Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đinh Trang Mộng

VÙNG ĐẤT Hà Nam nghèo khó ở Trung Quốc là nền tảng cho nhiều cuốn tiểu thuyết của Diêm Liên Khoa, trong đó có Đinh Trang Mộng. Quan chức địa phương thì tham nhũng, các doanh nhân thì vô đạo đức, còn nông dân chân lấm tay phèn sẵn sàng bất chấp mọi thứ để đạt tới khát vọng làm giàu nhanh chóng. Đạo đức xuống cấp, lòng tự trọng trở nên hao mòn, nhân cách băng hoại, tình người được cân đo đong đếm tỉ mẩn... Rồi một ngày người ta cay đắng nhận ra, khi con người đã không còn phẩm giá, vùng đất chỉ còn lại sự tuyệt vọng và chỉ có sự tuyệt vọng ngự trị mà thôi… Giới thiệu tác giả: Diêm Liên Khoa, sinh năm 1958, người làng Dao Câu, trấn Điền Hồ, huyện Tung, thành Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Ông được mệnh danh là đại sư của chủ nghĩa hiện thực hoang đường, một nhà văn đầy lương tâm, trách nhiệm khi dùng văn học để đối diện với những mặt trái của xã hội, mặt tối của lòng người. Tác phẩm của Diêm Liên Khoa thường gây tranh luận, mỗi lần ông viết một tác phẩm mới là một lần dấy lên dư luận, chấn động văn đàn. Diêm Liên Khoa thường viết về bóng tối, cái chết và sự băng hoại của nhân phẩm nhưng lại hướng con người đến ánh sáng, sự sống và nhân tính. Sách của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, được các nhà phê bình và độc giả trên thế giới đánh giá rất cao. Diêm Liên Khoa luôn ý thức mỗi tác phẩm mới của mình phải là một sự cách tân trong phương thức sáng tạo văn bản. Cũng như nhiều tác phẩm nặng kí khác của ông, Đinh Trang mộng đem đến cho bạn đọc nhiều thể nghiệm mới về nghệ thuật tự sự. Mộng vừa là nội dung, vừa là phương thức kiến tạo nên kết cấu đặc thù của tác phẩm. Hai dòng mạch thực và mộng đan xen tạo nên một thế giới trùng phức đa tầng. Ngòi bút của tác giả không chỉ bóc tách bề mặt ý thức tâm lý phức tạp của con người mà còn khoan sâu vào tầng sâu tâm thức... *** Đinh Trang mộng là tác phẩm mà nhà văn Diêm Liên Khoa (Trung Quốc) phải xin lỗi người đọc vì đã trao cho họ một câu chuyện quá đỗi buồn thảm, một nỗi đau đớn thắt lòng. Người kể chuyện của Đinh Trang mộng là linh hồn cậu bé Tiểu Cường mười hai tuổi. Đinh Thủy Dương, ông nội Tiểu Cường, đã thành công trong việc vận động dân Đinh Trang bán máu để thoát nghèo. Khốn thay, ông vừa khiến họ đổi đời vừa khiến họ mất mạng. Ông vừa làm tái sinh Đinh Trang, vừa hủy diệt Đinh Trang. Kiếm tiền quá dễ, người dân Đinh Trang lao vào bán máu như điên. Trạm thu mua máu lưu động mọc lên khắp nơi. Người ta có thể vừa ăn cơm vừa giơ cánh tay lên để lấy máu; đang làm đồng có thể nhảy lên bờ bán máu. Kim tiêm và bông băng dùng chung, rất nhanh và rất tiện. Máu trong cơ thể như nước trong giếng, càng múc càng đầy. Nhà cửa khang trang, tiện nghi đủ đầy, cuộc sống như mơ. Người phất lên nhanh nhất trong cơ cuộc này chính là Đinh Huy - con cả của Đinh Thủy Dương. Đinh Huy trở thành nậu máu, vua máu của một vùng. Hậu quả của bán máu là đại dịch AIDS lan tràn, trở thành thảm họa. Và câu chuyện không dừng lại ở đó... Đinh Trang mộng đậm chất thời sự khi viết về đại dịch AIDS. Tuy nhiên, xét đến cùng, đây là câu chuyện ngụ ngôn về sự tàn lụi của con người. Diêm Liên Khoa đã đặt các nhân vật vào cửa tử để họ bộc lộ đến tận cùng bản chất của mình. Lòng tham, tiền bạc và danh vọng đã làm biến dạng con người, hay điều đó mới chính là nhân dạng của họ?... Đan xen giữa tỉnh và mộng, thực và ảo, phồn vinh và đổ nát, chết chóc và hoan lạc... Đinh Trang mộng là nỗi tuyệt vọng và khúc bi ca lớn lao về nông thôn Trung Quốc và dân tính Trung Hoa. Đối với người Trung Quốc xưa nay, đạo đức và đạo đức nông thôn là những nguyên tắc cơ bản để duy trì nền tảng xã hội. Nông dân đồng nghĩa với nhân hậu, chất phác và hiền lành; nông thôn là quê hương tinh thần, là chốn nương náu tâm hồn của mỗi một con người, đặc biệt là con người thời hiện đại. Vậy mà trong Đinh Trang mộng, nông thôn là chốn tham lam, lọc lừa, tàn độc đến kinh hoàng. Sự sụp đổ đạo đức nông thôn không phải do áp lực chính trị hay điều kiện sinh tồn, mà do chính trong bản chất người. Muôn mặt của "người Trung Quốc xấu xí" lại một lần nữa được Diêm Liên Khoa dũng cảm phơi bày. Nguyên nhân của sự hủy diệt bạo tàn trong Đinh Trang mộng không phải do bệnh AIDS, mà chính do vực thẳm nhân tính. Cũng giống như Lỗ Tấn của thế kỷ 20 từng cô độc như dũng sĩ múa kích một mình trên sa mạc khi đặt những nhược điểm của quốc dân tính Trung Hoa lên đầu bút, viết xong Đinh Trang mộng, Diêm Liên Khoa có cảm giác cô đơn và bất lực "như bị bỏ rơi giữa đại dương mênh mông không một bóng người". Ông khóc và "không nói được rõ ràng vì sao lại đau khổ, vì ai mà rơi lệ". Tuy nhiên, đọc xong tác phẩm, ta sẽ lý giải được vì sao. Không phải là bệnh AIDS trên thân thể, mà là bệnh AIDS trong tinh thần và tính cách dân tộc Trung Hoa đã khiến ông khổ đau mà rơi lệ. Thành công của nhà văn có được khi viết về nỗi ô nhục của dân tộc mình thì xót xa biết nhường nào! *** Có một giòng thông suốt và dữ dội chảy qua truyền thống thuyết thoại Trung Hoa: những tự sự về mộng. Khởi thủy là giấc mơ hóa bướm của Trang Chu thời Xuân Thu. Tiếp nối sau đó mấy trăm năm là những truyền kỳ đời Đường, từ Chẩm trung ký của Thẩm Ký Tế kể chuyện chàng Lư sinh nằm trên chiếc gối của một đạo sĩ mà mơ giấc hoàng lương, cho đến Nam Kha thái thú truyện của Lý Công Tá nói về chàng Thuần Vu Phần mộng giấc Nam Kha, thức dậy mới biết mình đang nằm dưới gốc hòe, say rượu ngủ quên không biết. Đến khi các loại hình sân khấu Trung Quốc như tạp kịch, hí khúc,… ra đời, mộng bắt đầu đi vào Hồ điệp mộng của Quan Hán Khanh (đời Nguyên) hay Mẫu đơn đình của Thang Hiển Tổ (đời Minh) để rồi vươn đến đỉnh cao chói lọi ở tiểu thuyết chương hồi đời Thanh, mà đại diện tiêu biểu nhất phải kể đến là Tào Tuyết Cần với kiệt tác Hồng lâu mộng.  