Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vết Khắc Hằn Trên Cát

Vết Khắc Hằn Trên Cát “Cuốn sách ly kỳ về Cuộc đổ bộ này sẽ khiến bạn thích thú, còn chúng tôi thì vô cùng yêu thích. Tác giả đưa chúng ta trở đi trở lại giữa Mỹ và Normandie, theo bước chân của Alice. Những tình tiết hồi hộp đang chờ bạn đó.” - Femme actuelle ------------- GIỚI THIỆU SÁCH: “Điều quan trọng với cô, là Lucky không chết như những người khác trên bãi biển. Cái chết đó, anh đã quyết định nó, anh muốn nó.” Một mạng sống đáng giá bao nhiêu? Tháng Sáu năm 1944, viên lính biệt kích Lucky đã ngã xuống trên một bãi biển ở Normandie. Hai mươi năm sau, Alice, vị hôn thê của anh phát hiện một giao kèo bí mật chỉ vài giờ trước khi xảy ra cuộc đổ bộ năm 44, anh đã mạo hiểm tính mạng để đổi lấy một khoản tiền khổng lồ! Và hành trình đi khắp nước Mỹ để lục lại quá khứ của Alice bắt đầu. “Bussi dẫn dắt những tình tiết hồi hộp với một sự tinh quái đến mức một lúc nào đó, độc giả phải tự hỏi mình có bị lừa hay không. Và cuốn tiểu thuyết cũng thật hài hước nhờ viên thám tử tư đầy hăng hái. Một cuốn trinh thám thật thú vị, cuốn hút.” - Le parisien aujourd’hui en France -------------- GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Michel Bussi sinh ngày 29 tháng Tư năm 1965 tại Normandie. Ông là nhà văn, nhà chính trị học, giáo sư địa lý tại đại học Rouen và được biết đến chủ yếu với những cuốn tiểu thuyết trinh thám. Theo tạp chí Le Figaro, ông đứng thứ hai trong danh sách các nhà văn Pháp có tác phẩm bán chạy nhất năm 2018, với 975.800 bản. Các tác phẩm của Michel Bussi đã được dịch sang 34 thứ tiếng, một số được chuyển thể thành phim điện ảnh và phim truyền hình. Vết khắc hằn trên cát là bản biên tập lại của cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tay Ohama crimes (tạm dịch: Tội ác ở Ohama) xuất bản năm 2007, từng nhận được nhiều giải thưởng như Sang d’encre, Octave Mirbeau… Các tác phẩm khác của Michel Bussi đã được xuất bản tại Việt Nam: Xin Đừng Buông Tay Hoa Súng Đen Mẹ Đã Sai Rồi Kho Báu Bị Nguyền Rủa Vết Khắc Hằn Trên Cát ... *** Lời tác giả Cuốn tiểu thuyết này ra đời từ một ảo ảnh Tuy cuốn tiểu thuyết này nay mới được nhà Presses de la Cité xuất bản lần đầu, dưới nhan đề Vết khắc hằn trên cát, nhưng tôi đã viết nó từ rất lâu rồi. Hai mươi năm, chính xác là vậy. Dẫu các tiểu thuyết của tôi không được kết nối bằng một nhân vật chính xuyên suốt, cũng chẳng theo một trật tự nào; dẫu mỗi độc giả đều có thể bắt đầu khám phá những cuốn sách của tôi từ bất cứ câu chuyện nào, thì câu chuyện này vẫn có vị trí đặc biệt trong cuộc đời viết văn của tôi, bởi đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tôi viết. Dù lúc đó tôi đã gần ba mươi, thì liệu có thể gọi Vết khắc hằn trên cát là tiểu thuyết của tuổi trẻ được không? Được chứ, chắc chắn rồi! Được chứ, bởi khi viết Vết khắc hằn trên cát, tôi không biết liệu một ngày nó có được xuất bản không (và thậm chí, nói thật lòng, tôi cũng không quá tin tưởng vào điều đó). Đó là điểm khác biệt cơ bản với những cuốn tiểu thuyết khác của tôi. Được chứ, bởi khi viết Vết khắc hằn trên cát, tôi không biết bất cứ quy tắc viết tiểu thuyết trinh thám nào, tôi đã tạo ra, hình dung, biến đổi chúng. Có thể các miêu tả nơi chốn quá dài dòng, có thể viên thám tử tư quá lãng mạn, tên giết người thuê quá vụng về, nhưng bằng cách ấy hẳn tôi đã tạo ra cách kể chuyện của riêng mình. Được chứ, bởi tiểu thuyết này chứa đầy những ám chỉ, tham khảo, có thể cả ám ảnh, những thứ sẽ được dùng lại, có khi được phát triển thêm trong các tiểu thuyết sau của tôi, tôi để các bạn khám phá chúng qua từng trang… Được chứ, bởi vào năm 1994, các nhà văn không có Internet, Google Earth, hay từ điển bách khoa trực tuyến… Họ không thể, chỉ bằng một cái nhấp chuột đơn giản, có được cả trăm bức