Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đầu Hàng Tình Yêu Của Tôi

Độc giả của Heart Aflame hẳn còn nhớ nhân vật anh trai của Kristen, Selig - xuất hiện phần đầu của câu chuyện , lặn một hồi đến gần cuối truyện mới xuất hiện để hóa giải một phần mâu thuẫn giữa hai nhân vật chính là chàng Royce và nàng Kristen. Đến phần này, theo lời tác giả, " This book is for those who love Selig"... mọi người cùng chờ đón những cuộc phiêu lưu của anh chàng manly kinh khủng Selilg này nhé. Mình cũng vừa đọc vừa dịch thôi, mong được sự ủng hộ của các bạn nhé. Surrender my love.   *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you.   *** Wessex, 879 Anh rảo bước vào đại sảnh của Wyndhurst và cuốn theo ánh nhìn của tất cả phụ nữ nơi đây – họ đều tạm dừng công việc đang làm của mình . Điều này cũng không lấy gì làm lạ. Mỗi lần anh xuất hiện trước mặt đám đông phụ nữ, dù ở đây, ở quê nhà, hay ở đâu khác nữa, phụ nữ không thể không ngước nhìn. Tại Wyndhurst, cũng không là một ngoại lệ dù cho anh là một người Viking và tất cả họ đều là người Saxon, và dù cho người Viking và Saxon hiếm khi hòa nhập mà không có xô xát. Chỉ mới năm ngoái những người đàn ông của họ còn chưa kết thúc cuộc chiến khác với những người Viking Đan Mạch ở phía Bắc. Điều khiến những người đàn bà này đều bị mê hoặc bởi anh chàng Viking này không phải bởi anh ta là một chiến binh tinh nhuệ và được đảm bảo hay bởi chiều cao áp đảo, có phần còn vượt cả lãnh chúa Royce – người có chiều cao vượt trội trong những người Saxon. Lý do đơn giản hơn thế, chỉ bởi họ chưa bao giờ biết đến một người đàn ông với vẻ đẹp trai khác thường của Selig Haardrad. Anh không chỉ có một cơ thể khiến những vị thần miền Nam phải ghen tị mà anh còn sở hữu một khuôn mặt thiên thần, với đôi mắt có thể sáng lên như ánh bạc hay âm u như một cơn bão mùa hè; xương gò má nhô cao tạo nên một sống mũi hoàn hảo, với bờ lông mày hình cánh cung mỏng và một bộ tóc dài và đen ánh. Đôi môi anh thì vô cùng gợi cảm, khiến bất cứ người đàn bà nào gặp anh cũng khao khát được biết đến hương vị của chúng. Những người phụ nữ có lẽ quen với sự xuất hiện của anh trong sáu năm qua kể từ lần đầu tiên, khi anh đột kích tới đây với những người Viking và suýt chết. Nhưng sự quen thuộc cũng không làm nên điều gì khác biệt. Và không một người đàn bà nào miễn dịch, kể cả bà Eda đang nấu nướng tại cuối sảnh, mặc dù bà là người đầu tiên thức tỉnh bản thân và nhắc những người khác quay lại với công việc. Hay cô bé Meghan ngày nào ở trước sảnh, người đang ngồi thêu thùa với đám người hầu trước khi những cánh cửa sổ được mở. Meg mới hơn 14 tuổi , vậy mà cũng thở dài nuối tiếc và ước rằng người đàn ông Viking đặc biệt này không nhiều tuổi gấp đôi cô. Vấn đề không chỉ là cô bé chưa đủ tuổi kết hôn. Những đứa bé có thể được đính ước khi nhu cầu liên minh là cần thiết. Nhưng Royce, anh trai cô, không cần một sự liên minh tương tự bởi lẽ nó đã vốn có. Hơn thế, Royce rất yêu em gái mình và chưa thể cho phép cô bé rời bỏ quê hương trong nhiều năm và bản thân Meg cũng hài lòng về điều này. Ở góc trái của đại sảnh, tại một trong những chiếc bàn đặt quanh những thùng bia lớn, nơi những người đàn ông đang tụ tập, em gái Selig, Kristen đang dõi theo anh mình. Nàng không thường để tâm đến ảnh hưởng của anh trai mình với phụ nữ, nhưng với sự im lặng chào đón sự xuất hiện của anh vào ngày hôm nay thì nàng không thể làm ngơ được nữa. Nàng nhận thấy anh cười mỉm với nhiều người , và liếc mắt với nhiều người mà anh biết rõ. Có quá nhiều điều chưa rõ ràng trong suy nghĩ của nàng Ngồi cạnh Kristen, chồng nàng, Royce cũng đang quan sát và đưa ra một nhận xét “ Có lẽ anh ý nên lấy vợ và giải thoát những người phụ nữ đau khổ này” “ Đau khổ?”, nàng khịt mũi.”” Anh ý du ngoạn khắp nơi và không