Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Ngã Tư Và Những Cột Đèn - Trần Dần

Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là Những ngã tư và những cột đèn của nhà văn Trần Dần. Chuyện rằng: vào giữa những năm 1960, nhà văn Trần Dần, khi đang trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo của bản thân đã được một vài cán bộ công an hảo tâm tìm cách cho đi thâm nhập một số trại giam do Bộ Công an quản lý đang giam giữ những ngụy quân thời Pháp sau ngày tiếp quản Thủ đô. Kiểu đi như thế gọi là “đi thực tế” để khi về viết văn trên những cứ liệu của thực tế chuyến đi đó. Công thức ở đây là: cơ sở cung cấp tài liệu về một vấn đề cụ thể, nhà văn đi cho thấy, tiếp xúc cho biết, và cái viết ra thường chỉ là một báo cáo, một sơ đồ, dù có được vẽ vời thêm cho có vị văn chương. Vậy, với Trần Dần, bài toán đặt ra là: viết về hoàn cảnh của những người ngụy quân Pháp ở Hà Nội khi chiến tranh kết thúc, phần thắng thuộc về đội quân cách mạng, với định hướng viết đã rõ ràng là họ phải quy phục chế độ mới. Đề bài này không khó đối với ngòi bút Trần Dần. Nếu an phận, viết theo lối trả bài (trả cả ơn nghĩa nữa, nếu có), ông dễ phóng bút viết được nhanh, được trơn tru, nộp quyển, và quên đi nhanh chóng cái viết ra đó. Nhưng ông đã không làm thế, vì nhân cách là văn cách của ông không cho phép làm thế. Trần Dần, nhà văn luôn táo bạo quyết liệt trong từng câu chữ, hiểu theo nghĩa đen và nghĩa bóng, trong từng cái viết. Viết, với ông, bao giờ cũng là phải mới, phải khác, phải cách tân. Vì vậy, kết quả chuyến thực tế ấy, dưới tay ông đã thành tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn (NNTVNCĐ). Trần Dần đã giải được bài toán văn chương một cách xuất sắc. Câu chuyện của anh ngụy binh Dưỡng và mấy người bạn cùng cảnh ngộ trong những ngày đầu tiếp quản Thủ đô nếu kể ở ngôi thứ ba khéo lắm cũng chỉ được một truyện kể. Trần Dần đã chuyển nó thành ngôi thứ nhất thông qua hình thức cuốn nhật ký của Dưỡng, xen kẽ là lời kể của một vài nhân vật khác có tham dự vào đường dây hoạt động của nhân vật được kể ở ngôi thứ ba. Bằng hình thức này, Dưỡng đã được phát tiết tất cả những suy tư lời lẽ, hành vi của một thanh niên Hà Nội tạm chiếm, của một người lính lái tàu bò, và được bộc bạch tự nhiên nhất toàn bộ trạng thái tâm lý của mình vào một thời điểm hệ trọng của thời cuộc và số phận. Nhưng cái chính ở đây không phải chỉ ở nội dung cuốn nhật ký, mà ở cái cách ghi nhật ký của Dưỡng. Cái cách ghi ấy mới là một nội dung chính của cuốn tiểu thuyết của Trần Dần, nó thể hiện rõ trạng huống của một thành phố từ chiến tranh sang hòa bình và trạng thái của những con người bị mắc kẹt trong trạng huống ấy.  Còn có thể nói được rất nhiều về và từ cuốn tiểu thuyết NNTVNCĐ của Trần Dần. Trên đây tôi chỉ nói nhanh nói sơ về giải pháp nghệ thuật mà nhà văn đã đưa ra để thực hiện sáng tạo văn chương của mình. Đấy chính là cách viết nội dung chứ không phải kể nội dung, như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã từng chuyển dẫn từ lý thuyết văn học của Nga về. Cho nên không phải câu chuyện kể làm nên nội dung, mà là cách kể câu chuyện, hay hình thức đó cũng chính là nội dung. Điều đáng kinh ngạc là 45 năm trước, trong hoàn cảnh bị vây bủa của bản thân và sự bít bùng của một xã hội thời chiến, Trần Dần đã độc hành mở cho mình một con đường tiểu thuyết mà bây giờ ngoái lại sau lưng ông vẫn hầu như chưa có ai tiếp bước. May mắn bản thảo được giữ lại để bây giờ in ra. Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là NNTVNCĐ. Đó là Trần Dần từ 45 năm trước, khi cuốn sách mới được viết ra.  Đó là Trần Dần ở 45 năm sau, khi cuốn sách đã được in ra, trở thành một hiện tượng của văn học nước nhà năm 2011.  