Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cây Vĩ Cầm Ave Maria

Cô bé 14 tuổi Asuka bắt gặp một cây vĩ cầm phát ra âm thanh kì lạ ở cửa hàng nhạc cụ. Đó là đồ vật của Hannah, cô bé người Do Thái từng là thành viên dàn nhạc ở Trại tập trung Auschwitz. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến thế nào, Hannah vẫn luôn nghĩ tới bạn bè và không bao giờ quên lòng nhiệt thành dành cho âm nhạc. Tình cảm của Hannah chạm tới cả trái tim của cô bé Nhật Bản Asuka… Một câu chuyện cảm động sinh ra từ một cây vĩ cầm đã kinh qua ngọn lửa chiến tranh, bị vận mệnh bất hạnh trêu đùa.  “Âm nhạc cứu rỗi chúng ta khỏi trái tim tà ác. Chỉ cần tận hưởng âm nhạc một cách đơn thuần, chúng ta có thể vượt qua mọi rào cản ngôn ngữ, quốc gia, thậm chí là cả chiến tranh nữa.”  *** 'Cây vĩ cầm Ave Maria' - tiểu thuyết về cô bé thoát chết trong Thế chiến. Sách của tác giả Nhật là bản hòa tấu giàu cung bậc cảm xúc, khắc họa tình người, tình yêu âm nhạc trước cuộc sống khốc liệt. Một nghệ sĩ dương cầm tưởng chừng đã lọt vào cửa tử khi bị tên lính Đức phát hiện ẩn náu trong những tòa nhà đổ nát. Cuối cùng, anh bất ngờ thoát chết khi chơi một nhạc khúc trên cây dương cầm bị bỏ quên. Dù trong phút tử sinh, bản nhạc vẫn nhẹ nhàng và thanh khiết, lay động tâm hồn tên lính. Đó là một trong những cảnh kinh điển của phim The Pianist, tác phẩm điện ảnh nổi bật về Thế chiến thứ hai. Một phân cảnh nhỏ đủ để thấy sức mạnh không lời nhưng mãnh liệt của những giai âm đánh thức phần "người" trong mỗi chúng ta. Cùng lấy đề tài âm nhạc trong thời kỳ Thế chiến thứ hai khốc liệt và u tối trong lịch sử nhân loại, sách Cây vĩ cầm Ave Maria là bản hòa tấu giàu cung bậc cảm xúc, khắc họa rõ nét tình người và tình yêu âm nhạc khi người ta đối mặt với cái chết. 300 trang truyện có lối kể gần gũi, giàu tính nhân văn. Câu chuyện khởi nguồn từ cây vĩ cầm đỏ mang tên Ave Maria do cô bé Nhật Bản Asuka được cho mượn trong cửa hàng bán nhạc cụ. Để tìm lại nguồn vui, động lực tập luyện violin nghiêm túc, Asuka và chủ cửa hàng nhạc cụ quyết định tới gặp Paul Kanzas, chỉ huy dàn nhạc người Ba Lan, cũng là nhạc công có cơ duyên quen được người chủ trước đó của cây đàn - cô bé Hannah. Ngẫu nhiên Hannah cũng 14 tuổi, bằng đúng tuổi Asuka. Qua lời kể của ông Kanzas, độc giả lùi lại thời quá khứ để lắng nghe số phận đặc biệt của "thiên thần nhỏ" Hanna. Dù lọt vào chốn địa ngục trần gian; cả gia đình từ ông, bà, cha, mẹ, em trai đều bị phát xít tàn sát, sống trong sợ hãi nơm nớp hàng ngày ở Trại tập trung Auschwitz, cô bé vươn lên mạnh mẽ nhờ vào tình yêu vô bờ và thuần khiết với âm nhạc. Cây vĩ cầm Ave Maria không né tránh những sự thật đau lòng của hiện thực, mà khắc họa chúng tiết chế nhưng đầy đủ. Đó là khi chị gái của Hannah dù khuyết tật vẫn bị quân Gestapo bắn chết, là lúc ông em và cả em trai Andrew chưa đầy 5 tuổi bị đưa vào phòng hơi ngạt, là hình ảnh những người lao động bị đem ra làm trò tiêu khiển cho lính Đức để rồi cuối cùng không thoát khỏi thảm cảnh bị trừng phạt... Suốt tác phẩm, âm nhạc vẫn nổi lên như một "nhân vật chính", cho độc giả quyền tin vào một "Das Beste Leben" (Cuộc sống tuyệt vời - cụm từ được khắc trên thân đàn). Liệu âm nhạc có đủ sức mạnh để giúp con người vượt trên mọi nghịch cảnh? Đó là câu hỏi khiến người đọc phải trăn trở xuyên suốt tác phẩm. Ở đây, những bản nhạc không lời, được thể hiện qua cây violin và cả nhiều nhạc cụ khác đôi khi đã phải "đứng chông chênh" trên "bờ vực phán xét". Có những lúc, âm nhạc vang lên trong hoàn cảnh đầy đau đớn, xót xa. Khi cả nhà Hannah bị bắt đến Trại tập trung, em nghe thấy bản Tiếng Xuân. Điều khiến sau này em vẫn còn bị ám ảnh mãi, ngay cả khi hòa bình lập lại. Âm nhạc thậm chí từng bị coi là đóng vai trò "ru ngủ" những người lao động và dàn nhạc trong trại tập trung bị cho là những kẻ bợ đỡ quân Gestapo để mưu cầu sự sống. Thậm chí, có những bản hành khúc được chơi trong khi quân Đức thảm sát người Do Thái, tưởng chừng đã trở thành một "vết sẹo tinh thần" mãi mãi trong tâm trí cô bé 14 tuổi. Khi được trở về với cuộc sống bình thường, em đã trốn tránh thực tại, phải trị liệu tâm lý nhiều lần vì không dám nghe chúng. Nhưng cuối cùng, âm nhạc vẫn thể hiện được sứ mệnh của nó. Từ đầu đến cuối, âm nhạc là sợi dây kết nối con người, thậm chí là những người thuộc về hai phe đối lập, mở ra cánh cửa tưởng chừng xây bằng đá và đã đóng mãi mãi như trái tim của những tên lính Đức Quốc xã. Âm nhạc là "chìa khóa" cho ngục tù theo cả nghĩa đen, và nghĩa bóng: Ngục tù tâm hồn, giúp cho Hannah và những người trong dàn nhạc của em vươn lên mãnh liệt trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Đúng như những gì nhân vật của tác phẩm đã khẳng định: "Âm nhạc sẽ cứu rỗi con người khỏi