để lại gì ngoài những tiếng thở dài tiếc nuối. Điều đau khổ sẽ tới nếu anh ý kết hôn. Mà anh ý kết hôn làm gì khi mà tất cả đàn bà ở hai vương quốc này đều sẵn sàng sống chết, đó là còn chưa tính đến những phụ nữ ở những phiên chợ trung tâm mà anh ý vẫn thường ghé qua.?” “ Vậy là điều tương tự đã từng xảy ra ở Na-uy?" “Luôn luôn là thế”. Nàng thở dài. Royce cười thầm, hiểu rằng nàng không phải người duy nhất bực dọc với anh trai của mình về vô số những “cuộc chinh phục “, thậm chí ngay cả trên mảnh đất của riêng nàng. Hai anh em họ quá gần gũi, đến mức nàng không thể nổi cáu với anh mình . Anh biết Kristen đã từng đặt mục tiêu phải trả thù cho cái chết của Selig khi nàng nghĩ người em họ Alden của Royce đã giết chết anh trai mình trong vụ xâm nhập vào vùng đất của Royce ( Wessex) sáu năm về trước. Đó là khoảng thời gian mà Royce không thích nhắc tới, anh suýt nữa đã ra lệnh giết chết những tù nhân của mình và suýt nữa đã mất đi tình yêu đích thực của mình. Vợ anh là một trong số những tù nhân ấy, mặc dù những người bạn của nàng đã giúp nàng cải trang giống như một cậu bé. Và màn cải trang đó suýt đã thành công, vì nàng gần như cao bằng họ, và cao hơn hầu hết những người đàn ông ở đây. Người Viking chỉ phạm một sơ suất duy nhất, đó là vẫn cư xử như thể nàng là một người phụ nữ, bảo vệ, giúp đỡ nàng, chính điều này đã thu hút sự chú ý và cuối cùng chính Royce đã phát hiện ra sự thật vào cái ngày anh dùng roi da tra tấn nàng. Anh đã tách nàng ra khỏi bạn bè của mình ngay sau đó, đưa nàng về đại sảnh của riêng mình. Anh đã nghĩ nàng là một cô gái làm tiền, vì không còn một lí do nào hợp lí hơn cho sự có mặt của nàng ở trên con tàu . Và nàng đã để mặc anh với suy nghĩ đó, thậm chí còn thấy thú vị, và với sự bạo gan của nàng – không giống như bất cứ người phụ nữ nào anh đã từng gặp, nàng đã thực sự lôi cuốn anh ngay từ lần đầu tiên. Nếu nàng không bạo gan , thì anh có thể cưỡng lại ham muốn với nàng, dù nàng đẹp, dù nàng mê hoặc anh, vì lẽ anh ghét tất cả những người Viking. Mặc dầu anh đã chiến đấu chống lại họ trong vòng 15 năm, lòng căm thù của anh chỉ thực sự bùng nổ vào 11 năm về trước. Trong một trận chiến tàn khốc, anh đã buộc phải chết lặng chứng kiến những người Viking Đan Mạch đã giết chết cha và anh trai duy nhất của mình, nhìn vị hôn thê của mình bị cưỡng bức và giết chết. Royce bị bỏ mặc giữa thi thể của những người mà anh yêu thương nhất, và có thể chết nếu những người Đan Mạch không buộc Jurro Monastery đến mảnh đất khác, và cho phép những người hầu còn sống sót đi theo ông ta. Quả thật Royce có những lí do để ghét bỏ tất cả những người Viking. Nếu như anh không phải lòng một trong số họ và, cũng chính bởi lẽ đó, anh cũng cư xử đúng mực với những người thân của nàng. Họ ghé thăm từ Nauy trong những chuyến nghỉ dài ngày, nhưng anh trai Selig là khách thường xuyên nhất, và thực tế anh đã sống cùng họ ba trong số sáu năm qua. Trong năm đầu tiên của cuộc hôn nhân của em gái mình, Selig đã ở lại để đảm bảo Kristen dc đối xử tốt ở trong ngôi nhà mới. Anh đã ở lại cả một mùa đông, và anh trở về Nauy cùng với bố mẹ mình khi họ rời đi sau chuyến viếng thăm vào mùa hè sau đó. Và mặc dù bố mẹ họ không tới thăm vào các mùa hè sau đó, thì Selig vẫn ghé qua, với con tàu mới của mình ( Royce đã đốt con tàu đầu tiên), và thường đi cùng với một hoặc cả hai người em của mình. Tại chiếc bàn kế bên, vờ như đang mài chiếc gươm ngắn bằng gỗ như một người đàn ông đích thực, cậu nhóc năm tuổi Alfred cuối cùng cũng nhận ra sự xuất hiện của cậu mình và ùa ra chào đón. Với một tiếng cười lớn, Selig nhấc bổng cậu nhóc và tung cậu bé lên cao đến 6 feet, gần như chạm vào trần nhà cao. Kristen nhắm chặt mắt và rên lên, nhưng khi tiếng cười vui sướng của con trai vang lên báo hiệu sự an tòan