Kinh ngạc vì sức sáng tạo đột khởi và đột biến của một gương mặt văn chương quyết liệt nhất Việt Nam, nhưng cũng chính vì thế lại thấy buồn cho văn học Việt Nam sau nửa thế kỷ vẫn thấy là cũ mòn so với tác phẩm này. Do vậy, Trần Dần, bằng thơ và văn của ông để lại, vẫn mãi còn thách thức các nhà văn, nhà thơ Việt Nam.  *** Trần Dần Được đánh giá là người cách tân trong thơ cả về hình thức (với lối thơ bậc thang) lẫn tư tưởng (đa diện, triết lý...) và về thơ Trần Dần có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Ngay sau Phong trào Thơ mới, Trần Dần đã chủ trương làm thơ theo trường phái tượng trưng cùng với nhóm Dạ đài. Theo nhà thơ Dương Tường: "Thơ Trần Dần đương nhiên là khó hiểu. Nhưng chính ông ấy cũng nói về sự khó hiểu một cách hết sức giản dị: “Tất cả mọi giá trị chân thiện mỹ đều là khó hiểu”. Mặc dù suốt 30 năm thơ ông không được xuất bản nhưng ông vẫn miệt mài sáng tác theo con đường nghệ thuật mà mình suốt đời theo đuổi. *** Tác giả và tác phẩm có bao giờ chia nhau cùng số phận? Có bao giờ đi bên nhau suốt hành trình cuộc đời? Trần Dần và Những ngã tư và những cột đèn của ông có lẽ là những ngoại lệ, có xa cách, có hội ngộ, và mỗi bên theo đuổi một số phận khác thường. Trần Dần viết Những ngã tư và những cột đèn sau một thời gian tiếp xúc với nhiều ngụy binh cũ thời Pháp thuộc. Sở Công an Hà Nội đã cấp giấy phép ra vào trại giam, để sau đó bản thảo được gửi lên Sở Công an, khi đã hoàn thành. Đây là bản viết tay duy nhất, đề năm 1966. Cuộc chia tay của tác giả và tác phẩm kéo dài 22 năm. Một ngày năm 1988 Sở Công an Hà Nội mang bản thảo trả lại Trần Dần, tại nhà riêng, cùng tập thơ chép tay Cổng tỉnh. Tất cả vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng toàn bộ các nhà xuất bản đều từ chối ông, cùng Những ngã tư và những cột đèn, mặc dù trên danh nghĩa, Trần Dần và các bạn của ông thời Nhân văn-Giai phẩm đã được Hội Nhà văn chính thức ra quyết định phục hồi năm 1987. Những ngã tư và những cột đèn, cùng mọi tác phẩm khác, lại bị trả vào ngăn kéo. Phải chờ thêm bốn năm sau ngày nhận lại hội tịch, tác phẩm đẩu tiên của Trần Dần mới được xuất bản, năm 1990, là cuốn Bài thơ Việt Bắc. Trước khi Trần Dần mất hẳn khả năng làm việc, vì bệnh tật, ông đã quay trở lại với Những ngã tư và những cột đèn một lần nữa, lần cuối cùng. Ông chép lại, và sửa chữa chủ yếu về văn phong. Trong nhật ký 1989, ông nhắc nhiều lần về tiểu thuyết này, ông còn muốn viết một tiểu thuyết nữa. Thế rồi một Những ngã tư và những cột đèn khác ra đời, nhưng cũng là lúc ông khép lại nhật ký đời ông, khép lại những Sổ bụi, cùng toàn bộ sáng tác. Đấy là những ngày giao thừa giữa năm 1989 và 1990. Lần xuất bản thứ nhất này, của Những ngã tư và những cột đèn, sẽ đánh dấu 21 năm nữa, từ ngày bản thảo được sửa chữa. Và 44 năm, sau ngày tiểu thuyết được hoàn thành.   Những ngã tư và những cột đèn có thể là một tiểu thuyết về chiến tranh, như lời thông báo của anh nhà văn không tên, ở trang đầu cuốn sách? Những tình bạn, những tình yêu, đã đi qua chiến tranh, đi qua hòa bình, rồi lại rơi vào chiến tranh, có còn nguyên vẹn? Và những tính cách, thói quen con người, có thể nào không thay đổi cùng hoàn cảnh? Không một cảnh chiến tranh, nhưng hai chữ chiến tranh đi vào tiểu thuyết ngay từ trang một và trôi theo nhật ký, như một ám ảnh, cho đến trang cuối cùng. Chiến tranh do vậy, tồn tại như một bè đệm. Để “con người TOÀN PHẦN và CỤ THỂ vẫn tiếp tục trong chiến tranh. Và mạnh hơn chtến tranh”, Trần Dần kể như vậy, về Những ngã tư và những cột đèn, trong nhật ký 1989. Nhưng bản thảo lần thứ hai còn mang thêm một bè đệm khác, cả anh ngụy binh cũ tên Dưỡng, cả anh nhà văn không