Đinh Trang mộng – quyển tiểu thuyết đầy tâm huyết xuất bản năm 2005 của Diêm Liên Khoa – rõ ràng là một sự tiếp nối cái truyền thống đặc trưng đã có lịch sử hàng ngàn năm ấy của văn chương Trung Quốc. Sự tiếp nối hiển lộ ngay từ đầu, trong tựa đề tác phẩm, nhưng sức ám ảnh của nó còn lan rộng sang chính cấu trúc của quyển tiểu thuyết này: thực tại được kể trong Đinh Trang mộng trở nên mờ nhòa, chìm đắm, đan xen, lún ngập trong những giấc mơ và những ảnh tượng đi ra từ sự mơ. Diêm Liên Khoa giao vai kể cho hồn ma của Tiểu Cường, một cậu bé 12 tuổi đã chết, bị đầu độc bằng một quả cà chua tẩm thuốc vì những ân oán mà cha cậu gây nên với người dân ở Đinh Trang. Cách chọn vai kể là một hồn ma như thế đặt toàn bộ tự sự của tiểu thuyết này ở một điểm nhìn toàn tri – một điểm nhìn khá hợp lý, tuy cổ điển, để vừa dễ dàng kể lại những giấc mơ đầy máu và nước mắt của ông giáo già Đinh Thủy Dương (nhân vật chính của tiểu thuyết), vừa thuận lợi cho việc thâm nhập vào những cõi sâu kín nhất trong mộng mị, tâm hồn, cảm xúc, suy nghĩ của hàng loạt những nhân vật, những số phận được nhắc đến trong xuyên suốt tác phẩm này. Nhưng cũng chính từ đây, thế giới ngập tràn sự mơ ấy của Đinh Trang mộng không còn cái đẹp đẽ huy hoàng của mộng như người ta thường nghĩ, mà đã trở thành lớp áo khoác hàm ngụ bên trong một thứ hiện thực sâu thẳm, thứ hiện thực đen tối, cay đắng đến run rẩy của lòng người, của bản tính người và những mối quan hệ người. Trong Đinh Trang mộng, từ những quan sát về tình cảnh cùng khốn của người dân Trung Quốc khi đối diện với nạn bán máu tràn lan và sự bùng phát của đại dịch AIDS những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI[1], Diêm Liên Khoa đưa ra một hư cấu đầy ám ảnh về thôn Đinh Trang – nơi một thời từng giàu có, thịnh đạt nhờ vào việc bán máu, nhưng rồi vì lấy máu không đúng quy trình, thiếu vệ sinh, hàng loạt những người trong thôn bắt đầu nhiễm “bệnh nhiệt”, một cách gọi nôm na của AIDS. Nhân vật chính của tiểu thuyết là ông giáo già Đinh Thủy Dương, suốt đời gắn bó với ngôi trường nhỏ của thôn Đinh Trang, hiền từ, nhân hậu, được mọi người trong thôn yêu kính. Ông có hai người con trai. Con cả tên Đinh Huy, con thứ là Đinh Lượng. Trong những ngày Đinh Trang ồn ào, sôi nổi, say sưa bán máu, Đinh Huy khôn ngoan, lọc lõi, thậm chí xảo quyệt, đã quyết tâm trở thành một đầu nậu máu, kiếm lãi từ chính những giọt máu của người Đinh Trang. Người em trai của anh, Đinh Lượng, cũng tham gia bán máu, để rồi giống như nhiều người khác cùng thôn, anh nhiễm bệnh nhiệt rồi chết. Nhưng Đinh Huy tham lam kia không nhìn thấy thảm cảnh như thế mà dừng lại. Anh tận dụng tình cảnh chết chóc ấy để bán quan tài, phối âm hôn cho người chết,… vì sự tham lam dữ dội trước tiền tài địa vị. Thậm chí, để thăng tiến cao hơn, Đinh Huy chấp nhận phối hôn đứa con trai Tiểu Cường của mình với âm hồn cô bé thiên kim nhà Huyện trưởng, dù cô lớn hơn Tiểu Cường sáu tuổi, bị động kinh và dị tật ở chân. Nhưng sự tha hóa của bản tính người không chỉ xuất hiện ở Đinh Huy, mà như một đại dịch, nó tràn qua Đinh Trang tựa một cơn hồng thủy. Đọc Đinh Trang mộng, người ta thấy cái tham lam, tư lợi của bà vợ cựu trưởng thôn Lý Tam Nhân khi đốc thúc, khích khí chồng mình bán máu để có tiền sửa sang nhà cửa cho bằng những gia đình khác trong thôn. Đọc Đinh Trang mộng, người ta thấy và sợ hãi trước cái bóng đen tàn úa tỏa ra từ lòng ti tiện nhỏ nhen của người đời qua trường đoạn mô tả cảnh những người bệnh nhiệt ở Đinh Trang quần tụ lại ở trường học sống tập thể, rồi mất đồ, rồi đổ lỗi, rồi tra khảo, rồi sỉ nhục. Đọc Đinh Trang mộng, người ta thấy cái thảm cảnh mà lòng sân hận thù hằn đổ lên kiếp người, mà một trong những cảnh tượng đau thương nhất chính là đoạn hai cái huyệt mộ chạm khắc kỳ công của Đinh Lượng và Linh Linh bị phá nát tan, chưa kể cả hai chiếc quan tài cũng bay biến đi đâu mất… Tất cả những gì người nhất trong Đinh Trang mộng, rất nhanh chóng, bị sự tham tàn và vô minh cuốn đi, giết đi, vùi đi. Tất cả. Từ nỗi sợ đau vì bị kim tiêm, từ nỗi nhục nhằn suy tư về thân phận cho đến mối hòa kết gia đình, sự từ ái, lòng nhân hay những phẩm hạnh bản thể nhất của con người. Nhưng cao hơn hết, Đinh Trang mộng bày ra trước mắt ta một tình thế bi ai của sự làm người. Chính ở đây, với sự phát lộ của nét nghĩa này, cái cấu trúc mộng mị đặc thù của quyển tiểu thuyết này trở lại một cách dữ dội. Và nó nói với ta một sự thật lầm than, rằng đời người có ai mà không phải trải qua một giấc mộng Đinh Trang, như luôn phải trải qua những giấc mộng hoàng lương, giấc mộng Nam Kha, giấc mộng lầu hồng,.... Người ta bán máu xây nhà cửa, tiền tài đầy túi, khoa trương hò hét, làm ông nọ bà kia. Nhưng rồi cũng giống như Thuần Vu Phần thức dậy dưới gốc hòe, người ta sẽ nhận ra bao nhiêu mất mát, chết chóc, sợ hãi, bóng tối. Nhà cửa xây lên từ tiền bán máu nhưng rồi bị bỏ hoang, hôi hám, ẩm thấp, ảm đạm vì người lần lượt chết dần. Có người bán máu nuôi vợ con với những khao khát viển vông để rồi nhiễm bệnh, qua đời, gia đình ly tán. Hay như Đinh Huy, người tưởng chừng như có trong tay tất cả, từ tiền tài, nhà cửa, đất đai cho đến uy danh, chức tước, nhưng rồi trong một phút ngắn ngủi bất thần ngã gục sau cú đánh trời giáng của chính cha mình.   