thì nàng mở mắt nhìn cậu bé đang ngồi trên đôi vai của Selig và tiến lại gần vợ chồng nàng. Trong lòng mẹ, cô nhóc ba tuổi Thora đang giang đôi tay bé để đòi được giống như anh mình và Selig sẵn lòng phục vụ cô bé. Nhưng Kristen đã gạt tay anh và nói “ Không , nếu anh còn muốn sống “ Selig chỉ cười lớn khi nghe lời cảnh báo từ em gái mình và gạt tay nàng sang một bên để đón lấy cháu gái. Nhưng anh không tung cô bé lên mà chỉ nâng cô bé và hôn lên đôi má hồng thật kêu, đủ làm vang vọng cả đại sảnh khi cô nhóc cười khúc khích. Rồi anh kéo chiếc ghế dài để ngồi và vẫn đặt Thora trên cánh tay mình một cách vững chắc, trông cô bé thật nhỏ bé trong vòng tay của cậu mình. Kristen không thể giận anh khi nàng biết tình yêu của anh dành cho những đứa cháu trông giống hệt mình. Một đứa được đặt tên giống tên một vị vua, theo ý của Royce và một đứa đặt tên một vị thánh, của người Viking theo ý Kristen. Tuy vậy, sự thật là cả hai đứa bé đều không có màu tóc hoe đậm hay màu mắt xanh nước biển của mẹ mình. Alfred thừa hưởng mái tóc màu nâu xám của bố và đôi mắt xanh ngọc, còn Thora thì giống hệt mẹ Kristen, như cậu Selig, với mái tóc màu đen và đôi mắt xám, trông cô bé giống người Celtic hơn là người Nauy hay người Saxon. “Vậy là xong”, Selig cất tiếng không giấu một nụ cười mãn nguyện. Kristen và Royce không cần thêm một lời giải thích nào cho tuyên bố ngắn gọn ấy. Hai năm trước Selig đã quyết định rằng anh thích định cư ở Wessex. Anh là người thừa kế của cha mình, nhưng cha anh, Garrick vẫn còn dẻo dai nên Selig cũng chưa cần phải thừa kế ngôi nhà và mảnh đất ở Nauy. Ở Nauy, Selig vẫn sống trong ngôi nhà của cha. Giờ đây anh muốn có một ngôi nhà của riêng mình, và anh đã bắt đầu xây dựng ngôi nhà của mình trên mảnh đất gần Wyndhurst mà Royce đã bán cho anh. Đáng lẽ ngôi nhà phải hoàn thành vào năm ngóai nhưng năm ngóai người Saxon còn vướng bận chuyện chiến đấu với người Đan Mạch và Selig đã khiến mọi người ngạc nhiên – ngoại trừ Kristen, người luôn biết rõ là anh sẽ đứng về phe chính nghĩa – bằng việc tham gia cuộc chiến và đứng về phe của người em rể. Mời các bạn đón đọc Đầu Hàng Tình Yêu Của Tôi của tác giả Johanna Lindsey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tarát Bunba
Tarát Bunba là hiện thân của những đặc điểm cao quý nhất của dân tộc Cô-dắc. Hình ảnh Bunba đượm vẻ nghiêm khắc mà lại dịu dàng của mối tình phụ tử. Tarát là người cha của các con mình, đồng thời cũng là người cha của tất cả những người Cô-dắc tín phục ông, đã ký thác cuộc đời, tâm hồn và thể xác cho ông – người chỉ huy kính mến. Khi cầm súng bắn đứa con trai rứt ruột của mình đã phản lại dân tộc, Bunba không những chỉ làm nhiệm vụ của một người lính mà làm nhiệm vụ thiêng liêng của người con của dân tộc Cô-dắc. Tiếng nói của ông già nghiêm khắc còn văng vẳng đâu đây: “Tao đã đẻ ra mày thì bây giờ chính tao lại giết mày…”. *** Gogol (1809-1852) sinh ngày 31.3.1809 là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng Nga và Ukraina. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông Những linh hồn chết, được xem là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của văn học Nga và Ukraina. Gogol sinh ra ở vùng Sorochintsi của Guberniya Poltava (bây giờ là Ukraina) trong một gia đình thuộc mức tầm thường người Ukraina (hay đúng hơn là người Ruthenia). Tên ban đầu của ông theo tiếng Ukraina là Mykola. Bố của Gogol là Vasily Afansevich Gogol, một kịch tác gia tài tử, chết khi ông mới 15 tuổi. Mẹ ông là Mariya Yanopvskaya, luôn có tâm trí buồn sầu u uất và mộ đạo. Sự mộ đạo này cũng đã có ảnh hưởng tới thế giới quan và trạng thái tâm thần u sầu sau này của ông. Khi sinh Gogol, con trai đầu lòng trong số ba người con, bà chỉ mới 15 tuổi. Vào năm lên 12 tuổi, Gogol được gửi vào học trong Lycée