trái tim tà ác. Chỉ cần tận hưởng âm nhạc một cách đơn thuần, chúng ta có thể vượt qua mọi rào cản ngôn ngữ, quốc gia, thậm chí là cả chiến tranh nữa". Tác phẩm của nhà văn nữ Kagawa Yoshiko đã tiếp cận những trang đau thương nhất của lịch sử nhân loại bằng cách thức giàu cảm xúc và nhân văn. Sách truyền thông điệp về tình yêu giữa con người với nhau và với âm nhạc, từ đó "đánh thức" động lực tìm hiểu về lịch sử, niềm đam mê với âm nhạc của thế hệ trẻ. Ấn phẩm của nhà văn nữ Kagawa Yoshiko đã đoạt giải vàng Huân Chương Sakura, giải thưởng thường niên của Hiệp hội thư viện trường học Nhật Bản. Năm 2014, sách được chọn làm đề tài cho cuộc thi viết cảm tưởng về các tác phẩm văn học dành cho thanh thiếu niên Nhật Bản. Tô Lệ Trân *** [REVIEW SÁCH] Tiểu thuyết: CÂY VĨ CẦM AVE MARIA (Yoshiko Kagawa) By LiLybook Hôm trước có rất nhiều bạn hỏi xin review nên hôm nay mình xin phép review cuốn Cây vĩ cầm của Ave Maria ạ. Theo cảm nhận của mình thì cuốn sách này cũng giống như một bản nhạc hòa tấu, có khúc dạo đầu, có khúc trung gian và có khúc vĩ thanh. Đôi lúc “bản nhạc” êm ái du dương, lúc lại cao trào mãnh liệt, lại có lúc trầm bổng diệu kỳ. Xem xong review các bạn thích thì mua, hong thích thì cũng mua luôn nha, đáng đọc lắm đó, à còn nữa xem xong review các bạn nhớ rate cho mình 5 sao nghen, mình cảm ơn các bạn rất nhiều Đối tượng đọc Phù hợp với mọi lứa tuổi và mọi mục đích ^^ (ngoài các bạn yêu sách ra thì cũng có các bạn đọc sách, truyện để giết thời gian đúng không nè) Mình khuyến khích các bà mẹ nên mua cho con mình đọc vì cuốn sách này mang tư tưởng nhân văn cao đẹp, giúp nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, dạy chúng các phân biệt thiện ác và đúng sai, biết tuyên dương và noi gương cái thiện, lấy cái thiện làm kim chỉ nam trong cuộc sống, biết lên án và loại bỏ cái ác, cái xấu, yêu hòa bình, yêu đất nước quê hương mình. Tóm tắt nội dung sách “Bản Ave Maria cô chơi tại sao lại khác biệt như thế…?” “Vì bản nhạc này đang rửa trôi tội ác tày trời của chúng ta.” “Ờ… Có lẽ là vậy đó…” Câu chuyện bắt đầu từ cô bé Asuka 14 tuổi, dù được học violin từ nhỏ nhưng Asuka luôn thờ ơ với tương lai của mình, hầu như chẳng có một chút động lực nào khiến cô bé ao ước được làm một thứ gì đó. Chuyện là như vậy cho đến khi định mệnh khiến Asuka gặp được cây vĩ cầm Ave Maria và tình cờ được biết về quá khứ của nó. Chủ nhân cũ của cây vĩ cầm này là Hannah, một thiên tài âm nhạc, một trái tim quả cảm đã từng sống sót qua ngọn lửa của chiến tranh. Đó là vào một ngày mùa đông năm 1933, Đảng đứng đầu Nghị viện Đức lúc bấy giờ là Đảng Quốc Xã đã bổ nhiệm người lãnh đạo Đảng – Hitler lên làm Thủ tướng Đức. Từ ngày đó, cánh cửa địa ngục như mở ra, không chỉ người Do Thái mà cả người Ba Lan, Liên Xô cũng đều phải trải qua một thời kỳ đau thương của lịch sử. Hitler cho rằng người Do Thái là nguyên nhân khiến Đức thất bại trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Chính vì vậy, “cuộc thảm sát” người Do Thái diễn ra. Gia đình Hannah cũng trở thành nạn nhân của chính trị và bị bắt tới Trại tập trung Auschwits. Tại đây, nhờ tài năng âm nhạc của mình, Hannah được xếp vào dàn nhạc mà không phải lao động khổ sai. Em và dàn nhạc bị quân đội Đức bắt chơi nhạc ở gần các lò thiêu sống để nhấn chìm đi những tiếng thét đau đớn của người lao động vô tội, để che dấu đi tội ác man rợ của chúng. Nhờ sức sống mãnh liệt, can trường, cô bé may mắn được nhìn thấy tự do một lần nữa, nhưng gia đình em thì không thể. Những gì đã xảy ra có lẽ đã trở thành nỗi ám ảnh to lớn trong tâm hồn Hannah. Tại sao nên đọc… Đề tài chiến tranh luôn là đề tài lấy được nhiều cảm tình và nước mắt của độc giả. Mặc dù câu chuyện về Hannah và cây vĩ cầm chỉ là những phần hư cấu giả tưởng của tác giả nhưng những sự kiện lịch sử vẫn luôn là sự thật. Giá mà tác giả khắc họa mạnh mẽ và lên án rõ rệt hơn nữa những tội ác mà phát xít Đức đã gây ra thì tác phẩm chắc chắn sẽ thật sự tuyệt vời. Cuốn sách khiến ta biết về những hậu quả tàn khốc của chiến tranh, những người đã ngã xuống, và cách thế giới đã vận hành như thế nào, để chúng ta biết trân trọng hòa bình của hiện tại. Nhắm mắt lại, bạn có nghe thấy tiếng gào thét của những con người vô tội bị đưa vào làm vật thí nghiệm, của những người lao động khi bị ném vào lò hỏa thiêu hay những tiếng khóc ai oán của sự chia ly… chúng hòa vào những cột khói, len lỏi trong từng giai điệu của bản nhạc, đau thương mà thảm khốc. Hình ảnh Hannah ngồi chơi bản Ave Maria lần cuối cùng giữa cánh đồng hoa anh túc đang nở rộ sau khi Trại tập trung được giải phóng, gương mặt em nở một nụ cười mãn nguyện đã khắc sâu vào tâm trí của mình. Ổn rồi, Hannah bé nhỏ. Trái tim em chẳng còn bất kỳ hận thù hay đớn đau nào nữa… Em đã hoàn thành sứ mệnh của mình Đánh giá của độc giả Theo cá nhân mình thì đây là một tác phẩm rất đáng để đọc, nó mang ý nghĩa và tư tưởng nhân văn cao cả, một khát vọng, sức sống tìm tàng và tâm hồn cao đẹp, nghệ sĩ của nhân vật chính, rất thích hợp cho các bé nhỏ đọc nhất là các bé đang ở độ tuổi phát triển tâm hồn (từ lớp 3 trở đi) để từ đó hình thành nên lòng nhân ái, tình thương người và nhận thức thiện ác ở các bé, ngoài ra còn giảm việc các bé mãi mê chơi game, thay vì chơi game thì việc đọc sách tốt hơn nhiều Mời các bạn đón đọc Cây Vĩ Cầm Ave Maria của tác giả Kagawa Yoshiko & Nguyễn Hồng Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