ảnh về súng lục hay danh sách đầy đủ huân, huy chương của quân đội Mỹ từ thời Georges Washington. Năm 1994, cần phải lựa chọn, hoặc là lao vào một cuộc nghiên cứu tìm hiểu dài dằng dặc… hoặc là tự sáng tạo ra tất cả! Các tiểu thuyết về sau của tôi đều được thu thập tư liệu cẩn thận, miêu tả địa điểm chính xác (chí ít cũng gần như luôn chính xác), rồi được các biên tập viên thận trọng đọc đi đọc lại. Vết khắc hằn trên cát đã lọt qua lưới lọc của thực tế và độc giả có thể thỏa sức phân biệt đúng sai, phân biệt những gì có thật và những gì thuộc về trí tưởng tượng thuần túy của tác giả, người đã biến đổi hiện thực theo ý mình, mà sự hư hư thực thực của câu chuyện không hề bị ảnh hưởng. Thậm chí còn nhờ thế mà càng mạnh mẽ hơn, và ở đây tôi có thể thú nhận rằng đôi lúc tôi thấy giận tất cả các công cụ mới dành cho nhà văn; tôi ước mình có thể miêu tả các địa điểm như cách tôi hình dung về chúng chứ không phải như những gì hiện ra trên màn hình biết tuốt của tôi, có thể sáng tạo ra các nhãn hiệu ô tô, quần áo hay rượu, đi theo những trình tự tư pháp mà tôi nghĩ phải thế chứ không bị bó chặt vào những luật lệ, sắc lệnh hay quy định thực tế… Bạn có thể đáp lại rằng chẳng có gì ngăn tôi làm vậy và có lẽ bạn hoàn toàn đúng; đó chắc chắn là việc mà một ngày nào đó tôi sẽ làm. Vả lại, tuyệt đối chân thành mà nói, tôi cũng đã đôi lần làm vậy, một cách thầm lặng, tôi, người viết những cuốn tiểu thuyết trinh thám mà chưa một lần bước chân vào Sở cảnh sát! Được chứ, bởi cuốn tiểu thuyết này đã trải qua nhiều cuộc đời. Chính xác là ba. Ở cuộc đời thứ nhất, nó ngủ yên mười năm trời trong ngăn kéo bàn làm việc của tôi, dưới nhan đề L’Ardoise(tạm dịch: Đá đen), trước khi có một nhà xuất bản đồng ý xuất bản. Ở cuộc đời thứ hai, khi được đặt lại tên là Omaha Crimes(tạm dịch: Những tội ác Omaha), nó hé lộ với tôi thế giới của tiểu thuyết trinh thám. Rồi từ nay trở đi với tên Gravé dans le sable(Vết khắc hằn trên cát), nó tiếp tục chuyến phiêu lưu tươi đẹp và bắt đầu cuộc đời thứ ba. Trước khi, biết đâu đấy, đến với cuộc đời thứ tư trên màn ảnh rộng… Thực ra, ý tưởng của cuốn tiểu thuyết này ra đời từ một ảo ảnh điện ảnh. Theo những ký ức về bộ phim Le Jour le plus long (tạm dịch: Ngày dài nhất), tôi tin mình thấy cảnh các tay lính Mỹ đang tấn công một vách đá, một bức tường bê tông, theo thứ tự đã được ấn định trước do một viên trung úy hô lên. 1, 2, 3, 4… Và tôi xem lại bộ phim: chẳng có chút dấu vết nào của cảnh tượng rùng rợn đó. Nhưng trái lại, cũng không nhà sử học nào có thể khẳng định với tôi là không có một trật tự tấn công nhất định, hay các phương thức xác định trật tự đó. Do thiếu sự thật lịch sử, tôi đã tưởng tượng ra tất cả. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ cùng Alice, Lison, Nick, Ralph, Emilia, Lucky, Ted… Tất cả họ đều có vị trí đặc biệt trong tim tôi, như những người bạn ấu thơ mà ta sẽ nhớ đến nhiều hơn những người ta gặp sau này. Tôi biết rằng với các độc giả đọc tôi từ đầu, những người từng biết đến Vết khắc hằn trên cát dưới tên Omaha Crimes, với bìa đen trắng có hình các sà-lan đổ bộ gợi đến một cuốn sách về ký ức chiến tranh, thì cuốn sách này vẫn mang phong vị riêng, và có lẽ vẫn là cuốn sách yêu thích của họ. Thậm chí họ có thể sẽ nhìn cuốn tiểu thuyết địa phương này lan đến khắp các hiệu sách tại Pháp, đến cả những hiệu sách vô danh, dưới tên mới, với chút ghen tị. Cả một chút buồn nữa, gần giống như khi ta để cậu bé gần nhà ra đi sống cuộc đời mình ở nơi khác, nhưng lại dặn cậu đừng quên nơi mình từ đó ra đi. Có điều gì đó thần kỳ khi một cuốn tiểu thuyết đầu tay, được một nhà xuất bản địa phương phát hành, vài năm sau, lại ra mắt khắp cả nước, rồi ra thế giới, và hơn cả một cuộc đời thứ ba, là hàng nghìn cuộc đời mới, bởi mỗi lần gặp gỡ với một độc giả là một lần cuốn