Mộng mị trong truyền thống thuyết thoại Trung Hoa là như thế. Chúng thường bao quát những thực tại khổng lồ, đẹp, huy hoàng, rực rỡ. Nhưng đau đớn và độc ác. Cái ác dường như đã trở thành căn cốt của những tự sự về mộng của người Trung Quốc. Nó quăng quật người ta đến những chỗ tận cùng. Nó nâng người ta lên, cho người ta bay bổng rồi kéo tuột người ta xuống, thậm chí vùi người ta xuống đất cát bùn lầy. Nó bày ra trước mắt người ta những yến tiệc tưng bừng, những hội hè say đắm. Nhưng rồi nó đuổi cổ người ta đi, nó lưu đày người ta đến những chốn tuyệt vọng và đau thương cùng cực. Tiếp nối và thừa hưởng từ truyền thống xem cái tàn ác như một phạm trù thẩm mỹ như thế, nhưng Diêm Liên Khoa không phải không có những sáng tạo nhất định của riêng ông. Viết Đinh Trang mộng, rõ ràng Diêm Liên Khoa đã nỗ lực tạo dựng một thế giới mà ở đó sự triển hoạt theo chiều âm, chiều diệt vong của những tự sự về mộng mị Trung Hoa xưa bị thay thế bởi một gia tốc khác: một lực đẩy về phía cái sống. Nếu trong Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần xây dựng một bức tranh mơ màng phù thế đầy chất sống, để rồi đánh thức tất cả, quăng quật tất cả vào cõi gió bụi ở cuối truyện, thì trong tiểu thuyết của mình, Diêm Liên Khoa làm ngược lại. Ông ngả hẳn về phía của sự tỉnh mộng, của máu và nước mắt, ngay từ đầu. Nhưng cũng chính từ sự ngả theo một chiều hướng khác như thế, Diêm Liên Khoa đã quan sát được những dòng nhựa sống cuộn lên, tươi mới, tân kỳ. Ông thấy trong hai con người mang bệnh nhiệt trầm trọng Đinh Lượng và Linh Linh cái khát khao được yêu, được sống, được làm tình. Ống thấy trong Đinh Thủy Dương cái áy náy, giằng xé, đớn đau của một con người bị phân thành nhiều mảnh, một bên là lòng thương con, một bên là lòng nhân, lòng bác ái, một bên khác lại là chính nghĩa, sự phụng sự đạo đức và chân lý,… Điều này cũng lý giải vì sao Diêm Liên Khoa lại dẫn ra, ngay từ trang đầu tiên, huyền thoại về bảy con bò xấu xí nuốt bảy con bò xinh đẹp mập mạp và bảy bông mạch ốm yếu nuốt lấy bảy bông mạch tròn căng trong Sáng thế ký, Kinh Cựu Ước; hay vì sao ở những dòng cuối cùng, ở cơn chiêm bao cuối tác phẩm của ông lão Đinh Thủy Dương, hình ảnh một người đàn bà với nhành dương liễu và những người bùn xuất hiện. Tôi cho Diêm Liên Khoa, khi viết về những điều như thế, đã ý thức và hiểu rất rõ rằng, sự khai sinh của loài người đi ra từ chính trong những tuyệt vọng đau đớn nhất của người. Cơn sốt đầy máu và bệnh nhiệt ở Đinh Trang trong tiểu thuyết của ông, vì thế, cũng giống như một cơn hồng thủy quét qua. Nhưng không phải để tuyệt diệt. Mà là để tái sinh. Tái sinh con người. Và tái sinh những điều giúp con người trở lại làm người.   Nguyễn Đình Minh Khuê Mời các bạn mượn đọc sách Đinh Trang Mộng của tác giả Diêm Liên Khoa & Minh Thương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Thể Chuộc Lỗi - Allen Hassan
Chiến tranh cũng giống như bệnh hủi; nó tiêm nhiễm tất cả và lấy đi lòng nhân ái, lấy đi bản chất con người của chúng ta. (- trích Không Thể Chuộc Lỗi) Thật khó để phân loại Không Thể Chuộc Lỗi theo thể loại sách. Hồi ký? - Đúng. Lịch sử? - Không sai. Ký sự? - Có thể chấp nhận được. Nghiên cứu? - Căn cứ trên số liệu mà cuốn sách cung cấp thì được... Và nếu như tựa cuốn sách đã đặt ra vấn đề thì nội dung chính là phần giải quyết vấn đề ấy, lý giải cho những hành động mà cho dù có làm thế nào cũng không thể chuộc lại lỗi lầm hay xóa đi quá khứ bi thảm trong chiến tranh Việt Nam. Tác giả cuốn sách, bác sĩ, luật sư Allen Hassan đã viết về khoảng thời gian ông làm việc ở Việt Nam trong chiến tranh, những gì ông được chứng kiến, được nghe, được trải nghiệm. Và chiến tranh, với tất cả sự khắc nghiệt của nó, biến khoảng thời gian ấy của vị bác sĩ tình nguyện trở thành địa ngục với những hình ảnh tang thương đầy máu. Đó là chiếc máy bay chở đầy xác các em nhỏ. Đó là những vụ thảm sát dân thường vô tội. Đó là những người đồng đội bị bỏ rơi trong cái chết và không bao giờ có thể trở về. Từng dòng chữ tràn đầy cảm xúc và nghẹn đắng về một "phía bên kia của chiến tranh" mà phải đến bây giờ, khi chiến tranh đã qua đi rất lâu, người ta mới muốn biết và lắng nghe. © Không Thể Chuộc Lỗi là câu chuyện trước đây chưa từng được tiết lộ của một bác sĩ tình nguyện người Mĩ trong chiến tranh Việt Nam "Việc chứng kiến cái chết  của những người già và trẻ em đã khắc ghi vào tâm khảm tôi. Bị bắn vào đầu! Tại sao? Có lẽ tôi không bao giờ có thể quên được những điều ấy". Những trăn trở của bác sĩ Hassan về cuộc chiến tranh Việt Nam cứ mãi ám ảnh ông. Mặc dù tiếp tục thành công ở phòng mạch và văn phòng luật sư ở Sacramento, California nhưng ông vẫn khổ sở với những cơn ác mộng triền miên về Việt Nam. Nhiều