Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

THƯ

Tegami – Thư là câu chuyện về những lá thư trong tù của phạm nhân cướp của giết người Takeshima Tsuyoshi đến người em trai Takeshima Naoki. Nhưng Naoki lại chẳng mong muốn những lá thư đó gửi đến. Bởi đấy là minh chứng cho quá khứ, cho vết nhớ trong cuộc đời, cho định kiến mà miệng lưỡi thế gian dành cho anh – người nhà của phạm nhân. Cũng như bao cuốn sách khác của Higashino Keigo, tiểu thuyết Tegami – Thư không đặt nặng ở yếu tố trinh thám. Các sự kiện xuất phát từ một vụ án, liên quan đến chất phá án chỉ là chất xúc tác, là tầng đá vỉa bên ngoài để tạo tiền đề cho câu chuyện phát triển. Tầng sâu ý nghĩa của tác phẩm nằm ở tâm lý, suy nghĩ nội tâm của từng nhân vật; là cách tác giả dẫn truyện, làm cho câu chuyện chảy trôi đầy tự nhiên song cũng vô cùng ám ảnh, day dứt. Như hơi thở cuộc sống: lặng lẽ trôi đi đầy vô tình mà khiến cả người trong cuộc lẫn những người xung quanh, ngay chính độc giả, nghĩ mãi chẳng thể dứt ra. Cũng vì câu chuyện nhẹ về yếu tố trinh thám, nặng về yếu tố tâm lý nên có thể nói, Tegami – Thư có một cốt truyện, nội dung hết sức đơn giản: Hai anh em nhà Takeshima mồ hôi cả cha lẫn mẹ. Người anh Tsuyoshi, để thực hiện khát vọng giúp em trai là Naoki vào đại học, đã làm việc cật lực đến nỗi sức khỏe kiệt quệ. Trong cơn tuyệt vọng vì thất nghiệp mà ngày thi đại học của em trai mỗi lúc một đến gần, Tsuyoshi đã gây ra tội ác: Cướp của giết người. Anh ta bị cảnh sát tóm gọn một cách nhanh chóng. Trong thời gian ở tù, Tsuyoshi được phép gửi cho em trai một lá thư vào mỗi tháng. Nhưng, một kẻ ở tù, cách xa với cuộc sống bên ngoài như Tsuyoshi, không biết được rằng sự tồn tại của anh ta, những lá thư mà anh ta gửi đã trở thành gánh nặng, bóng ma quá khứ mỗi lúc một đào sâu thêm sự định kiến mà người đời đối với Naoki, khiến cho Naoki, chẳng thể ngẩng mặt sống một cách chính trực trước cuộc đời.  Với một cốt truyện đơn giản như thế, cũng không đao to búa lớn như nhiều tác phẩm sau này hướng đến những gì quá vĩ mô như luật pháp của một đất nước, vấn đề bảo vệ môi trường hay sự tồn vong của cả nhân loại…; Higashino Keigo đã tạo dựng được một tuyến nhân vật, không quá đông nhưng lại rất người, rất đời và rất thực.  Đó là Takeshima Tsuyoshi, gần như không thấy bóng, không thấy hình nhưng lại luôn hiện hữu qua từng lá thư anh ta gửi. Vẫn nói, Tsuyoshi ở từng lá thư cứ hồn nhiên, vô tư, không nghĩ đến cảm nhận của những người bên ngoài, song, liệu điều đó có thật không? Sự cô đơn của kẻ chỉ biết nhìn thời gian qua đi, sự sám hối ăn mòn một con người hiện tại và mãi mãi về sau, sự ăn năn khi đã gây ra khó khăn cho người em ruột anh ta hằng yêu quý… Tsuyoshi vô tư ư? Hẳn là không phải. Mà anh ta chỉ cố tỏ ra vô tư bởi anh ta hiểu, anh ta không có quyền để thể hiện nỗi cô đơn để từ đó, đòi hỏi Naoki hay gia đình nạn nhân bất cứ điều gì.  Tuy vậy, những lá thư của Tsuyoshi thực sự cần thiết? Về điều này lại chẳng thể cắt nghĩa rõ ràng bởi nếu làm rõ trên khía cạnh nào, cũng đều thấy nó thật nghiệt ngã. Nhưng riêng với Tsuyoshi, viết thư là cần thiết. Bởi đó là cách duy nhất anh ta, một phạm nhân cướp của giết người, đã mất đi quyền công dân còn có thể liên hệ với thế giới bên ngoài, là cách duy nhất anh ta khẳng định được rằng mình vẫn đang sống, đang tồn tại. Đó là Takeshima Naoki, em trai của hung thủ, người đã cố vẫy vùng để vượt thoát khỏi vết nhơ trong quá khứ để làm lại cuộc đời, mà càng vẫy vùng, Naoki như càng chìm sâu thêm vào vũng lầy vô định. Vũng lầy đó có tên là định kiến, là miệng lưỡi thế gian về cái danh người ta gán cho anh “em trai của tội phạm cướp của giết người”. Mà không chỉ Naoki của hiện tại, gia đình anh sau này cũng là nạn nhân của định kiến ấy. Vì thế, Naoki có những hành động hết sức cực đoan, đã từng thử đối mặt với tất cả, những đến cuối cùng, thứ anh nhận về chỉ là trái đắng. Để rồi chính Naoki cũng kì thị bản thân mình. Để anh nhận ra, cuộc đời anh là một bản nhạc buồn đầy tuyệt vọng. Cũng như việc, dù anh có đoạn tuyệt, cũng chẳng thể thay đổi được sự thật Takeshima Naoki là em trai của Takeshima Tsuyoshi. Có thể nói chăng, Naoki, có gì đó thật giống với Ryoji hay Yukiho và rất nhiều nhân vật khác trong sáng tác của Keigo-sensei, dù ở hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, mang số phận này hay số phận kia, tất cả đều như đang lần dần bước đi vào màn “đêm trắng” không lối thoát. Và mỗi chương truyện qua đi, lại xuất hiện những nhân vật, có thể chỉ thoáng qua, cũng có thể đóng vai trò chủ đạo trong chương đấy, dù là vô tình hay hữu ý, đang góp phần mỗi lúc một tô đậm thêm màn “đêm trắng” mà Naoki đang bước. Họ, có tên tuổi, danh tính, nhưng đều như đại diện cho hai chữ “định kiến”, hai tiếng “trừng phạt” cho tội ác mà Tsuyoshi gây ra. Đúng như ông Hirano đã từng nói: “Họ kì thị là lẽ đương nhiên”, “Tội phạm bắt buộc phải nhận thức được chuyện này. Vấn đề không phải cứ vào tù là xong. Họ phải hiểu rằng sự trừng phạt không chỉ nhắm vào mỗi mình họ”. Vì thế, đến cuối cùng, có lẽ chẳng thể trách cứ hay đổ lỗi cho bất cứ ai. Bởi mọi vấn đề, mọi suy nghĩ, mọi hành động của con người xuất hiện trên trang văn của Keigo-sensei đều hợp tình, hợp lý, hợp suy nghĩ mà một người bình thường sẽ nghĩ đến. Không thể yêu, không thể trách, không thể ghét hoàn toàn, chính vậy mà cõi lòng độc giả khi tiếp xúc với tuyến nhân vật trong Tegami – Thư lại càng thêm nặng nề, day dứt. Chẳng phải, con người vốn thích những gì rõ ràng sao? Nhưng bản chất đời sống lại chẳng khi nào rõ ràng, dễ dàng để người ta thấu hiểu, cắt nghĩa đến thế. Và mỗi bóng hình xuất hiện trong Thư, lại lần nữa xoáy sâu vào tâm trí những suy ngẫm, khắc khoải nhân sinh về hai tiếng con người, về hai chữ làm người giữa cuộc đời vốn thiện – ác đan xen như này. Tuy nhiên, giữa sắc màu u ám, trầm uất của Tegami – Thư, vẫn có những cá nhân như Kurata, Shiraishi Yumiko hay Terao Yusuke , để ít nhất, người đọc còn thấy điểm sáng giữa màn “đêm trắng”. Họ có thể là người cùng chung hoàn cảnh như Naoki nên dễ đồng cảm, thấu hiểu cho nỗi đau của anh từ tận đáy lòng. Đó có thể người bạn chơi với Naoki bằng tất cả sự vô tư, trong sáng, hào sảng, nghĩa hiệp nhất. Họ là tình đời, tình người, để đến tận cùng, Tegami – Thư có đau thương, tuyệt vọng, có nghiệt ngã, tăm tối đến thế nào cũng vẫn còn hi vọng le lói về tương lai hay ngày mai. Được viết vào năm 2003, có thể nói, mọi bối cảnh, không gian trong Tegami – Thư so với thời điểm hiện đại đều khá cổ kính. Nhưng chính sự cổ kính đó lại hợp với bầu không khí ngột ngạt, u ám như đêm trường bất tận đến lạ. Một không khí rất Nhật với những con người mất đi căn cước, đang vẫy vùng để có thể nói được lên tiếng nói cá nhân, để chứng minh rằng bản thân đang tồn tại giữa cuộc đời. Một Tsuyoshi mất quyền công dân vì làm điều ác vẫn cố níu giữ chút niềm con người cuối cùng qua việc anh ta viết thư đến những người xung quanh. Một Naoki muốn chối bỏ thân phận thật là em trai kẻ sát nhân để dựng lên căn cước mới, hi vọng có cuộc đời tươi đẹp hơn. Một Shiraishi luôn muốn Naoki sống thật mạnh mẽ, đường hoàng nhưng chính bản thân cô lại luôn sống trong cảnh lo âu, sợ sệt, chui lủi vì món nợ của người cha. Một Yusuke vật lộn trong ngành giải trí chỉ để khẳng định được cái tôi với quan điểm nghệ thuật: âm nhạc phải là âm nhạc, ở đó trước là chuyên chở tài năng của người nghệ sĩ, sau đấy mới đến thỏa mãn phục vụ số đông khán giả… Những con người của năm 2003, nhưng dưới ngòi bút của Keigo-sensei, lại hiện lên như con người Nhật Bản thời hiện đại nói riêng, như con người nói chung.  Ngoài một không khí cùng những con người rất Nhật để tạo nên cái riêng cho tác phẩm, Tegami – Thư còn là câu chuyện chung của con người trên thế giới, về tâm lý chung của loài người khi đối diện với những kẻ “lạc loài”, những ai thuộc về phần thiểu số. Phải, đó là tội phạm và người thân của tội phạm.  