N.P
Nữ tác giả Banana Yoshimoto tên thật là Mahoko Yoshimoto sinh ngày 24.7.1964, là con gái của triết gia Nhật nổi tiếng Takaaki Yoshimoto. Banana Yoshimoto tốt nghiệp ngành Văn tại trường Nihon University, tại đây cô đã lấy bút danh là "Banana", cái tên mà theo cô là rất "chúa" và "lưỡng tính". Trong khi làm bồi bàn tại một hàng ăn vào năm 1987, Banana Yoshimoto bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình. Kitchen, cuốn tiểu thuyết đầu tay của cô ngay lập tức trở thành một hiện tượng với hơn 2,5 triệu bản sách được tiêu thụ, và đã tái bản trên sáu mươi lần tại Nhật Bản. Báo chí gọi đó là "Bananamania" (Hội chứng Banana). Sau Kitchen, Banana đã bán trên sáu triệu bản sách tại Nhật Bản và đã trở thành một tác giả nổi tiếng trên toàn thế giới với hàng loạt các tác phẩm như N•P, Lisard, Asleep, Goodbye Tsugumi, Amrita, Sly, Argentina Hag, Hardboiled and Hard luck… trong đó Goodbye Tsugumi (tạm dịch: Vĩnh biệt Tsugumi) đã được dựng phim và đoạt Yamamoto Shugoro Literary Prize năm 1989, tiểu thuyết Amrita cũng được trao Murasakishikibu Prize năm 1994. Đến nay tác phẩm của Banana Yoshimoto bao gồm mười hai tiểu thuyết và bảy tập truyện ngắn. Hiện tại, Banana Yoshimoto đã lập gia đình và sống ở Tokyo. Khá khiêu khích, nữ tác giả còn phát biểu rằng tham vọng lớn nhất của mình là đoạt giải thưởng Nobel Văn học. *** Đã không còn là Banana Yoshimoto tự nhiên và bột phát với văn chương như trong Kitchen, N•P đưa người đọc đối diện với những đề tài nhạy cảm và gai góc. Như một khúc biến tấu của tác phẩm N•P bí ẩn trong truyện, N•P của Banana Yoshimoto nói đến tình yêu đồng tính và đồng huyết, xen lẫn vào đó là những suy tưởng về ý nghĩa và tác động của văn chương lên cuộc đời thực. Những mối tình trong N•P thêm một lần nữa, dẫn dụ chúng ta vào một không gian đầy màu sắc Banana Yoshimoto, với một lối văn nhẹ nhhưng không thoáng qua gọn ghẽ nhưng không thiếu cá tính. Thế giới tiểu thuyết của nhà văn nữ Nhật Bản nổi tiếng nhất hiện nay chưa bao giờ ngừng gây bất ngờ bởi sự mới lạ và độc đáo qua từng cuốn sách. Banana Yoshimoto, một trong những gương mặt nổi bật nhất của văn học Nhật Bản đương đại, thường được so sánh cùng Haruki Murakami và Ryu Murakami. Năm 1987, Kitchen ra đời, bắt đầu đưa cái tên Banana lên thành một cao trào trong giới thanh niên Nhật và độc giả quốc tế, được gọi là Hội chứng Banana (Bananamania). N•P là một trong những tác phẩm thành công nhất sau đó của nhà văn, cùng với các tiểu thuyết Vĩnh biệt Tugumi và Amrita.             “Một cuốn sách phi thường, với sức mạnh có được từ không khí trang nghiêm, từ sự chân thành đã không bị cái nhìn hoài nghi làm hỏng.” - Toronto Globe “Banana Yoshimoto là một bậc thầy kể chuyện… Những nỗi đam mê đã được mô tả một cách tinh tế, kín đáo, đầy sức mạnh qua một ngôn ngữ tưởng chừng giản dị.” - Chicago Tribune “Một lần nữa, Yoshimoto đã  khẳng định nghệ thuật chính vị sứ giả tốt nhất giữa các dân tộc.” - Library Journal *** Ngay cả bây giờ, đôi lúc tôi vẫn thường nghĩ tới Shoji. Tôi, một đứa học sinh cấp ba, đã yêu anh, mê say, chỉ biết yêu như hút tất cả mọi thứ vào mình. Gần như ngày nào tôi cũng ở cùng anh, tới nhà anh, giúp anh một tay dịch nháp. Quả thực, anh đã rất vui khi có tôi ở cùng. Điều đó là sự thật. Nhưng dẫu sao, sự đời còn có bao nhiêu là rối rắm, và tôi, đã không thể nào ngăn chặn được sự mệt mỏi đang ngày một tiến triển trong con người anh, từ trước khi chúng tôi gặp nhau. Tôi đã không thể thật sự thấu hiểu những gì chiếm một phần rất lờn trong nhân cách của anh, những thứ u buồn đã có ảnh hưởng đầy ma lực đối với tôi. Khi gặp anh, tôi là cánh bướm bổ nhào vào căn phòng nơi chiếc bóng đèm đang bắt đầu nứt vỡ mất rồi, trong trái tim anh. Cứ cho rằng tôi đã là niềm an ủi của anh đi chăng nữa, thì rốt cục cũng chỉ là việc mang tới một chút lưu ảnh lấp lòa của ban ngày vào trong bóng tối, rồi làm cho mọi thứ hỗn loạn thêm mà thôi. Phải chăng chính vì vậy mà trong những giấc mơ có anh xuất hiện, tôi luôn sắp sẵn tình huống, rằng tôi của bây giờ đã gặp anh của ngày xưa. Có lẽ bởi tôi thường