻ quặt tay cô ả ra sau và hét thất thanh vào máy bộ đàm… Mời các bạn đón đọc Bí Mật Bức "Tuần Tra Đêm" của tác giả Natalia Aleksandrovna.