Nếu như trong Akui – Ác ý, thành kiến tạo nên ác ý, từ ác ý mà cấu thành tội ác; thành kiến đó, xuất phát từ sự đớn hèn, từ sự giáo dục của gia đình, nhà trường. Thì đến với Tegami – Thư, vẫn là câu chuyện thành kiến ấy nhưng định kiến bây giờ xuất phát từ chính tâm lý chung của người đời khi đứng trước tội ác. Kẻ phạm tội chịu sự phán xét của pháp luật, còn người thân của họ sẽ phải chịu phán xét của người đời: bị đối xử như người ngoài lề, bị xa lánh, kì thị… dù bản thân người đó không làm bất cứ điều gì sai. Keigo-sensei đã gọi đó là tâm lý tự bảo vệ, hành vi “chống phân biệt đối xử”, hay chính là phản xạ tự nhiên, không điều kiện của con người khi gặp phải một sự việc, trái với đường ray, quỹ đạo cuộc sống yên bình. Luật pháp, có thể chỉ là một thứ “thánh giá rỗng”, nhưng miệng lưỡi thế gian chính là thứ luật không tên, không văn bản ràng buộc tất cả những ai trong cuộc: cả kẻ phạm tội, gia đình tội phạm, và cả nạn nhân nữa. Nhưng vì thế mà thứ luật không thành văn đẩy người trong cuộc mãi chìm sâu vào vũng lầy, vào “đêm trắng” chẳng thấy ngày mai. Đó là sự trừng đầy nghiệt ngã, đau đớn với một bộ phận thiểu số kia. Đến nỗi, lúc Naoki đủ dũng khí đối diện với người anh trai sau khi đã trải qua đủ thương đau, vẫy vùng mọi cách để vượt thoát quá khứ, vẫn nghẹn lại mà thốt lên: “Anh ơi! Naoki thầm gọi trong tim. Tại sao chúng ta lại sinh ra trên đời này”. Bài hát Imagine Naoki đã từng cất tiếng hát, xuất hiện thấp thoáng, trở đi trở lại, làm thành kết cấu đầu cuối tương ứng cho Tegami – Thư như chính nguyện vọng Naoki đã từng: một thế giới không còn ranh giới, một thế giới chẳng có phân chia, định kiến. Để rồi, Naoki lại chẳng thể cất tiếng hát lên lần nữa, bởi anh đã hiểu, nguyện vọng đó mãi chỉ lại vọng tưởng trước hiện thực tăm tối, phũ phàng. Bên cạnh vấn đề : “Thành kiến trong lòng người khác như ngọn núi lớn, cho dù ngươi có cố dịch chuyển thế nào cũng chỉ là mơ mộng hão huyền.” (Thân Công Báo – Na Tra Ma đồng giáng thế), Tegami – Thư còn là câu chuyện về sự lựa chọn của con người trong cuộc đời đầy những sự kiện mà chẳng ai có thể lường đến. Ngay lúc gây ra tội ác, Tsuyoshi đã đứng trước muôn vàn chọn lựa: có tiếp tục việc trộm cắp không? Có nên ở lại lấy gói hạt dẻ rang đường, có nên ở lại xem tivi, có nên giết người? Khi vào tù lại là việc lựa chọn: gặp em trai hay là không, viết thư hay là không? Naoki phải lựa chọn cách sống làm sao với cái danh em trai của kẻ cướp của giết người: đánh đổi ước mơ, tình yêu, công việc, và cuối cùng là mối quan hệ đầy oan trái,… Và cả những người khác nữa. Không biết chọn lựa đó là đúng hay sai, có giải quyết được tận gốc vấn đề hay không nhưng con người vẫn phải không ngừng lựa chọn cách sống, lối sống, tâm thế trước trường đời.  Cuốn sách khép lại dưới hình thức mở, Higashino Keigo không nói tiếp đến cuộc đời Naoki, cũng không kể tiếp đến tương lai lúc Tsuyoshi ra tù. Chặng đường tiếp theo của hai anh em, vẫn tiếp tục là những phép thử và sai, bởi cuộc đời phía trước, còn nhiều lắm đau thương. Vì thế, với Tegami – Thư, độc giả có thể khóc khi người trong cuộc nói được lên tiếng nói từ tận đáy sâu tâm hồn họ, sau rất nhiều nghẹn ngào mà sáng tác của Keigo-sensei mang lại trước giờ. Tegami – Thư, câu chuyện được kể từ hai điểm nhìn, hai ngôi kể: điểm nhìn của Tsuyoshi với ngôi kể thứ nhất qua những lá thư hắn gửi; điểm nhìn của Naoki với ngôi kể thứ ba qua cuộc sống anh phải trải qua sau ngày Tsuyoshi bị bắt giữ. Bởi thế, Keigo-sensei đã tạo lên được hai không gian truyện, hai tâm thế con người rất khác biệt: không gian trong tù và không gian ngoài xã hội, tâm lý tội phạm và tâm lý người nhà phạm nhân; cùng với đó là các mối quan hệ xã hội không dễ gì có thể làm ngơ, chối bỏ. Một tác phẩm, tưởng rằng nói lên những vấn đề cá nhân hết sức nhỏ nhặt, mà lại day dứt, ám ảnh lòng người mãi không thôi. Một câu chuyện, chứa đựng những khắc khoải nhân sinh mà chẳng ai có thể phân rõ đúng – sai, thiện – ác. Để rồi, trang sách cuối còn mở, mà những nghẹn ngào đã chảy thành nước mắt từ khi nào chẳng rõ.  Mọt Mọt review *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Trả lời câu hỏi Sự cứu rỗi của thánh nữ có hay hay không? Câu trả lời là có hay. Có vẻ Nhã Nam vẫn là nhà chọn sách tốt trong rất nhiều các tác phẩm của Keigo. Sẽ chỉ nói về Thánh nữ chứ không so sánh nó với tác phẩm nào của Keigo. Cà phê, lại là cà phê. Mình nhớ trong Sự thật về Bebe Donge của Simenon thì người vợ cũng đã đầu độc chồng trong ly cà phê. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng liên quan đến cà phê. Thế nên các quý ông quý bà thích uống cà phê cẩn thận nha, có thể bị độc chết bất cứ lúc nào. Mashiba Yoshiaka, người chồng bị độc chết trên sàn nhà, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn được tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane và cô người tình bí mật Hiromi. Vấn đề là cả hai người đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Bài toán đặt ra là làm thế nào để hạ độc Yoshitaka và đầu độc bằng cách nào? Vì trong thời điểm xảy ra vụ án không ai có khả năng tiếp cận nạn nhân. Thật ra, trong Sự cứu rỗi của thánh nữ, hung thủ có thể thấy ngay từ đầu. Vấn đề là nguyên nhân và cách thức gây án. Một bài toán vô cùng khó và có những cái không thể ngờ tới. Vẫn là những người phụ nữ. Nếu bạn nào ít nhiều đọc Keigo chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với những người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Họ thường đẹp và rất nguy hiểm. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng không ngoại lệ. Cô ấy đẹp, thu hút nhưng luôn treo cái chết trên đầu bạn. Thật sự rất nể người phụ nữ này luôn. Làm sao cô ấy có thể kiên trì sống và chịu đựng, chấp nhận cuộc sống với tình yêu và sự thù hận, treo cái chết lơ lửng từng ngày như vậy. Sự cứu rỗi của thánh nữ nằm trong series “Thám tử Galileo” Yukawa. Đọc đến nửa thì vị thám tử này mới nhập cuộc nhưng vô cùng thú vị. Có lẽ bài toán càng hóc búa thì càng thu hút vị thám tử này. Mặc dù khó tin, có thể là “đáp án ảo” chỉ “có thể chỉ xảy ra về mặt lý thuyết nhưng không hề tồn tại trong hiện thực” nhưng chứng minh đáp án đó là ảo lại cho ra một kết quả hết sức kinh ngạc của một sự thật chua xót. Và tất nhiên tác giả cũng có lồng ghép một số kiến thức rất thú vị vào trong vụ án vì thám tử Galileo là giáo sư dạy vật lý ở trường đại học mà. Cứ tưởng đâu đây là vụ án “hoàn hảo”, biết mười mươi mà không đủ bằng chứng để buộc tội gây “ức chế”, nhưng may quá, vẫn còn ánh sáng cuối đường hầm mặc dù sự thật là đau xót. Có một câu hỏi: Đàn ông quan niệm như nào về lập gia đình? Phải chăng họ lập gia đình chỉ vì cần người sinh con? Họ không cần tình yêu? Nếu không sinh được con thì người phụ nữ chẳng qua chỉ là vật trang trí trong ngôi nhà không hơn không kém? Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư Ma Thuật Bị Cấm ... *** Tsuyoshi nhằm vào ngôi nhà đó không vì lý do gì đặc biệt, chẳng qua do hắn đã biết trước phần nào tình hình nơi ấy mà thôi. Nhưng khi quyết định phạm tội, hình ảnh đầu tiên thoáng qua trong đầu hắn lại là bà Ogata với mái tóc bạc trắng chải chuốt gọn gàng cùng lối ăn mặc thanh lịch quý phái. “Cảm ơn cậu nhé! Còn trẻ thế này mà đã đi làm. Tháo vát quá!” Bà lão vừa nói vừa chìa cho Tsuyoshi một phong bì nhỏ. Mở ra, hắn thấy bên trong là ba tờ 1000 yên. Từ ngày làm công nhân chuyển nhà đến giờ, đây là lần đầu tiên hắn được boa nhiều tới vậy. Nhìn nét mặt đủ biết bà là người tử tế. Khi bà mỉm cười, từng nếp nhăn cũng toát lên vẻ hiền hậu. Tsuyoshi gật đầu qua quýt tỏ ý cảm ơn, đàn anh đi cùng thấy vậy liền mắng, “Này, cảm ơn cho cẩn thận đi.” Đó là chuyện của bốn năm trước, khi Tsuyoshi vừa tròn 19 tuổi. Từ thời Edo, phố Kiba quận Koto đã có rất nhiều hàng buôn gỗ, cái tên Kiba có lẽ cũng bắt nguồn từ đó. Trên xe tải tới nhà bà Ogata, đàn anh kể với Tsuyoshi rằng gia đình Ogata một thời cũng từng buôn gỗ. Tuy nhiên, việc kinh doanh chỉ được thời gian đầu, hiện giờ thu nhập chủ yếu của nhà Ogata lại là tiền thu về khi sử dụng chính khu đất đã từng kinh doanh gỗ ngày trước vào việc khác. “Thế nên họ chẳng cần làm gì vẫn được ăn sung mặc sướng.” Đàn anh nói với giọng đầy thèm muốn. “Ngoài bãi đỗ xe, chắc chắn họ còn có cả chung cư và căn hộ cao cấp. Một mình bà lão làm sao tiêu hết, nên cứ mỗi tháng lại tích được một khoản. Anh con trai vừa đòi có nhà riêng là bà ấy rút ngay ra một xấp tiền lớn.” “Nhà mới của anh con trai là bà ấy mua cho ạ?” Tsuyoshi ngạc nhiên hỏi. “Chẳng biết nữa, nhưng chắc là vậy. Nghe nói anh ta không nối nghiệp gia đình. Nếu chỉ là người làm công ăn lương bình thường, làm sao mua nổi nhà.” Rõ ràng đàn anh tự suy diễn, nhưng khi tới nhà Ogata, Tsuyoshi nhận ra không phải tất cả suy diễn đều là vô căn cứ. Họ ở căn biệt thự một tầng trên khoảnh đất rất rộng, pha trộn phong cách Nhật và Tây ít thấy vào thời đó. Đối diện biệt thự là bãi đỗ xe thu phí tháng cũng treo biển hiệu Ogata. Phía Nam biệt thự là khoảnh vườn rộng đủ xây một ngôi nhà nhỏ, bên trong có một con chó to cỡ con bê đang đi đi lại lại. Bà lão nói nó thuộc giống chó núi Pyrenees. Con chó chưa nhìn thấy nhóm Tsuyoshi đã xồ lên sủa hung hãn. Chắc nó đánh hơi thấy người lạ trước cả khi người ta kịp xuất hiện. “Ồn ào quá, con kia!” Đàn anh vừa quát vừa bọc chống sốc quanh tủ. Tuy đã bị nhốt vào chuồng nhưng con chó vẫn sủa liên hồi suốt thời gian họ làm việc. Một đàn anh khác bảo, “Cũng nhờ có nó mà bà lão sẽ an tâm hơn khi sống một mình. Chắc bình thường không xích lại đâu. Tên trộm nào dám trèo tường vào nhà, nó sẽ nhào ra cắn ngay.” Công việc lần này là chuyển đồ cho gia đình người con trai cả ra ở riêng. Con trai bà cụ là một tên gầy gò ngoài bốn mươi tuổi, lầm lì ít nói, hoàn toàn thờ ơ với việc chuyển nhà. Trong khi đó chị vợ mập mạp lại hồ hởi ra mặt, đầu óc chỉ chăm chăm hướng về ngôi nhà mới chứ chẳng buồn bận tâm đến ngôi nhà mà họ sắp rời đi. Đàn anh lại bắt đầu suy diễn đủ điều, “Người chồng tính tình nhu nhược, bị vợ dắt mũi nên mới buộc phải chuyển đi. Thông thường cứ xây sửa lại nhà cũ là xong, nhưng như vậy bà lão sẽ tiếp tục sống chung với họ. Chắc hẳn người đứng tên ngôi nhà này cũng là bà lão, gia đình người con trai khác nào ăn nhờ ở đậu. Chị con dâu mập ú chẳng vui vẻ gì chuyện này nên mới bắt anh chồng phải mua nhà riêng. Cậu nhìn mà