Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bánh Xe Nghiệt Ngã

Tiểu thuyết “BÁNH XE NGHIỆT NGÔ của tác giả PHI TRƯỜNG đưa bạn đọc đi sâu vào một cơ sở sản xuất của nền công nghiệp hiện đại Hoa Kỳ, hé cho ta thấy bí quyết thành công của nó : những giám đốc năng nổ, tháo vát làm việc mười hai mười bốn tiếng một ngày, những kỹ sư tận tụy yêu nghề luôn tìm cách ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất để nâng cao chất lượng sản phấm, tổ chức lao động chặt chẽ trong nhà máy mẹ kết hợp với hệ thống xí nghiệp vệ tinh qui tụ những tay nghề cao, bộ máy quảng cáo và dịch vụ thương mại rộng khắp thuận tiện cho người tiêu dùng… Đồng thời tác giả cũng phanh phui những mâu thuẫn đang ngáng trở nền sản xuất lớn tư bản. Chủ nghĩa phát triển thậm chí có nguy cơ sa sút : sự cạnh tranh tàn nhẫn giữa các công ti cá mập, nạn ô nhiễm môi trường sống, tệ phân biệt chủng tộc và nạn mafia có mặt khắp nơi dùng khủng bố tàn bạo để bòn rút công nhân, số đông người lao động bần cùng nổi giận… Qua câu chuyên xoay quanh một nhà máy sản xuất ôtô lớn với nhiều gương mặt rất khác nhau, chủ tịch công ty, quản đốc phân xưởng, công nhân bình thường, da trắng và da đen, những cặp vợ chồng chung thủy và những cô nhân tình quí phái… bạn đọc có thể cảm nhận được ánh hào quang kỳ diệu nhưng đầy lo lắng của một hình thái kinh tế xã hội đang tìm cách thích nghi để tồn tại. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như: Bản Tin Chiều Lời Chẩn Đoán Cuối Cùng Phi Trường Tập 1 Phi Trường Tập 2 Nhà Băng Khách Sạn Phi Trường (Người dịch: DgHien) Bánh Xe Nghiệt Ngã ... *** Chủ tịch hãng Động Cơ Thông Dụng bực mình, cả đêm qua mất ngủ : chiếc chăn điện trở chứng liên tục và mỗi lần như thế ông lại thức giấc vì lạnh. Lúc này vẫn mặc bộ đồ ngủ, choàng áo khoác, ông rón rén đi lục tìm khắp ngôi nhà vắng lặng rồi mang bầy lên nửa còn lại của chiếc giường lớn nhiều thứ dụng cụ đồ nghề, bắt đầu tháo bộ phận điện trong khi Côrali vợ ông vẫn còn ngủ. Ông phát hiện ngay chỗ tiếp xúc kém. Vừa cằn nhằn các tay sản xuất chăn điện làm ẩu, ông mang xuống xưởng riêng dưới hầm để sửa. Người vợ vươn vai. Chỉ vài phút nữa đồng hồ báo thức sẽ đánh chuông. Lúc ấy bà mới dậy lo bữa điểm tâm trong khi vẫn còn ngái ngủ. Ở thị trấn Blumfin Hin cách Đitơroi mười lăm kilômét này bây giờ vẫn còn tối. Sáng sớm hôm đó chủ tịch hãng ĐCTD, người khô khan, cử chỉ lanh lẹn nhưng bản tính nói chung điềm tĩnh có hai cớ để bực mình : chiếc chăn điện tất nhiên là một, còn một nữa là cách xử sự rất đáng giận của Imơcxơn Vên. Mấy phút trước đây qua chiếc đài bán dẫn đặt trên bàn ngủ mở thầm đủ nghe ông đã nhận ra giọng nói chua ngoa quen thuộc và dễ ghét của nhà “phê phán xe hơi” cỡ lớn này. Bữa qua trong cuộc họp báo ở Oasinhtơn một lần nữa Imơcxơn Vên lại công kích ba người đáng ghét nhất xưa nay của lão : Động Cơ Thông Dụng, Fo và Craixlơ. Lên án ba ông Lớn về tội “tham lam, tụ tập bè đảng lưu manh, bội tín, cưỡng đoạt tiền của dân chúng”. Vì ba Ông Lớn đã hoàn toàn thỏa thuận cùng nhau ngăn cản việc phát triển loại xe “sạch sẽ” thay cho xe chạy xăng, loại xe chạy hơi nước hoặc chạy điện là những loại Vên cho rằng “đã sẵn sàng lăn bánh”. Lời buộc tội chẳng có gì mới. Nhưng Vên vốn rất khôn khéo trong sự giao tiếp với công chúng và giới báo chí nên đã lồng vào lời tuyên bố những tư liệu mới làm nó có giá trị thông tin, thu hút được người đọc. Vị chủ tịch hãng công nghiệp lớn nhất thế giới tốt nghiệp kĩ sư một trường nổi tiếng ngồi sửa bộ phận hâm nóng của chiếc chăn điện với niềm vui thích thường thấy khi có thì giờ làm các việc trong gia đình. Rồi ông đi tắm, cạo mặt, bận quần áo, tới dùng bữa sáng với Côrali. Trên bàn ăn có tờ Đitơroi Tự