Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mạt Lộ

Đó là lần đầu tiên tôi rời thành phố vào chiến khu. Trước năm 1975 ở  Nam Việt Nam chuyện ấy chẳng có gì lạ, vì hàng ngàn phụ nữ trẻ như tôi cũng từng làm như vậy. Họ đã chiến đấu, đã bị thương, đã chết, đã bị bắt làm tù binh hay đã chiến thắng trở về trong chiến dịch Hồ Chí Minh như trường hợp của tôi. Vì thế câu chuyện của tôi sẽ không có gì đáng nói nếu lúc ở chiến khu tôi không gặp ông già ấy. Ông không phải là một người bình thường. Ông là một nhân vật đầy quyền lực của "R". "R", một cái tên huyền thoại, một thánh địa cách mạng, vừa là nỗi ám ảnh vừa là món nợ của nước Mỹ. Nhưng "R" là gì? Có thể nó được viết tắt từ chữ "Rừng". Nhưng khu rừng mà tôi đến cũng không có gì ghế gớm, không có gì bí ẩn. Nó chỉ là một vùng cây cối rậm rạp, bằng phẳng, hoang sơ và thầm lặng. Nhưng ở đó có một căn nhà đặc biệt. Đó là căn nhà của ông già ấy. Tuy nó cũng đơn sơ như những căn nhà khác nhưng nó vừa là Tử cấm thành vừa là Hậu cung của ông ta. Nó nằm giữa một khu vực cực kỳ bí mật và vô cùng quan trọng mà người ta quen gọi là Trung Ương Cục Miền Nam, tức "R". Và người đàn ông năm mươi tuổi ấy, tuy không là hoàng đế nhưng quyền lực của ông bao trùm thiên hạ. Người ta quen gọi ông là "vương gia". Việc tôi lọt vào hậu cung của ông không phải là vận may mà là một tai họa. Về sau này nó đã dồn tôi vào những bi kịch liên tiếp mà tôi không biết phải chống đỡ như thế nào. Ít ai được thấy mặt vương gia. Ông như cái bóng chập chờn sau tấm vách nylon mờ đục. Rừng thì đen kịt, ngửa bàn tay không thấy, nhưng trong căn lều của ông, ngọn đèn dầu vẫn in rõ cái bóng lên vách. Ông đi lại. Ông nghe đài. Ông đọc báo cáo. Ông uống trà. Và ông chờ tôi. Lúc ấy tôi đang ở mé rừng. Trời mới chạng vạng. Giao liên bàn giao tôi cho "người dẫn đường". Đó là một người đàn ông lạnh lùng. Một chiếc quần kaki sờn rách. Áo bà ba đen và một cái khăn rằn quấn quanh cổ. Khẩu AK mang sau lưng, mũi súng chĩa xuống đất. Anh ta ngồi đợi trên doi đất nhỏ cạnh mé nước. - Chào đồng chí, tôi nói. Nhưng anh ta làm thinh, ra hiệu cho tôi đi theo. Hai người băng qua những vườn xoài thấp. Trong bóng tối, lối mòn châu thổ vẫn ánh lên một màu trắng đục vì thế chúng tôi đi khá nhanh. Tới một cái chốt kiểm soát, người dẫn đường nói mật khẩu rồi đi qua cây cầu khỉ. Thấy người đàn ông lầm lì quá, tôi bắt chuyện: - Đồng chí là người ở đây? - Không. Tôi là bắc kỳ. - Bộ đội? - Không phải bộ đội. Bắc kỳ di cư. Câu trả lời lạ quá làm tôi không dám hỏi nữa. Đột nhiên có tiếng động cơ rất lớn từ sông cái tràn vô. Người dẫn đường ra hiệu dừng lại, nghe ngóng. Tiếp theo là tiếng loa phóng thanh vang trên mặt sông: - Hỡi các cán binh cộng sản. Các anh đã bị bao vây. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa sắp tấn công càn quét khu căn cứ này. Hãy ra hàng, nếu không các anh sẽ bị tiêu diệt. Lập tức trực thăng quần đảo ngay trên đầu. Người dẫn đường nắm tay tôi chạy nhanh đến một chốt vũ trang. - Cho cô này xuống HBM. Tổ trưởng vũ trang nói: - Còn một cái cuối cùng. Hai đồng chí xuống đi. Anh ta đỡ tôi xuống rồi nhảy theo. Kéo nắp hầm đậy lại. Hơi đất ẩm và bóng tối làm tôi ngộp thở. Người dẫn đường nói: - Bây giờ không phải lúc ngại ngùng đâu. Đừng đứng sát vách đất. Hãy nép vào tôi đi. Sẽ thấy dễ thở hơn. Đó là kinh nghiệm chiến trường. Bao giờ một nam một nữ ở chung hầm bí mật cũng có nhiều hy vọng sống sót hơn là hai người đồng giới tính. Quả nhiên hơi ấm của tấm lưng người đàn ông làm tôi thấy dễ chịu hơn. Trên mặt đất súng nổ lẻ tẻ. Chỉ một lúc sau đại liên từ trên trực thăng bắn xuống áp đảo. Cành xoài gãy răng rắc. Tiếng chân