xem, vẻ mặt chị ta cứ như thể ‘từ nay thoát cũi sổ lồng’ vậy.” Đàn anh vừa nói vừa nhếch mép cười. Sau khi chất hết hành lý lên xe, nhóm Tsuyoshi tới chào bà lão. Bà không đi cùng sang nhà mới để giám sát việc dỡ đồ. Bà cổ vũ riêng Tsuyoshi, “Cố gắng lên nhé.” Chắc vì thấy hắn trẻ người nhất và cũng non dạ nhất. “Vâng!” Tsuyoshi khẽ gật đầu. Khoảng một năm sau, gần nhà Ogata lại có người muốn chuyển nhà. Buổi trưa, sau khi ăn xong cơm hộp mua ở cửa hàng tiện lợi gần đó, Tsuyoshi đi bộ tới nhà Ogata. Bức tường đá oai nghiêm không khác gì một năm trước. Nhưng khi bước lại gần cổng, tự nhiên hắn thấy khang khác mà chính hắn cũng không hiểu tại sao. Cho tới khi tiến về phía vườn, hắn mới nhận ra không còn tiếng sủa của con chó to ngày nọ nữa. Hắn đứng cạnh tường đá thử dòm vào trong vườn. Cái chuồng vẫn ở đó nhưng không thấy bóng dáng con chó đâu. Hắn chắc mẩm nó chỉ đang đi dạo loanh quanh cùng bà lão thôi. Bỗng hắn nhận ra ngay cạnh chuồng dựng một thanh gỗ dài, bên trên treo vòng cổ màu xanh. Tsuyoshi nhớ đó là vòng cổ của con Pyrenees. Tsuyoshi thầm nghĩ, hẳn bà lão phải rất cô đơn khi con trai rời khỏi nhà và con chó yêu quý cũng ra đi. Đây là điều duy nhất thoáng qua trong đầu hắn tại giây phút đó. Chỉ là những suy nghĩ tản mạn, chứ hắn tuyệt nhiên không có ý hãm hại bà lão giàu có sống một mình. Thậm chí suốt ba năm tiếp theo, hắn cũng chưa một lần nhớ về bà. Có lẽ nếu không lâm vào cảnh cùng cực như hiện giờ, suốt đời này hắn cũng chẳng nhớ tới bà nữa. Hắn tiến lại gần. Biệt thự với kiến trúc kết hợp hài hòa hai phong cách Đông-Tây nằm lặng lẽ giữa tường bao bằng đá. Gió mùa này bắt đầu se lạnh. Chỉ tầm một tháng nữa thôi, người ta sẽ phải co rúm vai lại cho bớt khó chịu khi đi trên đường. Tiếp đến sẽ là tháng Chạp, rồi tháng Giêng. Đến lúc ấy đường phố chắc chắn sẽ rất đông đúc, người người qua lại tấp nập. Vì có công việc nên họ mới chạy đây chạy đó. Vì có tiền nên họ mới hào hứng phấn khởi. Còn mình không có cả hai. Hắn không cần tiền mua bánh Giáng sinh hay mochi cho năm mới. Thứ mà Tsuyoshi muốn là khoản tiền đủ làm yên lòng Naoki, để thằng bé khỏi phải trăn trở về việc thi đại học nữa. Tsuyoshi bắt đầu mơ mộng hão huyền. Nếu có số tiền này trong tay, đầu tiên hắn sẽ đem gửi ngân hàng rồi cho Naoki xem sổ, “Thế nào, dù không kể với em nhưng anh đã tiết kiệm được bao nhiêu đây. Với chỗ tiền này anh cóc sợ phí dự thi hay phí nhập học nữa, em không việc gì phải lo lắng cả.” Tsuyoshi biết Naoki đang dần mất niềm tin vào việc thi lên đại học. Hắn cũng biết thằng bé bí mật đi làm thêm. Thằng bé sợ anh giận nên chưa dám nói, nhưng đã bắt đầu âm thầm tìm hiểu các công ty. Hắn biết nếu không mau mau nghĩ cách thì không kịp mất, nhưng hiện giờ, hắn không những không có tiền để gửi tiết kiệm, mà còn mất luôn cả cần câu cơm. Hắn nghỉ việc ở công ty chuyển nhà đã hai tháng nay. Nguyên nhân trực tiếp là bởi đau hông và đầu gối. Vốn dĩ hắn cũng không phải nhân viên chính thức nên không thể xin điều chuyển sang bộ phận khác. Ngoài ra, hắn còn làm nhân viên chuyển đồ nội thất, nhưng hợp đồng với bên đó cũng chấm dứt rồi. Hân là kẻ vụng về và có trí nhớ kém. Điều duy nhất hắn tự tin về bản thân là thể lực nên mới chọn những công việc kiểu này làm kế sinh nhai, rốt cuộc lại hủy hoại chính sức khỏe mình. Không có thể trạng tốt thì chẳng nơi nào chịu thuê. Cho đến tuần trước hắn vẫn còn đi giao đồ ăn, chẳng may đang giao hàng thì hông đau dữ dội, thùng đồ ăn rơi tung tóe, nên lại bị sa thải. Muốn đi làm ở công trường, e rằng sức không chịu nổi. Suy tính chán chê, hắn vẫn không tìm ra lối thoát nào. Người ta nói hiện giờ cả thế giới đều khó khăn, Tsuyoshi lại thấy ngoài hắn ra hình như ai cũng giàu có. Dạo này mấy cửa hàng giá rẻ rất được ưa chuộng, nhưng giá có rẻ hay không cũng chỉ quan trọng với người có khả năng mua được. Hắn cho rằng thực phẩm lành mạnh trở nên thịnh hành như vậy đều do người ta sống quá dư dả. Giá như họ chia cho hắn một phần nhỏ của sự dư dả đó thì tốt biết bao. Hắn không cổ xúy người nghèo nên đi ăn trộm, nhưng giờ hắn không nghĩ ra được cách nào khác. Dù có than thở hay cầu nguyện, tiền cũng không thể tự nhiên mà có, xem ra hắn chỉ còn cách tự thân vận động mà thôi. Trong đầu hắn hiện lên khuôn mặt hiền hậu của bà Ogata. Bà lão tiền nhiều vô kể, lấy trộm một ít cũng chẳng phải chuyện gì nghiêm trọng. Nếu biết kẻ trộm là một người khốn khổ như hắn, có khi bà lại tha thứ cũng nên. Nhưng tốt nhất vẫn không nên để bà phát hiện ra. Tsuyoshi đảo mắt nhìn quanh. Cả khu phố gồm toàn nhà dân xen lẫn vài công xưởng nhỏ, hầu như không có cửa hàng. Chắc vì vậy mới không thấy bóng dáng ai đi lại trên đường. Ngay bên cạnh có vài chung cư, nhưng cổng chính đều dẫn thẳng ra đường lớn nên cư dân ở đó rất ít khi bén mảng ra con phố phía sau. Cái bóng nhỏ thó của hắn đổ trên mặt đường nhựa. Hắn không rõ thời gian chính xác, chắc khoảng 3 giờ chiều gì đấy. Mười phút trước, hắn có xem giờ lúc vào cửa hàng tiện lợi. Hắn vào để mua găng tay. Trước khi tới đây, hắn đã quên khuấy mất chuyện sẽ để lại dấu vân tay. Hắn biết hiện giờ nhà Ogata đi vắng hết. Ban nãy hắn đã thử gọi bằng điện thoại công cộng ở bên ngoài cửa hàng tiện lợi. Hắn lấy số từ biển hiệu của bãi đỗ xe đối diện nhà Ogata. Điện thoại có kết nối, nhưng âm thanh vang lên lại là tiếng hệ thống trả lời tự động. Tsuyoshi từ từ tiếp cận cổng nhà Ogata. Tất nhiên hắn cũng do dự. Chỉ trong vài giây ngắn ngủi trước khi đến được cổng, hắn tự hỏi tự đáp không biết bao lần. “Làm thế này có ổn thật không? Đương nhiên là không. Nhưng đâu còn cách nào khác. Đằng nào cũng chỉ có thể ăn trộm, thôi thì đi trộm của người giàu vậy. Nếu bị bắt thì phải làm sao? Không, không có chuyện bị bắt đâu. Trong ngôi nhà này chỉ có bà lão sống một mình, chẳng may bị phát hiện thì cứ chạy trốn là xong. Không thể nào bị tóm được.”   Mời các bạn đón đọc THƯ của tác giả Higashino Keigo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mai Hương và Lê Phong
"Đọc truyện trinh thám của Thế Lữ có thể thấy tuy mức độ đậm nhạt khác nhau trong từng tác phẩm nhưng chi tiết này, chi tiết khác đều gợi liên tưởng mạnh mẽ đến những truyện tiêu biểu nhất làm nên tên tuổi Edgar Poe... Mở đầu và chứng cứ cũng như cách phá án đều phảng phất các truyện nêu trên của Poe. Mọi bí mật đều được phanh phui nhờ vào tài quan sát, phán đoán tâm lý nhân vật và những giả thuyết lập luận chặt chẽ logic của nhà thám tử nghiệp dư chứ không phải những thanh tra nhà nước, cảnh sát trưởng chuyên nghiệp. Cuối cùng hung thủ phải lộ mặt đúng như tiên đoán của Dupin, hay Lê Phong. Ở phần kết thúc truyện, việc tập họp đông đủ mọi người để công bố tên hung thủ tương tự như trong Mi cũng là một con người." (Hoàng Kim Oanh) *** Lê Phong một phóng viên chuyên mảng phóng sự của báo Thời thế, có trụ sở tại Hà Nội. Phong là người nhanh nhẹn, vui vẻ, có đôi mắt sáng, linh động, có tài quan sát. Với tài năng đó, Lê Phong thích tham gia vào các vụ án bí ẩn và khám phá các sự thật bị che giấu. Lê Phong là người hâm mộ Sherlock Holmes và áp dụng phương pháp suy luận của Holmes để suy luận. Cộng sự với Lê Phong là Văn Bình, là nhân vật đóng vai trò ghi chép lại quá trình điều tra vụ án.   Với truyện trinh thám, Thế Lữ đã sáng tạo ra cặp nhân vật thám tử Lê Phong và Mai Hương – một chàng và một nàng - được bạn đọc nhiều thế hệ yêu thích. Họ là những người thông minh, có óc phán đoán và khả năng suy luận cao. Họ say mê nghề nghiệp, họ quyết liệt trong việc truy tìm cái ác để bảo vệ và đề cao cái thiện. Nhưng cũng cần phải nhìn ra rằng, cặp nhân vật Lê Phong và Mai Hương chính là hiện thân cho kiểu con người lãng mạn có tính lý tưởng của Tự Lực văn đoàn: trẻ trung, được giáo dục theo mô hình châu Âu, yêu tự do dân chủ, yêu khoa học và luôn hướng tới sự tiến bộ xã hội. ” “    Học tập, vay mượn mô hình tiểu thuyết trinh thám phương Tây, cả Thế Lữ và Phạm Cao Củng đều xây dựng những series truyện về các thám tử như thám tử Lê Phong (Thế Lữ), thám tử Kỳ Phát (Phạm Cao Củng). Cả hai thám tử đều thông minh, lý trí, giỏi suy luận, phán đoán và lập luận logic để điều tra phá án. Thông qua hai thám tử, người đọc dễ dàng nhận thấy dáng dấp thám tử Sherlock Holmes của Conan Doyle. Điều này cũng không có gì là lạ, khi mà quá trình hiện đại hóa văn học đòi hỏi mọi thể loại phải diễn ra gấp rút, phải nhanh chóng đưa văn học Việt Nam hiện đại bước vào quỹ đạo của văn học thế giới. Thành công của Thế Lữ và Phạm Cao Củng là điều đáng ghi nhận và trân trọng. *** Mai Hương và Lê Phong gồm có: 1. Người Phải Chết 2. Người Thiếu Nữ Kỳ Dị 3. Phóng Viên Và Trinh Thám 4. Mỹ Châu Và Trọng Thủy 5. Tin Dữ Trong Giây Nói 6. Ta Còn Gặp Nhau 7. Mặt Đối Mặt 8. Cái Bóng Theo Hình 9. Những Chuyện Kín Của Cô Mai Hương 10. Lê Phong Nổi Giận 11. M.H: Mai Hương 12. Lý Tuyết Loan 13. Năm Bộ Sách Quý 14. Trá Hình 15. Mắc Bẩy 16. Những Phút Cuối Cùng Của Lê Phong 17. Thế Rồi... 18. Những Câu Chuyện Lạ Lùng Của Lê Phong 19. Con Chim Xanh 20. Mai Hương Và Lê Phong *** Thế Lữ, tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ) là nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và Máu (1934). Trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Truyện của Thế Lữ, theo cách xếp quen thuộc được chia làm 3 thể loại chính: truyện kinh dị (Vàng và Máu, Bên đường Thiên Lôi), truyện trinh thám (Lê Phong và Mai Hương, Gói thuốc lá, Đòn hẹn, Tay đại bợm...) và truyện lãng mạn núi rừng (Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh). *** Trời lạnh nhưng nắng ráo. Ánh mặt trời buổi sáng tươi cười gội xuống những chòm lá cây thu, tươi cười chiếu lên các mặt tường cao lộng lẫy, vuốt ve màu áo của những cô nhan sắc đi cạnh những cậu lịch sự, và soi lấp loáng những xe hơi tối tân đang đỗ ở trước Đông Dương đại học đường. Lớp dinh cơ nghiêm trang yên lặng này hôm đó bỗng như nhuộm màu trai trẻ. Một người thiếu niên ăn mặc chải chuốt quần áo "flanelle"xám, đầu trần mượt láng, tay đeo một chiếc máy ảnh contax nhỏ, nhanh nhẹn bước lên thềm. Chàng ta vui vẻ chào bọn người đứng tụ họp ở bên cửa chính, nhẹ nhàng len qua mấy bọn người khác, lúc vào tới"phòng đợi" .