Do. Vừa trông thấy tên và ảnh Imơcxơn Vên in trên trang nhất ông chửi thề và quăng tờ báo xuống đất. Côrali đặt trước mặt chồng các món của bữa điểm tâm theo chế độ “chống tăng côléttêrôn” : bánh mì nướng không phết bơ, lòng trắng một quả trứng luộc, cà chua xắt khoanh, fomát trắng. Sáng nào vợ ông chủ tịch ĐCTD cũng tự tay soạn bữa ăn đầu tiên này và cùng ăn với chồng mặc dầu chồng phải đi làm sớm. Côrali ngồi xuống trước mặt chồng, nhặt tờ báo mở ra và nói : “Theo Imơcxơn Vên, chúng ta đã có đủ trình độ kỹ thuật để đưa người lên mặt trăng hoặc sao Hỏa thì ngành kỹ nghệ xe hơi cũng phải cho ra được loại xe hoàn hảo, không có khuyết điểm gì và không gây ô nhiễm không khí”. Người chồng đặt khăn xuống. “Định làm tôi ăn mất ngon đấy à ? Bữa ăn đã chẳng có gì lại còn…” Người vợ tủm tỉm cười. “Em thấy hình như anh đã hết ngon miệng rồi thì phải ! Ông Vên còn trích dẫn Kinh thánh nói về ô nhiễm nữa cơ. - Lay Chúa Kitô ! Kinh thánh nói gì về cái đó được ! - Không phải Chúa Kitô đâu. Đoạn này trích trong kinh Cựu Ước. - Thì đọc đi vậy. Đằng nào bà cũng định đọc”. Người chồng lầu bầu, vẻ tò mò muốn biết. “Thánh Giêrêmi: Ta cho ngươi tới xứ sở xanh tươi như một khu vườn để các người được ăn những trái quả tươi ngon nhất. Nhưng sau khi đến các người đã làm ô trọc xứ sở của ta, biến gia tài của ta thành thứ ghê tởm.” Bà rót cà phê vào tách. “Em thấy tay ấy viết khá tài tình”. - Chẳng ai cho cái thằng đểu ấy là kém thông minh. Người vợ đọc tiếp. “Ngành kỹ nghệ xe hơi và dầu mỏ đồng tình kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật đáng lẽ từ lâu đã dẫn đến việc phát minh ra xe chạy điện hoặc hơi nước. Lập luận của họ rất đơn giản : loại xe này sẽ biến thành số không toàn bộ khoản tiền khổng lồ đầu tư vào loại động cơ đốt trong đang đầu độc khí quyển”. Bà đặt báo xuống. “Bài này có gì đúng sự thật không ? - Rõ ràng Vên cho tất cả những điều ấy là đúng. - Anh thì không ? - Nhất định không. - Không có một tí nào ? - Đôi khi có thể thoang thoảng tí chút sự thật trong một lời tuyên bố ngoa ngoắt. Chính bằng cách đó mà những kẻ như Imơcxơn làm ra vẻ mình có lý”. Người chồng đáp lại, vẻ bực bội. - Anh sẽ bác bỏ những điều lão nói chứ ? - Có lẽ không. - Sao vậy ? - Vì nếu Động Cơ Thông Dụng nện Imơcxơn, người ta sẽ lên án cái Hãng lớn như thế mà đi đè bẹp một cá nhân tầm thường. Nếu không đập lại thiên hạ cũng sẽ nguyền rủa bọn anh, nhưng dù sao họ không thể trích dẫn lời bọn anh để xuyên tạc. - Sao không để một người nào khác đập lại ? - Nếu có tay nhà báo kha khá nào đó đụng đến Hăngri Fo xem, có lẽ ông ta sẽ trả miếng - ông mỉm cười - có điều là Hăngri sẽ nói toạc móng heo và sẽ không công bố lời ông ta được. - Ở địa vị anh, có lẽ em sẽ nói một cái gì. Tất nhiên nếu em tin chắc mình có lý. - Cám ơn lời khuyên của em. Vị chủ tịch ĐCTD chấm dứt bàn cãi ngồi ăn xong bữa. Nhưng cuộc tranh luận với những lời châm chọc cố tình mà Côrali cho là thỉnh thoảng đưa ra sẽ bổ ích cho ông, đã làm tiêu tan nỗi bực dọc từ sáng. Ông nghe phía ngoài cửa bếp bước chân người hầu gái đang vào. Như vậy là lái xe đón cô ta dọc đường đã về và đang đợi ông dưới kia. Ông đứng lên, ôm hôn vợ. Mấy phút sau, khoảng sáu giờ sáng chiếc Cađilắc chở ông theo đường Têlêgráf đi về phía đường FriUê và khu trung tâm. Vào một sáng tháng mười trong trẻo có từng cơn gió tây bắc báo hiệu mùa đông đang về. Thành phố Đitơroi bang Misigân, thủ đô thế giới của công nghiệp xe hơi bắt đầu tỉnh giấc. Ở Blumfin Hin, cách nhà ông chủ tịch ĐCTD mười phút đi bộ, phó chủ tịch hãng Fo cũng đang sửa soạn ra sân bay Mêtrôpôlitên của thành phố. Ông đã dùng xong bữa sáng, một mình. Người nữ nhân viên phục vụ bưng khay thức ăn vào tận văn phòng chiếu sáng