sách sống thêm một cuộc đời. Michel Bussi *** Cuốn sách ly kỳ về cuộc đổ bộ này sẽ khiến bạn thích thú, còn chúng tôi thì vô cùng yêu thích. Tác giả đưa chúng ta trở đi trở lại giữa Mỹ và Normandie, theo bước chân Alice, với những tình tiết hết sức ly kỳ và hồi hộp. Femme Actuelle Bussi dẫn dắt những tình tiết hồi hộp tinh quái đến mức một lúc nào đó, độc giả phải tự hỏi mình có bị lừa hay không? Và cuốn tiểu thuyết cũng thật hài hước nhờ viên thám tử tư đầy hăng hái. Một cuốn trinh thám thật thú vị, cuốn hút. Le Parisien Aujourd’hui En France *** 6 tháng Sáu 1944, bờ biển Omaha, Mũi Guillaume Chiếc sà-lan mở bụng. Một trăm tám mươi tám biệt kích Mỹ nhào xuống làn nước lạnh rồi nhanh chóng tản đi. Nhìn từ trên cao Mũi Guillaume, họ trông chẳng lớn hơn những con kiến trên tấm khăn trải bàn nhàu nhĩ. Khó mà ngắm bắn được họ. Lucky Marry là người đầu tiên vào đến bờ biển, gần như đứt hơi. Anh nằm dài trên cát ướt, khuất sau một khối đá granite nhỏ và thùng chất nổ nặng trịch anh vừa đặt phía trước. Anh nghe thấy tiếng chân chạy nhanh sau lưng và hơi thở gấp gáp. Ralph Finn cũng lao vào nấp sau chỗ trú ẩn tạm bợ. Còn sống! Anh quan sát nhanh Mũi Guillaume, chìm trong sương mù tít trên cao, rồi đến bức tường bê tông nằm trước họ năm chục mét. Anh mỉm cười với Lucky, nụ cười của kẻ tử tế bị cuốn vào cảnh hỗn loạn của thế giới, nhưng vẫn sẵn sàng hành xử đến cùng như một anh hùng vô danh. Một tiếng nổ vang lên cách họ chưa đầy mười mét. Không có tiếng hét nào. Những đám mây cát ướt bốc lên. Alan Woe hiện ra từ trong sương và nằm xuống cạnh Lucky và Ralph. Anh ta cũng còn sống! Anh ta nhìn sâu vào mắt Lucky. Một ánh mắt bình tĩnh, đầy chất trí tuệ. Chút nhân tính bổ sung. Điều đó giúp được gì cho anh ta, ở đây? — Một! – trung úy Dean hô. Ngay lập tức, như những cỗ máy vận hành trơn tru, Lucky, Ralph, Alan chĩa súng về phía Mũi Guillaume và bắn. Loạt đạn đột ngột vang lên đinh tai. Một cơn mưa đạn trút vào lô cốt nằm cheo leo trên đỉnh vách đá. Vừa ngắm, Lucky vừa tự ép mình nghĩ đến Alice. Anh sẽ bình an, nhờ có cô,như mọi khi. Một tiếng thét xé rách tiếng đạn nổ ồn ào. Benjamin Yes khốn khổ đã không tiến được xa. — Hai! – Dean hô. Đã hai rồi ư? Vừa tiếp tục bắn một cách mù quáng, Lucky vừa quay đầu lại. Giữa những con sóng đục ngầu trào lên rồi lại rút xuống, trong một thoáng, anh thấy thân xác những đồng đội đã ngã xuống, thân thể những đồng đội bị thương, cả thân thể trơ ì của những người không dám đánh đến cùng, không dám chạy trên bãi biển trống, chỉ nhô đầu lên khỏi mặt nước. Trong số đó, có Oscar Arlington. Cuối cùng hắn cũng đến được bờ biển. Ướt sũng, bò trong bùn xám, hắn chậm chạp tiến gần đến thùng thuốc nổ. Hắn run rẩy, không thể giữ chắc súng, đôi mắt đỏ ngầu. Lucky bắt gặp ánh mắt kinh hoàng của Arlington. — Ba! – trung úy Dean hô. Một tiếng nổ dữ dội đáp trả loạt đạn của toán biệt kích Mỹ. Những vụn đất ướt màu son trùm lên họ. Oscar Arlington, người lấm lem đất, nước và nước mắt, gần như không thể nhận ra, đã đến được chỗ họ sau thùng thuốc nổ. Lucky không nhìn hắn lấy một lần. Anh phải quên đi. Anh phải tập trung vào khuôn mặt Alice, vợ chưa cưới của anh, người vợ chưa cưới xinh đẹp của anh. Nhưng dẫu sao anh cũng sẽ thắng, như mọi khi, bằng cách này hay cách khác, anh sẽ chiến thắng mọi Arlington trên đời. — Bốn! – trung úy Dean hô. Một cơn rùng mình lan khắp người Lucky. Anh mỉm cười. Ngay cả khi chơi poker, anh cũng chưa từng cảm thấy kích thích đến thế. Ngay cả trước những món tiền đặt cược khủng nhất. Cuộc đời là một trò chơi tuyệt vời, trò chơi đáng giá 1,44 triệu đô-la! Anh nhắm mắt rồi lại mở mắt: khuôn mặt hiền dịu của Alice giờ đã thay thế màn sương bụi. Anh là bất tử. Anh cảm thấy bàn tay mềm oặt của Oscar Arlington tìm cách túm vạt áo rằn ri của anh. Quá muộn. Không chần chừ thêm nữa. Cuối cùng anh cũng sắp biết. Sắp tìm ra câu trả lời cho thương vụ điên cuồng được tiến hành ba ngày trước. Lucky là người điên rồ nhất hay tài giỏi nhất trong tất cả lính biệt kích của chiến dịch Overlord? Ba ngày trước… Mời các bạn đón đọc Vết Khắc Hằn Trên Cát của tác giả Michel Bussi & Danh Việt (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Huyễn Hoặc Của Tội Lỗi - Alexandra Marinina