tháng, nhiều năm sau khi trở về nước, giấc ngủ của ông vẫn bị gián đoạn vì những hình ảnh hãi hùng. Ông từng thực hiện nhiều chuyến đi trở lại Việt Nam, trở lại vùng đất Quảng Trị với mong muốn làm sáng tỏ về cái chết của hàng chục sinh linh nhỏ bé mà ông từng tận mắt chứng kiến. Sau chiến tranh, khi những cựu binh chiến tranh trở về và kể chuyện của mình, họ bị phớt lờ, cô lập, bị từ chối những phúc lợi đúng ra họ được hưởng , thậm chí bị đưa vào nhà thương điên. Cũng như trường hợp của bác sĩ Hassan, người ta đã nói với nhiều cựu binh rằng những việc mà họ đã thấy và đã làm trong chiến tranh Việt Nam là không thể xảy ra, và rằng dân chúng không muốn nghe những điều kinh hoàng như thế. Và vì thế, ông Hassan tiếp tục mong muốn làm sáng tỏ vụ việc. Những điều chưa hề được tiết lộ về cuộc chiến còn nói về tình cảnh thương tâm của những thương binh hạng nặng của Mỹ được tập trung ở các lán trại tại Đông Hà không được đưa về Mỹ chữa trị hoặc được chết trong vòng tay thân ái của gia đình, vì sợ những hình ảnh sự thật này sẽ gây ra làn sóng phản đối chiến tranh "... Giá như lúc đó, người dân Mỹ biết về những gì đang xảy ra với con cái của họ... giá mà họ biết đến phạm vi rộng lớn của các hành động tội ác, điên rồ diễn ra khắp mọi nơi..." *** Tại hội trường 8 Hội chợ sách Quốc tế Frankfurt ở Đức năm 2006, giữa các khu vực trưng bày sách rộng lớn và không khí giao dịch bản quyền náo nhiệt của các tập đoàn xuất bản hàng đầu thế giới là một gian hàng nhỏ với một điểm đặc biệt có một không hai: Gian hàng chỉ trưng bày và giao dịch bản quyền duy nhất một cuốn sách có tựa đề Failure To Atone - Không Thể Chuộc Lỗi - với một poster lớn: "Nước Mỹ Không Thể Chuộc Lỗi về những gì đã gây ra trong cuộc chiến tranh Việt Nam! Sự thật chưa từng được tiết lộ của một bác sĩ tình nguyện người Mỹ tại Việt Nam”. Tác giả cuốn sách là một bác sĩ phẫu thuật người Mỹ, tiến sĩ Allen Hassan, nguyên là quân nhân thuộc binh chủng Thủy quân lục chiến của quân đội Mỹ, từng qua Việt Nam để chữa trị cho những nạn nhân chiến tranh. Đại diện công ty First News tham dự hội chợ đã làm việc với đại diện bản quyền của bác sĩ Allen Hassan. Phía bạn rất vui và xúc động khi Việt Nam là ngôn ngữ đầu tiên mua bản quyền cuốn sách. Ông liên lạc ngay với tác giả ở Mỹ để thông báo và cho biết bác sĩ Allen Hassan sẽ sẵn sàng bay qua TP. HCM dự lễ ra mắt ấn bản tiếng Việt cuốn sách của mình ở Việt Nam vào dịp 30/04/2007. Khi chúng tôi hỏi vì sao lại lấy tên là Không Thể Chuộc Lỗi đặt cho cuốn sách, đại diện bản quyền của bác sĩ Allen Hassan trả lời: "Mục đích của bác sĩ Allen Hassan khi viết cuốn sách này là muốn những người lính đã từng tham chiến tại Việt Nam và chính quyền Mỹ thật sự hiểu rõ những gì mà nước Mỹ đã gây ra cho người dân Việt Nam là lớn hơn rất nhiều những gì mà người Mỹ từng nghĩ. Nước Mỹ nhớ rất kỹ những gì người khác gây cho họ nhưng lại quên rất nhanh những gì họ đã gây ra cho những người khác. Người chết không thể sống dậy, người tàn tật mãi mãi tàn tật, và nỗi đau mãi mãi là nỗi đau... Khi đọc xong cuốn sách này, mọi người sẽ hiểu bây giờ dù làm bất cứ việc gì, nước Mỹ cũng không thể chuộc lại lỗi của mình đối với người dân Việt Nam!”. NHỮNG ÁM ẢNH KHÓ QUÊN Là một trong những bác sĩ người Mỹ hiếm hoi chữa trị cho những người bị thương ở cả hai phía, nhất là ở vùng bom đạn ác liệt trong cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam như Quảng Trị, bác sĩ Allen Hassan đã rất phẫn nộ khi chứng kiến tận mắt những thảm cảnh đau thương do cuộc chiến gây ra, đặc biệt là vụ thảm sát trẻ em ở Quảng Trị - một sự kiện chưa hề được công bố. Đến nỗi đang hưởng tuần trăng mật mà ông cũng không thể gác được nỗi ám ảnh về cơn ác mộng đó. Trong tuần trăng mật ở Rome và Majorca năm 1974, vợ ông đưa cho ông cuốn sách có tựa “Home From The War” (Trở về từ cuộc chiến) của tác giả Robert J. Lipton. Cuốc sách đã khơi dậy những ký ức về Việt Nam, khiến ông viết ngay vào bên lề trang sách đang đọc: "Việc chứng kiến cái chết của những người già và trẻ em đã khắc ghi vào tâm khảm tôi. Bị bắn vào đầu! Tại sao? Có lẽ tôi không bao giờ có thể quên được những điều ấy”. Những điều chưa hề được tiết lộ về cuộc chiến còn là tình cảnh thương tâm của những thương binh hạng nặng của Mỹ được tập trung trong các lán trại ở Đông Hà. Họ không được đưa về Mỹ để chữa trị hay để có được niềm an ủi cuối cùng là chết trong vòng tay thân ái của gia đình, bởi cỗ máy chiến tranh của Mỹ lo sợ rằng những hình ảnh của sự thật tàn khốc này sẽ gây ra làn sóng phản đối chiến tranh. Tác giả viết: "Giá như lúc đó, người dân Mỹ biết về những gì đang xảy ra với con cái của họ... Giá mà họ biết đến phạm vi rộng lớn của các hành động tàn ác điên rồ diễn ra khắp mọi nơi...”