yếu ớt trong đó ông ngồi đọc các bản báo cáo từ năm giờ sáng (phần lớn các báo cáo đều viết trên loại giấy xanh đặc biệt mà văn phòng phó chủ tịch dùng cho các văn kiện về thực hiện đề án mới) và ghi vào băng từ những chỉ thị rõ ràng, chính xác. Gần như ông không ngẩng lên nhìn khi bữa điểm tâm được mang vào và cũng chẳng nhìn xem mình đang ăn gì. Trong có một giờ ông làm xong khối công việc người khác phải làm trong cả một ngày hoặc hơn nữa mới xong. Phần lớn các quyết định xoay quanh việc xây dựng thêm xưởng máy mới hoặc mở rộng những nhà máy hiện có, tốn kém hàng mấy tỉ đô la. Phó chủ tịch ngoài nhiều nhiệm vụ khác, có trách nhiệm phê chuẩn hoặc bác bỏ các đề án được đệ trình và định thứ tự ưu tiên. Hôm có người hỏi ông phê duyệt những khoản lớn như vậy có thấy run tay không, ông đáp lại : “Không, bởi vì bao giờ tôi cũng thầm bỏ bớt ba chữ số cuối. Thành ra cũng không khó hơn khi cân nhắc mua một ngôi nhà”. Câu trả lời rõ ràng, bật ra rất nhanh, nói lên bản lĩnh của người vốn là anh bán xe xoàng xĩnh chỉ trong thời gian kỉ lục đã trở thành một trong mười hai ông chủ có quyền quyết định trong vương quốc xe hơi. Cũng chính cách làm ăn kiểu đó giúp ông trở thành siêu triệu phú. Vấn đề cần xem xét là sự tiến bộ và sự giàu sang có đáng với cái giá phải trả không. Phó chủ tịch làm việc mỗi ngày mười hai có khi mười bốn tiếng, thường là bẩy ngày trong một tuần với nhịp độ dồn dập. Như ngày hôm nay, trong lúc phần đông dân thành phố còn đang ngủ ông đã phải lên máy bay riêng của hãng bay đi NiuYoóc, trong lúc ngồi trên máy bay ông tranh thủ nghiên cứu thị trường với các nhân viên dưới quyền, vừa đến nơi phải chủ tọa ngay cuộc họp với các giám đốc địa phương cũng về vấn đề đó. Cuộc họp vừa xong ông phải tranh cãi gay gắt với hai mươi đại lý bang NiuGiơdi về việc bảo hành và các dịch vụ hậu mãi. Sau dó đến Manhattan dùng bữa trưa với một nhóm chủ ngân hàng, đọc một bài diễn văn. Rồi họp báo, đương đầu với các phóng viên. Buồi trưa trở về Đitơroi cũng bằng chiếc máy bay đó, ông có nhiều cuộc gặp gỡ để giải quyết công việc thường lệ cho đến bữa chiều. Trong ngày, vào một lúc nào đó chưa sắp xếp được, phải đưa đầu cho thợ đến tận nơi cắt tóc. Bữa tối ăn trên sân thượng sẽ được điểm xuyết bằng cuộc trò chuyện với người phụ trách các ban quan trọng về kiểu xe mới. Cuối cùng sẽ đến vĩnh biệt một đồng nghiệp mới từ trần tối qua vì nghẽn động mạch vành, (tại nhà thờ tang lễ Hêminhtơn, một chặng trên con đường đưa các ông Lớn ngành xe hơi tới nghĩa trang Út Lên). Sau tất cả những việc đó cuối cùng phó chủ tịch mới được về nhà ôm theo chiếc cặp căng phồng hồ sơ phải nghiên cứu để chuẩn bị cho ngày mai. Lúc này ông đẩy khay điểm tâm ra xa, thu gom giấy từ rồi đứng lên. Bốn bức tường của phòng làm việc đều có giá xếp đầy sách. Đôi khi, vào những buổi không bận rộn tối tăm mắt mũi như sáng nay ông ném lên chúng một cái nhìn tiếc nuối và thèm muốn. Vì nhiều năm trước đây có một thời ông đọc rất nhiều. Có thể ông đã trở thành sinh viên nếu đời ông đi theo hướng khác. Bây giờ thì không có thì giờ đọc sách nữa. Ngay cả việc đọc tờ báo hàng ngày cũng phải rình chộp thời cơ tranh thủ liếc thật nhanh. Nên ông cầm tờ báo còn nguyên nếp gấp khi nhân viên phục vụ mang tới và nhét luôn vào cặp. Vì thế mãi sau ông mới biết những lời công kích mới nhất của Imơcxơn Vên và nguyền rủa hắn như những người khác trong ngành xe hơi đã nguyền rủa từ sớm. Tại sân bay ban tham mưu cùng đi với ông đã tề tựu trong phòng đợi của đoàn Vận chuyển hàng không Hăngri Fo. Ông ra lệnh giọng khô khan. “Lên đường”. Động cơ chiếc Jết Xta bắt đầu chạy, trong lúc cả đoàn tám người lên máy bay. Những người lên sau chưa kịp đeo dây an toàn máy bay