nghĩ, nếu là tôi của bây giờ, thì ít ra tôi cũng có thể cùng anh trải qua những khoảng thời gian lặng lẽ nhưng vui vẻ, với những thứ không ồn ã. Hoặc giả, trên thực tế, có thể điều đó là vô phương đi nữa, thì tôi vẫn không chịu cam lòng. Giá như tôi được gặp anh bằng cái tôi của bây giờ. Tôi thường nghĩ vậy, ở đâu đó trong tim mình. Có thể tôi đã nâng giá trị của mình lên quá cao chăng. Thế nhưng, vào một lúc nào đó, khi nghe thấy những câu chuyện đầy rẫy kiểu như “linh hồn của người tự sát sẽ không được lên thiên đàng. Khoảnh khắc của sự đau khổ sẽ dừng lại mãi mãi”, tôi lại muốn phát cuồng. Tự trong trái tim mình, nhanh hơn từ bất kỳ nơi nào khác, nơi tôi muốn tin rằng đó chỉ là lời nói dối, khuôn mặt yếu ớt đang cười của anh lại hiện lên. Nụ cười mà không ai có thể vào được trong nó. Buổi sáng ngày Shoji chết, tôi đã ở trong phòng của anh. Một giấc mơ được đem đến bởi thứ ánh nắng mùa hạ lấp loáng xuyên qua lớp rèm cửa. Một buổi sáng đầy nắng ngay trước mùa hạ giống hệt lúc này đây. Buổi sáng, bao giờ Shoji cũng dậy sớm hơn tôi. Khoảng tám giờ sáng, tôi miễn cưỡng mở mắt ra để còn đi đến trường thì Shoji đã ngồi trước chiếc máy chữ tự bao giờ. Thứ âm thanh đơn điệu ấy, tấm lưng đang tập trung vào công việc thật điềm tĩnh ấy, làm tôi nhớ tới tấm lưng của mẹ thời thơ ấu. Tôi yêu chúng biết bao. Sự trầm lặng ở anh, một người lớn hơn tôi những mười bảy tuổi, đã trung hòa khối năng lượng thừ thải đang lúc xuân thì của tôi thành một thứ gì đó ôn hòa. Khi có anh thật tĩnh lặng. Cười đấy, đùa đấy, nhưng vẫn tĩnh lặng. Cho dù tôi có muộn giờ học, anh cũng chẳng bao giờ phá vỡ giấc ngủ của tôi. Và dù tôi nghỉ học hôm ấy, anh cũng chẳng đuổi tôi ra khỏi nhà. Một con người như thế đấy. Thế nhưng, buổi sáng đó thì khác. Tôi tắt chiếc đồng hồ báo thức và nhìn sang bên cạnh, Shoji đang ngủ với khuôn mặt xanh lét, không có sinh khí. Bên dưới mắt là vết thâm quầng, hơi thở cũng rất nhỏ. Tôi, đứa học sinh mười tám tuổi, khi nhìn thấy quang cảnh đó, chỉ thấy đau lòng chút ít, một thứ tâm trạng thật giản đơn, hời hợt. Tôi khẽ khàng đắp lại chiếc chăn chiên cho anh rồi tụt xuống giường. Tôi mặc bộ đồng phục vào, uống một cốc sữa. Buổi sáng yên tĩnh. Tôi cảm thấy trong căn phòng như có một thứ không khí khác lạ đang lẩn vào. Tôi tìm mãi chiếc đồng hồ đã vứt lung tung hay để quên đâu đó mà không thấy nên quyết định mượn chiếc đồng hồ của Shoji đang đặt trên bàn. Tôi đeo nó vào tay. Một cảm giác nặng như chì. Miếng kính phủ trên mặt chữ đen phát ra thứ ánh sáng sắc lạnh. Có cái gì đó vô cùng chán chường. Việc ở trong phòng của người khác khiến tôi thấy bồn chồn tựa như mắc phải chứng bệnh nhớ nhà. Phải rồi, buổi sáng ấy, căn phòng và mọi vật bên ngoài đều lặng như tờ, khiến tôi có cảm giác nghe thấy được cả tiếng thở khi ngủ của Shoji trên chiếc giường bên bậy cửa sổ. Từng cử động của tôi tự nhiên cứng đờ ra mà tôi không biết. Tôi khó thở. Trên chiếc bàn có đặt máy chữ, bản dịch câu chuyện số 98 đang đánh dở dang. Tôi cầm lên xem. Công việc vẫn chưa tiến triển được một nửa. Không thể có chuyện đó. Hôm trước anh vừa bảo sắp xong rồi cơ mà. A, nhưng một lần anh có nói, dịch mãi, dịch mãi mà vẫn thấy cái gì đó chưa ổn. Thế là anh dịch lại từ đầu rồi. Tôi nghĩ vậy. Vào lúc đó, tôi đã biết chuyện về hai dịch giả tự sát trước đó. Tôi lạnh người. Tôi viết một bức thư vào trang vở.   “Anh sớm hoàn tất công việc rồi chúng mình cùng ra biển chơi nhé. Giống như lần trước ấy, buổi sáng chúng mình tới sớm nhất, thay bộ đồ bơi và nằm dài trên bãi cát rồi nói thật nhiều chuyện. Em chờ anh. Em mượn tạm chiếc đồng hồ của anh. Rồi em sẽ quay lại trả anh ngay.”   Tôi thầm nghĩ, ước gì khi đọc thư, mùi hương và tiếng sóng biển nơi hai người đã tới sẽ vụt sống lại trong anh. Tận đáy lòng, tôi mong sao anh sẽ vì thế mà chợt muốn đi ra biển và hoàn thành công việc. Trên cả lòng ghen tị là nỗi sợ. Tôi thấy mình đang viết thư như để chống lại một thứ gì đó đen tối không thể nhìn thấy, mà tôi đã coi là kẻ thù. Tôi muốn làm anh nhớ lại biết bao kỉ niệm trong tình yêu của hai đứa, cảm xúc trong một đêm ấm áp; vẻ đẹp của dãy phố nhuộm màu vàng cam nhìn từ trong taxi với cái đầu còn ngái ngủ trên con đường anh đưa tôi về vào rạng sáng; và nước mắt, bàn tay anh nóng hổi. Tôi muốn anh nhớ lại mùi hương nồng nàn của tất cả những kỉ niệm ấy. Tôi mải miết suy tưởng như người con gái sắp bị bỏ rơi trong đoạn kết của một cuộc tình.   