tên, đều chia nhau cùng một suy tư, về hiện tại, về quá khứ. Họ xử sự với thời gian cùng một cách. Dưỡng tính thời gian theo lối của riêng anh: để gọi tên mùa thu là mùa đông, để ngày tiếp quản tháng Mười trở thành mồng một Tết. Anh nhà văn đi tìm những định nghĩa về thời gian, luôn luôn nhầm lẫn giữa tuần lễ bảy ngày và Chủ nhật. Thời gian của toàn bộ tiểu thuyết di chuyển liên tục, từ 11 năm trước, đến 11 năm sau, rồi lại về 11 năm trước, vậy thì đâu sẽ là hiện tại thực? Dường như những nghi vấn của họ với thời gian, thực chất để đòi những câu hỏi khác về trách nhiệm của người đang sống, đối với hiện tại, và quá khứ. Trong một trang nhật ký 1989 Trần Dần viết: “Người ta nói nhiều, đến bố cục, chủ đề, í đồ không rõ… Xong người ta bàng hoàng và bảo: in cái này hơn Người người lớp lớp. Vâng, đúng là xa lạ. Tôi tuyên ngôn: tào lao - xông xênh - bàng hoàng. Vô hình, nhưng rõ rệt. Hiện hữu vô hình ấy, là một thực thể. Bàng hoàng ở đó. Bàng hoàng ở những ngã tư. Ai chẳng luôn gặp, những ngã tư. Để rẽ đường nào?” Rồi ở một trang khác, ông lại quay về Những ngã tư và những cột đèn: “Đời lắm ngã tư? Rẽ một ngã tư là trách nhiệm sinh tử, phải cẩn thận, kẻo hối bất kịp. Nhưng cẩn thận, không có nghĩa tính toán, chi li, chi hoe, mà trực cảm mang hết mình, ngửi ngửi ngã tư cẩn trọng rồi hãy rẽ”. 45 năm, kể từ ngày nhà văn bắt đầu chép lại cũng bằng mực tím “250 trang nhật kí, lem nhem mực tím” của anh ngụy binh Dưỡng, cho đến hôm nay, những ngã tư của tiểu thuyết vẫn đóng kín. Đây là “những ngã tư đời láo nháo nốt chân. Láo nháo cột đèn láo nháo đèn” của thế kỷ đã qua. Hôm nay, một ngày năm 2010, chúng mở cửa nằm chờ những bước chân độc giả, để gặp gỡ một thế hệ mới. Vũ Văn Kha Mời các bạn đón đọc Những Ngã Tư Và Những Cột Đèn của tác giả Trần Dần.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cáo Già, Gái Già Và Tiểu Thuyết Diễm Tình - Dương Thụy
Cáo già, gái già và tiểu thuyết diễm tình, người đọc thường xuyên “đụng đầu” câu hỏi đặt ra cho chính mình: phải chăng, trong thế giới người trẻ, khác biệt văn hoá ngày càng thu hẹp? Người ta đang trở nên giống nhau trong ứng xử, giống nhau khi lựa chọn hướng đi trong cuộc sống, và nhất là sự tương đồng trong các cung bậc xúc cảm? Thấu hiểu và sẵn lòng chia sẽ nên người ta đến với nhau dễ dàng hơn. Tình yêu tâm hồn và cả thể xác không còn là thứ xa vời cấm kỵ. Nhưng chính vì thế, mỗi cá nhân lại bớt phần bí mật, ít đi quyến luyến nên chia tay nhau cũng thấy chóng vánh và nhẹ nhàng hơn. *** Tên thật: Dương Thụy Phương Khanh, sinh năm 1975 tại Sài Gòn. Là PR & Communication Manager của Tập đoàn bất động sản Singapore CAPITALAND Các tác phẩm đã xuất bản: -1997: “Dấu Lặng Trong Điệp Khúc” (NXB Văn Nghệ) -1999: “Người thổi kèn” (NXB Kim Đồng) -2002: “Hai người đến từ phương xa” (NXB Kim Đồng) -2003: “Con gái Sài Gòn” (NXB Trẻ) -2004: “Cắt đuôi” (NXB Kim Đồng) -2004: “Bồ câu chung mái vòm” (NXB Trẻ) -2005: “Hành trình của những người trẻ” (NXB Trẻ) -2007: “Oxford thương yêu” (NXB Trẻ) -2008: “Cáo già, gái già và tiểu thuyết diễm tình” (NXB Trẻ) -2009: "Venise và những cuộc tình gondola" (NXB Trẻ) -2010: Nhắm mắt thấy Paris (NXB Trẻ) Các giải thưởng văn học: -1999: Giải hai, “Hương Đầu Mùa”, Báo Sinh Viên VN – Hoa Học Trò -2004: Giải hai, “Truyện ngắn hay 2004”, Báo Tiếp Thị Gia Đình -2005: Giải ba, “Văn học Tuổi Hai Mươi”, NXB Trẻ *** Tố Uyên lặng lẽ một mình khóa cửa phòng. Đám bảo vệ quen với việc về trễ của chị cũng phải thốt lên: "Về khuya dữ chị!". Ông Toàn tài xế mừng rỡ mở cửa xe sau cả buổi đói meo ngồi chờ. Tố Uyên vốn không ưa ông này, chị thù vụ ông bị vợ cắm sừng rồi đổ thừa:ÔNG "Tại chị bắt tui làm việc về trễ quá, con vợ tui nó