đã lăn bánh. Chỉ những người thường đi máy bay riêng mới thấy rõ cái lợi về tiết kiệm thì giờ so với đi máy bay công cộng. Máy bay lăn nhanh ra đường băng cất cánh trong lúc mọi người mở cặp đặt trên đầu gối. Phó chủ tịch mở đầu ngay cuộc thảo luận. “Kết quả thu được ở khu vực đông bắc mấy tháng gần đây không được khả quan. Các ông đều đã nắm được số liệu, cũng như tôi. Tôi đòi hỏi sự giải thích tình hình đó. Và muốn biết những biện pháp nào đã được thi hành”. Ông vừa nói xong thì máy bay cất cánh. Phía chân trời vầng dương đỏ quạch nhô dần, sáng lên giữa những đám mây xám trôi rất nhanh. Dưới cánh máy bay đang nâng độ cao, ánh sáng ban mai làm nhìn rõ thành phố và các vùng phụ cận trải dài. Khu trung tâm Đitơroi, ốc đảo vuông mỗi cạnh một cây số giống như một Manhattan thu nhỏ; tiếp liền sau đó là những héc ta đường phố buồn tẻ, nhà cao tầng, nhà máy, nhà ở, phần lớn cáu bẩn. Một thành phố công nghiệp dơ dáy phát sợ vì không chịu vung tiền cho công việc quét dọn vệ sinh. Phía tây thành phố, Điếcbơn sạch sẽ xanh tươi hơn, tận cùng bằng tổ hợp công nghiệp khổng lồ của LơRu. Ngược lại ở đầu phía đông, khu Mũi Lớn, phô những rặng cây thẳng tắp : đó là thiên đường của những kẻ giầu có. Phía Nam là khu công nghiệp Vianđốt mù mịt khói; đảo Bel-In nép sát bờ sông Đitơroi như chiếc sà lan mầu rỉ đồng chở khẳm. Bờ sông bên kia là lãnh thổ Canada, thành phố Oaixo cũng xấu xí cũng gớm ghiếc không kém Đitơroi trên đất Mĩ. Và trên khắp mọi miền, ánh sáng ban ngày làm nổi rõ mật độ giao thông dầy đặc trên mạng đường sá. Hàng vạn con người như đàn kiến cỏ (hoặc đàn chuột len-mút tùy theo cách nhìn từng người) gồm thợ thuyền, nhân viên, viên chức lũ lượt kéo nhau bước vào một ngày sản xuất mới trong vô vàn xí nghiệp lớn nhỏ. Đitơroi kiểm soát và điều khiển nền sản xuất xe hơi của cả nước, nên khi ngày làm việc bắt đầu thì nhịp xuất xưởng lập tức hiện trên tấm bảng lớn đặt tại điểm giao thông lộ các con đường đi tới Fo và tới Craixlơ, những con đường đầy ứ xe. Nhờ sử dụng một hệ thống thống nhất trong cả nước, từng phút một số lượng xe xuất xưởng trong năm hiện lên bằng những con số cao một mét rưỡi trên bảng. Mỗi khi có thêm một dây chuyền khởi động thì tổng số lại tăng lên. Lúc này đã có hai mươi chín nhà máy trong vùng đông bắc làm việc, gửi số liệu lên bảng, số liệu tăng vọt sau khi mười ba xưởng lắp ráp của trung tâm tây và sáu xưởng của Califoócnia khởi động. Những người chạy xe trên đường nhìn tấm bảng với tâm trạng của người bác sĩ nhìn số đo huyết áp, của kẻ đầu cơ chứng khoán khi nhìn bảng giá ở ngân hàng. Có những người còn cá cược nhau về tổng số lúc sáng, lúc chiều. Những xưởng gần nhất cách đây khoảng 1,5km là của Craixlơ, nói chính xác là các xưởng Đốt và Plai-mao mỗi giờ cho ra hơn trăm xe. Trước đây viên chủ tịch hội đồng quản trị của Craixlơ thỉnh thoảng đến giám sát việc bắt đầu chế tạo một sản phẩm mới và tự mình thử khi sản phẩm ra đời. Gần đây ít khi ông làm thế. Buổi sáng hôm đó ông vẫn còn ngồi nhà đọc từ nhật báo Phố Uôn và uống ly cafê do vợ pha trước khi bà đi dự cuộc họp Hiệp hội Nghệ thuật. Hồi đó ông tổng giám đốc hãng Craixlơ (mới nhậm chức chủ tịch gần đây) tất bật chạy ngược chạy xuôi khắp nhà máy không hề mệt mỏi, phần vì nhà máy thiếu máu đang rất cần một giám đốc năng nổ, phần khác là vì bản thân ông đang muốn dứt khoát dứt bỏ cái nhãn “kế toán” người ta thường gán cho những người ngoi lên theo con đường của ngành tài vụ chứ không qua ngạch kỹ sư hoặc chuyên viên thương mại. Dưới quyền ông, hãng đã trải qua nhiều bước thăng trầm : sáu năm thịnh vượng gây được lòng tin cho các cổ đông tiếp theo là sáu năm sa sút đến mức báo động. Sau đó bằng những cố gắng ghê gớm và những