. Và rồi ông đã chứng kiến phong trào phản chiến ngay tại chiến trường Việt Nam: "Trong những ngày cuối cùng ở Sài Gòn, tôi rất kinh ngạc phát hiện ra rằng, Việt Cộng không phải là những người duy nhất sống dưới đường hầm ở Việt Nam. Erhart yêu cầu tôi - với tư cách là một bác sĩ - đi cùng anh ta đến một khu vực có nhiều binh lính Hoa Kỳ đào ngũ hoặc vắng mặt bất hợp pháp. Những người này rõ ràng là đang sống dưới các đường hầm. Cùng với một toán quay phim của hệ thống truyền hình - tôi không chắc là đài nào, nhưng có lẽ là đài truyền hình NBC - chúng tôi tìm thấy những binh lính Mỹ đào ngũ đang sống trong đường hầm ngay dưới lòng đất Sài Gòn”. Tận mắt chứng kiến những điều đau lòng như thế, nhưng bác sĩ Hassan đã phải im lặng suốt một thời gian dài vì những phản ứng của ông lúc đó - về vụ thảm sát trẻ em - đã bị Cục Tình Báo Trung Ương Mỹ (CIA) tại Nam Việt Nam theo dõi và suýt nữa thể ông đã phải trả giá bằng mạng sống của chính mình trong một đêm nọ tại Quảng Trị. Và sau này, ông còn biết thêm rằng, trong chiến tranh, có khoảng 40.000 người Việt Nam bị chính quyền Nam Việt Nam và Mỹ bí mật theo dõi và sát hại trong các chiến dịch Phượng hoàng do CIA chỉ đạo. NỖI ĐAU CÒN ĐÓ Chiến tranh đã qua đi hơn 30 năm nhưng những di chứng của nó vẫn còn tồn tại không những trên đất nước Việt Nam, mà còn mang theo đến tận bên kia Tây bán cầu. Tại Hoa Kỳ, bác sĩ Hassan vẫn tiếp tục chữa trị cho những quân nhân Mỹ từng tham chiếc ở Việt Nam, vẫn tiếp tục cùng những người khác đấu tranh cho đồng đội của mình được hưởng những phúc lợi mà họ đáng được chăm sóc do hậu quả độc hại của các loại hóa chất - đặc biệt là chất độc da cam - mà Hoa Kỳ từng sử dụng tại chiến trường Việt Nam. Trong khi đó, ngay trên mảnh đất đau thương hứng chịu toàn bộ bom đạn, hóa chất trong cuộc chiến, chính quyền cùng nhân dân Việt Nam tiếp tục khắc phục những hậu quả nặng nề của cuộc chiến. Những cố gắng của chính quyền các cấp, những tổ chức từ thiện, những tấm lòng nhân ái rộng mở đối với nạn nhân chất độc da cam đã phần nào làm dịu bớt nỗi đau, nhưng tác hại của nt lớn quá, lâu dài quá và nạn nhân thì đông quá. Trong Không Thể Chuộc Lỗi, bác sĩ Hassan đã đề cập đến chất độc da cam, nhưng đặc biệt, trong ấn bản Việt ngữ, ông đã viết thêm một chương về những hậu quả và di chứng nặng nề của chất độc da cam mà quân đội Mỹ đã sử dụng tại Việt Nam. Chúng tôi cũng trích dẫn một số tài liệu, hình ảnh liên quan để bạn đọc tham khảo. Nhân đây,chúng tôi xin cảm ơn Hội Nạn nhân Chất độc Da cam/Dioxin Việt Nam đã cho phép chúng tôi được trích dẫn những số liệu, hình ảnh trong hai tập tư liệu "Vì nỗi đau da cam" và "Chất độc da cam - Lương tâm và trách nhiệm”. MỘT TẤM LÒNG NHÂN ÁI Những trăn trở của bác sĩ Hassan về cuộc chiến tranh Việt Nam cứ mãi ám ảnh ông. Mặc dù tiếp tục thành công ở phòng mạch và văn phòng luật sư ở Sacramento, California nhưng ông vẫn khổ sở với những cơn ác mộng triền miên về Việt Nam. Nhiều tháng, nhiều năm sau khi trở về nước, giấc ngủ của ông vẫn bị gián đoạn vì những hình ảnh hãi hùng. Ông từng thực hiện nhiều chuyến đi trở lại Việt Nam, trở lại vùng đất Quảng Trị với mong muốn làm sáng tỏ về cái chết bí ẩn và man rợ của hàng chục sinh linh nhỏ bé mà ông từng tận mắt chứng kiến. Sau chiến tranh Việt Nam, những cựu binh Mỹ trở về quê nhà, kể những câu chuyện mắt thấy tai nghe, nhưng họ bị phớt lờ, bị cô lập, bị từ chối những phúc lợi đúng ra họ được hưởng, thậm chí bị đưa vào nhà thương điên. Cũng như trường hợp của bác sỹ Hassan, người ta đã nói với nhiều cựu binh rằng những việc mà họ đã thấy và đã làm trong chiến tranh là không thể xảy ra, vì nước Mỹ không cho phép những việc như thế, và rằng dân chúng Mỹ không muốn nghe những điều kinh hoàng như thế. Họ phải là những "anh hùng chiến đấu vì chính nghĩa". Do đó, bác sĩ Hassan tiếp tục mong muốn làm sáng tỏ vụ việc. Bác sĩ Allen Hassan cho biết, trong hơn 30 năm qua, ông thường dành khoảng một tiếng đồng hồ mỗi ngày để theo dõi tin tức thế giới, đã đọc hơn 200 cuốn sách viết về Việt Nam và còn sẽ đọc tiếp những cuốn xuất bản sau này. Giống như nhiều người từng chứng kiến cuộc chiến ở Việt Nam, ông luôn quan tâm đến những thông tin làm rõ sự dính líu của Mỹ vào cuộc chiến tranh này. Ông mong muốn chính quyền Mỹ phải nhận trách nhiệm về những gì đã gây ra. Bác sĩ Hassan đã dẫn lời của Richard Hughes, một người bạn và là người quản lý một tổ chức nhân đạo nhỏ mang tên Shoeshine Boys of Vietnam. Richard Hughes đã tuyên bố vào năm 1976 khi từ Việt Nam trở về Mỹ: "Tôi nghĩ sẽ có việc bình thường hóa mối quan hệ hai bên... Sẽ có đàm phán về trách nhiệm, và nên chăng chúng ta hãy nhận lấy phần trách nhiệm ấy về mình. Chúng ta có sức mạnh, và khi chúng ta sử dụng sức mạnh đó ở bất kỳ đâu thì chúng ta cũng phải có trách nhiệm. Chúng ta đã ở đó, ở đó với tầm ảnh hưởng quá lớn. Và giờ đây có rất nhiều việc chúng ta có thể làm và cần phải làm. Chúng ta có khả năng. Chúng ta có thể làm điều gì đó để giảm bớt những đau thương, giúp họ cải thiện cuộc sống; và ngược lại, họ có thể giúp chúng ta thoát khỏi những nỗi ám ảnh, day dứt triền miên”. Bác sĩ Allen Hassan đã viết cuốn Failure To Atone - Không Thể Chuộc Lỗi trong ba năm và kịp xuất bản để mang sang giới thiệu tại Hội sách Quốc tế 2006. Cuốn sách là một lời kêu gọi chống lại bạo lực, chống lại bất công của con người đối với con người và đối với những sinh vật khác trên trái đất. Ông cũng đã lập riêng một trang web với tên cuốn sách: www.failuretoatone.com để giới thiệu với độc giả thế giới và dành 10% lợi nhuận có được từ cuốn sách để giúp đỡ những nạn nhân chiến tranh. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn Failure To Atone - Không Thể Chuộc Lỗi đến bạn đọc Việt Nam. FIRST NEWS Mời các bạn đón đọc Không Thể Chuộc Lỗi của tác giả Allen Hassan.