Nữ thám tử Nastya Kamenskaya đối mặt với một vụ án giết người với nạn nhân là một phụ nữ lớn tuổi sống cô đơn một mình. Trong nhà có nhiều của quí nhưng kẻ gian đã không đúng đến. Từ cái chết của bà lão, Nastya tiếp tục đối đầu với nhiều cái chết khác, và dấu vết dẫn cô đến tận Ucraina với một tổ chức tội phạm và những âm mưu tưởng như không tưởng.. Huyễn hoặc của tội lỗi được đánh giá là một trong những tác phẩm hay của Alexandra Marinina, nếu bạn vượt qua được lối kể chuyện rề rà, những tình huống rối rắm đan xen để đi đến cái kết, bạn sẽ thấy mình không bỏ thời gian uổng phí. *** Nhìn vào căn phòng ấy, với cái xác người phụ nữ có tuổi nằm sóng sượt, có cái gì đó khơi dậy các câu chuyện của Dostoievsky. Án mạng người đàn bà làm nghề cho vay nặng lãi. Tuy vậy, theo các chứng liệu ban đầu, bà ta không làm chuyện cầm cố và không biến nhà mình thành hiệu cầm đồ. Hơn nữa, quang cảnh trong căn hộ xây từ thời Xtalin chứng tỏ sự dư dật và nguồn gốc quí tộc của chủ nhân. Nơi đây nhà bác học nổi tiếng, viện sĩ Smagorin đã từng sống, nhưng đó là lâu lắm rồi. Người đã khuất, Ekaterina Venediktovna Aniskovets, là con gái của ông. Đã ba lần kết hôn và ngần ấy lần đổi họ, nhưng chỗ ở thì không. Ở trong tòa nhà này, có lẽ bà sống lâu hơn tất cả các cư dân khác. Có điều căn hộ của bà vẫn còn là riêng, những căn khác đã từ lâu biến thành các căn hộ chung cư bị đổi chủ xoành xoạch. Họ hoặc được cấp hoặc mua nhà ở mới và chuyển đi, những người khác dọn đến nhờ sang đổi với người thân hoặc vợ hay chồng mình. Các cánh cửa căn hộ đều bị đục nham nhở để lắp chuông và giá gác danh thiếp, và chỉ có cửa căn hộ của Ekaterina Venediktovna có một cái chuông duy nhất và một bảng kim loại có đề Viện sĩ N.V. Smagorin. Viên giám định pháp y xem xét tử thi, chuyên viên chấp pháp hình sự thì bói toán trên các dấu vết. Án mạng hẳn là vụ lợi, được thực hiện với mục đích cướp của, vì căn hộ rất sang trọng bị xáo trộn đến dễ sợ. Thấy ngay là người ta muốn tìm kiếm cái gì đó. - Nạn nhân có bà con gì không ? - Dự thẩm viên Olshansky hỏi người hàng xóm được mời sang chứng kiến. - Tôi không biết, - người thiếu phụ mặc đồ thể thao đáp một cách thiếu quả quyết - Tôi mới ở đây không lâu, trọn nửa năm. Nhưng tôi được nghe rằng bà ấy không con cái gì. - Ai ở tòa nhà này có thể kể điều gì đó về bà Aniskôvets ? Ai đã sống lâu ở đây ? - Ôi, tôi chịu thôi - người hàng xóm lắc đầu. Ở đây tôi ít tiếp xúc với mọi người, tôi chỉ là người thuê phòng. Bà chủ mua căn hộ rồi cho thuê từng phòng. Tôi là dân tị nạn - bà này tiếp lời. - từ Tadjikistan. Ở đây mọi người tránh né tụi tôi như dịch bệnh, tuồng như chúng tôi có thể truyền nhiễm. Bởi vậy họ có chuyện trò gì lắm với chúng tôi đâu. Quả là vị hàng xóm này không được tích sự gì. Giờ thì phải đi lòng vòng từng căn hộ để gom góp đôi chút chứng liệu về người đàn bà có tuổi đã bị sát hại dã man bằng một vật nặng đập vào gáy. Với cư dân tòa nhà này, người quá cố Ekaterina quả thật đã hầu như không tiếp xúc , tuy vậy cháu chắt và người quen của bà không phải là ít. Là dân Matxcơva gạo cội, bà lớn lên ở đây. Tốt nghiệp phổ thông và đại học tổng hợp, rồi làm ở Bảo tàng Lịch sử. Và đã kết giao bè bạn ở mọi nơi. Tất nhiên đến hôm nay không phải tất cả họ đều còn sống. Nhưng dù sao số người còn có thể kể về nạn nhân vẫn khá nhiều. ... Mời các bạn đón đọc ​Huyễn Hoặc Của Tội Lỗi của tác giả Alexandra Marinina.