tiết giảm khắc nghiệt hãng đã vượt qua cơn hiểm nghèo, khiến có người cho rằng chưa bao giờ hãng hoạt động tốt bằng trong thời kì khó khăn. Tuy nhiên thời khó khăn đã qua, không ai cho rằng chiếc Pentátta đời mới nhất của Craixlơ có thể lại mất cái vị trí nó đã chiếm được. Vị chủ tịch có thể rảnh rang một chút, suy nghĩ nhiều hơn, đọc những thứ thấy thích đọc. Lúc này ông đang đọc bài của Imơcxơn Vên; bài đăng trên nhật báo Phố Uôn có phần kín đáo hơn trên từ Đitơroi Tự do. Nên làm ông chán ngấy, ông thấy lời chỉ trích của lão cùn mòn, không có bản sắc. Nên ông chỉ lướt qua rồi chuyển qua mục bất động sản có sức thuyết phục hơn. Không mấy người biết ít lâu nay Craixlơ đang chăm lo xây dựng một vương quốc bất động sản, trước mắt làm cho hoạt động kinh doanh của công ti phong phú hơn, và sao lại không ? trong vài thập kỷ nữa sẽ đưa “số ba” lên ngang hàng hoặc cao hơn Động Cơ Thông Dụng. Trong khi chờ đợi ngày đó, vị chủ tịch hài lòng ghi nhận nhịp độ sản xuất trên mức khả quan của các nhà máy Craixlơ. Như vậy đó, sáng nay cũng như tất cả các buổi sáng, Ba Ông Lớn vật lộn ráo riết để giữ vững ngôi thứ của mình trong khi một hãng khác ở bang Uýtcơnxin, hãng Động Cơ Mĩ bé nhỏ hơn cũng góp vào dòng lũ xe hơi này một phần tuy ít ỏi hơn nhưng hiện đại hơn. Mời các bạn đón đọc Bánh Xe Nghiệt Ngã của tác giả Arthur Hailey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ai Đó Dõi Theo Em
.. tại một nơi bạn thù không tài nào phân biệt. ... nơi sự thật trở thành thứ vũ khí khủng khiếp hơn hết thảy. ... nơi kết thúc lại chính là điểm khởi đầu... Micheal Valente, một tỷ phú đẹp trai, từng ngồi tù nhưng chưa bao giờ hết kiêu ngạo - một con mồi quyến rũ cứ lẩn tránh hoài cái lưới luôn giăng sẵn của giới cảnh sát, công tố viên liên bang Mỹ. Leigh Kendall, nữ diễn viên tài hoa xinh đẹp, huyền thoại sống của sân khấu Broadway, kẻ tình nghi số một trong vụ mất tích bí ẩn của người chồng thành đạt. Nhờ định mệnh, anh đã quen cô. Do định mệnh, anh đã nhường cơ hội tình yêu cho một kẻ hóa ra không hề xứng đáng. Anh đã tưởng, tình yêu của anh, chỉ cần là lặng lẽ đi sau một người, dõi theo từng bước chân của người ấy bằng cả trái tim. Cô vẫn nghĩ, hạnh phúc của cô, đơn giản là khi cô thất vọng, khi cô không đủ dũng khí tiến lên phía trước, thì chỉ cần ngoảnh đầu nhìn lại, sau lưng cô vẫn luôn có một người. Nhưng hóa ra, hạnh phúc không nằm ở sự hy sinh thầm lặng, tình yêu đích thực không thể thiếu đấu tranh. Chính là khi họ nhận ra rằng... NẾU THẬT SỰ YÊU, ĐỪNG BAO GIỜ TỪ BỎ *** Nhận định "Judith McNaught là một đẳng cấp riêng." - USA Today "Tác giả ăn khách bậc nhất New York Times đã khéo léo dệt nên một câu chuyện ly kỳ đắm chìm trong bầu không khí căng thẳng hồi hộp, đầy những nhân vật không thể quên và chằng chịt những mạch ngầm dữ dội của khát khao, tham vọng." - Amazon.com "Một câu chuyện tình yêu đích thực hòa trộn giữa sự hài hước, hồi hộp, bí ẩn và lãng mạn khôn cùng."- Regan *** JUDITH McNAUGHT (1944) được xem là một trong những tác giả được yêu thích nhất mọi thời đại với thể loại tiểu thuyết lãng mạn cổ điển. Trước khi bước vào sự nghiệp viết lách, McNaught đã thành công trong lĩnh vực phát thanh, điện ảnh và tài chính. Bà đã quyên góp và làm rất nhiều việc từ thiện. Judith McNaught hiện đang sống ở Houston, Texas. Tác phẩm: Hơn Cả Tuyệt Vời Như Cõi Thiên Đường 11 Năm chờ 11 Tuần yêu Ai Đó Dõi Theo Em Whitney Yêu Dấu Vương Quốc Của Những Giấc Mơ Em Có Để Ta Hôn Em Không? Hạnh Phúc Nhân Đôi Tender Triumph Trong Từng Hơi Thở Tiếng Sét Xanh Định Mệnh Yêu Em Cho Đến Hơi Thở Cuối Cùng Một Lần Và Mãi Mãi Điều Kỳ Diệu Remember When Thiên Đường ... *** Khi đoàn xe hộ tống rẽ vào Broadway thì trời đã nhập