Cái Trống Thiếc
Cuốn tiếu thuyết này ra đời năm 1959 là một cú sốc về thi pháp, với bút pháp vừa hoạt bát phóng túng vừa đầy ắp liên tưởng, cuồn cuộn những sóng chữ trái tai, chói màu. Tác giả đã hoà trộn các cấp độ ngôn ngữ (từ phong cách kinh thánh đến cách nói bình dân) với dung lượng kịch tính và tượng trưng cực đại. Nhưng đằng sau cái giỡn cợt, bao giờ cũng là một chân lý cay đắng. Điểm mạnh của Cái trống thiếc theo tôi là ở tính hòa sắc kỳ ảo trong văn chương với nhiều yếu tố bất ngờ. Với giới cầm bút nước ta, đây là một gợi ý rất lớn cho việc tiếp cận, mổ xẻ và chuyển hóa hiện thực. Tuy nhiên, với bạn đọc Việt Nam, tôi e sách sẽ bị coi là hơi khó đọc, nhưng nếu đọc được, chắc chắn các bạn sẽ thích. Có hai cuốn sách tôi đọc khi trưởng thành khiến tôi sút hai cân là Tội ác và trừng phạt (1982) và mới đây nhất là Cái trống thiếc. Thật lý thú là sau khi người ta đã chán nản nhiều sự, chán đến cả văn của mình mà rồi còn bị hấp dẫn đến mức đọc mấy đêm liền tù tì một cuốn sách gây sốc bởi có cảm giác bản thân bị bới móc và sỉ nhục. Xin trước hết nói rõ hơn khái niệm nhúc nhích. Văn chương từ Homerre tới giờ nói chung không tiến được mấy độ đường, nó khác hẳn với văn minh. Thậm chí tuyến tính không có mấy vai trò ở chỗ này. Và giữa những đỉnh khác nhau, ví như anh hùng ca Odisse với sử thi M’Nông Tây Nguyên mới phát hiện chẳng hạn, là thung lũng của những nhà văn thời vụ với rất nhiều tài năng và ảo tưởng làm nền. Nếu ta xếp các đỉnh đó theo lịch trình văn chương, ta sẽ vừa có cảm giác không hề có sự dịch chuyển lại vừa thấy rất khác. Tôi tạm gọi tính chất nhùng nhằng ấy là sự nhúc nhích trong khi chờ một hình dung từ đúng hơn. *** Günter Wilhelm Grass (16 tháng 10 năm 1927 - 13 tháng 4 năm 2015) là một nhà văn người Đức đoạt Giải Nobel Văn học năm 1999. Ông sinh ngày 16 tháng 10 năm 1927 ở Danzig-Langfuhr, nay là Gdansk (Danzig) thuộc Ba Lan. Sinh ra trong một gia đình có cha mẹ làm nghề buôn bán nhỏ, thành phố quê hương ông cũng như những ngày thơ ấu sống ở đây đã là cảm hứng cho nhiều tác phẩm của ông. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai ông đã tình nguyện đăng ký tòng quân cho quân đội Đức Quốc xã khi 15 tuổi. Vào ngày 10 tháng 11 năm 1944, khi 17 tuổi, ông được gọi vào sư đoàn tăng SS số 10 "Frundsberg" của Waffen-SS Vào ngày 8 tháng 5 năm 1945 ông bị bắt làm tù binh tại Marienbad và đã ở trong trại giam tù binh cho đến ngày 24 tháng 4 năm 1946. Khi bị bắt giam Grass đã tự nhận với người Mỹ rằng ông là thành viên của Waffen-SS. Thế nhưng mãi đến tháng 8 năm 2006 ông mới công khai thừa nhận việc này. Trước đó, trong các tiểu sử đã được công bố của nhà văn, ông chỉ là thiếu niên phụ giúp cho lực lượng phòng không trong năm 1944 và sau đó được gọi đi lính. *** Chỉ đến khi trở thành kẻ đi thuê lại phòng Oskar mới học được nghệ thuật trở ngược lại quá khứ bằng cách đánh trống. Giúp tôi trong việc này, không phải chỉ là căn phòng, mà còn có Con Nhím, cái kho chứa quan tài trong sân và xừ Münzer - đó là chưa kể Xơ Dorothea. Quý vị có biết tích Parsifal không? Tôi cũng không thuộc lắm. Tôi chỉ nhớ nhất câu chuyện về ba giọt máu trên tuyết. Chuyện này chắc có thật vì nó giống chuyện tôi như đúc. Mà có lẽ đó là chuyện của bất kỳ ai có một ý tuồng. Tôi vẫn còn là một tên đầy tớ của nghệ thuật. Tôi để cho người ta vẽ tôi xahh lơ, xanh ve và theo các sắc độ của đất; tôi để người ta ký họa tôi bằng chì than và đặt trước nhiều bối cảnh; cùng với Ulla, tôi đem lại cảm hứng cho Trường Mỹ thuật trong suốt học kỳ đông cũng như học kỳ hè tiếp theo, nhưng tuyết đã rơi để nhận ba giọt máu và vừa nhìn thấy ba giọt máu ấy, Oskar liền biến thành đá như anh chàng điên Parsifal mà Oskar biết rất lơ mơ nên chẳng cần phải cố gắng lắm cũng có thể đồng nhất được với anh ta. Hình ảnh tôi phác ra tuy vụng về nhưng, theo tôi nghĩ, khá rõ ràng. Này nhé: tuyết là bộ đồng phục nữ y tá; chữ thập đỏ mà phần lớn các nữ y tá đều mang ở giữa cái kẹp hoa cài cổ áo, đối với tôi, là ba giọt máu. Tôi ngồi đó, hút hồn, mắt nhìn trân trân. Nhưng trước khi tôi có thể ngồi trong căn phòng trước kia là buồng tắm của căn hộ Zeidler, tôi phải săn tìm phòng để thuê đã. Học kỳ đông sắp hết; một số sinh viên không định quay trở lại sau đợt nghỉ lễ Phục sinh, sẽ giả phòng trọ. Người cộng sự của tôi, Nàng Thơ Ulla, đã giúp tôi đắc lực. Nàng đưa tôi đến văn phòng quản lý nhà ở cho sinh viên, tại đó, người ta cho tôi một số địa chỉ kèm theoo một giấy giới thiệu của Trường Đại học Mỹ thuật. Trước khi đi xem các phòng cho thuê, tôi đến thăm ông thợ đẽo đá Korneff tại xưởng của ông ở Bittweg. Đã lâu tôi không gặp ông. Tôi đến vì quý mến ông, nhưng cũng để kiếm chút việc làm trong đợt nghỉ nữa. Tôi có một số giờ ngồi mẫu tư - một mình hoặc cùng với Ulla - nhưng chừng nấy khó mà đủ để nuôi tôi trong thời gian sáu tuần, với lại, tôi còn phải kiếm thêm để trả tiền thuê phòng nữa. Tôi thấy Korneff vẫn như xưa, chả thay đổi gì - một cái nhọt chưa chín và hai cái sắp khỏi, ông đang cúi trên một khối đá gra-nít Bỉ mà ông đã đẽo thô và giờ đang bắt vào mài nhẵn. Chúng tôi nói chuyện một lúc; tôi bắt đầu mân mê mấy cái đục khắc chữ ra cách gợi ý và nhìn quanh xem có tấm đá nào đã được cắt gọt và mài nhẵn chờ được khắc chữ. Có hai tấm, một bằng đá vôi điệp, một bằng cẩm thạch Silesia, có vẻ như đã được bán và đang chờ một chuyên gia khắc chữ. Tôi chúc mừng Korneff đã vượt qua được thời kỳ khó khăn sau cải cách tiền tệ. Tuy nhiên, ngay cả trong thời kỳ đó, chúng tôi cũng đã tìm được an ủi trong ý nghĩ Tà: một cuộc cải cách tiền tệ, dù có mạnh mẽ, thiết yếu và lạc quan đến đâu chăng nữa, cũng không thể ngăn người ta chết và đặt bia mộ. Tiên đoán của chúng tôi đã ứng nghiệm. Thiên hạ tiếp tục chết và tiếp tục đặt bia. Ngoài ra, cuộc cải cách tiền tệ còn mang đến những "com-măng" trước đây chưa