Nezhinski. Hai năm cuối ở Lycée Nezhinski là lúc Gogol bắt đầu đi vào nghiệp viết. Các truyện ngắn hay thơ được ông gửi đăng trong tạp chí của trường, đã tỏ rõ trước cho thấy những dấu hiệu của một tài năng. Cũng giống như những chàng trai trẻ Ukraina khác, vào năm 19 tuổi, ông đã chuyển tới thủ đô Sankt-Peterburg để tìm vận may (1828). Vào năm 1831, ông gặp Aleksandr Sergeyevich Pushkin, người đã ủng hộ ông trở thành nhà văn và là bạn của ông sau này. Ông đã dạy lịch sử tại Trường Đại học Quốc gia Sankt-Peterburg từ năm 1834 đến năm 1835. Tác phẩm đầu tay, Hans Kuchelgarten (1829), do ông tự bỏ tiền túi ra in, là một thất bại hoàn toàn, và ông đã ném vào ngọn lửa tất cả những ấn bản ông thấy. Ông tiếp tục viết một số lượng lớn các tập truyện ngắn ở Sankt-Peterburg, bao gồm Nevsky Prospekt, Nhật ký của một người điên, Chiếc áo choàng và Cái mũi (truyện này đã được dựng thành vở opera Cái mũi do Dmitry Shostakovich dàn dựng). Mặc dù tập 1 của truyện Những buổi tối trong một trang trại gần Dikanka là thành công thực sự đầu tiên của ông, tên tuổi ông lại chìm đi sau khi xuất bản truyện Arabesques. Vở kịch vui nhộn Viên Tổng thanh tra, làm năm 1836, lại một lần nữa giúp ông thu hút được sự chú ý của công chúng tới tư cách là một nhà văn. Với giọng văn mỉa mai, châm biếm, cũng giống như trong phần lớn các tác phẩm của ông, đã tạo ra khá nhiều cuộc tranh luận, và sau đó Gogol đã phải chạy sang Roma. Tại đây, ông đã sáng tác Những linh hồn chết (1842), tác phẩm được coi là một trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất của văn chương thế giới. Trong các tác phẩm của mình, ông không chừa ai cả, từ hoàng đế đến quan lại, từ trí thức đến bình dân, từ giới địa chủ đến giới nông nô, tất cả đều là mục tiêu châm chích cho ngòi bút ông. Người ta đã gọi những tác phẩm đó là "những bức hí họa về nước Nga và người Nga". Tuy nhiên cũng nhờ tính sinh động và sức thuyết phục nẩy sinh từ ngòi bút, ông đã làm mờ nhạt đi bộ mặt thật kinh khủng của nó, để lôi cuốn không ngừng đôi mắt độc giả theo một mặt trái ẩn tàng những hình nét đáng cảm động hơn. Vào những ngày cuối đời, ông bị một căn bệnh kỳ lạ ở mũi và phải dùng đỉa để chữa bệnh cho mình. Ông đã phải chịu đựng sự đau đớn vì kiểu chữa bệnh đó cho đến lúc chết. Ba nhân vật vĩ đại nhất của văn học Nga thế kỷ 19 từng định đoạt sự phát triển tinh thần của nhân dân trong thế kỷ 19 và 20 là Gogol, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Lev Nikolayevich Tolstoy - không chỉ là những nhà văn cực lớn của nước Nga, của nhân loại, mà còn là những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Nga thế kỷ 19. Tác phẩm tiêu biểu 1829 : Vinh quang xứ Italy (thơ) 1829 : Thơ kể chuyện (được xuất bản với bút danh V.Alov) 1830 : Người đàn bà (truyện ngắn) 1831 - 1832 : Những buổi tối ở thôn ấp gần Dikanka (tập truyện ngắn) 1835 : Mirgorod (tập truyện ngắn) Những điền chủ cổ xưa Taras Bulba (dựa trên vở opera cùng tên của Mykola Lysenko) Viy Chuyện Ivan Ivanovich cãi nhau với Ivan Nikiforovich như thế nào 1835: Ả Rập (tập truyện ngắn) Bức chân dung (truyện ngắn) Một chương trong cuốn tiểu thuyết lịch sử xưa cũ (truyện ngắn) Đại lộ Nevsky (truyện ngắn) Người tù binh Kavkaz (truyện ngắn) Nhật ký một người điên (truyện ngắn) 1836 : Cái mũi (truyện ngắn) 1836 : Cái bánh xe (truyện ngắn) 1836 : Quan thanh tra (hài kịch) 1842 : Rời nhà hát (tiểu luận) 1842 : Roma (đoạn truyện) 1842 : Chiếc áo khoác (truyện ngắn) 1842 : Đám cưới (kịch, Modest Mussorgsky đã dựng thành vở opera cùng tên và được Mikhail Ippolitov-Ivanov hoàn thiện) 1842 : Những linh hồn chết (tiểu thuyết) 1843 : Những con bạc (kịch) 1847 : Những đoạn chọn lọc từ các lá thư gửi bạn (tập thư và tiểu luận) Mời các bạn đón đọc Tarát Bunba của tác giả Nikolai Vasilyevich Gogol.