nhoạng, và O’Hara cho chiếc limousine chạy chậm lại. Khách bộ hành trên đường ngoái nhìn theo khi họ lướt qua, cố nhòm vào bên trong cánh cửa sổ tối màu của chiếc Mercedes dài. Từ ghế sau, Michael liếc ra ngoài cửa sổ, chờ dòng tên “Leigh Kendall” bật sáng trên mái rạp hát của Solomon. Đó là một thói quen của anh - chờ tên cô xuất hiện trên mái rạp hát. Anh vẫn làm thế nhiều năm rồi, cả vô thức lẫn chủ tâm, bất cứ khi nào anh có mặt ở Broadway. Lần nào cũng vậy, hễ nhìn thấy tên cô trên đó, trong lòng anh lại trào dâng nỗi hoài niệm, và ngay sau đó là ý thức về sự nghiệt ngã của số phận vì ngày xưa anh đã để lỡ cơ hội với cô. Nhưng số phận đã cho anh cơ hội thứ hai, Michael hân hoan thầm nghĩ, và lần này anh đã không bỏ lỡ, cũng không lãng phí thời gian. Ba tháng trước, Leigh còn là vợ của Logan Manning. Từ đó đến nay, Michael đã đưa cô từ một quả phụ trở thành một cô dâu - và trên đoạn đường đó là một điểm dừng dành cho thiên chức làm mẹ. Chỉ mới mười hai tuần trước, cô đứng trước mặt anh trong một buổi tiệc, mặc bộ váy đỏ và che giấu vẻ khinh thị đằng sau lớp mặt nạ lịch sự. Đêm nay, cô đang ngồi cạnh anh trong xe của anh, mặc bộ váy cưới lộng lẫy và nắm tay anh. Chưa đầy một tiếng đồng hồ nữa, cô sẽ đứng cạnh anh trước một vị thẩm phán tối cao và tự nguyện gắn kết cuộc đời cô với cuộc đời anh. Và sau bảy tháng rưỡi nữa, cô sẽ mang đến cho anh đứa con đầu lòng. Dĩ nhiên anh cũng được hỗ trợ bởi sức hút giữa hai người, một sức hút quá mạnh và quá trọng yếu đến nỗi ngay lập tức bừng tỉnh sau mười bốn năm ngủ yên. “Anh đang nghĩ gì vậy?” Leigh hỏi anh. “Cơ hội thứ hai,” anh mỉm cười nói, nhìn khuôn mặt đang ngước lên của cô. “Anh đang nghĩ về số phận và cơ hội thứ hai. Anh cũng đang nghĩ rằng nếu Solomon còn chưa sẵn sàng đợi chúng ta ở nhà hát, anh sẽ đích thân lôi anh ta vào trong xe bất kể anh ta đang mặc - hay không mặc gì - khi anh gặp anh ta.” Leigh bật cười trước lời dọa dẫm của anh và hất đầu ra ngoài cửa sổ xe. “Chúng ta sắp đến nơi, và em nhìn thấy Jason đang đứng trên vỉa hè rồi, nhưng có vẻ như anh ấy lại đang gặp rắc rối.” Michael nhìn ra cửa sổ và thấy tấm biển trên nhà hát của Solomon đang bật sáng dòng chữ BLIND SPOT, nhưng tên của Leigh thì tối thui. Solomon đang đứng trên vỉa hè trong bộ vest tuxedo, đầu ngửa ra sau nhìn về phía tấm biển, điện thoại di động áp sát tai. Eric Ingram đứng cách đó vài mét, cũng trong bộ vest tuxedo, nhìn lên tấm biển. Ở quầy bán vé, mọi người đang xếp hàng hy vọng vào giờ chót vẫn còn sót tấm vé xem kịch không có người nhận cho họ mua. “Tội nghiệp Jason,” Leigh giải thích, khẽ thở dài cảm thông. “Từ hôm công diễn đến nay anh ấy đã gặp không biết bao nhiêu phiền phức với vấn đề ánh sáng rồi.” Tâm trí Michael vẫn đang tập trung vào đám cưới, không phải tấm biển, vì vậy anh không nghe ra sắc thái dịu dàng khác thường trong giọng cô khi cô nói, “Chúng ta ra ngoài một phút được không? Nếu không, anh ấy sẽ đứng mãi ở đó mà bực bội với bản thân và la hét trên điện thoại với người phụ trách ánh sáng mất.” Anh gật đầu chịu thua, thích thú nhận ra với dân ca kịch, vấn đề ánh sáng rõ ràng được đặt trên mọi vấn đề khác, kể cả đám cưới sắp diễn ra. Hơi cao giọng lên, anh nói với O’Hara, “Dừng lại trước nhà hát nhé, càng gần vỉa hè càng tốt. Chúng tôi sẽ xuống xe. Solomon đang gặp vấn đề về ánh sáng.” “Anh đùa chắc!” O’Hara kêu lên, sửng sốt nhìn Michael qua kính chiếu hậu. “Hai người đang mặc quần áo cô dâu chú rể, còn tôi có bốn cảnh sát ngồi trên xe máy ở phía trước và bốn gã nữa ở đằng sau. Solomon không thể gọi thợ điện như người khác vẫn làm sao?” “Rõ là không,” Michael mỉa mai. .... Mời các bạn đón đọc Ai Đó Dõi Theo Em của tác giả Judith McNaught.