Vụ Ám Sát Ông Roger Ackroyd - Agatha Christie
Ở làng King’s Abbot, vụ tự sát của bà góa Ferrars làm dấy lên đồn đoán rằng bà đã giết chồng, bị tống tiền và có quan hệ mờ ám với ông Roger Ackroyd, một người giàu có trong làng. Tối hôm sau, ông Ackroyd bị giết trong phòng làm việc trước khi phát hiện được ai là kẻ tống tiền người đàn bà góa. Thám tử lừng danh Hercule Poirot ra tay phá án, với sự trợ giúp của bác sĩ James Sheppard. Xuất bản lần đầu năm 1926, Vụ ám sát ông Roger Ackroyd nhanh chóng trở thành hiện tượng xuất bản và sau này được coi là tác phẩm kinh điển của dòng văn học trinh thám phổ thông, mở ra một kỷ nguyên mới cho văn chương thể loại này *** Cách đây không lâu Agatha Christie, nữ nhà văn Anh nổi tiếng, chuyên viết truyện trinh thám, đã qua đời, hưởng thọ trên chín mươi tuổi. Truyện đầu tay của bà xuất hiện năm 1920. Suốt trên sáu mươi năm cầm bút, bà đã viết hàng mấy trăm truyện về tiểu thuyết trinh thám. Nhiều nước trên thế giới đã dịch in tuyển tập của bà, hoặc dựng thành phim. Agatha Christie khác với một số khá đông các nhà văn viết truyện trinh thám phương Tây. Bà không lạm dụng những sự việc rắc rối bí ẩn hoặc bất ngờ để làm chốt dẫn truyện. Bà chú ý đi sâu vào tâm lý con người. Nhân vật các truyện của bà bao giờ cũng được đặt vào những tình huống tâm lý xã hội phức tạp. Câu chuyện phát triển theo sự diễn biến của tâm cảnh các nhân vật và được giải quyết qua cách nhìn nhận thấu đáo cơ sở tâm lý xã hội của những hành động phạm pháp. Ngôn từ các nhân vật trong các truyện của bà rất phong phú thể hiện được tính cách nguồn gốc xã hội của họ, từ giới thượng lưu đến bọn lưu manh đao búa, đồng thời vẫn giữ vẻ độc đáo, gọn gàng, chính xác của tiếng Anh hiện đại. Do đó, như nhà nữ phê bình người Mỹ Ruth Penison đã viết: "Những truyện của Agatha Christie đã phác họa cho các thế hệ mai sau một bức tranh sinh động và chính xác về xã hội nước Anh hiện tại mà bà am hiểu rất tường tận." *** Bà Ferrars chết vào đêm hôm thứ năm, giữa hai ngày 16 và 17 tháng 9. Người ta gọi tôi đến vào lúc 8 giờ sáng ngày thứ sáu, song tôi không thể làm gì hơn được nữa. Bà ta đã chết được mấy tiếng đồng hồ rồi. Vào khoảng 9 giờ hơn, tôi về đến nhà. Cửa đóng kín. Tôi lặng lẽ mở bằng chiếc chìa khóa riêng, treo áo và mũ ở phòng ngoài. Tôi đứng yên một lúc; một cảm giác nặng nề và lo lắng đè nặng lên tôi. Không biết cái gì sẽ xảy ra sau đây, chắc chắn là tôi không thể đoán được. Nhưng trong đầu tôi cứ quay cuồng một ý nghĩ rằng trong thời gian tới đây, sẽ có nhiều điều bất ngờ nữa xảy ra như cái chết của bà Ferrars. Như người ta thường nói: Những gì con người không hy vọng thì luôn luôn xảy đến. Trong bếp có tiếng cốc va chạm nhau lách cách và một giọng nói khô khan vọng ra, đó là giọng của chị gái tôi: Caroline. - Cậu đã về đấy à, James? Một câu hỏi vô nghĩa, nếu không phải là tôi thì còn là ai khác nữa cơ chứ? Tôi vẫn im lặng không muốn trả lời, chính bà chị tôi là nguyên nhân của sự im lặng này. Caroline là một người đàn bà rất thóc mách và thậm chí còn hơn thế nữa, nếu người ta đề cập đến một vấn đề hay câu chuyện nào đó ở ngoài cái nhà này, Caroline có thể tìm mọi cách để biết cho bằng được những câu chuyện không đâu ra đâu của thiên hạ, mặc dù bà ta vẫn chỉ ngồi ở nhà. Tôi không biết bà chị tôi làm việc đó như thế nào, chỉ biết là bà ấy làm được