chạy nặng nề ngang qua miệng hầm. Cũng may, căn cứ này đóng trên một địa hình sông nước nên xe tăng không vào được. Có tiếng chân nhiều người khuấy động mặt đất bên trên. Người dẫn đường rút chốt lựu đạn cầm ngay trước ngực. Anh nói nhỏ vào tai tôi: - Nếu tụi nó "xăm" trúng miệng hầm thì tôi sẽ bung nắp hầm lên, ném lựu đạn và dzọt lẹ ra bờ sông nhé. Cô biết bơi không? Nhưng những bàn chân mang giày "xô" đã đi xa dần. Một đợt trực thăng nữa đảo tới. Đạn M60 lại trút xuống như sấm sét. Nắp hầm rung chuyển. Tôi co rúm lại. Không biết trận càn kéo dài bao lâu vì sự gầm thét của bom đạn đã làm lu mờ mọi khả năng phán đoán. Khi chiến trường im tiếng súng, người dẫn đường hé nắp hầm nhìn lên thì thấy trời đã sáng. Chúng tôi lại lên đường. Người đàn ông lấy lương khô đưa cho tôi. Lúc hai người đối mặt nhau tôi ngạc nhiên khi nhận ra một chàng trai đẹp đẽ, nho nhã. Tôi hỏi: - Anh tên gì? - Trần Vũ. - Sao buồn quá vậy? - Không sao. Lại cắt rừng mà đi. Rừng sáng. Thưa thớt. ° Sau bữa cơm chiều, nhà văn Đức Hải đến gặp tôi: - Sao? Ở luôn đây được không? - Mọi người ở được thì em ở được. - Vậy mà có người muốn chiêu hồi đấy. Cô phải cẩn thận chớ nên tiếp xúc nhiều. - Ai vậy? Ông nhà văn liếc nhìn về phía Trần Vũ lúc đó đang nằm trên võng hút thuốc lá. Tôi nói: - Đồng chí ấy có vẻ bí ẩn. Đức Hải cười khô một tiếng rồi quay lưng đi. Mười Thảo tiến lại chỗ tôi. - Em cho chị cây đèn dầu. Ở trong rừng phải có 3 chữ Đ. Đó là Đèn, Đài và Đùng. - Đùng là gì? - Là súng. Rồi chị cũng sẽ có một khẩu. Tôi hỏi: - Anh Trần Vũ là nhà văn hả? - Ảnh là trung úy ngụy đấy. Tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt nhưng ghét Mỹ ngụy nên bỏ vô đây. Ban đầu ảnh viết văn, viết báo hăng lắm. Rất phong độ. - Sao thấy ảnh buồn? - Người ta không tin ảnh. Bị theo dõi. Bị ông Đức Hải bắt khai lý lịch hoài. - Tại sao? - Không biết. Ảnh nói với em là lúc đầu ảnh rất tự hào về sự chọn lựa. Bây giờ thì tấn thoái lưỡng nan. Em thấy ảnh như bị thất chí, bị trầm cảm. Em nghĩ tại sao người ta lại đối xử với ảnh như vậy? Người bình thường theo cách mạng thì "tốt" có một lần. Người bên kia chiến tuyến mà theo cách mạng thì phải "tốt đến hai lần". Chị có đồng ý với em không? - Chị chưa hiểu nhiều về ảnh. ° Đèn trong căn nhà lợp lá trung quân ấy được thắp sáng đầu tiên. Vương gia đang ngồi uống trà. Hình như trên tay có cầm một cuốn sách. Theo lịch làm việc, tối nay tám giờ tôi phải đi gặp ông. Tôi nghĩ nếu mình bước vô căn phòng ấy thì mình cũng sẽ là một cái bóng. Những người đứng bên ngoài cũng sẽ nhìn thấy bóng tôi in trên bức vách làm bằng tấm nylon xám đục. Tuy nhiên khi tôi bước vô thì ngọn đèn dầu đã được dịch ra sát của sổ, vì thế ở ngoài nhìn vào chỉ thấy có vùng sáng của ngọn đèn. Vương gia ngồi trên cái ghế tre, ra hiệu cho tôi ngồi đối diện. Ông hỏi tôi về công tác thanh niên ở đô thị, và đặc biệt chú ý đến những cán bộ Đoàn đang hoạt động dưới danh nghĩa Phật giáo. Tuyệt nhiên ông không đả động gì đến chồng tôi hiện bị tù Côn Đảo. Ông chỉ nói: - Rất tiếc là cháu đã bị lộ. Chú đã bố trí một đồng chí khác về thay chỗ của cháu. Cháu sẽ đảm nhiệm công tác khác, quan trọng hơn. Còn bây giờ đã đến đây thì mọi việc có chú lo. Chú coi cháu như con nuôi vậy. Ông đứng lên, đưa tay ra. Tôi bắt tay ông. Ông vuốt tóc tôi bằng những ngón tay dịu dàng. Tôi không dám cưỡng lại. Tôi để yên một lúc rồi bước ra ngoài đêm. Lúc ấy ngoài mé rừng nhà văn Đức Hải xách đèn pin đi rảo một vòng khu lán trại. Bao giờ ông ta cũng dừng lại chỗ gốc cây bằng lăng cách võng của Trần Vũ chừng bốn mét. Và lắng nghe. Mọi tối, giờ này, Trần Vũ thường nghe đài BBC nhưng bữa nay hắn nghe cái đài quái gì lạ hoắc. Đức Hải nhích tới mấy bước, cũng không nghe được, bèn tới sát võng. - Ông nghe cái gì vậy? *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. Mời các bạn đón đọc Mạt Lộ của tác giả Đào Hiếu.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trò Chuyện Trong Quán La Catedral