ngứa ngáy "nhảy dù" với thằng sửa ống nước". Mấy lần chị tính vận dụng những thủ thuật của một giám đốc nhân sự đuổi phứt ông Toàn nhưng chủ tịch công đoàn là anh ruột ông ta. - Nè, công ty sắp có tổng giám đốc mới - Tố Uyên hào hứng - Đẹp trai lắm! Tui coi hình rồi. Nghe đâu ly dị vợ. - Vậy là chị có hy vọng... - ông tài xế tính xã giao làm vui lòng sếp buột miệng. - Ý anh là sao? Tố Uyên điên tiết. Thằng cha vô duyên thấy sợ. Để rồi coi, tổng giám đốc mới mà quyết đoán một chút chị sẽ "dùi" cách đuổi cổ chủ tịch công đoàn, hay ít ra cũng làm hắn "cụt tay cụt chân". Khi đó ông Toàn đừng hòng xớ rớ trong xe chị. Đã nhiều lần ông vụng về đề cập đến việc chị đã gần bốn mươi mà chưa chồng. Mấy tài xế công ty rãnh rỗi tha hồ "tám" chuyện, đã thế ông Toàn còn thật thà học lại nguyên văn tưởng làm sếp hài lòng: "Tố Uyên tuy gái già nhưng nhìn còn ngon cơm!" Sếp mới về, không làm thất vọng mấy trăm nhân viên, trước mắt là ngoại hình. Ông người Anh, gốc Ý, vóc người năng chơi thể thao, làn da rám nắng, khuôn mặt nam tính chinh phục người đối diện dễ dàng. Berlotti phong độ tuyệt đỉnh ở tuổi bốn lăm. Tố Uyên biết chỉ cần sếp ra lệnh, chị sẵn sàng đem cả mền chiếu vào công ty làm việc. Kinh nghiệm cho thấy ông tổng nào mới về cũng cần phòng nhân sự hỗ trợ để tống bớt đám tay chân của đời trước, rước người mới vào dễ bề quản lý. Tố Uyên và sếp thường ở lại bàn bạc công việc đến tận mười giờ đêm. Đám bảo vệ giả bộ đi tuần ngang qua phòng tổng giám đốc liếc thấy hai người thân mật cười nói rổn rảng. Ông Berlotti vỗ vai Tố Uyên thùm thụp "Chúa ơi! Chúa ơi!", chị nàng bưng mặt mắc cỡ kêu lên the thé "Berlotti! Ồ Berlotti! Không!". Bà con đồn ùm lên hai người "chịu đèn" nhau rồi. Dạo này giám đốc nhân sự không mặc những bộ váy công sở nghiêm nghị nữa. Chị đổi style diện toàn bằng chất liệu mềm mại, kiểu dáng nhẹ nhàng, đơn giản mà trẻ trung. Ai cũng công nhận cái tính từ "ngon cơm" đám tài xế dành cho chị là chính xác. Tố Uyên cao một mét sáu lăm, lưng thẳng, eo thon, bụng nhỏ. Chị không có nhan sắc mỹ miều nhưng mặt mũi ưa nhìn, biết trang điểm tinh tế, và nếu đừng làm ra vẻ ta đây mà chịu cười tủm tỉm, chị quả là mỹ nhân U40. Mỗi lần nhân viên công ty thấy Tố Uyên cùng ông tổng sánh đôi lên xe đi ra ngoài công tác hoặc cùng đàm đạo thân mật trong sân, người ta thật lòng mong chị có bồ phứt cho rồi. Chức cao, tài năng, xinh đẹp mà làm gái già thật tâm sinh lý phức tạp không tài nào đoán nổi. Dĩ nhiên người trong cuộc biết công ty bàn tán gì. Mặc, anh đã ly dị, ả chưa có chồng. Hồi sau sẽ rõ. ... Mời các bạn đón đọc Cáo Già, Gái Già Và Tiểu Thuyết Diễm Tình của tác giả Dương Thụy.
Chú Bé Thành Paris - Victor Hugo
Những người khốn khổ  là kiệt tác của đại văn hào Victor Hugo. Trong tác phẩm này, tác giả đã khắc họa sống động chú bé Ga vroche hồn nhiên, dũng cảm và nghĩa hiệp… Gavroche tuy đói khổ và nhiễm chút "bụi đời" nhưng vẫn rạng ngời phẩm chất tốt đẹp. Chú căm ghét kẻ giàu và sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó. Chú đã dùng đồng xu cuối cùng để mua bánh cho hai đứa trẻ lạc đường đang đói và còn mở rộng bụng voi để chúng ngủ qua đêm… Paris khởi nghĩa, Gavroche hăng hái ra trận với khẩu súng không cò, miệng hát vang những khúc ca "hòa âm của tiếng chim và xưởng thợ". Gavroche luôn có mặt ở những nơi cuộc chiến gay go và ác liệt. Chú như con ong: châm anh sinh viên này, đốt anh thợ kia, đáp xuống, dừng lại, bay lượn trên chiến lũy. "Đôi cánh tay nhỏ của chú là sự chuyển động thường trực, hai lá phổi tí hon của chú chứa đựng sự huyên náo…" *** Victor Hugo là niềm tự hào của nhân dân Pháp và của toàn thế giới. Victor Hugo tên đầy đủ là Victor Hugo, sinh ngày 26 tháng 02 năm 1802 ở Bơzăngxông, mất ngầy 22 tháng 05 năm 1885. Vốn là con của một người thợ mộc, nhưng ông Joseph đã phục vụ quân đội Pháp trong thời kỳ Cách Mạng và lên tới cấp bậc thiếu tá, rồi về sau do lòng dũng cảm và công trạng chiến trường, trở thành một vị tướng trong đội quân của Napoléon. Mẹ ông sinh trưởng trong một gia đình quân chủ và ngoa đạo. Do hoàn cảnh gia đình mà Hugo chịu ảnh hưởng tư tưởng khá sâu nặng từ mẹ, tác động rất lớn sự hình thành các quan điểm của ông thời trẻ.  Cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông bao chùm thế kỷ XIX ở Pháp. Ông ra đời khi thế kỷ đó mới chớm nở được già một năm trên đống gạch vụn hoang tàn của chế độ phong kiến vừa sụp đổ chưa được bao lâu. Ông mất vào khoảng giai đoạn cuối thế kỷ, lúc phong trào cộng sản thế giới đang chuyển qua thời kỳ đấu tranh mới hết sức quyết liệt. Ông đã chứng kiến cơn bão táp của lịch sử và nó được phản ánh trong các tác phẩm của ông. Nếu như “Letônxtôi được coi là tấm gương phản chiếu cách mạng Nga”(V.I.Lênin) thì Victor Huygô cũng được coi là tầm gương phản chiếu của cách mạng Pháp. Victor Hugo là nhà văn, nhà thơ lớn của nước Pháp. Sự rộng lượng trong các tư tưởng của ông, sự ân cần trong cách diễn tả đã làm rung động tâm hồn người đọc bởi vì ông là nhà thơ của người bình dân, đã viết ra văn, làm ra thơ với đặc tính giản dị nhưng bao hàm bên trong sức mạnh, đề cập cả về niềm vui lẫn nỗi buồn của nhiều người. Khi được hỏi ai là nhà thơ lớn nhất của nước Pháp, Văn Hào André Gide đã trả lời: "Vẫn là Victor Hugo". Victor Hugo có thể bị chỉ trích về sự nông cạn của tâm hồn tác giả và sự tầm thường của các nhân vật trong chuyện, nhưng tầm vóc tài năng của ông về văn chương, bao gồm cả kịch nghệ và thơ phú, thật là bao la, không có ai sánh kịp trong lịch sử văn học kể từ thời Shakespeare và Goethe. Mặc dù không phải là nhà tư tưởng sâu sắc, Victor Hugo vẫn là nhà văn chân thành, hiến mình cho "Chân, Thiện, Mỹ" và ông là văn hào được dân chúng Pháp yêu chuộng nhất.  “Những người khốn khổ” là tác phẩm xuất sắc nhất của Victor Hugo. Nhà văn hoàn thành bộ tiểu thuyết ấy ở đảo GheTác-nơ-đây. Trong thời gian sống lưu vọng. Tuy nhiên tác phẩm này đã được ấp ủ từ lâu. Chính vì vậy mà: “Tác phẩm được đánh giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nền văn học thế giới thế kỷ XIX”. “Những người khốn khổ” ghi lại dấu mốc đáng kể trên con đường phát triển mạnh mẽ của loại tiểu thuyết xã hội Pháp. Đây được coi là tác phẩm chan chứa tình lãng mạng. Tác phẩm này là đỉnh cao nghệ thuật văn xuôi, tác phẩm đã kết tinh nhất thiên tài của văn chương thế giới. *** Khi đạn to đã làm cho các chiến sĩ không ở được trên đỉnh chiến lũy và khi đạn ghém khiến họ phải rời các cửa sổ của quán rượu thì các toán quân tấn công có thể xông vào giữa đường phố mà không sợ ai nhắm bắn và có thể là không sợ ai trông thấy nữa. Có thể quân tấn công bất thình lình leo lên chiến lũy như hồi đầu hôm và biết đâu chúng sẽ bất ngờ chiếm lấy chiến lũy. Enjolras suy tính: “Nhất định phải làm cho hai khẩu đại bác bớt làm phiền ta mới được”. Anh thét: - Bắn vào bọn pháo binh! Ai nấy đều đã sẵn sàng. Từ lâu phải im lặng, cả chiến lũy bỗng nổ súng như điên cuồng, bảy, tám loạt nối liền nhau như căm hờn, như reo vui. Vài phút sau, qua làn mây mù rạch ánh lửa đạn lập lòe, người ta thấy lờ mờ đến hai phần ba số pháo thủ ngã gục bên bánh xe của các khẩu pháo. Bọn còn sót lại cứ bình tĩnh, nghiêm nghị, tiếp tục bắn nhưng bắn chậm đi nhiều. Bossuet bảo Enjolras: - Thế là tốt. Thắng lợi. Enjolras lắc đầu, đáp: - Cứ thắng lợi kiểu ấy thì chỉ mười lăm phút nữa, cả chiến lũy sẽ không còn lấy mười viên đạn. Câu nói ấy hình như đã lọt vào tai Gavroche. Chợt