thôi. Đó cũng chính là nguyên nhân tại sao tôi phải câm miệng. Tất cả những điều tôi sắp phải kể cho Caroline nghe bây giờ, xung quanh cái chết của bà Ferrars, có thể là những điều mà toàn thị trấn này đã được biết cách đây một giờ đồng hồ rồi. Song, bà chị tôi lại luôn luôn muốn biết những cái gì mà những người khác không biết cơ, đó đâu phải là lỗi của tôi. Chồng bà Ferrars bị chết cách đây đã được hơn một năm. Mỗi khi nói về cái chết của ông Ferrars, Caroline vẫn hay khẳng định rằng: Ông Ferrars chết là do bị bà vợ đầu độc. Caroline khẳng định như vậy không dựa trên một chứng cứ hoặc lý lẽ nào và thường xuyên cãi lại khi tôi nói rằng ông Ferrars chết vì bệnh dạ dày quá nặng, thêm vào đó, ông ta còn có thói quen uống rượu mạnh nhiều một cách kinh khủng. Đây là một bằng chứng đúng đắn vì hậu quả của nó đối với bệnh này của ông Ferrars cũng giống như kết quả của một vụ đầu độc. Nhưng Caroline không bao giờ dựa trên cơ sở này để đánh giá lại về bà Ferrars cả, mà vẫn buộc tội bà ấy là một kẻ giết người. - Cậu chỉ cần quan sát kỹ là hiểu ngay bà ta là một người như thế nào - Caroline vẫn thường nói với tôi như vậy. Tôi vẫn do dự đứng ngoài phòng khách không muốn vào và đang suy nghĩ về tất cả những điều đó thì giọng nói gắt gỏng của bà chị tôi lại vọng ra: - Cậu đang làm gì ngoài ấy thế hả, James? Sao không vào đây mà ăn sáng đi? ... Mời các bạn đón đọc Vụ Ám Sát Ông Roger Ackroyd của tác giả Agatha Christie.
Con Mồi Táo Bạo - Erle Stanley Gardner
Mason bảo vệ một người dính vào cuộc chiến cổ phiếu, bị cáo buộc giết hại thư ký của đối thủ. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Jerry Conway lật tờ báo đến trang sáu. Cùng một đề tài như vậy cả tuần nay rồi. Đó là bài báo quảng cáo chiếm hết nửa trang với tựa đề: “HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG ỦY NHIỆM”. Bài báo được viết một cách khôn khéo với lời lẽ chứng tỏ bề ngoài đầy sự thực: Quý vị cổ đông của hãng “Tìm kiếm và khai thác dầu mỏ California - Texas” đã đầu tư cho hãng bởi vì quý vị muốn có lợi túc. Quý vị muốn có lợi tức để sử dụng cho chính quý vị, cho con cháu cũng như cho những người thừa kế. Nhưng quý vị đã nhận được gì? Ngoài sự hoàn toàn trông cậy vào may rủi, ông Giám đốc Jerry Conway đã làm được gì cho quý vị? Ông ta nói nào là phát triển, nào là xây dựng và nào là ông ta đang đặt một nền tảng vững chắc cho Công ty. Nhưng đó không phải là con đường của những chuyên viên thượng thặng bậc nhất lựa chọn. Các chuyên viên này đã nhận định rằng Jerry Conway chỉ đang đặt nền tảng trên bãi cát. Quý vị muốn có lợi tức, quý vị muốn có hành động. Quý vị muốn có lợi tức ngay bây giờ, năm tới hoặc trong năm tới nữa chứ không phải là mười hay hai mươi năm sau. Vậy xin quý vị hãy gửi phiếu ủy nhiệm cho Gifford Farrell. Gifford Farrell sẽ đảm nhận trọng trách giao phó và công việc sẽ phát triển tốt đẹp. Farrell chỉ bảo đảm bằng kết quả chứ không phải bằng lời hứa. Farrell chỉ bảo đảm bằng hành động chứ không phải tà tà, bằng quyết định chứ không phải bằng mơ hồ và bằng thành tích chứ không phải bằng hy vọng. Conway gấp tờ báo lại. Ông thấy rằng bài báo quảng cáo đó sẽ có kết quả và ông thấy mình bị tổn thương. Theo Hội đồng Cổ đông ủy nhiệm thì thật ra hoàn toàn do may mắn nên Công ty tìm kiếm và khai thác dầu mỏ California - Texas đã được nằm trong tổ hợp