Trò chuyện trong quán La Catedral là một cuốn tiểu thuyết đặc biệt, chỉ bằng những câu đối thoại, những tình tiết đan xen như phong cảnh qua cửa sổ trên chuyến tàu lao vùn vụt, lịch sử đất nước Peru trong một thời kỳ nhiễu nhương hiện ra với tầm vóc đồ sộ và những chi tiết rung động tâm can. Santiago Zavalita, con trai của một kỹ nghệ gia giàu sang, đã từ bỏ tất cả cơ hội tiến thân để làm cho một tờ báo nhỏ, sau khi cảm thấy không cuộc sống nào thực sự dành cho mình – một luật sư thành đạt theo mong ước của gia đình, hay một thành viên nhiệt thành của Đảng cộng sản theo những người bạn cùng trường đại học. Một ngày, trong khi đi tìm con chó bị lạc, anh tình cờ gặp lại Ambrosio, người tài xế trung thành đã phục vụ cha của anh trong nhiều năm, giờ tay trắng, sống vất vưởng ở một góc thành phố Lima. Bên những chai bia trong quán rượu La Catedral, họ trôi theo dòng quá khứ của cả hai. Từ cuộc trò chuyện đó, không gian mở rộng cho những giọng nói của người sống và người chết thi nhau kể lại số phận nhỏ nhoi và những nỗi khổ đau ngỡ đã tan biến trong dòng thác lịch sử. Cuốn tiểu thuyết chứa đựng hàng loạt nhân vật đại diện cho các loại người, các tầng lớp trong xã hội Peru dưới thời tên độc tài Odría. Don Fermín, cha của Santiago, một kỹ nghệ gia có nhiều dính líu mờ ám đến chính quyền; Cayo Bermudez, giám đốc An ninh của chính quyền Odría, một kẻ đê tiện; bọn tay sai của Bermudez phục vụ cho những thủ đoạn chính trị dơ bẩn; Hortensia – người tình của Bermudez, đã bị giết vì nắm được bí mật của Don Fermín; Amalia, hầu gái của gia đình Santiago và sau đó là Hortensia, vợ của Ambrosio; Queta, gái điếm và người tình đồng giới của Hortensia... Mỗi người đều dường như không thể thoát ra khỏi tiến trình tha hóa và sụp đổ, tiêu biểu là Ambrosio, vừa là nạn nhân vừa là tội phạm, xuất thân là kẻ cùng đinh và cuối cùng mất tất cả. Ngay chính Santiago, một thanh niên thông minh, trong sáng và đầy nhiệt tâm, cuối cùng cũng vỡ mộng, chán nản kéo lê cuộc sống tẻ nhạt của một phóng viên vô danh, “không là luật sư và cũng chẳng là hội viên của Club Nacional, không là kẻ vô sản cũng chẳng là tay tư sản”. Dù không chịu trở về với gia đình để trở thành trưởng giả, anh đã đủ trưởng thành để thôi huyễn tưởng về những thứ đã chi phối cả tuổi trẻ mình: “Còn nếu mày gia nhập hôm ấy thì sao, Zavalita? hắn nghĩ. Phải chăng nhiệt tình tranh đấu sẽ lôi mày theo, càng lúc càng dấn sâu vào hơn, mày có sẽ trở thành một kẻ có niềm tin, một kẻ lạc quan, một kẻ trong trắng khác, bí hiểm và anh hùng?... Thay vì những bài xã luận chống chó dại trên La Crónica, mày sẽ viết cho những trang in nghèo nàn của Unidad… Mày sẽ tệ hại hơn hay cũng thế hay hạnh phúc hơn? Hắn nghĩ: ồ, Zavalita”. Đào sâu đến tận gốc rễ những mảng hiện thực ngổn ngang nhiều tầng lớp của Peru, Trò chuyện trong quán La Catedral như một cuốn biên niên ký vừa hiện thực vừa mang tính huyền thoại, khiến người đọc kinh ngạc vì sức mạnh và sức cuốn hút của nó. Toàn bộ tiểu thuyết là một dòng thác ngôn ngữ, không có một đoạn nào tách ra khỏi khung cảnh để suy tưởng độc lập. Từng chữ, từng chi tiết đều gắn với tâm trạng cụ thể hoặc mạch đối thoại của nhân vật. Những đoạn đối thoại cách xa về không gian và thời gian, được lồng vào nhau một cách tưởng như ngẫu nhiên, nhưng rất công phu – giống như những gì người ta nghe