Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bông Hồng Vàng - K. G. Paustovsky

K. G. Paustovsky (1892 – 1968) là một trong những nhà văn Nga xuất sắc nhất của thế kỷ hai mươi, mang tầm vóc quốc tế. Những tác phẩm của ông đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và được bạn đọc khắp năm châu vô cùng ngưỡng mộ. Chính vì vậy ông đã từng được đề cử để trao giải Nôben về văn học.  Ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn Nga, Paustovsky đã làm cho bạn đọc và giới phê bình chú ý, bởi một giọng văn hết sức độc đáo giàu chất thơ đến mức nồng nàn, càng đọc càng thấm thía sâu xa về cuộc đời, về những nét rung động tinh tế nhất của tâm hồn trước tình người hồn hậu, trước thiên nhiên Nga bình dị mà tráng lệ và vô cùng quyến rũ. Tác phẩm của Pauxtốpki có một ma lực khổng lồ quyến rũ bạn đọc đến với những điều tưởng chừng nhỏ nhặt mà ẩn giấu trong đấy bao ý nghĩa lớn lao về cuộc đời. Người ta thường gọi ông là nhà thơ bị đóng đinh trên cây thánh giá của văn xuôi. Văn của ông là tiếng nói tâm hồn nồng cháy đến mức tột cùng của ông đối với Tổ quốc Nga Xô Viết.  Từ xưa tới nay khi viết truyện ngắn hay tiểu thuyết, các nhà văn đều chú ý đến việc xây dựng cốt truyện sao cho hấp dẫn. Riêng truyện ngắn và truyện vừa của Paustovsky lại không chú ý đến cốt truyện, mà đọc lại rất hấp dẫn. Ông viết truyện theo cốt cách và bút pháp của một nhà thơ, tiêu biểu như tác phẩm “Bông hồng vàng”. *** Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ. Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili: - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi. Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong. Và thế là đêm đó – một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva – tôi đã gặp Paustovsky. Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng… Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky. Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn. Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị…, tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy. Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn. * * * Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt. Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: “Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn”. Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn – trong thực có hư, trong hư có thực. Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất. Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem – tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết. Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn. Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại “Chú Bé Chăn Bò”, “Gió Biển”, “Chuyến Xe Đêm”, “Người Đầu Bếp Già”… Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm. Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người – nhân vật chính – mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian. Cái “hư” trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại: “Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi”. “Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu”. “Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi”. “Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó.” Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó. Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự – một bầu trời sống – với muôn vàn vì sao lấp lánh. “Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó”. Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú. Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài “Những Kẻ Lãng Mạn”, “Những Vầng Mây Lấp Lánh”, mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống. Về vấn đề này Paustovsky viết: “Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng”… “Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế”… “Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống “thô thiển” và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn… Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn.” Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng “hiện thực xã hội chủ nghĩa” muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp.3 Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài “Thơ Của Văn Xuôi” đăng trong tạp chí “Ngọn Cờ” (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó. Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học. Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. “Bông Hồng Vàng” ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí “Tháng Mười”(Oktiabr). Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết (“Bông Hồng Vàng” đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương “Ngôn Ngữ Kim Cương” và “Những Cuốn Từ Điển”. Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu… của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác. Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong “Bông Hồng Vàng”, sự mất mát đó không phải là ít. Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều. Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch “Bông Hồng Vàng”, tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi tế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky. VŨ THƯ HIÊN Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Vàng của tác giả K. G. Paustovsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lâu Đài Hạnh Phúc - Julie Garwood