Courfeyrac trông thấy có ai ở phía ngoài dưới chiến lũy, trên đường phố, trong luồng đạn của quân địch. Đó là Gavroche. Gavroche đã xách một chiếc giỏ dùng để đựng chai trong quán rượu, rồi luồn qua khe hở mà ra ngoài. Bây giờ thì chú điềm nhiên lật bị của bọn quốc dân quân đã chết trên bờ lũy mà trút đạn vào giỏ. Courfeyrac kêu hỏi: - Em làm gì đấy? Gavroche ngẩng đầu lên, đáp: - Tôi hốt cho đầy giỏ đồng chí ạ. - Em không thấy đạn vãi ra đó ư? - Ừ thì như mưa đấy. Thế thì sao? Courfeyrac thét: - Đi vào! - Lát nữa đã! Gavroche chỉ đáp gọn lỏn có thế rồi đi sâu vào đường phố. Khoảng hai mươi xác người nằm rải rác suốt chiều dài đường phố cũng đủ cho Gavroche tha hồ mà lấy đạn tiếp tế cho nghĩa quân. Khói súng luẩn quẩn trong thành phố như một đám sương mù. Bị dồn lại giữa hai dãy nhà cao tầng, khói càng dày đặc giống như đám mây lọt vào thung lũng, giữa hai sườn núi dựng đứng. Nó bốc lên chầm chậm, bốc lên chừng nào thì dưới chân đã có khói mới tỏa ra thay chừng ấy, do đó không gian càng lúc càng mờ mịt. Mặc dầu giữa ban ngày mà trời vẫn cứ tối sầm. Con đường rất ngắn nhưng qua đám mây mù ấy, chiến sĩ ở đầu phố, cuối phố khó mà trông thấy nhau. Có lẽ những người chỉ huy cuộc tấn công chiến lũy đã muốn tạo ra một đám khói mù như thế. Dẫu sao nó cũng rất có lợi cho Gavroche. Vóc người đã nhỏ bé, lại lẫn vào trong làn khói, nhờ vậy Gavroche tiến sâu vào đường phố mà không bị lộ hình. Chú dốc bảy, tám cái bị đầu một cách yên ổn. Chú nằm bẹp xuống đất mà lết, chú chống hai tay, hai chân phi nước đại, chú ngậm vành giỏ vào mồm để lướt tới. Chú lê, chú lết, chú trườn, chú xoay mình, chú uốn khúc như một con rắn. Chú bò từ xác này sang xác khác. Chú mở rộng cái bị hay cái nịt đạn như con khỉ bóc quả hạnh đào. Chú đi cũng không xa chiến lũy là mấy nhưng chẳng ai dám mở miệng gọi chú trở lại, vì sợ làm cho quân thù để ý sẽ phát hiện thấy chú. Chú tìm thấy một bị thuốc súng hình quả lê trên thây một hạ sĩ. ... Mời các bạn đón đọc Chú Bé Thành Paris của tác giả Victor Hugo.
Ai Là Kẻ Thứ Ba - Diệp Khuynh Thành
Dù tình yêu hay hôn nhân, đều là một trận chiến âm thầm có thể mãi mãi không có hồi kết? Tại sao anh ấy lại lỡ chân quá đà? Tại sao cô ấy công khai báo thù? kẻ thứ ba rốt cục là ai? Bản năng lừa đảo, phản bội, thích tìm kiếm những kích thích mới mẻ trong tính cách con người khiến mối nguy cơ tiềm ẩn càng dễ tới bên chúng ta. Tình dục lẽ ra phải là phần tươi tắn nhất, quan trọng nhất trong cuộc sống hôn nhân, nhưng bởi nhiều nguyên nhân, hôn nhân không tình dục vẫn tồn tại rất nhiều trong cuộc sống chúng ta. Đó là một thực tế không thể chối bỏ. Nếu coi hôn nhân như một món ăn thì cuộc sống tình dục chính là chút muối đậm đà. Nếu đồ ăn không có muối có thể ăn hai, ba suất nhưng nếu bắt người ta ăn suốt đời, chắc chắn không thể chịu đựng nổi. Cũng có thể coi cuộc sống tình ái như phần kem trên chiếc bánh ga tô. Nếu không có chỗ kem đó, miếng bánh vừa không có giá trị thưởng thức, vừa nhạt nhẽo, chẳng khác nào một miếng bánh nướng phế phẩm. *** "Không", Bình Bình nói, "Hạnh phúc là cái hiện có. Đó là câu nói luôn khắc ghi trong trái tim em từ sau khi lấy anh. Em và anh ấy không còn gì nữa. Em có thể đảm bảo với anh về điểm này. Vì chúng em tới tận ngày nay vẫn có thể dùng trái tim để suy nghĩ cho nhau, đã chứng minh tất cả". Người được hẹn phỏng vấn: Hoàng Lư, nam, nhân viên công ty, người Hồ Bắc. Đó là cuộc phỏng vấn được hình thành sau khi mấy người quen biết tụ tập với nhau, trò chuyện huyên thuyên. "Hôn nhân chính là cái hiện có", đó là châm ngôn của Hoàng Lư. Khi lấy Đặng Bình Bình, tôi đã ba mươi ba tuổi, cô ấy cũng ba mươi. Người đàn ông và đàn bà đã đứng tuổi, đều lấy nhau lần