thấy trong một quán rượu ồn ào, mỗi lúc một câu, nhưng vẫn tìm được sự liên hệ. Ngôi nhân xưng thay đổi từ gián tiếp sang trực tiêp, từ đối thoại sang độc thoại, liên hệ với nhau bằng một logic ngầm xây dựng dựa trên các mối quan hệ, tính cách và hoàn cảnh của nhân vật. Những hình ảnh trái ngược gắn liền nhau một cách nhức nhối: lòng nhân hậu bên cạnh sự giả trá, tâm hồn đa cảm nằm trong sự thô lỗ, lòng vị tha đi đôi với tính ích kỷ… Ở đó, ranh giới thiện - ác bị xóa nhòa trước sự bất định của số phận, không cá nhân nào có quyền phán xét, không ai có quyền cho rằng mình nắm chân lý. Khổ đau của một xã hội – cũng là khổ đau của nhân loại – ngay cả cuộc đối thoại bất tận giữa nhiều thế hệ cũng không bao giờ đủ để nói hết về những con đường sai lầm mà người ta đã và đang đi… *** Mario Vargas Llosa (sinh 1936), người Peru, là một trong những nhà văn hàng đầu của Mỹ la tinh và thế giới. Tác phẩm nổi bật của ông gồm có La casa verde (1966), Conversación en la Catedral (1969), La tía Julia y el escribidor (Dì Julia và nhà văn quèn, 1977, đã dịch ra tiếng Việt), La guerra del fin del mundo (1981), La fiesta del chivo(2000), v.v. Ngoài tiểu thuyết, ông còn viết tiểu luận, phê bình, báo chí. Vargas Llosa được Viện hàn lâm Thụy Điển quyết định trao giải Nobel Văn chương năm 2010 *** Từ ngưỡng của tòa báo La Crónica, Santiago dửng dưng nhìn Avenida Tacna: những chiếc xe hơi, các tòa nhà cao thấp không đều và bợt màu, các khung bích chương lòe loẹt lơ lửng trong sương mù, buổi trưa xám xịt. Peru đã trở nên khốn khổ khốn nạn vào đúng khi nào? Bọn trẻ bán báo len lỏi ra vào giữa đám xe có dùng chờ đèn xanh trên đường Wilson, rao bán mấy tờ báo ra buổi chiều và hắn bắt đầu bước chậm rãi về phía Colmena. Hai tay xỏ trong túi, đầu cúi, hắn đi giữa những người cũng đi về hướng Plaza San Martin. Hắn cũng như Peru, Zavalita, hắn đã làm khốn khổ khốn nạn đời mình vào lúc nào chẳng rõ. Đối diện Khách sạn Crillón, một con chó tới liếm chân hắn: Đừng lây bệnh dại của mày cho tao, cút đi. Cả nước Peru khốn nạn, Carlicos cũng khốn nạn.mọi người đều khốn khổ khốn nạn. Hắn nghĩ: Vô phương cứu chữa. Hắn nhìn thấy một hàng dài ở bến tắc xi đi Miraflores, hắn băng qua quảng trường, và Norwin kìa, chào anh, ở một bản trong cha Bar, mời anh ngồi, Zavalita, anh ta đang vuốt ve một ly chilcano, giày của anh đang được đánh bóng, ' anh mời hẳn một ly. Anh chưa có vẻ say, Santiago ngồi xuống, bảo người đánh giày đánh bóng giày của hắn luôn. Dạ, thưa sếp, có ngay, thưa sếp, sẽ bóng như gương, thưa sếp.   “Lâu lắm rồi chẳng ai gặp anh, Ông Xã Luận,” Norwin nói. “Anh thích trang xã luận hơn cột tin địa phương hả?” “Ít việc hơn." Hắn nhún vai, có thể bữa đó lúc ông biên tập gọi hắn vào, hắn gọi một chai Crisral lạnht hắn có muốn thế chỗ của Orgambide không, Zavalita? Hắn nghĩ: đó là lúc mình làm khốn nạn đời mình. "Tôi tới sớm, họ đưa tôi đề tài, tôi bịt mũi ráng nhịn, rồi trong hai ba tiếng là xong hết, tôi tháo xiềng, thế thôi.”   “Cho hết cả tiền trên thế gian tôi cũng không viết xã luận,” Norwin nói. “Xã luận quá xa rời tin tức, mà nghề báo là tin tức, Zavalita, tin tôi đi. Tôi sẽ chấm dứt đời mình ở Cột tin cảnh sát, thế thôi. Ả này. Carlitos chết chưa?”   “Anh ra vẫn nằm bệnh viện, nhưng họ sẽ cho anh ta ra sớm," Santiago nói. “Anh ta thể lần này bỏ rượu. “   “Có đúng là một đêm kia lúc đi ngủ anh ta thấy gián và nhện không?" Norwin hỏi.   “Anh ta lật tấm trải giường lên, hàng ngàn con nhện lông và chuột nhào tới anh ta,” Santiago nói. “Anh ta trần truồng chạy ra đường la hét.” ... Mời các bạn đón đọc Trò Chuyện Trong Quán La Catedral của tác giả Vargas Llosa Mario.