Turkey Ridge. Và do đó Jerry Conway đã tạo được một lợi tức lớn cho công ty và nâng giá trị của chứng khoán. Đúng ra thì Jerry Conway đã có dự trù đầu tư Công ty vào một tổ hợp khác cũng có tiềm lực mạnh tương đương với tổ hộp Turkey Ridge, nhưng lại không thành công. Gifford Farrell đã từng bị mất ảnh hưởng trong Công ty ngay từ đầu và đã bị Ban giám đốc cách chức, và bây giờ ông ta khởi sự lại cuộc chiến dành quyền ủy nhiệm. Ông ta quyết dành giật lấy quyền điều khiển Công ty từ tay Conway. Ai đã hậu thuẫn cho Farrell? Nguồn tài chính nào đã yểm trợ cho các quảng cáo trên báo chí? Conway rất muốn biết và cần phải biết để tìm cách đối phó. Kế hoạch đầu tư tổng quát chính yếu của Conway phải được thi hành một cách âm thầm. Giờ phút nào Conway để lộ ra kế hoạch, giờ phút đó coi như thất bại. Giá của các tài sản mà Conway hy vọng thu mua được sẽ tự động tăng vọt lên liền. Conway không thể giải thích trên báo chí được. Conway có ý định sẽ báo cáo trước đại hội đồng cổ đông và hy vọng rằng hầu hết các cổ đông lớn sẽ tham dự và sẵn sàng hậu thuẫn cho mình. Nhưng còn các cổ đông nhỏ hơn? Những cổ đông mà họ đầu tư đây một chút, kia một chút, những cổ đông mà họ chỉ muốn thấy hành động và lợi nhuận trước mắt? Liệu những người này sẽ đứng trong hàng ngũ Conway hay họ sẽ bỏ phiếu ủy nhiệm cho Farrell? Theo nghiên cứu các tài liệu cho biết, có khá nhiều các cổ đông nhỏ đã từng nắm được quyền điều khiển Công ty, với điều kiện là họ đoàn kết thành một khối. Nếu Farrell nắm được cái phiếu ủy nhiệm của họ có nghĩa là họ đã đoàn kết thành một khối. Tuy nhiên, nếu Gifford Farrell không thu thập được tối thiểu 60 phần trăm các cổ đông nhỏ này, và “nếu” Conway có khả năng nắm được các cổ đông lớn trong đại hội cổ đông thì mọi chuyện sẽ ổn thỏa. Tuy nhiên đó chỉ là hai chữ “Nếu” to tướng và hiện tại Jerry Conway chưa tìm được giải pháp. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #54: Con Mồi Táo Bạo của tác giả Erle Stanley Gardner.
Tiền 3: Sòng Bạc - Paul Loup Sulitzer
Cimballi, chàng triệu phú 26 tuổi, góa vợ, một con trai, tốt bụng và ham chơi, một hôm bỗng điên rồ nảy ra ý định "tậu" một sòng bạc ở Mỹ để cuộc đời được có thêm phần vui vẻ, bởi vì cái sòng bạc này "...có thể tiếp đón cùng lúc Ba mươi ngàn khách chơi, tổng vốn đầu tư là Năm trăm triệu đô la và ...lãi đồng niên trông rõ được là Một trăm triệu đô la". Vậy thì vui quá rồi. Song, cả tiền lẫn niềm tin đều chưa tìm thấy thì đã thấy chàng Cimballi; nào lồng lên như ngựa vía khắp các châu lục trên trái đất, từ Mỹ sang Âu, Á, Phi rồi lại ngược từ Phi, Á, Âu về Mỹ; nào suýt phá sản; nào hơn thế, suýt bỏ mạng cùng hai đứa con - một đẻ một nuôi, trong đường hầm bên dưới sòng bạc của chính chàng. Bạn đọc sẽ ngạc nhiên và có thể, kinh hoàng, khi đi tới tận cùng của "Sòng Bạc". Sòng Bạc là tập thứ 3 của series tiểu thuyết Tiền của tác giả Paul Loup Sulitzer. Bộ Tiền gồm có: - Tiền! Niềm Vui Sướng - Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Sóng Bạc *** Tác giả Paul L. Sulitzer trước khi trở thành nhà văn đã là một chuyên gia kinh tế, tham vấn cho nhiều công ty lớn. Nhờ thế ông đã có thể đi sâu vào gan ruột “giới làm ăn”, nắm được tối đa những lắt léo, những bí mật mà chỉ người trong cuộc mới biết. Có lẽ đó là lý do chủ yếu khiến "Tiền!..." có sức hấp dẫn lạ lùng của một cuốn truyện trinh