-một cái phòng trống trơn rất cao và rất rộng-Chàng ta đứng ghé vào cần bên phảI là cửa giảng đường. Hai tay xoa vào nhau ra chiều thích ý, người thiếu niên lẩm bẩm: -Mình đã tưởng đến muộn thế mà chưa có gì. Ngoắt quay ra, chàng ta nhìn mấy ông giáo sư, mặc áo rộng đen bằng đôi mắt kính cẩn, nhưng hơi có vẻ ranh mãnh khôi hài rồi lại nhìn mấy người sinh viên trường y học đứng gần đấy. Họ đạo mạo trong bộ lễ phục mới và khấp khởi sượng sùng như mấy chú rể đến nhà tân nhân. Đó là mấy ông y khoa bác sĩ mới đỗ kỳ vừa rồi. Những tiếng nói chuyện vang lên . Câu chuyện phần nhiều nói về cuộc phát bằng long trọng đầu tiên ở nước Việt Nam và về bài luận án rất có giá trị của Trần Thế Đoàn một người đỗ đầu y khoa bác sĩ. Mấy người trông đây trông đó tỏ ý ngạc nhiên: - Gần chín giờ rồi. Mà này, anh có thấy Đoàn đâu không? -Không, có lẽ chưa đến. -Sao bây giờ chưa đến nhỉ? Anh này có vẻ một danh nhân muốn cho mọi người chờ đợi mình... Mấy tiếng cười lanh lảnh ở gần đó. Người thiếu niên chú ý thì thấy một cô thiếu nữ đang đọc tấm bảng yết tên những nhà tân khoa. -Trần Thế Đoàn. Cái tên nghe lạ nhỉ. Rồi cô hỏi một người bên cạnh: - Người thế nào anh biết không? -Biết. Người còn trẻ lắm, giỏi trai nữa. Anh Đoàn không có vẻ một nhà thông thái như các cô tưởng đâu. - Thế chúng tôi tưởng thế nào? Anh chỉ hay nói mò. Một nhà thông thái cũng như người thường chứ sao? Mà nhà thông thái bây giờ có lẽ lại lịch sự hơn các anh nữa. Nhưng không để ý đến vẻ náo động ấy, người thiếu niên cứ đi đi lại lại một cách lơ đãng, thỉnh thoảng đứng lại biên mấy chữ lên một cuốn sổ tay. Rồi lại thản nhiên lững thững đi trong phòng như đi giữa chỗ vắng. Tuy vậy, ai nhận kỹ, cũng thấy đôi mắt anh ta vẫn tinh nhanh và quan sát từng cử chỉ của mọi người, quan sát rất chóng nhưng rất chu đáo. Nét mặt linh động với cái miệng mím lại chốc chốc thoáng qua một nụ cười tỏ ra anh đương nghĩ đến một chuyện gì, mà chuyện ấy hẳn là vuilắm. Đi tới cạnh bọn phóng viên, họ đến đó để làm bài tường thuật, người thiếu niên bỗng trông ra ngoài đường, vẻ mặt sáng hẳn lên, rối vội vã như có việc khẩn cấp vô cùng, anh chàng chạy ra cửa, ở đó, người ta đang dồn lại bắt tay một người mới đến, hấp tấp và lúng túng trong bộ Smoking mới may. Người thiếu niên đến trước mặt người kia lễ phép nói: -Thưa ông, nếu tôi không nhầm, ông chính là ông Trần Thế Đoàn? Người mặc Smoking nhã nhặn thưa: - Vâng, chính tôi. - Còn những ba phút nữa mới mở cuộc phát bằng, vậy tôi muốn xin ông ba phút ấy. - Nhưng... - Ông đừng từ chối, ông Toàn quyền chưa đến. Tôi có một việc rất quan trọng muốn thưa với ông. Rồi dìu Đoàn vào một góc phòng, người thiếu niên mỉm cười rút sổ tay đưa mắt nhìn Đoàn và nói: - Xin ông thứ lỗi cho, tôi biết ông vội lắm, nhưng ông còn đủ thời giờ. Tôi là một người đi nhặt tin cho báo "Thời Thế" và muốn phỏng vấn ông ở đây. Đoàn có vẻ ngạc nhiên và tỏ ý khó chịu: -Ông phỏng vấn tôi? - Vâng, tôi biết ông vẫn khiêm tốn, ông không ưa việc vô ích ấy, và không nhận cho ai phỏng vấn bao giờ. Nhưng báo "Thời Thế" là một báo đứng đắn rất xứng đáng được truyền những lời quý hóa của một nhà thông thái của quốc dân. Không để Đoàn ngắt lời, người thiếu niên lại nói: -Vả lại cuộc phỏng vấn sẽ rất nhanh chóng. Hai phút là cùng. Tôi sẽ đề tựa là: "Cuộc phỏng vấn vội vàng hai phút với bác sĩ Đoàn, tác giả tập luận án về những ánh sáng trong sự kinh nghiệm của y học Đông Dương". Thưa ông, những điều dẫn chứng trong y lý đó là do sách tây dịch hay ông đọc trong nguyên bản? Giọng nói thành thực và đôi mắt vui vẻ của người thiếu niên, khiến bác sĩ Đoàn không nỡ cự tuyệt. Đoàn ôn tồn đáp: -Tôi đọc toàn ở các sách Tàu. -Tôi cũng đoán thế. Nhưng chữ nho ông mới học, hay trước kia ông đã học rồi. . . Trần Thế Đoàn đáp: -Tôi tưởng điều đó có quan hệ gì... - Có chứ, xin ông cứ cho biết... - Tôi cần phải khảo cứu đến các sách Tàu nên mới để tâm học cẩn thận, trước kia thì không. -Đó là một điều chưa báo nào biết mà nói đến. Ngoài việc y học, ông còn để tâm đến khoa học nào khác nữa không -Có,có vật lý học và hóa học tôi vẫn chuyên chú đến, có hai khoa ấy giúp ích cho những cuộc nghiên cứu của tôi sau này rất nhiều, nhưng bây giờ hết giờ rồi, nếu ông muốn, tôi xin đáp sau khi về nhà . Người thiếu niên bỗng hỏi một câu đột nhiên: - Lúc nãy ông ở nhà viết một bức thư dài phải không ? Ông cần viết đến nỗi chút nữa thì lỡ mất một việc quan trọng là hôm nay có cuộc phát bằng long trọng. Đoàn kinh ngạc nhìn người thiếu niên thì anh ta tiếp: - Mà lại vừa nhận được một bức thư lạ, một bức thư làm cho ông bối rối có phải không?   Mời các bạn đón đọc Mai Hương và Lê Phong của tác giả Thế Lữ.
Lê Phong
"Đọc truyện trinh thám của Thế Lữ có thể thấy tuy mức độ đậm nhạt khác nhau trong từng tác phẩm nhưng chi tiết này, chi tiết khác đều gợi liên tưởng mạnh mẽ đến những truyện tiêu biểu nhất làm nên tên tuổi Edgar Poe... Mở đầu và chứng cứ cũng như cách phá án đều phảng phất các truyện nêu trên của Poe. Mọi bí mật đều được phanh phui nhờ vào tài quan sát, phán đoán tâm lý nhân vật và những giả thuyết lập luận chặt chẽ logic của nhà thám tử nghiệp dư chứ không phải những thanh tra nhà nước, cảnh sát trưởng chuyên nghiệp. Cuối cùng hung thủ phải lộ mặt đúng như tiên đoán của Dupin, hay Lê Phong. Ở phần kết thúc truyện, việc tập họp đông đủ mọi người để công bố tên hung thủ tương tự như trong Mi cũng là một con người." (Hoàng Kim Oanh) *** Lê Phong một phóng viên chuyên mảng phóng sự của báo Thời thế, có trụ sở tại Hà Nội. Phong là người nhanh nhẹn, vui vẻ, có đôi mắt sáng, linh động, có tài quan sát. Với tài năng đó, Lê Phong thích tham gia vào các vụ án bí ẩn và khám phá các sự thật bị che giấu. Lê Phong là người hâm mộ Sherlock Holmes và áp dụng phương pháp suy luận của Holmes để suy luận. Cộng sự với Lê Phong là Văn Bình, là nhân vật đóng vai trò ghi chép lại quá trình điều tra vụ án.   Với truyện trinh thám, Thế Lữ đã sáng tạo ra cặp nhân vật thám tử Lê Phong và Mai Hương – một chàng và một nàng - được bạn đọc nhiều thế hệ yêu thích. Họ là những người thông minh, có óc phán đoán và khả năng suy luận cao. Họ say mê nghề nghiệp, họ quyết liệt trong việc truy tìm cái ác để bảo vệ và đề cao cái thiện. Nhưng cũng cần phải nhìn ra rằng, cặp nhân vật Lê Phong và Mai Hương chính là hiện thân cho kiểu con người lãng mạn có tính lý tưởng của Tự Lực văn đoàn: trẻ trung, được giáo dục theo mô hình châu Âu, yêu tự do dân chủ, yêu khoa học và luôn hướng tới sự tiến bộ xã hội. ” “    Học tập, vay mượn mô hình tiểu thuyết trinh thám phương Tây, cả Thế Lữ và Phạm Cao Củng đều xây dựng những series truyện về các thám tử như thám tử Lê Phong (Thế Lữ), thám tử Kỳ Phát (Phạm Cao Củng). Cả hai thám tử đều thông minh, lý trí, giỏi suy luận, phán đoán và lập luận logic để điều tra phá án. Thông qua hai thám tử, người đọc dễ dàng nhận thấy dáng dấp thám tử Sherlock Holmes của Conan Doyle. Điều này cũng không có gì là lạ, khi mà quá trình hiện đại hóa văn học đòi hỏi mọi thể loại phải diễn ra gấp rút, phải nhanh chóng đưa văn học Việt Nam hiện đại bước vào quỹ đạo của văn học thế giới. Thành công của Thế Lữ và Phạm Cao Củng là điều đáng ghi nhận và trân trọng. *** Tổng hợp tất cả các truyện của Thế Lữ thuộc serie Lê Phong. Đây là một trong những truyện trinh thám đầu tiên của Việt Nam, viết từ năm 1935, xoay quanh một phóng viên có tài trinh thám... Gồm 6 truyện được đăng trên báo Ngày Nay:  - Lê Phong phóng viên - Những nét chữ - Mai Hương và Lê Phong - Lê Phong làm thơ - Đòn hẹn - Gói thuốc lá *** Thế Lữ, tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ) là nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và Máu (1934). Trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Truyện của Thế Lữ, theo cách xếp quen thuộc được chia làm 3 thể loại chính: truyện kinh dị (Vàng và Máu, Bên đường Thiên Lôi), truyện trinh thám (Lê Phong và Mai Hương, Gói thuốc lá, Đòn hẹn, Tay đại bợm...) và truyện lãng mạn núi rừng (Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh). *** Một cách xin việc kỳ khôi Ngày nào cũng vậy, cứ đúng mười một giờ sáng là anh ta đã có mặt trong