đầu, đủ biết phải trải qua một quá trình lựa chọn bạn đời vất vả đến thế nào. Do công việc của tôi luôn bất ổn, các doanh nghiệp cứ nay làm mai đợi việc, thế nên tôi ngừng công việc mới, cùng mấy người bạn hùn vốn làm ăn buôn bán nguyên vật liệu, sống ở Quảng Đông hơn ba năm. Chuyện đời gian khó, đường làm ăn gập ghềnh, những chuyện cá nhân tự khắc buông sang một bên. Tới khi gặp được Bình Bình, người nhà tôi đã lo lắng cho tôi tới mức hận không thể tống tôi vào động phòng ngay hôm sau. Bình Bình rất đẹp, tính nết cũng dịu dàng. Cô ấy làm việc trong cơ quan trực thuộc tỉnh, tốt nghiệp đại học danh tiếng, học vấn cao hơn tôi. Tôi thực không hiểu nổi tại sao chuyện hôn nhân của cô lại kéo dài đến vậy. Nhưng người hiện đại, ai mà chẳng có một đoạn lịch sử đau thương. Tôi nghĩ, hẳn vì một mối tình khắc cốt ghi tâm nào đó, khiến cô đau lòng, nên không muốn yêu nữa chăng? Những điều này, tôi hầu như chưa từng hỏi cô bao giờ. Cô kể ra bao nhiêu, tôi chỉ nghe bấy nhiêu. Quả thực, cô từng nhắc đến mối tình thời sinh viên. Đó là tình đầu, nhưng sau khi ra trường, họ đã chia tay. Một lần, khi chúng tôi đang ngồi trên xe, đi ngang qua Viện thiết kế kiến trúc, đúng lúc đó có một người đàn ông đẩy xe đạp đi ra ngoài cửa, khóe miệng cô ấy nở một nụ cười. Thì ra đó là một chàng trai mà cô ấy quen biết sau khi tốt nghiệp chưa lâu. Anh ta từng theo đuổi cô ấy, nhưng cô ấy lại ngần ngừ. Dù cũng hơi thích đối phương, nhưng cô không hề để lộ. Người đàn ông đó không kiên nhẫn được, cuối cùng cũng không hẹn hò với cô ấy nữa. Những chuyện này hầu như khiến tôi có thể nhìn thấy được tuổi thanh xuân cô độc của một người phụ nữ đẹp. Quả thật, cô ấy rất hay do dự. Ngay cả khi tôi biểu hiện rất mãnh liệt, cô ấy chỉ cười mong manh. Ngày nay trong thành phố phồn hoa này, có thể gặp được người như cô ấy quả thực rất hiếm. Mọi người đều ra sức thể hiện khát vọng của mình, dù đó chỉ là khát khao về mặt sinh lí. Nhưng tôi phát hiện thấy dường như cô ấy có đủ sức lực để hóa giải nó. Cô luôn lạnh lùng như vậy, khiến tôi buộc phải hỏi, hay là em không có cảm giác với anh. Cô ấy vội vàng lắc đầu, nước mắt ứa ra. Tôi không nỡ hỏi tiếp. ... Mời các bạn đón đọc Ai Là Kẻ Thứ Ba của tác giả Diệp Khuynh Thành.
Sự May Rủi của Trái Tim - Barbara Cartland
Tiểu thư Serena Staverley nhận được tin dữ, cha co đã tự sát sau khi thua toàn bộ gia sản và gả gán cả cô trong một ván bài về tay Ngài Wrotham quỷ quyệt. Anh họ cô, Nicolas đã chứng kiến cái chết của cha cô và cả số phận trớ truê khi những gì cha cô vừa thua về tay Ngài Wortham lại lập tức rơi vào tay một kẻ thắng cuộc mới là Ngài Justin Vulcan đầy tai tiếng. Lo lắng cho tương lai của Serena, Nicolas đã cầu hôn và đề nghị đưa cô bỏ trốn. Nhưng chạy trốn đồng nghĩa với việc bôi nhọ thanh danh gia đình, vì vậy Serena lựa chọn sắn sàng đối mặt với những gì sắp xảy đến. Ngài Vulcan không ngờ cô gái đáng thương mà chàng cứu vì thương hại hóa ra lại là một tiểu thư trẻ xinh đẹp tuyệt vời, khiến chàng phải chú ý ngay từ cái nhìn đầu tiên. *** Về tác giả: Barbara Cartland (1904 - 2000) được mệnh danh là nữ hoàng tiểu thuyết lãng mạn, đạt kỉ lục về đầu sách xuất bản trong một năm, để lại một gia tài sách khổng lồ với 723 cuốn, được dịch tại 38 quốc gia và là một trong những tác giả ăn khách nhất thế kỉ XX. Sự May Rủi Của Trái Tim (tên gốc A Hazard of Hearts) của Barbara Cartland được xuất bản lần đầu tiên tại Anh năm 1949, tạo nên sức hút lớn lao đối với đông đảo bạn đọc khắp châu Âu. Năm 1987, cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim (đã công chiếu tại Việt Nam năm 1995), càng nói lên sức hấp dẫn của tác phẩm. Sự may rủi của trái tim trở thành tiếng nói phổ quát về