Hãy Để Ngày Ấy Lụi Tàn - Gerald Gordon
“Hãy để ngày ấy lụi tàn”, tựa tiếng Anh Let the day perish của Gerald Gordon được ra đời năm 1952. Tác phẩm là sự lên án gay gắt cái thiên kiến màu da phi nhân tính tại Nam Phi đã đưa đẩy con người đến bên bờ vực thẳm. Gerald Gordon khơi gợi niềm thương cảm sâu sắc của mỗi người đọc dành cho những nạn nhân của chế độ Apartheid. Không đánh đập, không ngược đãi nhưng “Hãy để ngày ấy lụi tàn” là một loạt những khinh miệt rẻ rúng, sự hắt hủi xem thường của giới quý tộc đối với người da màu. Đến với một trong những thời kì đen tối nhất trong lịch sử loài người, “Hãy để ngày ấy lụi tàn” có sức chinh phục trái tim người đọc bởi hình ảnh cao đẹp, đầy tấm lòng vị tha của Steve luôn dõi theo bước anh trai Antoine, dù rằng anh đã quay lưng lại với dân tộc mình. Dưới ngòi bút của tác giả, tâm hồn và trái tim luôn hướng về cội nguồn của Steve – người em da màu dám hiên ngang ngẩng cao đầu đấu tranh, cất lên tiếng lòng của dân tộc mình – toả sáng hơn bao giờ hết… Có cay đắng, ngậm ngùi; có xót thương, day dứt, “Hãy để ngày ấy lụi tàn” đã khắc hoạ nỗi đau trong cuộc sống và bi kịch tình yêu mà hàng ngàn số phận bất hạnh đã nếm chịu trong xã hội oan nghiệt thời bấy giờ. Người phụ nữ da màu xinh đẹp nhưng khốn khổ Merry đem lòng yêu anh lính người Anh Geogio. Kết quả của cuộc hôn nhân không được ủng hộ này là 2 người con trai – Antoine, cậu bé da trắng khoẻ mạnh, và người em trai da đen của cậu bị xã hội lúc bấy giờ ruồng rẫy – Steve – lần lượt chào đời. Số phận trớ trêu đã buộc Steve không được học cùng trường với anh trai Antoine, bởi xã hội không chấp nhận em, bởi lẽ em là người da màu. Cái thiên kiến màu da độc địa kia đã chia rẽ gia đình họ, làm Merry quyết định đưa Steve theo mình rời xa Antoine. Hơn ai hết, cô biết rằng mình không thể mạo hiểm về tương lai của Antoine, đứa con da trắng đáng được hưởng những thứ tốt đẹp chứ không phải sự hắt hủi mà chính cô, chính màu da của cô đã mang lại cho cả gia đình. Con Steve ư, đứa con trai bất hạnh phải sống cuộc đời cay đắng như của cô ư? Không, cô không thể để cho Steve cản trở tương lai của Antoine. Antoine con cô. Antoine da trắng… Những đẩy đưa của cuộc sống khiến Antoine xa lánh mẹ và em, bỏ lại phía sau gốc gác đáng hổ thẹn của mình. Mỗi khi nghĩ về nó, anh luôn tìm cách chạy trốn chính con người của anh. Thế nhưng, như một trò đùa của số phận, anh gặp lại người con gái anh yêu Ren – đứa con của những người da trắng. Tình yêu với Ren ngày càng sâu đậm khiến Antoine không thôi nghĩ về nguồn gốc của mình. Định kiến da màu ngày nào quay trở lại trong anh, gặm nhấm, day dứt tâm hồn anh. Anh yêu Ren, họ sẽ lấy nhau ư? Liệu đứa con đầu lòng của anh sẽ may mắn giống bố mẹ nó, hay sẽ giống như Steve em trai anh? Bí mật đắng lòng về con người thực sự của anh sẽ vẫn mãi nằm trong bóng tối nếu không có một ngày… Antoine lỡ tay ngộ sát kẻ thù anh vì muốn che giấu Steve, che giấu thân phận của anh – trong cái đêm mà Steve đến thăm anh. Bên bờ vực thẳm, anh có hai lựa chọn, hoặc là bị kết tội trong thân phận giả dối bấy lâu nay của mình, hoặc