phòng khách tòa báo. Anh ta nói là muốn giáp mặt ông chủ nhiệm để hỏi một việc cần lắm. Việc cần ấy, chúng tôi đã biết: Anh ta muốn xin làm một phóng viên. Ông chủ nhiệm tiếp anh ta có một lần rồi bảo tôi: - Ít ra họ cũng phải hiểu rằng ở đây có thừa người rồi, phóng viên không phải là người khó kiếm đến thế. Hôm sau, anh ta lại đến, rồi hôm sau nữa: lần nào ông chủ nhiệm cũng không có nhà. Nghĩa là ông chủ nhiệm vẫn có nhà, nhưng không muốn anh ta quấy rầy mãi. Chúng tôi hễ cứ thấy đồng hồ đánh mười một tiếng là lại nhìn nhau cười. Xuống phòng khách ngó xem thì tôi đã thấy anh ngồi vần cái mũ trong tay, hỏi tôi một cách lo ngại: - Hôm nay hẳn ông chủ nhiệm lại đi vắng? - Vâng, ông ấy vừa mới ra xong. Anh ta mỉm cười một bên mép rồi đứng lên thong thả bước ra, ngừng lại toan hỏi tôi một câu, nhưng bỗng đội mũ đi thẳng. Sau cùng anh ta không đợi ở phòng khách nữa, lèn đứng ngay ngoài cửa tòa soạn, đợi có người vào là vào theo liền. Anh ta vừa mới nói: - Thưa ông... Thì ông chủ nhiệm ngắt lời: - Thưa ông, người ta không bao giờ nên tự tiện quá đến thế. Ở đây không phải là một cửa hàng. - Nhưng đây là một tòa báo. - Nhà báo không phải để mở cửa cho hết thảy mọi người. Anh ta khẩn khoản: - Vâng, tôi biết thế này là đường đột quá, nhưng xin ông cho biết rằng tôi muốn làm phóng viên, mà nhất là trong tòa báo ông. Người ta cần phải chọn mặt mà gửi vàng. Tôi muốn đem tài của mình dùng cho báo ông trước nhất... - Nhưng tôi biết tài ông to đến bực nào? - Ông cứ dùng thử xem. - Dùng thử xem!... (Ông chủ nhiệm đã thấy nóng tai). Không, chúng tôi không thiếu người, ông có lòng muốn giúp, xin cảm ơn. Nhưng tôi không... tôi chưa thể nhận ông được. Trong lúc ông chủ nhiệm cau mày cúi xuống đọc những bản thảo trên bàn thì anh ta lại nói: - Tôi chắc ông sẽ vừa lòng khi thấy những việc tôi làm sau này... Ông cứ giao việc cho tôi xem... Mà nếu ông cần biết ngay học thức của tôi... Không nhịn nữa, ông chủ nhiệm nói gọn một câu: - Thưa ông... tôi đi vắng. Chàng thiếu niên sẽ mỉm một nụ cười mai mỉa, nét mặt vẫn tươi tỉnh, cúi chào chúng tôi, rồi quay ra. Ông chủ nhiệm lắc đầu: - Con người kỳ khôi đến thế là cùng. Nhưng thôi, thoát nợ. --- Sáng hôm sau, chúng tôi không thấy anh ta đến nữa. Bị cự tuyệt một cách rõ ràng như thế, tất nhiên anh ta biết không còn hi vọng gì. Chiều hôm ấy, đáng nhẽ không còn việc gì phải làm ngay, chúng tôi lại bận hơn các buổi khác. Bài vở của số báo sau đã đưa sắp chữ cả, bỗng được tin bị bỏ gần hết những mục quan trọng (hồi ấy, ty kiểm duyệt vẫn còn). Ông chủ nhiệm vừa càu nhàu vừa lục những bài dự phòng ra coi lại. Nhưng vẫn không đủ. Đang lúc chia tay mỗi người một việc cùng nhau cặm cụi viêt lấy viết để, thì cửa tòa soạn bật mở, chàng thiếu niên hôm qua bước nhanh vào. Ông chủ nhiệm giơ hai tay một chán nản toan sừng sộ hỏi, thì người kia nhoẻn miệng cười. Tức mình, ông để mặc chàng ta đó, đứng dậy gọi người thư ký vào toan cự thì chàng ta cau: - Lỗi đó ở cả tôi. Tôi xin ra ngay. Nhưng xem chừng ông bân lắm thì phải. - Tôi chẳng bận gì hết. Nhưng... - Không hề gì. nếu ông vội, xin cứ cho tôi biết... Hay để cho tôi cùng viết đỡ các ông này cho chóng xong. Chàng ta nói rất dịu dàng, miệng tươi cười rất thực tàh, khiến ông chủ nhiệm cũng phải nguôi giận. - Nếu vậy, ông ngồi xuống đó, viết cho tôi ba cột về việc chủ hiệu cầm đồ lừa đảo... Ông biết viết ấy chứ? - Biết. - Nhưng ông có biết tôn chỉ của báo tôi không đã? - Định làm cho một tờ báo lại không biết tôn chỉ báo ấy sao! - Được, ông thuật về việc này qua loa thôi, còn thì phải công kích dữ. - Tôi hiểu. - Một giờ nữa phải viết xong. Bốn mươi phút sau, người thiếu niên đã đưa cho ông chủ nhiệm ba tờ giấy đặc chữ. Ông chủ nhiệm cầm lấy đọc một lần, hơi gật đầu. Đó là triệu chứng hay. Ông ký bức điện tín người ta vừa đem vào, đọc nốt trang sau cùng, sửa qua mấy chữ viết không được rõ. Đọc xong, ông lấy bút chì xanh viết mấy chữ lên cạnh trang đầu, đứng nhìn người thiếu niên bằng đôi mắt gườm gườm nhưng không có vẻ ác cảm. Anh ta se sẽ hỏi: - Thưa ông, bài tôi viết... - Không tồi lắm. Nhưng ông nhất định làm phóng viên cho báo tôi? - Vâng... Sao? - Vậy ngay bây giờ ông có thể đi Bắc Ninh được không? - Đi điều tra? - Phải, mà phải đi rất nhanh. Người ta mới bắt được một tụi buôn thuốc phiện lậu rất quan trọng.   Mời các bạn đón đọc Lê Phong của tác giả Thế Lữ.
Vụ Án Mạng Ở Lữ Quán Kairotei
Một tác phẩm đậm chất trinh thám cổ điển vua trinh thám Nhật Bản Keigo Higashino. Bản di chúc về khối tài sản kếch xù của ông Ichigahara Takaaki sẽ được công bố vào đúng lễ 49 ngày của ông tại lữ quán Kairotei, nơi sinh thời ông vô cùng yêu mến. Nhưng một lá thư hé lộ sự thật bị chôn vùi dưới lớp tro tàn của vụ hỏa hoạn ở lữ quán này nửa năm trước, xuất hiện đúng buổi tối trước ngày công bố di chúc đã khiến mọi chuyện trở nên rối tung. Cũng trong đêm đó, một người đã bị sát hại. Ngọn lửa ngờ vực bắt đầu âm ỉ cháy lan, một thảm kịch khác đã được soạn sẵn và chờ hồi kết để hạ màn... *** Higashino Keigo là tiểu thuyết gia trinh thám hàng đầu Nhật Bản với nhiều tác phẩm hàng triệu bản bán ra trong và ngoài nước, gặt hái vô vàn giải thưởng. Ông từng là Chủ tịch thứ 13 của Hội nhà văn Trinh thám Nhật Bản từ năm 2009 tới năm 2013. Mỗi tác phẩm của ông đều có phong cách khác nhau, nhưng nhìn chung đều có diễn biến bất ngờ, khắc họa tâm lý nhân vật sâu sắc, làm nên nét riêng biệt trong chất văn của Higashino Keigo. *** Tổng giám đốc một công ty lớn qua đời để lại khối tài sản kếch xù. Và bản di chúc phân chia số tài sản ấy sẽ được công bố tại lữ quán Kairotei vào 49 ngày mất của ông, địa điểm gắn bó thân thiết với ông trong những ngày quá vãng. Nhưng tất cả tình yêu, đam mê, dục vọng của những người liên quan cùng bản di chúc ấy đã bị nhấn chìm vào biển lửa bi kịch quá khứ và thảm kịch ở hiện tại. Không giống như nhiều tác phẩm khác của tác giả Higashino Keigo, tác phẩm thường được kể theo ngôi thứ ba, người kể chuyện mang điểm nhìn toàn tri bao quát toàn bộ diễn tiến câu chuyện, tường thuật lại chi tiết quá trình điều tra cũng như suy nghĩ cả phía người điều tra lẫn những bên liên quan đến vụ án. Thì Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei (cũng như Án mạng mười một chữ), được kể theo ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện xưng tôi, tự thuật lại hành trình theo đuổi vụ án của người đó. Và một điểm đặc biệt nữa, nhân vật xưng “tôi” ở đây là một nhân vật nữ, chịu nhiều bất hạnh, phải tự gồng mình lên để đòi lại công lý cho bi kịch chính bản thân cô phải chịu đựng. Đó là cô gái 32 tuổi tài năng, thư ký riêng của tổng giám đốc Ichigahara Takaaki – Kiriyu Eriko. Cô gái ấy đã bị chính người đàn ông cô yêu mưu đồ ám sát giữa đêm tối tại lữ quán Kairotei. Sau khi bóp cổ cô, anh ta châm lửa hòng tự sát và thiêu rụi toàn bộ chứng cứ. Nhưng may mắn, Eriko sống sót một cách thần kì; tuy vậy, cô cũng bị hủy hoại nhân hình trong vụ hỏa hoạn. Tuy nhiên, với Eriko, đó không phải là kết thúc bởi ẩn tình, sự thật đằng sau vụ án, yêu hận tình thù cùng trách nhiệm cô mang với tổng giám đốc Ichigahara Takaaki vẫn còn đè nặng trên vai cô. Bởi vậy, Eriko đã hi sinh tất cả, kể cả tên gọi, kể cả danh tính, hóa thân vào vai bà lão Honma Kikuyo đã qua đời, nửa năm sau quay lại lữ quán Kairotei vào ngày công bố di chúc của ông Ichigahara nhằm báo thù và đòi lại công lý. Chính vì đặt điểm nhìn vào vai người phụ nữ đã mất tất cả, để con người đó tự xưng tôi mà tràn ngập trong cuốn tiểu thuyết Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei là những suy nghĩ riêng, là suy luận cá nhân, là ánh nhìn chủ quan qua con mắt của một kẻ như chỉ còn sống mà chờ đợi giây phút khám phá ra tất cả ẩn tình, như chỉ tồn tại để đợi chờ phút giây tự tay cô chấm dứt tất cả. Cũng từ ngôi kể thứ nhất đấy mà điểm nhìn trần thuật cũng dễ dàng hướng ra bên ngoài theo ánh nhìn, sự đánh giá của nhân vật đồng thời nhanh chóng trở thành điểm nhìn bên trong khắc họa nội tâm con người. Và, một câu chuyện trinh thám, được kể từ ngôi thứ nhất đặt lên vai nạn nhân, người bị hại mà chất bi của truyện lại càng thêm sâu sắc. Quá khứ đau thương, vụ hỏa hoạn cách đấy nửa năm tước đi của Eriko tất cả: tình yêu, tương lai, tuổi trẻ. Câu chuyện vì thế như đã vượt ra ngoài một tiểu thuyết trinh thám đơn thuần mà mang đặc điểm của một cuốn tự truyện: tản mát trong suy nghĩ, đứt gãy trong hành động, sự đan xen liên tiếp quá khứ và hiện tại… Bởi vậy sự cực đoan, sự hồ nghi tất thảy, thậm chí là sự lạnh lùng trong ý nghĩa mà cô mang, rất dễ tạo sự đồng cảm nơi độc giả. Án nằm trong án, truyện nằm trong truyện. Ngay từ những chương truyện đầu tiên, thậm chí ngay trong lời bạt tóm tắt tác phẩm nằm ở trang bìa 4 cuốn Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei Nhã Nam xuất bản đã phần nào hé lộ cấu trúc tác phẩm: Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei mang hình thức án lồng trong án, câu chuyện này là kết quả của câu chuyện trước đồng thời mở ra câu chuyện về sau. Cấu trúc như vậy đã tạo nên tính lớp lang, móc xích cho toàn bộ cuốn sách gần 300 trang. Có thể nói, không gian vật lý trong tiểu