Vì sốt ruột nên ban ngày tôi đã gọi điện từ một bốt điện thoại bên sân trường. - Alô. - Shoji nghe máy với sắc giọng rất vui vẻ. Tôi thấy yên tâm. - Em gọi từ trường học. - Tôi nói. Sau lưng tôi, tiếng ồn ào nghe như những tiếng hoảng loạn trong trường giờ nghỉ trưa vọng đến. Thêm vào đó, bây giờ là thời gian vệ sinh bể bơi, tiếng lũ học sinh trực nhật cùng với tiếng nước dội ào ào thật náo động. Tôi cười và nói: - Ồn ào không? - Đến chói cả tai. - Shoji nói. - Em ăn cơm hộp à? - Em không ngủ ở nhà thì ai làm cơm hộp cho em chứ. Em ăn cơm căng-tin. - Tôi cười. - Em đúng là một cô bé cấp ba. - Giọng anh nghe đầy vẻ ghen tị. - Cảm ơn bức thư của em nhé. - Hai ba hôm nữa em lại tới. - Ừ. Tiếng huyên náo chạy khắp ngôi trường như lấp kín cả không gian. Lũ học trò thả sức vui đùa cứ như sự tự do của cả một ngày đều dồn vào ba mươi phút nghỉ trưa đó vậy. Những tiếng cười giòn tan, năng lượng được giải thoát. Tôi ngẩng mặt nhìn lên, bầu trời mùa hạ xanh biếc. Ánh nắng và bóng râm cứ lần lượt lướt qua con phố. Một buổi chiều chói chang. - Thế thôi em nhé. - Vâng, thế nhé. - Tôi dập máy. Đó là lần cuối cùng. Vào lúc đó, khoảng cách giữa đầu dây bên kia với bên này, giữa Shoji và tôi, xa và phức tạp hơn nhiều lần từ địa ngục tới thiên đàng. Cho dù tôi yêu anh nhiều lắm, nhưng sao tôi không thể làm cho anh hiểu được. Một thứ gì đó như không muốn truyền đi, không thể không truyền đi, hay không có khả năng nhận tín hiệu, và chẳng thể nào hiểu nổi. Tôi vẫn nghe người ta đồn đại rằng, những kẻ yêu nhau thường hay như vậy. Vào lúc ấy, tôi đâu biết rằng sự hư hoặc ấy là có thật trong hiện thực này. Tôi cứ nghĩ rằng nó chỉ xảy ra ở một thế giới sầu muộn xửa xưa, như trong những chuyện cổ tích của xứ sa mạc thẳm xa nào đó, nó tuyệt chỉ là một câu chuyện đau khổ không có thật. Chỉ riêng tôi ngỡ mình đang sống giữa khu vườn địa đàng ấy mà thôi.   Mời các bạn đón đọc N.P của tác giả Banana Yoshimoto.
Người Tình Của Brecht
Một tác phẩm không thuộc hàng best-seller tại Việt Nam, báo chí hầu như không nhắc đến, độc giả đã quên tên, thậm chí chưa từng nghe. Nhưng những điều ấy chẳng khiến “Người tình của Brecht” mất đi giá trị vốn có. Đơn giản, bởi đó là một câu chuyện thành thực, xúc động và u buồn được Jacques-Pierre Amette kể lại bằng văn phong tinh tế. Người tình của Brecht là cô đào Maria Eich, người được nhân viên mật vụ Đức Hans Trow giao nhiệm vụ theo sát nhà soạn kịch Brecht. Sau những khóc cười của nghề diễn, sau niềm ngưỡng vọng và cả sự vô cảm dành cho Brecht, sau tình yêu không thành với Hans Trow, Mria Eich trở về sống và dạy học ở một vùng quê yên tĩnh, đôi khi nhớ lại quá khứ như một hư ảnh xa xôi, ngày ngày cảm nhận sự thanh thản của cuộc sống mới. Cái tên và cốt truyện dễ khiến ta lầm tưởng. Một kịch tác gia lớn, một cô đào xinh đẹp, những nghi kỵ chính trị, nhân viên tình báo núp dưới danh nghĩa người tình. Như vậy đã đủ để người đọc chờ đợi một câu chuyện sexy và gay cấn. Nhưng Jacques-Pierre Amette không khai thác câu chuyện theo hướng ấy. Xuyên suốt tác phẩm là quang cảnh điêu tàn, không khí ngột ngạt của Đông Đức thời hậu chiến, là thân phận của con người giữa vòng kiêm tỏa của quyền lực mù quáng, sự lầm lạc giữa tình yêu với cảm giác choáng ngợp, và cuối cùng là niềm thanh thản sau những biến động đã qua. Một trong những đặc điểm của lối viết hiện đại đó là chối từ sự lên gân của cảm xúc, sự bùng nổ (đôi khi không thật cần thiết) của ngôn từ, sự cường điệu khi xây dựng hình ảnh. Điều đó khiến người đọc bấy lâu quen được ru vỗ trong những tác phẩm du dương cảm thấy hụt hẫng. Nhưng đó cũng chính là lối viết mà cuộc sống hiện đại kiếm tìm, lối viết chân thực, trong sáng, tinh tế, ít biểu cảm, đôi lúc gần đạt tới độ “vô sắc”(1). “Người tình của Brecht” là tác phẩm tiêu biểu cho lối viết ấy. Đọc những trang văn của J.- Amette, ta nhận ra, đây chính là những gì đã được tác giả chưng cất từ cuộc sống, một cuộc sống đầy rẫy những biến động, dễ khiến người ta liên tưởng đến nhiều điều ly kỳ, nhưng thực chất trong thẳm sâu của nó vẫn là dòng chảy giản đơn, vẫn là những câu chuyện muôn đời: con người giữa vòng xoáy của lịch sử, khát vọng hạnh phúc và cuộc truy tầm tuyệt vọng, cảm giác thanh thản sau những biến động đã qua. J.-Amette, khôn ngoan và thành công, khi chọn lối viết này, để câu chuyện hiện lên như những gì nó vốn thế, nên thế, và bức tranh thiên nhiên, tâm trạng giữ nguyên được chất thơ và sắc màu tự nhiên nhất. *** Sinh ngày 18 tháng 5 năm 1943 ở Sain-Pierre-sur-Dives, vùng Calvados, Jacques-Pierre Amette tự hào với gốc rễ Normandice của mình trong rất nhiều tiểu thuyết, như cuốn Tuổi trẻ trong một thành phố Normandie. Là một độc giả mê thích Bermanos, Dostoievski, Stendhal và cả Proust, ông đã làm nghề dạy văn trước khi trở thành cây viết phê bình văn học cho tờ Ouest-France năm 1965, rồi chuyển sang làm cho tờ Point. Tiểu thuyết đầu tay Kỳ nghỉ của Amette ra đời khi ông mới 22 tuổi. Từ đó đến nay Amette đã viết khoảng 30 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, kịch, tập thơ; đồng thời thường xuyên viết cho