Dám Bị Ghét
Ở vùng ngoại ô của cố đô được ngợi ca là thành phố ngàn năm lịch sử, có một Triết gia phát biểu rằng, thế giới vô cùng đơn giản và con người có thể hạnh phúc ngay lúc này. Không thể chấp nhận quan điểm đó, một người trẻ tuổi đã tới gặp để hỏi rõ ông thực sự nghĩ gì. Trong con mắt buồn bã của Chàng thanh niên, thế giới chỉ như một cõi hỗn mang đầy mâu thuẫn, không hề có hạnh phúc. Chàng thanh niên: Tôi xin hỏi lại thầy. Có phải thầy cho rằng thế giới đơn giản đến từng ngóc ngách? Triết gia: Đúng vậy. Thế giới đơn giản đến khó tin. Đời người cũng vậy. Chàng thanh niên: Thầy khẳng định đó không phải lý tưởng mà là hiện thực? Nghĩa là, mọi vấn đề trong cuộc đời của thầy và tôi đều đơn giản? Triết gia: Tất nhiên là vậy. Chàng thanh niên: Được thôi. Trước khi tranh luận, tôi xin được trình bày mục đích chuyến viếng thăm lần này. Trước hết, lý do đầu tiên tôi đến đây là để tranh luận cho ra nhẽ với thầy. Và nếu được, tôi mong thầy rút lại ý kiến của mình. Triết gia: Ha ha ha. Chàng thanh niên: Bởi vì tôi đã nghe lời đồn đại về thầy. Rằng có một Triết gia khác người sống ở vùng này đang truyền bá một lý tưởng khó ai có thể làm ngơ. Đó chính là con người có thể thay đổi, thế giới cực kỳ đơn giản và ai cũng có thể hạnh phúc. Với tôi, đó đều là những luận điệu không thể chấp nhận được. Vì vậy, tôi muốn đích thân đến trao đổi với thầy và nếu có điểm gì bất hợp lý, tôi xin phép được điều chỉnh lại... Liệu thầy có phiền không? Triết gia: Không hề. Tôi rất hoan nghênh. Bản thân tôi cũng mong muốn được lắng nghe tiếng nói của những thanh niên như cậu để học hỏi thêm nhiều điều. Chàng thanh niên: Cám ơn thầy. Tôi cũng không có ý định chưa rõ trắng đen đã phủ định thầy. Hãy giả định rằng luận điểm của thầy là đúng, từ đây, chúng ta bắt đầu suy nghĩ. Thế giới đơn giản, cuộc đời cũng đơn giản. Nếu như mệnh đề này có phần nào chân lý thì có lẽ chỉ là trong thế giới của trẻ thơ. Thế giới của trẻ thơ không có những nghĩa vụ thực tế như lao động, nộp thuế, trẻ thơ sống những ngày tự do, thoải mái trong vòng tay che chở của cha mẹ và xã hội, chúng cho rằng cuộc sống như vậy sẽ kéo dài mãi mãi và mình có thể làm được bất cứ điều gì. Cặp mắt chúng đã được che đi để khỏi chứng kiến hiện thực phũ phàng. Vậy nên, đúng là thế giới phản chiếu trong đôi mắt trẻ mang một hình hài đơn giản. Nhưng càng lớn, thế giới lại càng hiện rõ bản chất, nó nhắc đi nhắc lại với chúng ta cái thực tế "Mày chẳng qua chỉ có thế mà thôi", nó biến mọi khả năng được mong đợi trong cuộc đời trở thành bất khả thi. Những tháng ngày hạnh phúc, lãng mạn kết thúc, nhường chỗ cho thời kỳ chủ nghĩa hiện thực tàn khốc. Triết gia: Ừm, thú vị lắm. Chàng thanh niên: Không chỉ có vậy. Con người ta khi trưởng thành sẽ bị ràng buộc bởi những mối quan hệ xã hội phức tạp, bị đẩy cho nhiều trách nhiệm. Bất kể là trách nhiệm trong công việc, gia đình hay trách nhiệm xã hội. Tất nhiên, các vấn đề xã hội mà khi còn nhỏ con người chưa thể hiểu được như sự kỳ thị, chiến tranh, giai cấp cũng đặt ra trước mặt chúng ta, và ta không thể phớt lờ. Tôi nói không đúng sao? Triết gia: Đúng chứ. Cậu cứ tiếp tục đi. Chàng thanh niên: Trong thời đại tôn giáo còn thịnh hành thì có lẽ chúng ta còn có sự cứu rỗi. Khi đó, ý chỉ của các thần chính là chân lý, là thế giới, là tất cả. Chỉ cần nghe theo ý chỉ đó thì sẽ chẳng còn mấy vấn đề cần lo lắng. Nhưng giờ tôn giáo đã mất đi sức mạnh và tín ngưỡng cũng chỉ mang tính hình thức. Không có chỗ dựa tinh thần, ai cũng run rẩy vì bất an, bị giam cầm trong nỗi hoài nghi. Mọi người sống mà chỉ nghĩ đến bản thân. Đó chính là xã hội hiện đại. Vậy, thưa thầy, xin hãy trả lời tôi. Trước một hiện thực như vậy, mà thầy vẫn cho rằng thế giới đơn giản sao? Triết gia: Câu trả lời của tôi không hề thay đổi. Thế giới đơn giản, cuộc đời cũng đơn giản. Chàng thanh niên: Tại sao? Chẳng phải ai cũng thấy thế giới là một mớ hỗn độn đầy mâu thuẫn sao? Triết gia: Đó không phải bản thân thế giới phức tạp, mà là cậu đang thấy thế giới phức tạp. Chàng thanh niên: Tôi sao? Triết gia: Con người không sống trong thế giới khách quan mà sống trong thế giới chủ quan do