từng có: nhiều chủ hàng thịt đặt lát mặt trước và đôi khi cả bên trong cửa hàng bằng cẩm thạch trang trí; một số ngân hàng và cửa hàng bảch hóa tổng hợp, để lấy lại uy tín, buộc phải sửa sang và trang tri lại những mặt tiền bằng đá cát kết và tufa bị hư hại trong chiến tranh. Tôi khen Korneff cần mẫn xoay sở và hỏi ông có thể một mình đảm đương tất cả công việc không. Mới đầu, ông trả lời qua quít, sau rồi ông thừa nhận rằng đôi lúc ông cũng ước có bốn tay thợ và cuối cùng, ông đề nghị tôi đến làm việc với ông nửa thời gian, giá cả như sau: khắc chỉm trên đá vôi, bốn lăm pfennig/chữ cái, trên gra-nít và đi-o-rít, năm lăm pfennig/chữ cái, còn khắc nổi thì có thể từ sáu mươi đến bảy lăm. Tôi mần luôn một tấm đá vôi điệp. Nhanh chóng lấy lại được ngón nghề, tôi khắc: Aloys KLifer, 3 tháng 9 năm 1887 -16 tháng 6 năm 1946. Tôi đã khắc xong ba mươi chín chữ cái và con số trong đúng ba giờ và được trả mười bảy mark năm lăm pfennig. Chừng nấy là hơn một phần ba số tiền thuê phòng hằng tháng mà tôi ước tính mình có thể kham nổi. Tôi quyết định chi vào khoản này không quá bốn mươi mark vì Oskar vẫn cảm thấy có bổn phận phải đóng góp vào ngân sách gia đình ở Bilk. Văn phòng quản lý nhà ở đã có nhã ý cho tôi bốn địa chỉ. Lựa chọn đầu tiên của tôi là Zeidler, số 7 phố Jiilicher-strasse vì chỗ đó gần Trường. Đầu tháng năm, vào một ngày ấm áp lãng đãng sương mù, điển hình của vùng hạ Rhine, tôi xuất hành với kha khá tiền mặt trong túi. Maria đã là bộ com-lê nên nom tôi cũng bảnh. Mặt tiền trát vữa xtuých-cô long lở, trước cửa là một cây hạt dẻ bụi bám đầy. Vì phố Julicher-strasse đã đổ nát đến một nửa, nên khỏi phải nói đến nhà bên cạnh hoặc đối diện, ở bên trái là một đống gạch vụn um tùm cỏ và bồ công anh, đây đó lòi ra những dầm sắt hình chữ T, khiến ta có thể đoán ở đây đã từng có một ngôi nhà bốn tầng. Bên phải, một ngôi nhà bị phá huỷ một phần nay đã được sửa đến tầng ba, nhưng vẻ như vốn xây dựng đã cạn; mặt tiền bằng gra-nít đen Thuỵ Điển mài bóng bị nứt rạn nhiều chỗ, cần chữa khẩn cấp. Dòng tên "Schornemann, Hãng Mai Táng" thiếu nhiều chữ cái, tôi không nhớ là những chữ gì. Cũng may, hai cành cọ khắc trên mặt đá gra-nít nhẵn như gương vẫn còn nguyên vẹn, góp phần giữ cho cửa hàng một vẻ tôn nghiêm khả kính nào đó. ... Mời các bạn đón đọc Cái Trống Thiếc của tác giả Gunter Grass.
Bóng Hình - Danielle Steel
Truyện Bóng Hình, trong lòng mỗi người đều có một cái bóng trong mình, mỗi khi cô đơn thì cái bóng đó đều xuất hiện đều an ủi cho nhau, dạng như một một loại tâm thần phân liệt. Bản thân chịu một sự đả kích rất lớn hoặc chuyện đó liên quan tới một vấn đề nào đó khiến đối phương đều không thể kìm chế bản thân thì tự khắc sẽ nảy sinh ra ảo giác đó chính là dấu hiệu nói chuyện một mình hay tự mình làm gì đó nhưng khi tỉnh lại thì không nhớ gì hết. Bóng hình trong lòng mỗi người đều có nhưng chúng ta phải biết cân bằng tâm trí như thế nao thì ới không xảy ra hiện tượng đó. *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Cả buổi chiều Olivia sống trong tâm trạng buồn nản. Cô hoang mang đi hết buồng này sang buồng khác không biết nên làm gì. Con tàu Lusitania giờ này chắc đã lênh đênh ngoài khơi, mang theo em gái cô càng lúc càng xa mãi. Olivia vừa mong Geoffrey và Charles mau mau trở về để phá tan sự cô quạnh này lại vừa e sợ đến giờ phút đó. Thiếu người em sinh đôi, cô cảm thấy mình thật lạc lõng. Suốt thời gian sau khi nghỉ trăng mật về, Victoria luôn ủ rũ mệt mỏi. Giờ đây Victoria đã được bay tới nơi mà cô ấy tin là phương trời tự do, để lại mình Olivia với nỗi lo lắng khôn nguôi. Ngay khi nào Charles và Geoffrey về nhà, Olivia sẽ phải là người thế Victoria, sống cuộc sống của Victoria. Giống như 1 diễn viên lần đầu tiên chuẩn bị ra sân khấu, Olivia muốn chết vì sợ. Cô đã chuẩn bị sẵn 1 bức thư gửi cho Charles, 1 cho cha cô và cả 1 bức viết cho chính mình. Trong thư cô hứa khi trở lại sẽ giải thích về cuộc bỏ trốn tới California này và thay cho chuyến tàu đi Liverpool cô nói dối rằng sẽ đáp xe lửa đi Chicago chiều nay. Lúc Charles về, Olivia đã lấy lại bình tĩnh. Cô đã sẵn sàng cho vai diễn của mình. Charles bước vào phòng, nhìn qua gương mặt Olivia anh thấy ngay có điều khủng khiếp đã xảy ra. Quên hẳn cuộc cãi vã giữa 2 vợ chồng, anh gần như lao đến bên cô. - Victoria, chuyện gì vậy? Em ốm ư? Olivia xanh nhợt như tàu lá buông mình xuống ghế, biểu lộ 1 nỗi tuyệt vọng khủng khiếp. - Là Olivia... Anh chờ cô nói tiếp, hẳn không phải Olivia bị tai nạn, anh tự nhủ, vì nếu vậy Victoria đã phải ở bên cô ấy trong bệnh viện. -... Chị ấy đi rồi. - Đi đâu, Croton ư? Có vậy thôi sao? – Charles ngơ ngác. Nhưng rõ ràng Victoria – hay đúng hơn là cô gái mà Charles nghĩ là Victoria – trông kiệt quệ như vừa mất đi 1 người thân trong gia đình. - Em và cô ấy cãi nhau à? Thời gian gần đây, cô ấy gây lộn với tất cả mọi người, kể cả chị gái mình. Olivia lắc đầu. Cô chẳng khó khăn gì để tỏ ra buồn thảm đến thế. Trên thực tế, sự ra đi của Victoria đã nhấn chìm cô trong biển u sầu. Làm sao cô phải nghĩ ra và tìm cách diễn ra nỗi đau mà chính cô đang phải chịu đựng? Cô đưa Charles lá thư đã chuẩn bị sẵn từ trước, để gửi cho Victoria. Không ai có thể phân biệt được chữ viết của 2 cô, kể cả Bertie. Lá thư giải thích thật đơn giản rằng mặc dù trái tim Olivia tan nát khi làm điều này, nhưng có đã quyết định sống cách biệt 1 thời gian để suy nghĩ về cuộc đời mình. Từ khi Victoria đi lấy chồng, cô cảm thấy tuyệt vọng, mất phương hướng. Sự tồn tại ở Croton, sự cô độc, sự trống vắng đè nặng lên cô. Và kết quả, cô đã chọn cách ra đi như 1 sự giải thoát, mong rằng thời gian sẽ giải tỏa nỗi trầm uất của mình. Thậm chí cô còn nói có thể cô sẽ sống mốt phần đời còn lại trong 1 tu viện và sẽ không bao giờ lấy chồng. ... Mời các bạn đón đọc Bóng Hình của tác giả Danielle Steel.