thuyết Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei khá hẹp, gần như mọi hoạt động, sự việc đều diễn ra nơi khuôn viên lữ quán. Vậy nhưng, không gian hẹp nơi lữ quán Kairotei đã chứng kiến trận hỏa hoạn gần như nhấn chìm một cặp đôi nam nữ, lữ quán đó cũng là nơi xảy ra liên tiếp hai vụ án mạng kinh hoảng, và nơi ấy lần nữa lại chìm trong ngọn lửa của lòng tham và hận thù. Vụ án trong quá khứ, vụ án ngày hiện tại, tất cả lại mở ra những nhánh truyện khác nhau về hàng loạt bí ẩn khó thể cắt nghĩa, khó thể công khai ngoài ánh sáng. Từ bí mật mà người đàn ông quá cố Takaaki vẫn luôn cất giấu tới bí mật Eriko quyết định chôn chặt cùng vụ hỏa hoạn năm nào. Từ mối tình oan trái gắn liền với lữ quán Kairotei tới sự thật câu chuyện về người đàn ông tự vẫn trong hỏa hoạn – Satonaka Jiro. Và giữa thảm án liên hoàn, những góc khuất mà các nhân vật đã luôn lảng tránh cũng dần hé lộ. Để ta nhận ra, những con người xuất hiện trên trang sách của Higashino Keigo, dẫu là kẻ thủ ác hay nạn nhân hay đơn thuần chỉ là những con người liên đới, vô tình xuất hiện tại lữ quán Kairotei, không một ai không có mảng tối trong quá khứ, trong đời sống, trong tâm hồn. Ai cũng có suy nghĩ và có phần ích kỷ riêng. Lữ quán Kairotei, bi kịch tình yêu và thảm kịch một gia đình, như lát cắt của đời sống xã hội Nhật Bản vào giai đoạn chuyển mình thời suy thoái kinh tế. Bên cạnh đấy, cấu trúc truyện lồng truyện ở Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei còn nằm trong khía cạnh: hành động trả thù của Eriko không chỉ diễn ra song song với hành động của hung thủ thật sự mà còn song song với hành động của cảnh sát. Khác với nhiều tác phẩm trinh thám, cảnh sát chỉ nắm giữ vai trò làm nền, thì ở cuốn tiểu thuyết này, họ là những nhân vật thật sự sống động, có những suy luận đặc biệt sắc sảo giúp thúc đẩy tiến trình phát triển câu chuyện cùng đẩy nhanh đến cao trào suy luận, hành động của nhân vật chính, xưng “tôi”. Dẫu rằng họ vẫn là kẻ đến sau, dẫu rằng đến cuối cùng họ cũng không thể ngăn nổi thảm kịch định sẵn, thì tuyến nhân vật cảnh sát vẫn góp một nhánh truyện quan trọng trong cả mạch truyện chảy trôi 288 trang của tiểu thuyết Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei. Bi kịch tình yêu và thảm kịch lòng tham chìm vào biển lửa. Có lẽ, không phải nói quá nếu như khẳng định rằng: Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei là tổng hòa của bi kịch tình yêu và lòng tham con người. Vì một chuyện tình vụng trộm dang dở mà kéo theo sự dở dang của hàng loạt số phận. Vì một tình yêu không nhận được hồi đáp, người ta quyết định phản bội lại yêu thương khi xưa. Vì một tình yêu ngỡ rằng là yêu, đã đẩy người ta xuống bờ vực của hận thù không thoát… Và lòng tham, có thể khiến người ta trở mặt lại với chính thân thích ruột thịt, với chính bạn bè, bán rẻ cả lương tri, bán rẻ cả nhân cách. Nhưng yêu thương hay hận thù, tham lam vô độ cuối cùng cũng chìm vào biển lửa nơi lữ quán Kairotei. Lửa cháy thiêu rụi quá khứ đau thương, ngọn lửa lan rộng cuốn đi thực tại nghiệt ngã. Hỉ nộ ái ố tham sân si, yêu hận tình thù đến thế, cuối cùng đều chìm vào biển lửa. Để rồi tất cả hóa thành hư vô, như cái kết của tiểu thuyết Vụ án ở lữ quán Kairotei vẫn còn để ngỏ về số phận những người ở lại, và cho độc giả tự suy ngẫm, tự viết tiếp cái kết của cuốn sách sau những bi kịch liên tiếp nơi lữ quán hữu tình mà lòng người như nguội lạnh, vô tình ấy. Mọt Mọt Review *** Tôi là một bà lão. Một bà lão sắp bước sang tuổi 70. Đưa vé bước qua cửa soát, cảm giác căng thẳng trong tôi vơi đi được phần nào. Dù tự tin là trông mình rất ổn, nhưng để cho chắc không bị nhìn thấu tâm can, tôi cứ thế cúi gằm mặt trong tàu điện. Đám học sinh ngồi ở hàng ghế đối diện mải mê đọc tạp chí truyện tranh như chẳng thèm đếm xỉa gì đến bà lão này. Không được căng thẳng như thế này. Phải tự tin lên. Cứ đường đường chính chính là ổn. Làm được như thế sẽ không bị ai nghi ngờ. Bên cạnh quầy bán vé có một chiếc gương. Làm bộ thản nhiên, tôi ra đứng trước đó. “Coi này, nhìn ở góc độ nào cũng chỉ thấy một cụ bà cực phẩm là đây.” Không được mất tự tin. Bí quyết chỉ có vậy. Nói rồi, tôi nhìn xung quanh phía trước nhà ga. Không phải một nhà ga to lớn gì. Đại khái cũng có một cái nom giống bùng binh phía trước nhưng không đến mức có đường riêng cho các tuyến xe buýt chạy qua. “Chỗ này mà thuận tiện hơn thì có lẽ khách du lịch sẽ đông lên đấy” tôi đã nói suốt với ông Takaaki như thế, nhưng ông chỉ cười rồi bảo “Nhưng chính cái kiểu dị thường ấy lại ghi điểm cho nơi này.” Tấm biển đề điểm chờ xe taxi gỉ sét khiến tôi lo lắng không biết liệu có xe nào chạy qua đây không. Nhưng chờ độ mười phút thì cũng có một xe taxi tư nhân từ phía bùng binh chạy lại. Lái xe là một người đàn ông đầu tóc bạc phơ, khuôn mặt có vẻ phúc hậu. “Xin cho tôi đến lữ quán1 Ichiharatei.” Tôi nói. “Lữ quán Ichiharatei... À, vâng.” Bác tài vừa khởi động đồng hồ tính tiền vừa hơi ngoái lại phía tôi. “Lữ quán đó giờ không còn kinh doanh nữa. Quý khách có biết không ạ?” “Vâng, tôi có biết. Từ sau vụ tai nạn đó phải không ạ?” “Là vụ hỏa hoạn đấy. Cũng được nửa năm rồi thì phải. Tôi cũng không rõ cụ thể thế nào nhưng đối với lữ quán mà nói thì quả là vận đen hết mức.” Đúng là một ông già nhiều chuyện, cả chuyện đó cũng nói ra được. Qua gương chiếu hậu, bác tài ngó nhìn phản ứng của tôi rồi dò hỏi: “Quý khách chắc không phải là người của lữ quán đâu nhỉ?” “Tôi chỉ là người quen biết với chủ lữ quán thôi.” Tôi đáp. “Ra vậy. Biết thế tôi đã không cần giải thích cặn kẽ rồi.” “À, nhưng đây cũng là lần đầu tiên tôi đến Ichiharatei.” “Chắc vậy rồi. Vì khách quen của lữ quán sẽ không gọi là Ichiharatei mà gọi là Kairotei.” “Kairotei?” “Vì lữ quán được chia thành các khu khác nhau, nối liền bằng một dãy hành lang nên được đặt tên như vậy.” “À, ra là thế.” “Lữ quán ấy nổi tiếng lắm đấy, quý khách. Nghe nói tuy không rộng đến mức cho nhiều khách đến nghỉ nhưng trước đây một nhà văn nổi tiếng nọ đã trọ ở đó trong một thời gian dài. Tôi cũng mong được một lần đến đấy nghỉ mà vẫn chưa có cơ hội.” Nói thế xong bác ta nở nụ cười tươi rói. “Dạo đó chắc vụ hỏa hoạn cũng trở thành đề tài bàn tán của vùng này bác nhỉ?” “Cũng có đấy. Vì kể ra cũng là vụ việc kỳ lạ mà.” Nói đến đây, ông ta đột nhiên thay đổi giọng điệu. “À mà thật tình, cụ thể thế nào thì tôi cũng không rõ. Nhưng nghe nói là đã được tu sửa lại như cũ rồi nên chắc không có gì phải lo lắng đâu.” Ông ta phải vội vàng chữa lời như vậy hẳn là vì đã buột miệng nói về lời đồn kỳ quái đó, sợ sau này bị phía lữ quán Kairotei để mắt đến đây mà. Chẳng mấy chốc, chiếc xe đi vào đoạn đường núi. Những con đường mấp mô nối tiếp nhau. Dân cư thì thưa thớt còn cây cối lại rậm rạp, um tùm. Đi thêm một đoạn nữa, các ngã rẽ nhỏ dần hiện ra. Đầu mỗi ngã rẽ đều dựng biển hiệu của các lữ quán. Đi qua hết dãy biển hiệu, gần đến cuối đường thì mới thấy một tấm biển mới coong đề chữ “Kairotei”. Ở góc biển hiệu còn ghi một dòng chữ nhỏ “Ichiharatei”. Tôi xuống xe trước lữ quán, nhưng không thấy có người ra đón. Tôi liền bước vào sảnh trong nhà kiểu Nhật, hai lần cất tiếng gọi. Được một lát thì nghe thấy tiếng chân vọng lại, rồi từ phía sâu bên tay phải, bà quản lý lữ quán đi ra. Tôi đột nhiên cảm thấy thân thể mình cứng đờ. Đây là cửa ải đầu tiên. Nếu không công phá được nó thì đừng mơ làm gì tiếp. Bà quản lý quỳ gối, nền nã khép hai tay lại rồi hỏi: “Có phải quý bà Honma không ạ?” Bà ấy quãng gần 50 nhưng nhờ lớp trang điểm kỳ công mà mang vẻ nhu mì trông chỉ như ngoài 30. Nhìn vậy tôi cũng có đôi chút ghen tị trong lòng. “Vâng, tôi là Honma Kikuyo.” Phải vừa giữ nguyên tư thế điềm đạm, vừa toát ra một sự thiếu sức sống đúng với cái tuổi này. Chẳng phải vì giây phút này mà mình đã luyện tập trước gương không biết bao nhiêu lần rồi sao. Cho dù đến giờ vẫn không làm được cho hoàn hảo. Một khoảng lặng trôi qua, sau đó bà quản lý nở một nụ cười tươi tắn. “Hân hạnh được đón tiếp quý khách. Quý khách đường xa đến đây chắc mệt lắm rồi đúng không ạ.” Nhìn gương mặt này, tôi chắc mẩm là mình đã thắng. Bà ta không một chút nghi ngờ. Tôi cởi giày bước lên bậc thềm, bà quản lý vẫn giữ nét mặt hồn hậu rồi đứng lên. “Vậy tôi xin phép dẫn quý khách về phòng luôn. Chúng tôi đã nhận được yêu cầu chuẩn bị phòng cao cấp cho quý khách.” “Cảm phiền bà quá.” Nói đoạn tôi cúi đầu xuống, vừa tủm tỉm cười vừa nói tiếp: “Về phòng nghỉ, tôi xin mạn phép có yêu cầu vô lối này.” “Sao cơ ạ?” Mặt bà quản lý lộ rõ vẻ bất ngờ. “Quý khách có yêu cầu gì ạ?” “Cũng chẳng phải yêu cầu gì to tát.” Tôi vẫn cúi mặt cười mỉm, rồi ra vẻ quan trọng, tôi ngẩng đầu lên. “Thật ra tôi có nghe ông nhà tôi kể đã từng nghỉ ở đây. Nghe nói quang cảnh từ phòng ông ấy nghỉ khi đó đẹp tuyệt vời, nên nhân dịp này tôi cũng muốn được nghỉ tại phòng đó.” “À, ra là vậy ạ. Tôi cũng mong sẽ đáp ứng được yêu cầu của quý khách. Phòng đó là phòng nào vậy ạ?” Ánh mắt thoáng hiện lên sự bất an, bà quản lý hỏi. “Ông nhà tôi nói là phòng Inoichi2.” Nghe tôi trả lời xong, bà ấy bối rối thấy rõ. ... Mời bạn đón đọc Vụ Án Mạng Ở Lữ Quán Kairotei của tác giả Higashino Keigo.