chính mình tạo ra. Thế giới cậu đang thấy khác với thế giới tôi đang thấy, thêm nữa có lẽ là một thế giới khó có thể chia sẻ với bất kỳ ai khác. Chàng thanh niên: Thầy nói vậy nghĩa là sao? Chẳng phải cả thầy và tôi đều đang sống trong cùng một thời đại, cùng một đất nước và cùng thấy những điều giống nhau sao? Triết gia: Xem nào, trông cậu còn trẻ lắm, vậy cậu đã uống nước giếng vừa mới múc lên bao giờ chưa? Chàng thanh niên: Nước giếng à? Thực ra thì đã khá lâu rồi, nhà bà tôi ở quê có một giếng nước. Uống nước giếng mát lạnh ở nhà bà vào những ngày hè nóng bức là một niềm vui lớn. Triết gia: Có lẽ cậu cũng biết là nhiệt độ của nước giếng quanh năm ổn định ở mức 18 độ c. Đây là con số khách quan, ai đo cũng vậy. Nhưng nước giếng uống vào mùa hè, ta cảm thấy mát lạnh, còn uống vào mùa đông lại cảm thấy ấm áp. Nghĩa là dù nhiệt độ trên nhiệt kế luôn giữ ở mức 18 độ c nhưng cảm nhận vào mùa hè và mùa đông lại khác nhau. Chàng thanh niên: Đó là ảo giác gây ra bởi sự thay đổi của môi trường. Triết gia: Không, không phải là ảo giác. Đối với cậu lúc đó, nước giếng mát và ấm đều là sự thật không thể phủ nhận. Sống trong một thế giới chủ quan là như thế. Nhận định chủ quan rằng chúng ta "thấy như thế nào" là tất cả, và chúng ta không thể thoát khỏi nhận thức chủ quan của mình. Bây giờ, thế giới trong mắt cậu là một mớ hỗn độn, phức tạp, kỳ quái. Nhưng, nếu bản thân cậu thay đổi, thế giới sẽ trở lại hình hài đơn giản. Vấn đề không phải thế giới như thế nào mà là cậu như thế nào. Chàng thanh niên: Tôi như thế nào? Triết gia: Đúng vậy. Có khi cậu đang nhìn thế giới qua cặp kính râm. Hiển nhiên thế giới nhìn qua đó phải u ám rồi. Vậy thì đừng rầu rĩ vì thế giới u ám nữa, chỉ cần bỏ kính râm ra là được. Thế giới cậu thấy khi bỏ cặp kính râm ra có khi lại quá chói chang, khiến cậu buộc phải nhắm mắt lại, có khi khiến cậu lại muốn đeo kính vào. Dù vậy, cậu có dám bỏ luôn kính ra không? Cậu có dám nhìn thẳng vào thế giới này không? Cậu có cái can đảm đó không? Chàng thanh niên: Can đảm ư? Triết gia: Đúng vậy, đây là vấn đề can đảm. Chàng thanh niên: ... Thôi được rồi. Tôi có cả núi ý kiến phản bác nhưng có lẽ nên để sau. Tôi xin xác nhận lại là, thầy cho rằng "con người có thể thay đổi"? Và nếu tôi thay đổi, thế giới sẽ trở lại hình hài đơn giản của nó. Triết gia: Tất nhiên, con người có thể thay đổi. Không chỉ thế, con người còn có thể trở nên hạnh phúc. Chàng thanh niên: Bất kỳ ai, không có ngoại lệ? Triết gia: Không có ngoại lệ, vả lại còn có thể vào bất cứ lúc nào. Chàng thanh niên: Ha ha, một tuyên bố mạnh bạo! Thật thú vị, thưa thầy. Giờ tôi xin phép được phản bác! Triết gia: Tôi sẽ không bỏ chạy hay trốn tránh đâu. Chúng ta cứ thong thả trò chuyện. Quan điểm của cậu là "con người không thể thay đổi" đúng không? Chàng thanh niên: Không thể thay đổi. Hiện tại, chính tôi đang khổ sở vì mình không thể thay đổi đây. Triết gia: Nhưng, cậu cũng mong muốn thay đổi? Chàng thanh niên: Tất nhiên rồi. Nếu có thể thay đổi được, nếu có thể làm lại cuộc đời, tôi sẽ vui sướng quỳ gối trước thầy. Nhưng chỉ sợ lại thành ra thầy quỳ gối trước tôi mất thôi. Triết gia: Được thôi. Sẽ thú vị lắm đây. Nhìn cậu, tôi lại nhớ đến mình thời sinh viên. Nhớ đến mình thời còn trẻ tràn đầy nhiệt huyết, đã tới tận nơi gặp Triết gia để mưu cầu chân lý. Chàng thanh niên: Vâng, đúng thế đấy. Tôi đang mưu cầu chân lý. Chân lý của cuộc đời. Triết gia: Trước đây tôi chưa từng nhận đệ tử, cũng không hề thấy cần thiết phải làm điều đó. Nhưng kể từ khi trở thành môn đồ của triết học Hy Lạp và gặp được một quan niệm khác, tôi có cảm giác trong thâm tâm mình đã chờ đợi một Chàng thanh niên như cậu bấy lâu nay. Một quan niệm khác? Đó là gì vậy? Nào, hãy cùng vào thư phòng của tôi. Sẽ là một đêm dài đây. Tôi sẽ pha cà phê nóng. ❄❄❄❄❄❄❄❄❄ Cuốn sách này tóm tắt tư tưỏng của Alfred Adler (tâm lý học Adler), người được mệnh danh là một trong "ba người khổng lồ của tâm lý học" sánh ngang với Freud và Jung, qua hình thức câu chuyện "cuộc đối thoại giữa Chàng thanh niên và Triết gia". Được sự ủng hộ to lớn ở các nước châu Âu và Mỹ, tâm lý học Adler đưa ra câu trả lời