thám. Nhưng khác với loại truyện ấy, vẫn là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, một bức tranh thu nhỏ của thời hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của tốc độ chuyển dịch, sức mạnh ma quái của đồng tiền, với lý tưởng, tình yêu, hạnh phúc, và khổ đau của con người... *** Vào quãng giữa tháng 7 năm 1976, ngày 18, cách đây hơn ba tháng tôi đã lao vào việc mua và xây dựng một khách sạn - sòng bạc khổng lồ trên đất Mỹ. Một sòng bạc đáng gọi là một sòng bạc: Sau khi xây dựng xong, nó sẽ có thể tiếp đón được trong cùng một lúc từ 29 đến 30 ngàn khách chơi. Không phải là nhỏ rồi! Dù sao nó cũng đủ để cạnh tranh với những sòng bạc Caesars hay Saudz của Las Vegas. Quy mô thì y chang như nhau hay cũng gần như thế. Nhưng về tầm quan trọng của công chuyện kinh doanh mà tôi đã dấn thân vào thì chỉ cần ba con số là đủ để biểu hiện nó: Tổng số vốn đầu tư là năm trăm triệu dolars, nếu không có gì bất thường thì số vốn này sẽ được khấu hao xong trong ba năm rưỡi, lãi đồng niên trông thấy được sẽ là một trăm triệu dolars nghĩa là 500 triệu francs mỗi tháng[1]. Trừ tiền thuế và các lệ phí. Ngày 18 tháng 7 năm 1976, một chiếc taxi đưa tôi đến một cao ốc ở Phố 65 Đông, tại Manhattan, New York, lúc đó là tám giờ tối, hơn kém khoảng một hay hai phút gì đó. - Tôi tên là Franz Cimballi. Ông Olliphan chờ tôi. Người bảo vệ có mang súng, tra một bảng danh sách để trên bàn làm việc nhìn chòng chọc vào mặt tôi, rồi gật đầu. Tôi đi về phía thang máy, anh ta gọi giật tôi lại, nói: - Tầng lầu của ông Olliphan có thang máy riêng. Anh ta đến gần tôi, đưa tôi đến trước mặt cái cửa bằng gỗ sồi đánh si, kỳ lạ là không có một quả đấm cửa hay bất cứ một thiết bị mở nào. - Xin mời ông nhìn vào chiếc camera này. Tôi phải ngẩng đầu và con mắt độc nhỡn của chiếc ống kính nhìn xuống tôi. Tôi gửi cho nó một nụ cười quyến rũ mà tôi có bí quyết. Mười giây, cái cửa không có khóa lặng lẽ quay, mở vào một thứ phòng khách của phụ nữ, căng bằng lụa mộc, có kê ở hai bên một chiếc tủ đứng kiểu Louis XVI, hai chiếc ghế fauteuil kiểu Adam, lưng ghế có phù hiệu. Tôi bước vào, cánh cửa đóng lại sau lưng tôi. Tôi không hề cảm thấy chiếc cabin khởi động, và cũng chẳng cảm thấy chấn động nhẹ nào báo hiệu đã lên đến nơi. Một cánh cửa mở ra, gác lầu thứ 64 trên cao, một người quản gia người Porto Rico thản nhiên đỡ chiếc áo choàng của tôi. - Xin mời ông đi lối này, thưa ông Cimballi. Nếu cứ xét theo cái thang, bằng gỗ mun rất hẹp đưa tôi lên một căn phòng có lẽ là căn gác cuối cùng của cao ốc này, thì tầng lầu này phải là song lập. Người mời tôi dùng bữa tối đang chờ tôi ở đầu một dãy hành lang hoàn toàn ốp gỗ, dẫn vào một phòng đọc sách cũng hoàn toàn ốp gỗ như vậy. Khi tôi bước vào, ông cất chiếc vĩ cầm vào hộp, và tôi có thể đoán chắc rằng chỉ riêng một cây đàn này thôi, ít nhất cũng bằng giá của cả tầng lầu song lập này và những gì nó chứa bên trong. Đó là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, cao lớn, mảnh mai, rất đẹp, rất lịch sự! Hai thái dương tóc điểm bạc, da mặt rám nắng, đôi mắt xanh cháy bỏng thông minh. Tên ông ta là James Montague Olliphan. Chính ông là người đứng làm trung gian để bán cho tôi khách sạn “Con Voi Trắng”. - Ông dùng một chút rượu thưa ông Cimballi? ... Mời các bạn đón đọc Tiền 3: Sòng Bạc của tác giả Paul Loup Sulitzer.