Mê Cung Đỏ
Con người ta luôn luôn đòi hỏi những câu chuyện. Trong đó, câu chuyện miêu tả cái chết thường gây kích thích hơn cả. Anh thất nghiệp, lang thang tìm việc, đi phỏng vấn rồi một ngày nọ thức dậy ở nơi xa lạ. Khung cảnh kì quái với núi đá dày đặc những khía ngang thân, không gian thảy đều nhuốm đỏ, lửa đỏ, chiều đỏ, đất đỏ, đến núi đá cũng đỏ lòm. Từ máy trò chơi ai đó để sẵn bên cạnh, anh nhận được thông điệp, "Chào mừng đến với mê cung sao Hỏa. Những người đến đích và an toàn thoát khỏi mê cung sẽ nhận được tiền thưởng và trở về Trái Đất. Trò chơi bắt đầu!" Tin vui là không chỉ có mình anh gặp tình cảnh tương tự, còn tám người nữa cũng tỉnh dậy sau một giấc ngủ kì quặc và được đưa tới đây. Bọn họ bị cô lập giữa thiên nhiên hoang vắng này và muốn thoát ra, họ buộc phải tham gia trò chơi của kẻ giấu mặt. Ban đầu chẳng ai hay biết, muốn trở về được, họ phải tiêu diệt người chơi khác để bản thân trở thành kẻ duy nhất sống sót. Đáp án tàn khốc ấy sẽ từ từ hé lộ sau mỗi chặng hoàn thành nhiệm vụ. Trò chơi dần dần biến thành cuộc chiến sinh tồn, cuộc đuổi bắt giành giật sự sống, và cuối cùng đi đến nấc cao nhất trong cầu thang tiến hóa: giẫm lên xác đồng loại để sống, hi sinh mình cho người khác sự sống, hay đoàn kết với nhau để cùng được sống. Tất cả trông chờ vào tỉ lệ giữa lòng tin và nghi ngờ, bác ái và tàn nhẫn, vào sự lựa chọn của nhân cách con người… *** Review Mê Cung Đỏ - Kishi Yusuke Review của một bạn xin giấu tên về cuốn tiểu thuyết đã có mặt ở Việt Nam 2 năm tuổi rồi nhé :D Mê Cung Đỏ kể về câu chuyện của một người đàn ông tên là Fujiki, khoảng tầm 40 tuổi. Sau một khoảng thời gian trên đỉnh cao sự nghiệp, anh ta tụt dốc và bây giờ đang vật vờ khắp nơi. Nhưng rồi thật kỳ lạ, anh ta bị đưa đến một vùng mà không hề ai biết đến. Khung cảnh kì quái với núi đá dày đặc những khía ngang thân, không gian thảy đều nhuốm đỏ, lửa đỏ, chiều đỏ, đất đỏ, đến núi đá cũng đỏ lòm. Tất cả những gì anh biết là một máy trò chơi mà cho thông tin về trò chơi. "Chào mừng đến với mê cung sao Hỏa. Những người đến đích và an toàn thoát khỏi mê cung sẽ nhận được tiền thưởng và trở về Trái Đất. Trò chơi bắt đầu!" Thực chất đây là vùng Bungle Bungle ở Australia. Fujiki và 6 người chơi nữa cũng được đưa đến đây. Nhiệm vụ ban đầu dường như là chỉ cần đi đến hết các trạm kiểm soát là sẽ thắng. Nhưng càng về sau thì trò chơi càng khiến người chơi bộc lộ bản chất khi chính họ phải giết hại lẫn nhau để có thể sinh tồn được. Khi 7 người chơi gặp nhau ở trạm kiểm soát số 1, thì đã được chia làm bốn hướng, và mỗi hướng sẽ được cung cấp những thứ khác nhau, bao gồm dụng cụ phòng thân, thức ăn, vũ khí và thông tin. Vậy Fujiki sẽ chọn hướng nào, và liệu anh ấy có sinh tồn được không? Cuối cùng cá người chơi bước đến nấc cao nhất trong cầu thang tiến hóa: giẫm lên xác đồng loại để sống, hi sinh mình cho người khác sự sống, hay đoàn kết với nhau để cùng được sống. Tất cả trông chờ vào tỉ lệ giữa lòng tin và nghi ngờ, bác ái và tàn nhẫn, vào sự lựa chọn của nhân cách con người… Nếu đã đọc cuốn Nhà đen, đừng bỏ lỡ Mê Cung Đỏ nhé! ♥️ *** KISHI YUSUKE Sinh năm 1959 tại Osaka, tốt nghiệp khoa Kinh tế học Đại học Kyoto. Năm 1996, tác phẩm ISOLA - Nhân cách thứ 13 của ông đoạt giải xuất sắc Tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản. Sau đó, các tác phẩm khác của ông như: Nhà đen (1997), Búa thủy tinh (2004), Tân Thế Giới (2005), Giờ học của ác quỷ (2008) cũng lần lượt được nhận các giải thưởng văn học khác nhau. Một anh nọ làm ở công ty bảo hiểm nhân thọ, chuyên môn thẩm định tiền bồi thường tử vong. Một ngày kia, anh ta được khách gọi đến tận tư gia, và bất ngờ trở thành người đầu tiên phát hiện ra thi thể treo cổ của đứa con trai nhà ấy. Qua thái độ của bố mẹ chúng, anh ngờ rằng đây không phải là tự tử, mà là giết con để lấy tiền bảo hiểm, nên khi đơn yêu cầu bồi thường được gửi tới, anh đã âm thầm tiến hành điều tra. Từ đó, ác mộng dồn dập tấn công cuộc sống của anh. Nỗi khủng hoảng triền miên, sát khí nặng nề lởn vởn quanh nghi can sát nhân. Và hơn hết thảy, cái chết của những người vô tình hoặc cố ý đã nhảy vào làm chậm trễ quá trình chi trả đều là lời cảnh cáo bằng máu gửi tới anh chuyên viên bảo hiểm. Một truyện dài bất tận dẫn vào địa hạt của bất nhân và run rẩy… Nhà đen đoạt giải Nhất tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản năm 1997. *** Nhánh củi bùng lên trong ngọn lửa… Âm thanh đơn điệu, không theo bất cứ trật tự nào ấy cứ vang vọng trong đầu. Rồi nguồn gốc phát ra âm thanh từ từ di chuyển ra thế giới bên ngoài. Thang âm cao thêm một chút, kể cả tiếng vang và tiếng ồn nho nhỏ cũng trở nên rõ ràng, nghe chẳng khác gì âm thanh của đường rải lạo xạo trên mặt báo trải rộng. Không khí chạm vào da nóng ẩm, nhớp nháp. Thỉnh thoảng có cơn gió lạnh phả qua đầu, mang theo hơi nước rét buốt. Mũi ngửi thấy mùi đất ẩm. Ra là trời đang mưa… Cuối cùng, một ý nghĩ cũng hình thành trong cái đầu đang hỗn độn. Fujiki cố cử động thân thể khi nhận ra có gì đó là lạ. Sống lưng và vai có cảm giác cồm cộm, không giống với cảm giác nằm trên tấm đệm quen thuộc chẳng bao giờ gấp ở căn hộ chung cư tồi tàn. Có vẻ đêm qua anh đã trực tiếp ngủ trên nền đất ẩm, hơn nữa còn trên một mặt sỏi gồ ghề. Đây là đâu? Trong đầu chẳng có câu trả lời nào cho câu hỏi hiển nhiên ấy. Quả thật có mấy lần say túy lúy về được nhà, rồi sáng hôm sau cố thế nào cũng không nhớ nổi những chuyện xảy ra trong đêm trước, nhưng đây là lần đầu tiên anh không biết mình đang ở đâu. Có lẽ anh nên uống ít rượu lại. Anh tự biết mình không thể uống một cách vô độ như ngày xưa, cũng chẳng hề có ý định ganh đua với bóng dáng tuổi trẻ. Nhưng, cứ cho là say rượu đi chăng nữa, tình huống này… Fujiki từ từ mở mắt, cố gắng ngồi dậy. Cơn chóng mặt ập đến bất ngờ, mắt hoa lên khiến tầm nhìn càng lúc càng hẹp lại, cảnh vật xung quanh mờ dần đi. Anh lập tức nhắm mắt, đợi tuần hoàn máu phục hồi như cũ. Rốt cuộc thì chuyện gì đã xảy ra với anh? Cảm giác gần như hoảng loạn trào lên. Thân thể bải hoải, miệng khô khốc như vừa ốm dậy. Anh thử thè lưỡi ra liếm thì thấy môi nứt nẻ, nước bọt có vị đắng nghét tựa vị senburi*. Lạ thật. Trạng thái này không bình thường. Có chuyện gì đó đã xảy ra. Chắc chắn có một chuyện mà anh không ngờ tới đã xảy ra. Một loại thực vật của Nhật vị rất đắng, thuộc họ Long đởm, thường được dùng làm thuốc và trà. (Các chú thích trong sách đều của người dịch và Ban Biên tập tiếng Việt). Anh nơm nớp lo sợ, mở mắt ra lần nữa. Một thế giới nhuốm màu đỏ thẫm kì quặc xuất hiện trong tầm nhìn. Mọi thứ trông thật hư ảo qua màn mưa dày đặc. Chuyện quái gì thế này? Fujiki thẫn thờ nhìn chằm chằm vào cảnh tượng trước mắt. Đó là một nơi trông như hẻm núi, hai bên bị bó hẹp bởi hai vách đá hình thù quái dị. Chỗ anh đang nằm là một hốc đá lõm vào một bên vách, nhờ vậy mà anh không bị ướt mưa. Anh chưa từng thấy, cũng không thể tưởng tượng được rằng trên Trái Đất lại tồn tại một nơi có phong cảnh lạ lùng thế này. Đá kết thành từng cụm tròn nằm san sát với kích cỡ khác nhau, trông giống những sinh vật mọc thành chùm như nấm hay bí ngô hơn là những tảng đá vô tri vô giác. Màu và hoa văn của chúng lại càng kì lạ hơn. Tất cả núi đá trong tầm mắt anh đều có sắc đỏ thắm, lấp lánh dưới mưa. Trên bề mặt, các đường sọc ngang đen giống hệt nhau chẳng khác gì vòng tuổi của cây đại thụ, nhìn kĩ hơn một chút còn có thể thấy cả những họa tiết phức tạp hình thành từ vô số đường gân mảnh màu trắng. Anh không nghĩ mình đã hóa điên, bởi cảnh vật trước mắt quá sống động để có thể coi là ảo giác. Thính giác, thị giác, xúc giác đều đã chấp nhận hiện thực và liên tục truyền tải thông tin cho não bộ, chẳng qua nơi đó vẫn chưa thể cho ra một lời giải thích hợp lý nào. Fujiki bỗng thấy khát cháy cổ. Tuy tình huống khó tin hiện giờ khiến anh điên cả đầu, nhưng trước nhu cầu sinh lý của cơ thể, anh vẫn phải tạm thời dẹp nghi vấn sang một bên. Gần chỗ anh, trừ màn mưa mịt mùng ngoài kia ra, chẳng còn nơi nào có nước nữa cả. Ngay cả lúc phải vất vưởng ở khu Shinjuku, anh cũng chưa từng uống nước mưa, vì trong ấy thường