radio và tivi. Ông yêu nước Đức và say mê Bertolt Brecht, tác giả của vở Opéra bốn xu, Mẹ Dũng cảm… Jacques-Pierre Amette hiện đã lại bù đầu với những tình tiết lắt léo đầy chất Brecht trong cuốn Tỉnh lị, một tiểu thuyết nữa của ông. *** Tại Ðông-Berlin thời hậu chiến, đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Bertolt Brecht, nhà viết kịch lưu vong trở về, với một nữ diễn viên trẻ, nhân viên mật vụ Ðức. Brecht đã trở về, hoành tráng, với đoàn kịch của ông. Nhưng lại bị nghi ngờ, cả ý tưởng, lẫn con người, đến hành động. Để nắm chắc, giám sát ông ta không rời nửa bước, viên mật vụ Hans Trow đã dùng đến thân thể của Maria Eich, một cô đào trẻ, bí ẩn và giỏi diễn. Vậy là nàng đã trở thành người tình của Brecht. Bức chân dung lôi cuốn về hai con người bị kìm hãm trong bối cảnh nghẹt thở của chiến tranh lạnh.     “Khi tiểu thuyết đùa với lịch sử, khi hư cấu trộn lẫn với hiện thực, để có thể làm những gì mình muốn. Ðó là trường hợp của Người tình của Brecht, cuốn sách mô tả cuộc sống trong cái nước Ðức quỳ gối, bị tàn phá, hư hại… Chẳng quan trọng gì việc câu chuyện có thực hay bịa, bởi nó đã được viết ra. Và viết một cách tuyệt diệu, không ép-phê, không thêm thắt không day dứt, cũng chẳng thống thiết. Chỉ với đúng các từ và các từ đúng, theo kiểu của Brecht. Vậy là cái thế giới lịch sử, nghệ thuật đã sống dạy dưới ngòi bút chạm khắc của Jacques-Pierre Amette. Một kỹ nghệ tiểu thuyết, được đền bù bằng giải Goncourt.”   Céline Damon, Amazon.fr     “Ban giám khảo giải Goncourt đã vội vã công bố giải trước hai tuần vì họ không muốn mạo hiểm trong dịp kỷ niệm 100 năm một trong những giải thưởng Văn học lâu đời và danh giá nhất thế giới này, bởi cuốn Người tình của Brecht rất dễ bị các giải đối thủ khác lựa chọn.”   The Guardian     “Tác phẩm chín muồi của một tác giả danh tiếng đã viết cả thảy khoảng một trăm tiểu thuyết, truyện và kịch; Người tình của Brecht của Jacques-Pierre Amette thật sự tuyệt vời như mong muốn của Edmond de Goncourt, “một tập tưởng tượng bằng văn xuôi”.”   Radio France   Mời các bạn đón đọc Người Tình Của Brecht của tác giả Jacques Pierre Amette.
Như Một Cuốn Tiểu Thuyết
Như một cuốn tiểu thuyết hẳn nhiên không phải là tiểu thuyết, mà lại được viết như tiểu thuyết, được đọc như tiểu thuyết... Đó là những quan sát, ghi chép về những thắc mắc, nghi ngờ, truy vấn, bàn bạc, tranh cãi, thậm chí giận hờn, trách móc giữa ba nhóm nhân vật (đôi khi có tên, thường thì không có tên): người lớn (cha mẹ, thầy giáo, người thân), trẻ em (con cái, học trò) và sách (danh từ chung, số nhiều, đại diện cho văn chương)! Nhiều tình tiết ly kỳ, đầy kịch tính, phô bày những nghịch lý hiển nhiên mà đôi khi giáo dục học phải thốt nên lời bất lực: phải đọc - trẻ mở trang sách ra và... ngủ! Cấm đọc - trẻ trốn vào chăn và... nuốt gọn quyển sách! Khi chưa biết đọc, đứa trẻ là độc giả trung thành mỗi đêm với những chuyện kể từ trang sách. Đến khi đọc thông viết thạo, chàng trai cô gái ấy đếm từng trang sách như một cực hình! Ai đã biến sách thành bức tường đá và dìm niềm vui đọc sách vào vực xoáy thẳm sâu? Cha mẹ, thầy cô, khoa sư phạm, hay truyền hình và đủ thứ món giải trí khác thời nay? Đầy những phát hiện thú vị, hấp dẫn, nhiều ẩn dụ, so sánh bất ngờ, độc đáo, cuốn “tiểu thuyết bốn chương, 67 hồi” này là một giáo trình tâm lý học dẫn dắt chúng ta cùng đi khám phá và tìm ra bí quyết nuôi dưỡng niềm say mê, sự hứng thú với văn chương trong suốt cuộc đời.   DUYÊN TRƯỜNG *** Daniel Pennac tên thật là Daniel Pennacchioni, sinh năm 1944 tại Casablanca (Ma Rốc). Thuở nhỏ, ông đã theo chân bố mẹ đi khắp nơi trên thế giới: châu Âu, châu Á, châu Phi... Sau khi tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Nice (Pháp), ông chỉ dạy học và thời gian còn lại ông dành cho công việc viết văn. Nhờ những trải nghiệm sống phong phú có được qua những chuyến phiêu lưu thuở nhỏ đã góp phần không nhỏ tạo nên sự đa dạng về thể loại trong sáng tác của nhà nhà văn: tiểu luận, tiểu thuyết trinh thám, sách cho thiếu nhi, truyện tranh, tự truyện... Daniel Pennac đặc biệt ghi dấu ấn trong nền văn học Pháp với những câu chuyện viết cho thiếu nhi. Giọng văn hài hước mà không kém phần sâu lắng, tình bạn giữa con người và loài vật, những khám phá vô cùng thú vị về thế giới “bốn chân” đã đem lại cho từng trang viết của ông sức hấp dẫn khó cưỡng đối với độc giả mọi lứa tuổi.   Ông là tác giả của nhiều cuốn sách được các em thiếu nhi yêu thích như: “Comme un roman” (Như một cuốn tiểu thuyết), “Au bonheur des orges”, “La Petite Marcande de prose”… “L'œil du loup” (Mắt sói) là tác phẩm nổi tiếng nhất của Daniel Pennac, được Bộ Giáo dục Pháp chỉ định là tác phẩm tham khảo chính thức trong nhà trường, được đưa vào giảng dạy trong hệ thống trường phổ thông của Pháp và được coi là một tác phẩm kinh điển của văn học thiếu nhi Pháp.    