chấp nhận em ruột Steve làm chứng cho anh; và “anh sẽ trắng án trong 1 phiên tòa hình sự, nhưng sự kết án của cuộc đời này là điều anh không thể tránh khỏi” Và Ren – người duy nhất anh tin tưởng rằng sẽ ủng hộ anh cho đến hết cuộc đời này cuối cùng cũng chỉ như bao người da trắng khác, cũng mang trong máu thịt mình sự khinh miệt rẻ rúng đối với người da màu, dẫu đó có là người cô yêu mãnh liệt, yêu tha thiết đi chăng nữa. Cuối cùng thì tình yêu chân thực vẫn không thắng nổi cái định kiến nghiệt ngã đã tồn tại từ bao đời nay. Anh, suy cho cùng, cũng chỉ là một đứa con da màu đã quay lưng lại với dân tộc. *** - Cho tôi rượu seri[1], thưa ông. Từ sau quầy bàn, Ôttô Hunđơ quan sát người đàn ông có nước da nâu sẫm vừa bước vào, y ra lệnh, giọng cộc cằn: - Bỏ mũ ra! - Ja[2], thưa ông chủ. - người khách hàng lúng túng bỏ mũ. - Tóc gã này xoăn tít mà. - Hunđơ vừa nói, vừa chỉ những vòng tóc xoăn dựng đứng, đặc trưng, nằm trên đầu người đàn ông đó. - Mày là một tên Caphia[3]. Tao không bán cho mày. Cút đi! Người đàn ông đưa mấy ngón tay vuốt đầu - Không phải thưa ông chủ, tôi là người da màu[4], không phải Caphia đâu. Thưa ông chủ, cho tôi mua một cốc seri. Ánh mắt mang vẻ van nài, người đàn ông đó đặt một đồng nửa silinh[5] lên mặt quầy. Hunđơ đảo mắt quanh quầy rượu. Y gọi to: - Giôn, lại đây! Một thổ dân cao lớn đặt chiếc cốc đang rửa xuống, bước tới chỗ chủ tiệm. Hunđơ trỏ khuôn mặt lo âu bên kia quầy rượu: - Nó là một tên Caphia hay một gã da màu? Giôn chột mắt chằm chằm nhìn người kia một lát. - Thưa ông chủ, một tên Caphia đấy. Chủ của hắn, vóc người to lớn, nét mặt cáu kỉnh, trông hãm tài, có bộ ria oai vệ nhìn trừng trừng một cách tàn nhẫn. - Tao không bán cho mày, xéo mau đi! - Hunđơ chỉ ra cửa. Người đàn ông đó đứng yên, vẻ cau có giận dữ thoáng qua trên mặt anh ta. Hunđơ cúi xuống nắm lấy chiếc roi da nặng trịch để giữa các chai rượu. Y giơ chiếc roi cao quá vai và đập đen đét trên quầy. Người đàn ông đó bước lùi lại, hai tay che mặt, miệng há hốc sợ hãi. - Xéo đi! - Hunđơ thét lên. - Này, cầm lấy tiền của mày, cút đi mau! Mắt vẫn theo dõi chiếc roi da đã lại vung lên, người đàn ông rón rén tiếng về phía trước, chộp lấy đồng tiền của mình và lui ra cửa, đến đây anh ta trừng mắt nhìn Giôn trước khi lén bước ra. Hunđơ ném lại chiếc roi da xuống dưới quầy. - Chắc hẳn chúng lại muốn giở trò! - Y càu nhàu với Giôn khi quay nhìn các khách hàng khác đang ở trong gian hàng dành cho khách không phải người Âu. Rót ra thứ rượu vang Kêp rẻ tiền, y nhăn mũi và quay đầu tránh cái hơi người ấm và ẩm của khách. Những người da màu không quan tâm đến thái độ khinh miệt của “ông chủ Hunđơ” đối với họ. Khi họ đứng đợi, háo hức, mắt thao láo và thèm khát nhìn rượu chảy ồng ộc vào các cốc thì điều quan trọng đối với họ là rượu khách sạn Đại Bàng này không có vị nhạt như pha nước lã. Khi họ đã trả tiền và ra về hết, Hunđơ mệt mỏi lui vào căn phòng của y ở phía sau quầy rượu. Y nói với mụ vợ cao kều, xương xẩu: - Bọn quỷ ấy bốc mùi hôi thối quá! ... Mời các bạn đón đọc Hãy Để Ngày Ấy Lụi Tàn của tác giả Gerald Gordon.