hòa lẫn những chất bẩn gây ô nhiễm khí quyển nên tốt nhất là không uống. Có điều, lúc này không phải lúc để kén cá chọn canh. Anh vừa đứng dậy bằng đôi chân run lẩy bẩy thì lập tức mất thăng bằng, ngã chống tay xuống đất. Cảm giác có thứ gì đó chạm vào đầu ngón tay, anh nhìn xuống và thấy một bình đựng nước hình tròn, màu xanh lá cây. Ngoài ra, bên cạnh còn có một hộp đựng cơm màu đỏ để trong túi nhựa trong suốt và một cái túi nhỏ màu bạc. Thật lạ là đến tận bây giờ, anh mới nhận ra chúng nằm ở đấy. Bình nước nặng trịch. Anh mở nắp bình, thứ bên trong có vẻ là nước. Lý trí mách bảo Fujiki nên xác nhận tính an toàn của nó trước, song, anh chẳng còn đủ sức làm điều đó. Anh đưa lưỡi liếm thử miệng bình rồi bắt đầu tu ừng ực. Nước nặng mùi kim loại nhưng anh thấy ngon không sao tả được. Anh uống một mạch gần nửa bình, giữa chừng còn bị sặc hai, ba lần. Cơn khát vừa dịu đi, cảm giác đói bụng đã ập tới. Đầu óc choáng váng cho anh biết mình đang khẩn thiết cần bổ sung glucose. Sau khi có nước vào, dạ dày teo cứng bắt đầu hoạt động trở lại khiến anh có cảm giác sâu sắc rằng, hình như đã mấy ngày… không, phải một tuần rồi anh chưa được ăn gì. Fujiki lôi hộp đựng cơm từ túi nhựa ra, nhẹ nhàng mở nắp. Bên trong xếp đầy thực phẩm dinh dưỡng dạng thanh. Anh cầm lấy một thanh, do dự vài giây rồi cắn thử một góc. Chúng có vị như bột bánh quy, hình như đã nằm trong hộp khá lâu vì đã ỉu hết cả. Tuy vậy, anh vẫn cứ bốc từng thanh một lên ăn ngon lành. Đến lúc nhận ra thì anh đã ăn hết hàng đầu tiên rồi. Fujiki lập tức đếm số thanh còn lại, ba hàng, mỗi hàng tám thanh, tổng cộng là 24. Anh vội vã rụt tay về, trực giác cho rằng lúc vẫn chưa hiểu được chuyện gì đang xảy ra thì phần lương thực này rất quan trọng. Khi đầu óc tỉnh táo trở lại, Fujiki quan sát xung quanh thêm lần nữa, tự hỏi trước khi tới đây thì mình đã ở đâu. Anh vừa phóng tầm mắt ra xa vừa cố gắng khơi gợi lại kí ức. Trước lúc mất ý thức, nơi cuối cùng anh ở là… Anh có cảm tưởng như một phần nào đó trong kí ức của anh đang bị một màn sương mờ che phủ, cứ như thể đã bị cho uống thuốc gì đó, hoặc anh đã thực sự bị đánh thuốc. Anh nhớ rõ tên mình. Fujiki Yoshihiko. 40 tuổi. Cho đến năm ngoái, anh vẫn là nhân viên của một công ty chứng khoán lớn. Thời kì bong bóng là khoảng thời gian huy hoàng nhất của anh. Gần như đêm nào anh cũng đến Ginza, uống Moêt & Chandon hay Veuve Clicquot* bằng tiền của công ty và tự mãn trong tiếng nịnh nọt của các cô tiếp viên. “Giám đốc điều hành trẻ,” anh thấy sung sướng mỗi khi được gọi bằng cái hư danh ngu ngốc ấy. Thế nhưng, tất cả chỉ là ảo ảnh. Fujiki đã nhận ra điều đó sau khi công ty phá sản và bản thân trở thành một kẻ thất nghiệp. Cả hai đều là tên các nhãn hiệu Champagne nổi tiếng và lâu đời của Pháp. Từ tiểu học, cấp hai cho đến cấp ba, dù chưa từng dốc hết tâm sức cho việc học, anh cũng chưa từng bê trễ mà vẫn cần mẫn đi học thêm. Cuối cùng, bằng thành tích tầm trung, anh bước vào một trường đại học cũng tầm trung nốt. Vì thế, anh chẳng có gì đặc biệt để gợi nhớ về thời thanh xuân cả. Có điều, nhờ cái bằng đại học đó mà anh kiếm được việc ở một công ty lớn và ổn định. Bấy giờ anh nghĩ như thế thật. Nói gì thì nói, nó cũng là công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán Tokyo. Đã được bảo đảm vững vàng, đáng lẽ đến lúc anh nghỉ hưu, nó vẫn không phá sản mới đúng. Nào ngờ chuyện tưởng như không thể lại xảy ra. Ba ngày trước khi bị đuổi khỏi kí túc xá của công ty, vợ anh - Kyoko, đã bỏ nhà ra đi. Giờ nghĩ lại thì ngay từ thời điểm công ty bắt đầu sa sút, chắc chắn cô đã định làm thế rồi. Không đi ngay lúc ấy, có lẽ chỉ vì cô bận tâm đến điều tiếng xung quanh. Dù sao thì anh với Kyoko cũng chưa có mụn con nào, hơn nữa, vốn dĩ vợ chồng anh cưới nhau không phải vì tâm đầu ý hợp. Cô chỉ bị cám dỗ bởi ảo ảnh tương lai ổn định cùng thu nhập ở thời kì đỉnh cao của anh mà thôi. Sau đó, anh dao động giữa thất nghiệp và vô gia cư rồi may mắn dừng lại ở dạng đầu tiên. Nhờ việc này mà anh hiểu ra rằng, không có một ranh giới rõ ràng nào để phân chia hai loại người ấy, bởi chẳng hề tồn tại một thứ như vòng dây tokudawara* cho những kẻ vốn đã thất bại. Vòng dây thừng giới hạn trong môn sumo, ra khỏi vòng tròn sẽ bị loại. Anh vẫn nhớ được mọi chuyện tính đến thời điểm đó, nhưng tiếp theo thế nào thì chịu. Mảnh kí ức cốt lõi có thể giải thích một cách rành mạch tại sao anh lại ở nơi kì dị này dường như đã biến mất. Anh thậm chí còn không thể nhớ nổi anh đã ở đâu trước khi mất ý thức. Cảm giác về thời gian bị nhiễu loạn khiến anh không thể xác định được đâu là điểm cuối cùng của kí ức. Phòng trọ tồi tàn có bếp và phòng ngủ để sống qua những tháng ngày thất nghiệp. Bờ sông có thể thoải mái tản bộ lúc chạng vạng mà không cần để ý đến ánh mắt của người khác. Văn phòng giới thiệu việc làm. Quán cà phê có giấy dán tường màu kem bong tróc bán những bữa sáng rẻ. Quầy ăn bằng gỗ ép hơi bẩn của quán nhậu, nơi duy nhất mang lại chút niềm vui. Những hình ảnh ấy hiện lên trong đầu, lộn xộn, rời rạc, và vẫn không thể tìm được mắt xích nào kết nối với hiện tại. Mất trí nhớ… Vừa nghĩ đến điều ấy, Fujiki rùng mình. Nhưng nghĩ kĩ thì đó là lời giải thích hợp lý nhất, vì có phải phim Miền ảo ảnh đâu mà có chuyện anh đột nhiên vượt qua không gian, thời gian để xuất hiện ở một nơi kì quặc thế này. Chắc chắn là anh đã đánh mất mảng kí ức về những việc xảy ra trước khi bị đưa tới đây. Chỉ cần lấy lại được chúng, mọi sự sẽ hoàn toàn sáng tỏ. Chứng mất trí nhớ ngược chiều. Đó là cụm từ anh nghe bác sĩ nói khi tới bệnh viện thăm người đồng nghiệp vào công ty cùng đợt ở Phòng Kinh doanh. Anh ta bị tai nạn giao thông trong lúc đi gặp khách hàng, đầu bị đập vào đâu đó nên những thông tin cơ bản như tên và nhân thân thì vẫn nhớ, song kí ức về tất cả những chuyện đã trải qua cho đến khi bị tai nạn lại chẳng còn đọng lại mảy may. Nguyên nhân khiến con người mất trí nhớ không chỉ bởi phần đầu bị tổn thương, một số loại thuốc nhất định cũng có thể gây ra tình trạng tương tự sau khi tiêm vào. Tuy nhiên, dù vì lý do gì thì cũng rất hiếm có trường hợp bệnh nhân quên đi những kí ức cơ bản như địa vị xã hội và tên tuổi. Bởi các thông tin ấy đã bị lặp đi lặp lại vô số lần và khắc sâu vào tiềm thức nên dẫu một phần của não bộ có bị mất chức năng hoạt động đi chăng nữa, họ vẫn có thể lấy chúng ra từ bản lưu dự trữ. Quả là trong đầu anh có ghim “bản sao” về sự thật anh thất nghiệp, hệt như mấy hình vẽ lăng nhăng ở nhà vệ sinh, Fujiki nhếch mép cười khẩy, bởi anh đã không ngừng dằn vặt bản thân mình về điều đó trong suốt thời gian qua. Nhưng, cứ cho là anh đã bị ngã rồi mất một phần kí ức đi, anh vẫn chẳng tìm được lời giải thích hợp lý nào cho khung cảnh lạ lùng trước mắt. Fujiki vừa chăm chú nhìn những dãy núi tròn quái dị vừa cảm nhận nỗi sợ hãi đang dần dâng lên trong lòng. Anh bắt đầu thấy hoang mang, vì đây không đơn giản chỉ là mất trí nhớ. Dù anh có cố gắng tưởng tượng chuyện đã xảy ra với bản thân trong kí ức bị thiếu sót kia là một chuyện hoang đường thế nào đi chăng nữa, vẫn chẳng có giả thiết nào thích hợp cho tình huống hiện tại. Bất chấp cái nóng ẩm ngột ngạt, toàn thân anh túa đầy mồ hôi lạnh. Có gì đó không đúng đến từ xúc giác. Nóng ẩm ngột ngạt… Anh sực nhớ ra một chuyện. Cuối cùng anh cũng tóm được một mảnh trong phần kí ức bị mất. Mùa đông. Đúng, không thể sai được. Tuyết phủ trắng xóa. Đây tuyệt đối không phải Tokyo, cái lạnh như cắt da cắt thịt… Nơi cuối cùng anh ở chắc chắn đang vào giữa đông. Thử nhìn xuống trang phục trên người, trên dưới đều là vest, cổ đeo cà vạt, bên trong mặc sơ mi trắng dài tay. Đồng hồ đeo tay hiển thị 5 giờ 16 phút, rất có thể là buổi chiều. Kim giây vẫn đang chạy bình thường. Fujiki thấy ân hận khi đã chọn Rolex, loại đồng hồ kiểu cổ mang dấu vết của thời kì bong bóng. Đây là loại đồng hồ cơ lên dây cót tự động, có độ chính xác không thua gì thạch anh. Chỉ cần kim vừa dừng, đồng hồ sẽ tự động lên dây cót và tiếp tục chạy. Dù sao thì cũng không thể tin tưởng hoàn toàn vào giờ đang hiển thị được. Mời các bạn đón đọc Mê Cung Đỏ của tác giả Kishi Yusuke.