Bia Mộ Đen - Erich Maria Remarque
Chơi vơi giữa dòng xoáy cuộc đời khi mà những điều khủng khiếp của chiến tranh vẫn còn ám ảnh, Ludwig Bodmer lựa chọn cách đối mặt bằng thái độ hài hước và bất cần. Tuy nhiên, bên trong anh lại là trái tim của một nhà thơ, với tâm hồn nồng nàn và lãng mạn, đang đấu tranh với thời cuộc và với chính mình để tìm ra ý nghĩa thật sự của cuộc sống mà anh đang và muốn sống. Lấy bối cảnh thành phố quê nhà của Remarque giữa hai cuộc thế chiến, Bia mộ đên mang nhiều tính chất tự truyện và đậm màu sắc triết lý trào phúng. Như chính tác giả từng viết, đây là “câu chuyện về tuổi trẻ trễ tràng”, về một thế hệ vỡ mộng, miệt mài đi tìm lời đáp cho những câu hỏi quan trọng mà nhân loại đã dần dần quên lãng. Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết *** Tôi không hề gặp lại một người nào nữa hết. Nhiều lần, tôi có ý định trở về nhưng lần nào cũng bị ngăn chận. Tôi nghĩ là sẽ có một thời gian nào đó thuận tiện hơn nhưng bây giờ thì đã hết rồi. Bóng tối đã phủ trùm lên nước Đức, tôi đã mất quê hương và lúc trở về, tôi chỉ còn thấy những điêu tàn. Georges đã chết. Mụ Konersmann sau bao nhiêu công trình dọ dẫm đã khám phá ra được cuộc tình vụng trộm của Lisa và Georges. Năm 1933, mười năm sau, mụ ta tố cáo với Watzek lúc bấy giờ là chỉ huy trưởng đội S.A. Mặc dầu đã ly dị Lisa tới năm năm, Watzek vẫn cứ nhốt tình địch vào trại tập trung của hắn. Vài tháng sau, Georges chết. Hans Hungermann, ủy viên văn hóa và là Đảng viên cao cấp đã ca tụng Đảng Quốc xã bằng một loạt thơ nóng bỏng. Năm 1945, hắn mất chỗ hiệu trưởng. Tuy nhiên, cũng như một số đảng viên khác, hắn sống một cách khá đầy đủ tiện nghi khỏi phải đi làm, nhờ có tiền hồi hưu. Nhà điêu khắc Kurt Bach sống luôn sáu năm trong một trại tập trung và trở về què quặt. Hiện nay, mười năm sau cuộc thảm bại, hắn vẫn phải vất vả để nuôi miệng cũng như bao nhiêu nạn nhân khác của chiến tranh. Hắn chỉ mong kiếm được mỗi tháng bảy chục ngàn Đức kim, khoảng một phần mười tiền trợ cấp cho Hungermann, khoảng một phần mười số tiền mà nhà nước cấp dưỡng cho viên chúa trùm mật vụ Gestapo, người ta có sáng kiến lập các trại tập trung mà Kurt bị nhốt và trở về què quặt... Đó là chưa kể các khoản trợ cấp cao hơn cho các tướng lãnh, tội nhân chiến tranh, và các đảng viên Quốc Xã khác. Henri Kroll, vượt thoát mọi biến cố, nhận thấy mọi quyền hạn và công lý vẫn còn đứng về phía quê hương yêu dấu của chúng tôi. Viên trung đội trưởng thiết kỵ Wolkeinstein rất lên hương. Người của Đảng và kỳ thị chủng tộc hết mình, sau chiến tranh, im hơi lặng tiếng luôn vài năm và bây giờ, cũng như bao nhiêu đồng chí khác, được làm nhân viên Bộ Ngoại giao. Bodendick và Wernicke cố giấu được một số người Do Thái trong trại điên bất trị. Họ cho những người trốn tránh cạo đầu và học cách giả điên. Sau đó ít lâu, Bodendick bị thuyên chuyển về một làng hẻo lánh vì đã lỡ nói một vài lời bất ý khi đức Giám mục của ông ta chấp nhận làm cố vấn cho một chính phủ chỉ lấy chuyện tàn sát làm bổn phận thiêng liêng. Wernicke cũng bị đổi đi vì không chịu chích thuốc độc cho những người điên. Trước khi ra đi, ông ta đã tập hộp được một số dân Do Thái và tổ chức một cuộc chạy trốn, ông ta bị gởi ra mặt trận và chết ở đó năm 1944. Willy ngã gục năm 1942. Otto Bambuss năm 1945. Charles Kroll năm 1944. Lisa chết trong một cuộc ném bom. Bà Kroll cũng cùng chung số phận. Edouard Knoblock thì vượt qua tất cả. Hắn phục vụ tất cả các quyền lực, tốt cũng như xấu, với tất cả nhiệt tâm. Nhà hàng của hắn bị phá hủy nhưng đã được xây cất lại. Hắn không cưới Gerda và không ai biết cô ta hiện ra sao. Tôi cũng chằng được một tin tức nào về Geneviève Terhoven. Oscar “mắt treo cờ tang” dựng nghiệp một cách huy hoàng. Lúc chiến tranh xảy ra hắn bị gởi sang Nga làm lính trơn và kế đó được chỉ định làm Thanh Tra nghĩa địa. Năm 1945, hắn làm thông dịch viên cho quân đội chiếm đóng và chỉ vài tháng sau được làm Thị trưởng. Thị trưởng Werdenbruck. Kế đó hắn hùn với Henri Kroll, cả hai tạo dựng một xưởng mới và rất phát tài. Vào thời đó mộ bia cũng khan hiếm như bánh mì. ... Mời các bạn đón đọc Bia Mộ Đen của tác giả Erich Maria Remarque.