Velma (Từ Giã Cuộc Tình)
Thám tử Philip Marlowe là một cựu cảnh sát, người luôn nhúng mũi vào những chuyện được cảnh báo là nên tránh xa. Xuất hiện không đúng nơi, đúng lúc, Marlowe trở thành nhân chứng bất đắc dĩ của hai vụ giết người, bị cuốn vào vụ cướp nữ trang và một âm mưu tống tiền. Los Angeles một ngày ấm áp cuối tháng 3, trong một quán rượu ở Đại lộ Trung tâm, Marlowe vô tình trở thành nhân chứng bất đắc dĩ chứng kiến cảnh Malloy - một tên cướp nhà băng vừa mới ra tù giết người. Được cảnh sát nhờ kiếm tìm giúp tên tội phạm nguy hiểm, Marlowe tiếp tục bị cuốn vào vụ án cướp nữ trang và cái chết của Marriott – bạn của của phu nhân Grayle cũng là chủ nhân của chuỗi ngọc phỉ thúy bị cướp. Trong quá trình tìm kiếm tội phạm, Marlowe đã phát hiện ra Velma – cô ca sĩ tóc đỏ của quán rượu 8 năm về trước có thể là đầu mối và nút thắt duy nhất của vụ án? Nhưng phải làm thế nào khi cô gái ấy biến mất không dấu vết? Ai mới là chủ mưu thật sự sau tất cả? *** Raymond Chandler, là người đồng thời với Agatha Christie và Dashiell Hammett, hai đại diện lớn của tiểu thuyết trinh thám, có thể nói ông là người thứ ba có vị trí “ngang ngửa” so với hai tác giả này mặc dầu 45 tuổi mới được biết đến và tác phẩm để lại không nhiều như các đồng nghiệp khác.   Tên đầy đủ của ông là Raymond Thornton Chandler. Ông sinh ngày 23/7/1888 tại Chicago, bang Illinois. Năm 18 tuổi, ông sang Paris (Pháp), rồi sang Đức nghiên cứu ngôn ngữ và luật quốc tế. Mùa xuân năm 1907, ông nhập quốc tịch Anh. Trước khi trở thành một nhà văn chuyên nghiệp, Chandler làm đủ nghề: đầu tiên ông làm phóng viên cho tờ Tin nhanh hàng ngày ở London, rồi làm thơ, viết kịch ngắn, viết báo, dịch thuật cho các tạp chí. Năm 24 tuổi, ông về Hoa Kỳ, đi khắp Los Angeles làm những việc lặt vặt. 25 tuổi, qua một khóa học thủ thư, ông giữ chân thủ thư và kế toán cho một hãng bột sữa. Vào nửa cuối Thế chiến I (1917 – 1918), ông đăng lính trong lực lượng viễn chinh Canada, sang Pháp, rồi lại chuyển sang Không quân Hoàng gia. Sau khi giải ngũ, ông làm việc cho một ngân hàng Anh ở San Francisco. Ba năm sau, ông lại làm thủ thư và kiểm toán cho tập đoàn dầu mỏ Dabney, và nhanh chóng được thăng chức Phó chủ tịch. Thế nhưng 10 năm sau, ở tuổi 44, ông bị đuổi việc vì uống rượu và hay bỏ việc. Phải đến tuổi 45, sau khi công bố truyện trinh thám đầu tiên Vụ tống tiền không tiếng súng, ông mới chấm dứt giai đoạn lang thang làm đủ mọi nghề để chuyên tâm viết văn. Năm 31 tuổi, ông quan hệ với một người đàn bà đã có chồng, tên là Pearl Cecily Hurburt, và 5 năm sau, họ mới kết hôn. Lúc này Hurburt đã ở tuổi… 54, hơn ông 18 tuổi. Họ sống với nhau đúng 30 năm thì bà mất (1954). Các nhà viết tiểu sử Chandler sau này đều thừa nhận rằng cuộc đời ông còn rất nhiều khoảng trống bí ẩn, nhất là vì ông cứ nay đây mai đó, thay đổi chỗ ở liên tục. Hơn nữa, ông lại là người có hai quốc tịch, là dân Anh đến 49 năm, và chỉ ba năm trước khi mất (1956), ông mới trở lại quốc tịch Hoa Kỳ. Nhưng ai cũng thừa nhận rằng ông kiếm sống khá vất vả, nhất là trong những năm đầu trở thành nhà văn trinh thám chuyên nghiệp. Vì hai lý do: ông chưa bao giờ là một văn sĩ viết nhiều và thời gian đầu, khoảng năm sáu năm sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế, nhuận bút cũng rất thấp. Những hóa đơn, chứng từ thanh toán của ông còn sót lại, cho thấy năm 1936, ông kiếm được 1.500USD nhuận bút từ 5 truyện ngắn. Mời các bạn đón đọc Velma (Từ Giã Cuộc Tình) của tác giả Raymond Chandler.