Điều Bí Mật - Julie Garwood
Cuối thế kỷ XXII, khi người Anh và người Scotland được sinh ra để làm kẻ thù của nhau... Cô tiểu thư xinh đẹp đáng yêu Judith Hampton lên kế hoạch rời khỏi ngôi nhà lạnh lẽo, ảm đạm ở nước Anh để dấn thân vào một cuộc hành trình đầy nguy hiểm đến Scotland. Cô quyết tâm thực hiện lời hứa với người bạn thân thiết từ thời thơ ấu, Frances Catherine, là sẽ có mặt vào thời điểm cô bạn sinh đứa con đầu lòng. Nhưng Judith còn mang trong mình một lý do đặc biệt khi đến với vùng đất cao nguyên: cô muốn tìm kiếm người cha lãnh chúa mà mình chưa từng được gặp mặt. Thế nhưng, Judith không hề được chuẩn bị tinh thần khi giáp mặt anh chồng của Frances Catherine, người chiến binh - vị lãnh chúa Scotland tự mình đến đất Anh để hộ tống cô đến với lãnh địa của mình. Lãnh chúa Iain là người đàn ông đẹp trai nhất, lôi cuốn nhất mà Judith từng gặp trong đời. Cuộc phiêu lưu của cô ở vùng đất cao nguyên càng lúc càng ly kỳ hơn với hàng loạt những sự kiện bất ngờ ngoài dự kiến. Đối với Iain, anh chưa từng gặp cô gái nào vừa ngang bướng lại vô cùng quyến rũ như cô gái của mảnh đất thù địch đang làm khách trên lãnh địa của mình. Những cuộc cãi vã, những cơn thịnh nộ chứa đựng đầy đam mê bùng nổ giữa họ ngay từ nụ hôn đầu tiên, rồi dần dần chuyển thành một tình yêu sâu đậm và mãnh liệt đến nỗi anh bắt đầu cảm thấy lo sợ cho tương lai của hai người... vì thân thế của cha Judith là một bí mật khủng khiếp có thể đập tan quan hệ liên minh táo tợn nhất giữa các thị tộc vùng cao nguyên, cũng như tàn phá mối tình đã trở nên son sắt giữa vị lãnh chúa trẻ tuổi và cô gái người Anh đầy cá tính. Bí mật trong "Điều bí mật” là nền tảng cho câu chuyện về tình bạn, tình yêu, tình thân gia đình, tình người trong xã hội với chất lãng mạn cổ tích làm cho tinh thần thư thái, như một luồng gió mới mát lành thổi vào cuộc sống còn đầy những hoài nghi, toan tính. Câu chuyện mang đến cho người đọc niềm tin mãnh liệt vào tình yêu lãng mạn và cái kết có hậu của những câu chuyện cổ tích không bao giờ kết thúc. *** Đôi điều về tác giả: Julie Garwood là một tác giả người Mỹ khá thành công ở thể loại tiểu thuyết lãng mạn với hơn 27 đầu sách, 35 triệu bản in được phát hành trên khắp thế giới. Các tác phẩm của Julie thường xuyên góp mặt trong danh sách best-seller của New York Times. Julie viết cả tiểu thuyết lịch sử - lãng mạn lẫn hiện đại lãng mạn pha trộn sự hồi hộp, gay cấn. Bên cạnh Gentle warrior (Chiến binh nhân từ); A girl named summer (Cô nàng mùa hè); Prince Charming (Hoàng tử trong mơ); các series: Crown's Spies (Những chàng điệp viên hoàng gia); Lairds' Brides (Những nàng dâu quý tộc); Highlands' Lairds (Những quý tộc miền cao nguyên)...The Secret (Điều bí mật) là một trong những tác phẩm xuất sắc của Julie Garwood. *** Sách đã xuất bản và dịch tại Việt nam: Món Quà Tình Yêu Lâu Đài Hạnh Phúc Thiên Thần Hộ Mệnh Danh Dự Huy Hoàng Cô Nàng Sư Tử Rebellious Desire Kẻ Phá Đám Điều Bí Mật Sizzle The Ideal Man Shadow Music *** “Judith, dậy thôi. Đến lúc lên đường rồi.” Iain nhẹ nhàng lay cô tỉnh dậy. Cô mở mắt và thấy chồng mình đang ngồi trên mép giường. Chỉ cần nhìn vào vẻ mặt tối sầm của anh là đầu óc cô ngay lập tức tỉnh táo. Cô ngồi dậy, kéo chăn lại quanh người và nhìn anh chằm chằm. “Lên đường?” Cô thì thào hỏi, cố hiểu ý anh. “Em sẽ lên đường bây giờ ư?” “Phải.” Giọng anh chắc nịch, vẻ mặt kiên quyết không kém. Sao anh lại tỏ ra lạnh lùng như vậy? Judith túm lấy tay anh khi anh đứng dậy. “Sớm thế này ư, Iain?” “Phải”, anh trả lời. “Trong vòng một giờ nữa, nếu được.” Anh gỡ tay cô ra, cúi xuống hôn lên trán cô, rồi đứng dậy và bước về phía cửa. Cô gọi với theo anh. “Em muốn nói lời tạm biệt với Frances Catherine.” “Không có thời gian đâu”, anh bảo cô. “Chỉ xếp một