Là câu chuyện thứ tư trong loạt truyện về bốn chàng Điệp viên Hoàng gia, “Lâu đài hạnh phúc” viết lên câu chuyện về nàng công chúa xinh đẹp Alesandra và chàng hiệp sĩ điển trai Colin - em trai của Hầu tước Cainewood. Là con trai thứ hai trong gia đình, chàng phải tự tìm ra con đường lập nghiệp cho bản thân, vì vậy Colin đã đầu tư và làm chủ một hãng tàu biển bên cạnh thân phận là một Điệp viên Hoàng gia. Chính vì vậy, việc kết hôn với một quý cô là chuyện không hề tồn tại trong kế hoạch năm năm của chàng. Gồm có: Lyon's Lady (Cô Nàng Sư Tử): nói về Lyon và cô nàng Christina.    Guardian Angel (Thiên Thần Hộ Mệnh): nói về Caine - bạn thân của Lyon ở cuốn trên - và Jade.    The Gift (Món Quà Tình Yêu): nói về Nathan - anh trai Jade - và Sara.    The Castle (Lâu Đài Hạnh Phúc): nói về Colin - em trai Caine - và công chúa Alexandra. Một ngày nọ, Colin trở về ngôi nhà của mình và nhận thấy sự hiện diện của một cô gái trẻ vô cùng xinh đẹp bên trong tòa lâu đài. Theo bức thư mà Alesandra trao cho Colin thì cô có mặt ở đây là do sự sắp đặt của cha anh, và anh sẽ trở thành người giám hộ tạm thời của cô. Gần như ngay lập tức, Colin đã phát giác ra cha anh đang cố tình mai mối cô gái xinh đẹp, ngây thơ này cho anh, vì thế anh cố gắng chống lại sức hấp dẫn của cô trong suốt lần chạm trán đầu tiên. Chàng đã từ chối không kết hôn với nàng mà không hề quan tâm đến lý do vì sao một nàng công chúa xinh đẹp nhường này lại phải lặn lội sang nước Anh xa xôi để tìm kiếm một tấm chồng. Colin đã thực sự nổi giận và phản ứng như “một con rồng”.  Bị Colin từ chối, Alesandra đã lên một danh sách các quý tộc triển vọng để thử làm quen và kết hôn. Khi biết về món nợ của thế hệ trước và chứng kiến sự nguy hiểm đang rình rập Alesandra, Colin đã biến danh sách những quý ông triển vọng của nàng trở thành danh sách những kẻ bênh tật hoặc chơi bời hoặc không đứng đắn. chàng đã quyết định chăm sóc Alesandra cả đời mà không cần biết mình có yêu nàng hay không. Vậy là câu chuyện về hiệp sĩ và công chúa đã trở thành câu chuyện nàng công chúa đi thuần hóa một con rồng. Liệu công chúa có giành được trái tim của con rồng? Nàng công chúa sẽ làm gì để chàng hiệp sĩ vượt qua được sự mặc cảm về bàn chân bị tật? Còn rồng kia sẽ làm gì để bảo vệ và đem lại hạnh phúc cho công chúa của mình? Mời các bạn đón đọc Lâu Đài Hạnh Phúc của tác giả Julie Garwood.
Người Tình Hoạt Ngôn
Người Tình Hoạt Ngôn là cuốn thứ ba trong series Travis Family. Câu chuyện đẩy lên kịch tính ngay từ những tình tiết đầu tiên, buộc nhân vật chính phải bộc lộ cá tính của mình ngay lập tức. Người đọc sẽ thấy tò mò, sau đó là đồng cảm, rồi đến ngưỡng mộ với một người con phải vượt qua bi kịch gia đình để tồn tại. Ở Ella hội tụ đầy đủ yếu tố tổn thương cũng như mạnh mẽ của một người lẽ ra đã trở thành một bản lỗi của giáo dục gia đình. Khép mình, sợ bộc lộ bản thân, sợ sự gắn bó nhưng rất giàu tình cảm, thẳng thắn và kiên định, đó là Ella. Ella như một con ốc luôn thu mình lại, sẵn sàng giơ những cái gai sần sùi để đe dọa bất cứ ai muốn tiến lại gần mình, hòng che giấu sự yếu đuối núp dưới lớp vỏ cứng. Phẳng lặng, an toàn, luôn là sự lựa chọn của cô, và cô hài lòng với bình yên mình tự thêu dệt nên. Cho đến khi cuộc đời – hay chính là gia đình mà cô đã cố rũ bỏ – xô cô đến với 2 người đàn ông khác. Một người khơi dậy bản năng che chở, bản năng làm mẹ trong cô, vốn dĩ được xây dựng từ thời thơ ấu. Và Jack – người làm sống lại người đàn bà đầy đam mê và tham lam về tình cảm. Jack – là hiện thân của tất cả những gì cô vẫn phớt lờ – sự bất ổn, mãnh liệt, liều lĩnh. Jack – ích kỷ trong tình yêu, nhưng sự ích kỷ cho người mình yêu. Jack gia trưởng và thích kiểm soát, luôn phải là người nói tiếng cuối cùng, nhưng chỉ khi thấy mình là phần tốt đẹp của người mình yêu. Phải là sự dữ dội ấy mới đủ để phá vỡ lớp vỏ cứng gai góc, rồi sau đó cũng chính cái cứng cỏi ấy mới đủ mạnh để che chở và mang lại yên bình cho một cuộc đời mới tìm lại bình yên sau giông bão.​ *** Series Travis Family gồm có: Sugar Daddy Blue Eyed Devil - Quỷ Mắt Xanh Smooth Talking Stranger - Người Tình Hoạt Ngôn Brown Eyed Girl Mời các bạn đón đọc Người Tình Hoạt Ngôn của tác giả Lisa Kleypas.