Ngoài ra, “Cabot-Caboche” (Cún bụi đời) là một trong những tác phẩm viết cho thiếu nhi thành công nhất của Daniel Pennac. Cuốn sách là minh chứng hùng hồn cho những gì được gọi là tinh tế trong cảm nhận và giản dị trong văn phong của tác giả.   Năm 2007, Giải Renaudot, một trong những giải thưởng văn học cao quý nhất của Pháp đã được trao cho Daniel Pennac với tác phẩm Chagrin d'Ecole.   Một vài tác phẩm:   - Cabot-Caboche (1982)   - L'œil du loup (1984)   - Au bonheur des ogres (1985)   - La Fée Carabine (1987)   - La Petite Marchande de prose (1989)   - Comme un roman (1992)   - Merci (2004)   - Chagrin d'école (2007) *** Động từ đọc không thể chấp nhận thể sai khiến. Một số động từ khác như “yêu” “mơ ước”… cũng vậy.   Tất nhiên, thử dùng thì cũng được. “Yêu em đi!” “Mơ ước đi!” “Ðọc đi!” “Ðọc đi! đọc đi mà, chúa ơi, đọc đi nào!”.   - Vào phòng và đọc đi!   Kết quả thế nào?   Chẳng thế nào cả.   Cậu bé ngủ gục trên trang sách. Đột nhiên, khung cửa sổ trước mặt như mở ra một vùng trời mơ ước, nơi cậu bé thỏa sức bay bổng. Để trốn khỏi những trang sách. Nó ngủ nhưng mà rất tỉnh: quyển sách vẫn mở rộng trước mặt. Chỉ cần nhẹ mở cánh cửa phòng là đã thấy cậu bé ngoan ngoãn ngồi đọc sách. Ngay cả nếu như ta rón chân thật nhẹ nhàng thì nó cũng nhanh chóng tỉnh giấc.   - Thế nào, có hay không?   Cậu bé sẽ chẳng nói không, chẳng dại gì mà phạm một tội lớn. Sách là cái gì đó thiêng liêng, làm sao mà có thể không thích đọc sách cho được? Không, thằng nhóc sẽ nói rằng những đoạn miêu tả dài quá.   Quá yên tâm, chúng ta trở lại trước màn hình tivi. Có thể ý kiến của cậu bé còn tạo ra một cuộc tranh luận thú vị giữa người lớn chúng ta…   - Nó thấy các đoạn miêu tả quá dài. Tất nhiên rồi, chúng ta đang ở thế kỷ của truyền thông, của hình ảnh trong khi các nhà tiểu thuyết của thế kỷ 19 lại phải dùng ngòi bút để miêu tả mọi thứ…   - Nhưng không phải vì thế mà cho phép nó bỏ qua một nửa số trang!   …   Thôi, đừng tranh luận làm gì cho mệt óc, thằng bé lại lăn ra ngủ rồi.   ... Mời các bạn đón đọc Như Một Cuốn Tiểu Thuyếtcủa tác giả Daniel Pennac.
Những Kẻ Văn Minh
Những kẻ văn minh đạt giải thưởng Goncourt vào năm 1905, nhưng công chúng cũng như độc giả có học thức không biết gì về tác giả Claude Farrere và cuốn tiểu thuyết. "Những kẻ văn minh", đó là thực dân, những người phải mang cái gánh nặng của người da trắng mà Kipling ca tụng: Văn minh, ít nhất là của họ. Vì khí hậu của Sài Gòn và Hà Nội, vì thuốc phiện, những nhân vật chính của cuốn sách phải đối mặt với một sự từ bỏ bi quan, thậm chí còn hoài nghi, những giá trị truyền thống: đạo đức, pháp luật. Cuốn tiểu thuyết này khi mới ra đời đã rất gây tranh cãi. Đây cũng là một giải Goncourt kì lạ vì tiểu thuyết này có hình ảnh của loại sách làm người ta hư hỏng, của loại tiểu thuyết hủy hoại sự trong trắng. *** Claude Farrère, bút danh của Frédéric - Charles Bargone (1876 - 1957), là một tiểu thuyết gia người Pháp với những tác phẩm có bối cảnh ngoài nước Pháp như Istanbul, Sài Gòn và Nagasaki.   Một trong những tác phẩm của ông là Những kẻ văn minh (Les civilisés) đã đoạt giải Goncourt năm 1905. Ngày 26 tháng 3 năm 1935, ông được bầu vào Viện Hàn Lâm Pháp.   Ban đầu giống như cha mình, một đại tá bộ binh từng hoạt động tại các thuộc địa của Pháp, ông gia nhập học viện hải quân năm 1894, thăng chức trung úy vào năm 1906 và đại úy năm 1918. Vào năm 1919, ông từ chức để tập trung vào nghiệp viết văn.   Các tác phẩm của ông phần lớn không được chú ý, kể cả với độc giả Pháp. Tuy nhiên ông vẫn là một trong những tác giả lớn của nền văn học Đông Dương tại Pháp cùng với các tên tuổi như Malraux, Duras, Dorgelès, Viollis..  *** Trong khoảnh sân trồng những cây phượng lớn rùm ròa tỏa bóng, quãng giữa ngôi nhà và cổng của chấn song, hai anh phu Bắc Kỳ đưa xe ra, một chiếc xe kéo rất lịch sự, sơn then và ánh bạc. Họ xếp hàng dọc giữa hai càng xe đứng đợi ông chủ, lặng phắc như hai bức tượng quấn lụa. Xe và người làm thành một cỗ nom đỏm dáng, đẹp như tranh vẽ là đằng khác giữa Sài Gòn, nơi chỉ dân thường mới còn đi xe kéo. Nhưng bác sĩ Raymond Mévil vốn tính khá độc đáo, vả chăng anh ta có một chiếc xe ngựa mui trần và nhiều ngựa chạy hay. Thế nên mọi người bỏ qua cho anh ta cái thói ngông đi xe kéo và vi phạm mốt thời thượng – một cách xa hoa.   Lúc ấy bốn giờ chiều, giờ tỉnh giấc ngủ trưa. Bác sĩ không tiếp khách muộn hơn giờ này – cách thức kín đáo, ở cái xứ mà đường phố vắng vẻ cho đến lúc mặt trời lặn. Hôm ấy Raymond Mévil đi ra sớm, không phải cho cuộc đi dạo thường lệ trước bữa ăn tối, mà cho một vài thăm viếng không hẳn trong nghề nghiệp mà vả chăng anh ta cũng làm khá thưa thớt, vì chiến thuật của anh ta là ít khi xuất hiện.   