vali thôi. Đem nó ra chuồng ngựa. Anh sẽ gặp em ở đó.” Cửa đóng lại sau lưng chồng cô. Ngay lập tức cô òa lên khóc. Cô biết lúc này trông mình rất đáng thương, nhưng cô chẳng quan tâm, cũng chẳng thể suy nghĩ mạch lạc được nữa. Cô đã nói với Iain rằng mình không muốn ở lại đây. Anh chỉ đơn giản trao cho cô những gì cô muốn. Mẹ kiếp, làm sao anh có thể để cô đi được chứ? Anh không nhận ra cô yêu anh nhiều đến nhường nào sao? Judith làm vệ sinh cá nhân, rồi mặc vào chiếc váy dài màu lam sẫm. Cô chải đầu, xếp đồ vào vali, và cuối cùng khi đã sẵn sàng để lên đường, cô nhìn một lần cuối quanh căn phòng của mình. Chiếc áo choàng đang treo trên mắc ở gần cửa ra vào. Cô không muốn để nó lại, liền gấp tấm áo và nhét vào trong vali. Cô thôi không khóc nữa. Cô cũng thôi không cảm thấy thương hại bản thân mình nữa. Chúa ơi, lúc này cô đang đấu tranh với nỗi tức giận. Một người chồng thực sự yêu vợ sẽ không để cô ấy rời xa mình. Cô cần phải nói với Iain như thế. Anh thực lòng yêu cô. Cô không nghi ngờ chút nào về điều đó. Kể cả chuyện hành động của anh làm cô vô cùng khó hiểu cũng chẳng quan trọng. Cô sẽ chỉ bắt anh giải thích mình đang làm gì… và vì sao. Cô không thể hình dung ra cuộc sống không có anh. Judith chạy qua ngưỡng cửa và lao xuống cầu thang, chiếc vali giữ chặt trong tay. Graham đang đứng trên cửa ra vào, tay giữ cánh cửa. Judith có thể thấy đám đông rất lớn đang tập trung ở bên kia sân. Cô cố bước qua ông già mà không liếc nhìn ông. Ông chạm vào vai cô để làm cô chú ý. Cô dừng lại, nhưng bướng bỉnh giữ nguyên ánh mắt nhìn xuống. “Sao cô không nhìn tôi, cô gái?” Graham hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Điều Bí Mật của tác giả Julie Garwood.
Ba... Ngàn Lẻ Một Đêm - Mạc Can
Là những truyện ngắn liên hoàn về chuyện ngàn lẻ một đêm được viết theo lối hiện đại qua giọng kể của Bác Ba Phi Mạc Can. Những câu chuyện trong cung đình, trong đời sống được các cận thần của vua chuyển thành những câu chuyện hài, chuyện phiếm đầy dí dỏm và rất nhân văn. Những nhân vật nhà vua, nàng Xêrênát, quan Ngự Y, quan Thừa Tướng được đặc tả với một giọng điệu rất Ba Phi. *** Mạc Can tên thật là Lê Trung Can, sinh năm 1945, trong một gia đình nghèo, lại đông anh em. Các anh em ông mỗi người mỗi cảnh, vất vả mưu sinh bằng trăm thứ nghề và người nào cũng nghèo rớt. Ông là một nghệ sỹ, nhà văn Việt Nam. Ông nổi tiếng là một nghệ sỹ đa tài, tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động nghệ thuật như đóng hài, đóng phim, biểu diễn ảo thuật và viết văn. Tháng 3/2011, “nhà văn trẻ” Mạc Can trở về Sài Gòn sau gần 2 năm sống ở Mỹ để lấy cảm hứng viết cuốn sách dạng hồi ký mang tên Nhớ (NXB Trẻ và Tủ sách Tuổi trẻ ấn hành). Có thông tin cho biết, khoảng đầu năm 1980, có một đoàn làm phim của Nhật đến Sài Gòn ghi hình. Mạc Can được mời vào vai người đi chợ để giới thiệu các sản vật Việt Nam. Khởi đầu sự nghiệp viết văn ở tuổi 60 bằng tiểu thuyết “Tấm ván phóng dao”, cứ ngỡ Mạc Can chỉ ghé qua khu vườn văn chương thoáng chốc rồi đi. Thế nhưng 9 năm qua, ông đã lần lượt cho ra đời nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tản văn được bạn đọc yêu thích. Ông được giải của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2005, ông cũng được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn TP.HCM. *** Tác phẩm tiêu biểu: Truyện, tập truyện: Món nợ kịch trường (1999) Tờ 100 đôla âm phủ (2004) Cuộc hành lễ buổi sáng (2005) Người nói tiếng bồ câu (2006) Ba…ngàn lẻ một đêm (2010) Nhớ (2011) Mạc Can – Truyện ngắn chọn lọc (2013) Tiểu thuyết: Tấm ván phóng dao (2004) Phóng viên mồ côi (2007) Những bầy mèo vô sinh (2008) Quỷ với bụt và thần chết (2010 Tạp bút: Tạp bút Mạc Can (2006) Mời các bạn đón đọc Ba... Ngàn Lẻ Một Đêm của tác giả Mạc Can.