Cha và Con - Cormac Mccarthy
“Cormac McCarthy là bậc thầy của nền văn học Mỹ và Cha và con là tác phẩm hay nhất mà ông đã từng viết… Một câu chuyện khiến người đọc thật sự choáng váng và cảm động. Nó khám phá những điều còn lẫn khuất trong trái tim con người” - “Cha và con” rạng lên bởi sự nhẹ nhàng khác thường… giản đơn mà kỳ bí. Tác phẩm vừa được bao bọc trong một tấm màn huyền ảo lại vừa mang một dáng vẻ trong suốt như pha lê. Truyện không hề đưa ra một lối thoát cũng như một kết thúc bình yên nào cả nhưng chính thông điệp không lời sâu thẳm mà đáng sợ đó mới là sự ám ảnh khó quên với người đọc” – The New York Times - “Không một nhà văn Mỹ nào kể từ thời Faulkner dám đi sâu đến như thế vào lãnh địa tối tăm của tội ác và sự cứu rỗi linh hồn. Nhẹ nhàng như một điệu Van, “cha và con” có thừa sự trang nhã để làm hài lòng những độc giả khó tính nhất” – The Boston Globe - “Mỗi trang của cuốn truyện đều chứa đựng một sự lôi cuốn tự nhiên diệu kỳ khiến cho không một độc giả nào có thể cuỡng lại được ham muốn dõi theo cuộc sinh tồn khốc liệt của các nhân vật… Một khi đã cầm cuốn sách lên bạn sẽ không thể đặt nó xuống… Cho dù bạn là ai, bạn vẫn có thể cảm thụ được đầy đủ “Cha và Con” là một kiệt tác vừa bi thương, vừa sâu sắc” – Book Forum. Mời các bạn đón đọc Cha và Con của tác giả Cormac Mccarthy.
Alexis Zorba: Con Người Hoan Lạc - Nikos Kazantzakis
Zorba – Con người hoan lạc là một tác phẩm hết sức thú vị về chân dung một người đàn ông. Từ cuộc đời sống động của ông, Nikos Kazantzaki đã khái quát cả triết lý sống của riêng mình, hết sức sâu sắc mà không hề buồn tẻ. Zorba, một người làm công bình thường, theo người kể chuyện đến khai thác than non trên đảo Crete (Hy Lạp). Tác phẩm xoay quanh cuộc sống tại đó, nơi hai người trở thành bạn thiết của nhau, và Zorba đã là nguồn cảm hứng của người kể chuyện. Tuy vậy, Zorba và người kể truyện là một cặp tương phản thực sự. Và tất cả tác phẩm, thú vị thay, dùng chính cuộc đối thoại giữa họ để khắc hoạ nên một con người hoan lạc, với một thế giới đầy đủ tư tưởng, tôn giáo, triết lý, đam mê, tình yêu và tình dục. Zorba là một lão già, nhưng tuổi già không hề khiến lão đánh mất niềm vui sống. Lão vẫn hăng say hưởng nhận mọi điều say mê ở đời, từ công việc trong công xưởng, từ sự hồi tưởng về những chuyến phiêu lưu cũ, từ những khinh khi với đám tu sĩ, cho đến cả lạc thú tình ái. Lão sống hoàn toàn bản năng, với tất cả những ham muốn hưởng thụ cuộc đời đến từng khoảnh khắc của mình. Ngọn lửa cháy bùng từ hết thảy vui buồn mà Zorba bao giờ cũng đỏ hừng hực đó là niềm mơ ước của mọi người trong đời sống. Đó chính là sự bất hủ của nhân vật mà Nikos Kazantzaki đã tạo nên. Để tô điểm thêm cho Zorba, người kể chuyện được xây dựng tương phản một cách hết sức lý thú. Đó là một chàng trai trẻ mọt sách, chỉ thích nghiên cứu giáo lý Phật giáo. Anh chàng yếu đuối đó không thiết tha với cuộc sống hiện thực, cho dù đó là tình ái chăng nữa. Nhưng rồi, đến một khi, anh chàng ngơ ngác nhận ra sự trống rỗng của những kinh kệ buồn tẻ, những đạo đức chỉ dẫn con người đến một chỗ bơ vơ, vô định, dẫn cuộc sống đến chỗ tĩnh tại, đúng hơn là một sự diệt vong. Trên nền một thứ văn chương nồng nhiệt, thông minh, cuốn hút, Zorba– con người hoan lạc đã xây dựng được một điển hình, đã viết nên một triết lý sống. Và vì thế, xứng đáng là một kiệt tác. *** Nhận định “Một chuyến viễn du tuyệt diệu vào những xứ sở đầy nắng ấm của tinh thần con người… và bất hủ như South Wind, Candide hay The Odysey…” – The New York Times “Với Alexis Zorba thì tất cả các nhân vật của văn học hiện đại đều là loại mắc chứng khó tiêu cả. Lão là Người và lão nói giọng Hy Lạp” – Time “Mỗi trang sách đều sống động với những ý tưởng, những hình ảnh với sự chính xác, tập trung và rung động của thơ ca.” – The New Yorker “Một cuốn tiểu thuyết lớn lao với lão nhân vật chính người Hy Lạp, vừa hừng hực vừa phóng túng, và thô ráp kiểu nông dân, Zorba cũng không khác gì Zarathustra, một vũ công thiên tài.” – SDM Mời các bạn đón đọc Alexis Zorba: Con Người Hoan Lạc của tác giả Nikos Kazantzakis.