rất đơn giản và cụ thể cho câu hỏi mang tính triết học "Làm thế nào để con người sống hạnh phúc?" Hiểu được tư tưỏng có thể coi là một chân lý thế giới này, cuộc đời bạn từ nay sẽ thay đổi ra sao? Hay sẽ không có gì thay đổi...? Nào, hãy cùng Chàng thanh niên bước qua "cánh cửa". *** Các bạn thường than vãn về các mối quan hệ làm các bạn trở nên mệt mỏi. Người ngoài thì thấy các bạn nhạt nhẽo và vô nghĩa. Bản thân các bạn thì thấy bản thân mình kém cỏi so với mọi người. Quá khứ của bạn cũng chẳng mấy tốt đẹp, đầy những điều buồn đau và nhìn về một tương lai không mấy tươi sáng. Bạn lại sống trong một môi trường đòi hỏi những yêu cầu đầy khắc nghiệt và thậm chí những quy chuẩn hết sức phi lý. Bạn trở nên bế tắc bởi các thứ bao quanh và càng tồi tệ khi phải sống theo khuôn mẫu của người khác. Và cách giải thoát cho bạn là bạn dám sống với cá tính, với nhu cầu của mình. Và Dám bị ghét của hai tác giả Nhật Bản Kishimi Ichiro và Koga Fumitake sẽ là cánh cửa giúp bạn giải quyết những vấn đề trên. Bạn bất hạnh không phải do quá khứ và hoàn cảnh, càng không phải do thiếu năng lực. Bạn chỉ thiếu “can đảm” mà thôi. Nói một cách khác, bạn không đủ “can đảm” để dám hạnh phúc.” [...] Bởi can đảm để dám hạnh phúc bao gồm cả “can đảm để dám bị ghét” nữa. [...] Chỉ khi dám bị người khác ghét bỏ, chúng ta mới có được tự do, có được hạnh phúc. Cuốn self- help mang hình bóng của một tác phẩm văn học kinh điển Khi nhìn tên sách và trang bìa của cuốn sách thì đích thực đây là một cuốn self – help. Nhưng điểm bất ngờ là khi mở những trang đầu tiên, đọc những câu mở đầu chúng ta lại nghĩ rằng đây là một tác phẩm văn học kinh điển. Đó là một cuộc đối thoại giữa Chàng thanh niên và người Triết gia. Tất cả đều có cốt truyện, có nhân vật và sự việc, nó không hề giống những cuốn self – help khác mà các bạn đã từng đọc. Cuốn sách được trình bày một cách sinh động, cuốn hút và văn phong cũng vô cùng mới mẻ, hấp dẫn, đem lại sự cuốn hút, không hề nhàm chán đối với người đọc.     Chàng thanh niên: Tôi xin hỏi lại thầy. Có phải thầy cho rằng thế giới đơn giản đến từng ngóc ngách? Triết gia: Đúng vậy. Thế giới đơn giản đến khó tin. Đời người cũng vậy. Một cuốn sách self – help quá đặc biệt, khi những thông điệp, những bài học được truyền tải qua góc nhìn của chàng thanh niên và nhà Triết gia. Điều này tạo nên một dấu ấn đặc biệt của Dám bị ghét so với những cuốn self - help khác! Cậu bất hạnh bởi cậu tự chọn lấy bất hạnh                    Nhiều người luôn than rằng tại sao tôi lại bất hạnh như thế này? Nhưng cuộc sống này là của bạn, là do bạn điều khiển. Chỉ là bạn có biết tận dụng và tận hưởng nó hay không mà thôi. Chả ai đem đến bất hạnh cho bạn cả vì làm gì có ai sống cuộc sống của bạn, làm gì có ai lựa chọn cách sống thay bạn. Bạn bất hạnh là do chính bản thân bạn tự lựa chọn lấy. Ở một giai đoạn nào đó trong cuộc đời, cậu đã chọn “bất hạnh”. Đó không phải là cậu sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh hay rơi vào tình cảnh bất hạnh, mà vì cậu đã cho rằng đối với bản thân mình “bất hạnh” là một dạng “thiện”. Những câu nói của nhà Triết gia giải đáp những câu hỏi của chàng thanh niên khiến chúng ta có những cái nhìn khách quan hơn về cuộc sống, nhìn bao dung hơn về cuộc đời, đơn giản cách nhìn nhận và cảm nhận. Cuộc đời cậu được quyết định “ngay tại đây, vào lúc này” Nhà triết gia đã giảng giải cho chàng thanh niên rất nhiều điều triết lý liên quan đến tâm lý học Adler. Đặc biệt là vấn đề thay đổi lối sống. Nhà triết gia nói rằng cậu không thể thay đổi bản thân vì cậu quyết tâm không thay đổi. Và cách để thay đổi lối sống chính là quyết tâm từ bỏ lối sống hiện nay. Hơn thế nữa, nhà Triết gia còn nói về các cái cớ để không từ bỏ lối sống hiện tại, những triết lý không hề sáo rỗng như đem lại những nhận thức mới mẻ hơn cho chính chàng thanh niên. Dự thi trượt thì cũng phải làm. Như có thể sẽ trưởng thành hơn hoặc có thể sẽ hiểu ra rằng mình cần phải đi theo con đường khác. Dù thế nào cũng có thể tiến lên phía trước. Thay đổi lối sống hiện tại chính là như vậy đó. Nếu cứ mãi không gửi bản thảo dự thi, sẽ chẳng tiến lên