Vũ Điệu Quỷ
Trong thời gian học tập và nghiên cứu cũng nhưng làm công việc của một bác sĩ tâm lý trị liệu, tác giả tình cờ phát hiện thấy những tình trạng tâm lý kỳ quái và đáng ngại, đó là hội chứng Munchausen, trong đó những người bệnh mắc phải hội chứng này thường giả vờ ốm bằng cách nói dối về các triệu chứng, tự làm tổn thương họ hay uống thuốc độc. Nhu cầu nói dối của những bệnh nhân này lớn tới mức mà họ chấp nhận nằm viện dài ngày, chịu đựng các cuộc kiểm tra y tế bên trong cơ thể thậm chí cả phẫu thuật. Một biến thể nguy hiểm của hội chứng này là Munchaen thay thế, liên quan tới những bậc cha mẹ, chính họ đã tạo ra căn bệnh giả ở con cái mình. Việc này đã trở thành thách thức với các bác sĩ, y tá tài ba cũng như toàn hệ thống y tế. Không ai thật sự hiểu được là làm thế nào và tại sao mà những biểu hiện này lại tiến triển. Munchauen vẫn là một bí mật y học đáng sợ và cũng là phạm vi mà sự tò mò của tác giả không sao cưỡng lại được ở cả hai vị trí: một là nhà viết văn tiểu thuyết, và một là nhà khoa học nghiên cứu về hành vi. Cuốn "Vũ Điệu Quỷ", Alex Delaware đã được chứng kiến điều rùng rợn nhất và thách thức nhất trong nghề của ông, đó là một cô bé con liên tục bị ốm và không ai biết lý do tại sao. Các bác sĩ nghi ngờ rằng đó là hội chứng Munchausen thay thế, nhưng vẫn không thể chứng minh được. Việc tìm ra chân tướng sự việc đã trở thành nỗi ám ảnh của Alex và những gì mà ông phát hiện được vượt ra ngoài câu chuyện của một cô bé và một gia đình khốn khổ, sự việc còn làm sáng tỏ một số vấn đề lớn hơn mà ngày nay ngành y tế phải đối mặt. *** "Một bí ẩn y học ghê sợ hơn bất kỳ sự kịch tính nào ở phòng xử án!". Các bác sĩ gọi đó là hội chứng Munchausen. Đó là chứng rối loạn khiếp sợ khiến cho bố, mẹ tạo ra sự ốm đau cho chính con cái họ. Lúc này, trong vụ án đáng sợ nhất của mình, bác sĩ Alex Delaware cần phải chứng minh rằng chính bố, mẹ của đứa trẻ khiến cô bé bị ốm." (The New York times book review) "Cô bé Cassie Jones hai mốt tháng tuổi khoẻ mạnh và đáng yêu. Nhưng bố mẹ Cassie đã phải vội vã đưa cô bé vào phòng cấp cứu sau cái đêm cô bé xảy ra những triệu chứng bệnh lý mà không bác sĩ nào lý giải được. Bố mẹ của Cassie dường như vô cùng lo lắng. Người nữ y tá chăm sóc Cassie và được cô bé yêu quý là một điển hình về sự tận tuỵ. Nhưng khi bác sĩ tâm lý trẻ em Alex Delaware được yêu cầu tham gia vào cuộc điều tra, bản năng đã mách bảo cho ông rằng một người trong số họ là con ác quỷ "Tình tiết căng thẳng đến nghẹt thở." (Cosmopolitan) *** Tiểu thuyết gia Jonathan Kellerman sinh ngày 9-8-1949 tại Thành phố New York City, bang New York- Hoa Kỳ. Jonathan Kellerman xếp hạng nổi tiếng thứ 75314 trên thế giới và thứ 989 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng.  Jonathan Kellerman là một nhà tâm lý học người Mỹ, và tác giả đoạt giải Edgar và Anthony của nhiều tiểu thuyết hồi hộp bán chạy nhất. Tác phẩm của ông về tâm lý học bao gồm Savage Spawn: Những phản ánh về trẻ em bạo lực. Mời các bạn đón đọc Vũ Điệu Quỷ của tác giả Jonathan Kellerman.