Một cô “người ở”[1] búi tóc trơn mở cửa, ném vài câu bông đùa với hai anh phu xe, bất thình lình đứng lặng phắc, vẻ gái nhà lành: ông chủ vừa xuất hiện. Anh ta bước xuống bậc thềm, bước chân trẻ nhưng đã chậm, đưa ngón tay vuốt bầu vú cô gái qua lần áo lụa đen, và bước lên xe. Chiếc xe nhỏ bắt đầu lao nhanh, đám phu xe chạy vun vút để gió mạnh thổi mát mặt người phương Tây. Ở các cửa sổ, qua những khe cánh cửa chớp, những ánh mắt phụ nữ ngắm nhìn các bộ chế phục phu xe trắng toát viền vải điều, ngắm nhìn vẻ duyên dáng của vị khách, nom còn quyến rũ hơn cả cái vẻ xa hoa bao bọc anh ta. Bác sĩ Mévil được phụ nữ yêu, trước hết vì anh ta yêu thích phụ nữ, và chỉ yêu thích họ, thứ đến vì anh ta đẹp, một vẻ đẹp khiến tất cả họ đều bối rối, một vẻ đẹp khêu gợi ẻo lả tới mức sỗ sàng. Anh ta trắng trẻo, tóc màu hung, với cặp mắt xanh biếc quá dài, và cái miệng bé đỏ mọng. Mặc dù đã ngoài ba mươi, anh có vẻ thanh niên, và dáng người béo tốt như người ta hình dung anh. Bộ râu mép dài màu sáng, nom anh như một người Gaulois suy tàn, mà các thế kỷ đã làm cho tinh tế và thuần thục.   Cái giống nhau chỉ là tình cờ, Mévil khoe mình là dân khá văn minh mà mọi thứ máu của mọi thứ nguồn gốc đều trộn lẫn vào nhau trong huyết quản.   Chiếc xe tay chạy lon ton giữa các bóng cây ven đường, né tránh mặt trời xiên khoai vẫn hừng hực. Người chủ dùng đầu ba toong chỉ đường cho phu xe. Để dừng lại, anh ta thúc gậy vào vai họ, bảo: “Thôi!”. Xe đi vào một khu vườn có biệt thự. Dọc hàng rào, nhiều chiếc xe đang đợi, với những người phu giữ ngựa An Nam thấp tè nắm chặt hàm thiếc ngựa.   - À, ừ, Mévil nghĩ, hôm nay là ngày con bé tiếp khách, thế mà mình không nhớ ra.   Anh ta ngần ngừ giây lát rồi nhún vai, tìm trong túi chiếc ví đựng danh thiếp soát lại trong ấy – có mấy tờ bạc Đông Dương. Tiếp đó, Raymond Mévil quẳng chiếc ba toong cho một anh bồi vừa chạy ra, và đi vào nhà.   Ngôi nhà cũ kỹ rộng thênh, có dáng trăm phần trăm thuộc địa.   Hai phòng đợi dẫn tới chiếc phòng khách được xếp dồn ở cái chái tốt nhất, kéo dài bằng cả một hàng hiên rủ những bức mành mành tranh tối tranh sáng. Mọi cái đều to lớn thênh thang, cao như nhà thờ; các bức vách ngăn không chạm được tới trần, hơi nóng quẩn dưới rầm. Phía bên dưới không khí mát mẻ, các đồ đạc đều bằng gỗ mun chạm xà cừ, phảng phất tỏa một mùi bản xứ.   Trong tiền sảnh, Raymond Mévil vấp phải một người nào đi ra, một nhân vật trịnh trọng mặt mày nhẵn nhụi, da màu vàng chanh, cử chỉ nặng nề - ông chủ nhà này, Ariette, trạng sư ở Tòa Án. Hai người bắt tay nhau rất thân mật; gương mặt buồn tẻ của ông trạng sư thậm chí còn vặn vẹo thành một nụ cười niềm nở chắc hẳn không thường dùng để chào đón tất cả mọi vị khách.   - Nhà tôi có nhà, ông nói, và rất cảm ơn ông có nhã ý đến thăm. Đã khá lâu rồi tôi không có hân hạnh gặp ông tại nhà này.   - Xin ông bạn thân mến tin rằng chỉ là do tính tôi lười biếng, và ngôi nhà của ông đối với tôi là thân thiết nhất ở Sài Gòn.   Viên trạng sư tỏ ý hân hoan, dường như có vẻ cất được mối lo lắng.   - Tạm biệt ông nhé, ông bác sĩ. Ông biết là Tòa án đang gọi tôi, như mọi khi.   - Vụ kiện thú vị chứ?   - Ly dị thôi, dĩ nhiên. Chúng ta sống một thời điểm hết sức tồi tệ.   Ông ta bỏ đi, cặp ôm trong tay, bước chân khô khốc như người máy, dáng vẻ khắc khổ và nghiêm nghị. Raymond Mévil quay nhìn sau lưng ông ta, nhăn mặt cười mỉm.   Trong phòng khách, tám hoặc mười người phụ nữ đang ba hoa trò chuyện, vẻ vừa diêm dúa vừa chểnh mảng trong những chiếc áo dài kiểu Sài Gòn nom như những áo choàng sang trọng. Từ ngưỡng cửa, Mévil nhìn nhanh tất cả khắp lượt, rồi ung dung bước vào giữa đám để chào trước hết bà chủ nhà, một bà tóc nâu duyên dáng mắt trinh khiết, bà ta chìa tay cho anh ta hôn.   - Xin chào vị Đại học Y. Ngọn gió lành nào đưa ông đến đây vậy?   - Hôm nay, - người thầy thuốc đáp, - đơn giản là Đại học Y tới tỏ lòng kính trọng dưới chân đoàn Luật sư.   Anh ta cúi mình trước từng bà khách, nói những lời tình tứ bạo phổi, rồi ngồi xuống. Anh là trung tâm mọi ánh mắt nhìn. Đám phụ nữ tỏ ra ưa thích anh, và cái danh tiếng Don Juan[2] của anh thế là được xác lập.   Anh không hề bối rối và gẫu chuyện. Anh không thiếu dí dỏm và biết cách chứng tỏ là người được phụ nữ ưa thích. Vốn bản tính phù phiếm, anh chú tâm để tỏ ra càng phù phiếm hơn nữa, và sử dụng cái thói phù phiếm ấy như một vũ khí trong các trò quyến rũ tình ái; người ta thông cảm với anh về thói lông bông hám gái và dễ dàng thổ lộ tâm tình với anh mà không hề đắn đo tự ái.   - À này, bà Ariette chợt nói, tôi đang định cho người sang mời ông đấy, ông thầy lang ạ.   - Bà ốm hả? ... Mời các bạn đón đọc Những Kẻ Văn Minh của tác giả Claude Farrère.