những điều khó nắm bắt nhất của tình yêu. Đây là tác phẩm đã được chuyển thành phim năm 1987, với sự tham gia của nữ diễn viên trẻ Helena Bonham Carter và nam tài tử Marcus Gilbert, bộ phim đã để lại ấn tượng sâu sắc đối với khán giả Việt Nam vào những năm 1990 và được chiếu lại nhiều lần trên sóng VTV1. *** Serena đẩy cánh cửa sổ và đứng nhìn ra vườn. Ánh nắng ấm áp và vàng rực, và mặt biển phản chiếu màu trời xanh thẳm. Một đàn chim câu trắng bay qua bãi cỏ xanh. Serena quay đầu lại khi Eudora đi vào phòng mang theo một bó hoa. Bà mang đến cho Serena và đặt chúng vào tay nàng. "Từ đức ông," bà nói. Serena háo hức nhận lấy. "Chúng còn đẹp hơn bình thường nữa." Eudora gật đầu. "Đúng vậy," bà nói. "tôi chưa bao giờ thấy những bó hoa nào đẹp bằng những bó đức ông gửi cho cô mấy ngày qua." Serena nghĩ đến những bông hồng nhung đỏ thắm Eudora mang đến cho nàng hôm qua, những bông hoa lan tím hôm kia và những bông cẩm chướng màu hồng san hô hôm trước đó. Rồi nàng thấy những bông hoa hôm nay là những bông hồng trắng, lan trắng và hoa lan chuông. Nàng nhìn chúng và rồi nhìn xuống chiếc áo dài đang mặc. Nàng không nhận ra khi nàng mặc nó rằng đây chính là chiếc áo nàng đã mặc hôm đám cưới. Nàng nhìn Eudora và thấy bà, cũng, chú ý thấy sự trùng hợp này. "Tôi mặc như một cô dâu vậy," nàng nói, giọng hơi bẽn lẽn. "Đến lúc cô bắt đầu cư xử giống một cô dâu rồi," Eudora đáp lại. Serena cảm thấy màu đỏ bừng trên má nàng; nhưng trước khi nàng có thể nói, Eudora nói tiếp: "Đức ông gởi lời hỏi thăm và nếu cô thấy đủ khoẻ rồi thì ngài hết sức hài lòng muốn nói chuyện với cô khi cô thấy thuận tiện trong thư viện." "Ồ!" Serena chỉ nói được mỗi một từ như thế; rồi, vì nàng không nói gì thêm nữa, Eudora nói: "Cá nhân tôi nghĩ là cô đủ khoẻ rồi." Serena cười. "Đương nhiên là vậy! Tôi đã khoẻ hẳn từ hai ba hôm nay, nhưng bà và bác sĩ cứ bắt tôi nằm trên giường." "Chúng tôi muốn cô bình phục," Eudora đáp, "và cô đã bình phục rồi. Hơn nữa, tốt hơn là cô nên ở trong phòng khi có mấy đám tang và những thứ như thế xảy ra." Đôi mắt Serena tối lại một lúc. Nàng nhìn ra cửa sổ. "Bà đã đi dự à?" nàng hỏi. Eudora gật đầu. "Tất cả chúng tôi," bà nói; "lệnh của đức ông, nhưng không mời thêm ai trừ tất cả người hầu và tá điền của điền trang. Tôi không nói chuyện cũ nữa đâu, thân yêu ạ, vì sợ nó làm cô buồn, nhưng đó là một đám tang đơn giản lặng lẽ và tôi thấy cuối cùng lệnh bà cũng tìm thấy bình yên." "Đó là điều tôi mong bà ấy tìm thấy," Serena nói, "bình yên!" Nàng im lặng một lúc khi sâu trong trái tim mình, nàng cầu nguyện cho sự yên nghỉ của bà hầu tước, cho linh hồn hỗn loạn của bà được thanh thản. Rồi một suy nghĩ đập vào nàng. "Bà nói là những đám tang à, Eudora?" Eudora gật đầu. "Có một người nữa cũng được chôn cùng lúc. Tôi không biết đó là ai, nhưng người đó có họ hàng vì được chôn trong hầm mộ của gia đình." "Vậy là họ được chôn cùng nhau," Serena nhẹ nhàng nói. "Vâng, cùng với nhau," Eudora trả lời. "Nhưng ta hãy nói chuyện gì vui vẻ đi. Nó qua rồi và quên nó đi, thân yêu ạ, tất cả những gì cô phải chịu đựng, tất cả những điều cô đã trải qua. Cô còn tương lai ở phía trước." Serena đưa tay lên ôm lấy má. "Phải, tôi biết, nhưng mà, Eudora, tôi sợ lắm." "Sợ đức ông à?" Eudora hỏi. "Sao bây giờ cô lại như thế khi cô biết rằng chẳng có lý do gì mà cô không tốt với ngài cả." "...Tốt với anh ấy!" Serena lặp lại những từ ấy với một tiếng nấc nho nhỏ, và rồi rất nhanh, như nàng muốn giấu diếm những tình cảm của mình ngay cả với Eudora, nàng hỏi, "Anh ấy có hỏi thăm tôi từ khi tôi...khó ở không?" "Mỗi ngày," Eudora trả lời. "Cô biết mà." ... Mời các bạn đón đọc Sự May Rủi của Trái Tim của tác giả Barbara Cartland.