được... Cậu không cho rằng cứ đưa đủ các “lý do không thể làm được” để đáp lại một vấn đề đơn giản – một việc cần phải làm là một cách sống khổ sở sao?... Nhà triết gia còn cho rằng, cuộc đời của chàng thanh niên được quyết định ở chính thời điểm này, chứ không phải là những gì diễn ra ở trong quá khứ, không phải những gì đã xảy ra trước kia. Dù quá khứ có tối tăm đến mức nào chả ảnh hưởng gì đến tương lai cả. Mọi phiền muộn đều bắt nguồn từ quan hệ giữa người với người Chàng thanh niên hỏi nhà Triết gia rằng “Để xóa tan phiền muộn thì chỉ có cách sống một mình trong vũ trụ” nghĩa là sao, chẳng phải nếu chỉ sống một mình sẽ lại bị cảm giác cô độc làm cho phiền muộn hay sao? Và nhà triết gia đáp lại rằng cậu cô độc không phải vì cậu có một mình. Và theo nhà triết gia nói về Adler cho rằng mọi phiền muộn đều bắt nguồn từ mối quan hệ giữa người với người. Vì những phiền muộn nội tâm không hề tồn tại mà trong bất cứ muộn phiền nào đều mang bóng dáng của người khác. Những muộn phiền này được Adler cho rằng, nếu như thế giới chỉ có chính mình, không có xuất hiện người khác, thì sự phiền muộn cũng sẽ tan biến. Cô độc không phải vì chỉ có một mình. Cậu cảm thấy mình bị tách biệt, xa lánh khỏi những người xung quanh, khỏi xã hội, cộng đồng, đó mới gọi là cô độc. Chúng ta cần người khác để cảm thấy cô độc. Nghĩa là con người chỉ trở thành “cá nhân” khi đặt vào các mối quan hệ xã hội mà thôi. Đời không phải là cuộc cạnh tranh với người khác Trong mỗi chúng ta, chắc chắn ai cũng có tâm lý, cuộc đời là một sự rượt đuổi, một sự cạnh tranh khốc liệt để chúng ta vươn lên vị trí số một. Nhưng theo Adler, tâm lý không ngừng phấn đấu để bản thân tiến lên thêm một bước, chứ không phải là tâm lý cạnh tranh để vượt lên trên người khác. Nhà triết gia có những câu nói rất ấn tượng và sâu sắc dành cho chàng thanh niên trẻ tuổi Chàng thanh niên  Ý thầy nói rằng đời không phải là cuộc cạnh tranh? Triết gia                Đúng vậy. Không cần cạnh tranh với ai cả. Chỉ cần không  ngừng tiến lên là được. Tất nhiên cũng không cần so sánh mình với người khác. Chúng ta ai cũng khác nhau. Chẳng có người nào giống hệt người nào về mặt giới tính, tuổi tác, kiến thức, kinh nghiệm , ngoại hình cả. Hãy có cái nhìn tích cực về những điểm khác biệt giữa mình và người khác. Chúng ta không giống nhau nhưng lại bình đẳng với nhau. Tự do thực sự là gì ? Chúng ta nói chúng ta muốn một cuộc sống tự do nhưng bản chất của tự do là gì, thực sự tự do là gì thì lại rất ít người biết. Theo như nhà triết gia tự do thực sự là đẩy bản thân lăn ngược lên dốc. Hay cụ thể hơn là tự do là bị người khác ghét. Chắc hẳn chúng chả muốn ai ghét mình cả. Chúng ta đều muốn ai cũng sẽ hòa hợp với mình. Nhưng để  sống mà không một ai ghét là một cách rất mất tự do. Chúng ta phải xoay sở bản thân chúng ta theo người nọ, theo người kia. Nhiều khi chúng ta cảm thấy thật mệt mỏi khi phải xoay sở như vậy. Nếu muốn được tự do tức là ta không phải xoay sở theo ai cả nghĩa là bị người khác ghét. Cái giá này là cái giá khá đắt chúng ta phải trả để tìm được sự tự do. Không sợ bị ghét mà cứ tiến lên phía trước. Không sống như hòn đá lăn xuống dốc mà cố gắng leo lên con dốc trước mặt. Đó chính là tự do đối với con người. Nếu trước mặt tôi có hai lựa chọn “cuộc đời được tất cả mọi người yêu mến” và “cuộc đời có những người ghét mình”, tôi sẽ không hề băn khoăn mà chọn cuộc đời sau. Tôi quan tâm tới việc mình như thế nào hơn là mình được mọi người đánh giá ra sao. Cũng có nghĩa là tôi muốn sống tự do. Sống hết mình “ngay tại đây, vào lúc này”  
Oscar Và Bà Áo Hồng
Oscar và bà áo hồng được viết bởi nhà văn Eric-Emmanuel Schmitt. Ngay khi ra mắt, cuốn sách nhanh chóng gặt hái nhiều thành công, với vô số giải thưởng như giải Chronos, giải Jean Bernard của viện hàn lâm Y học… Bên cạnh đó, tác phẩm còn được chuyển thể thành phim, kịch và luôn được đánh giá cao trong lòng công chúng. Ở Việt Nam, tác phẩm được giáo sư Ngô Bảo Châu và Nguyễn Khiếu Anh đồng dịch, xuất bản năm 2015. Oscar và bà áo hồng là những bức thư gửi đến Chúa của cậu bé Oscar 10 tuổi, biệt danh Sọ Trứng bởi cậu có cái đầu trọc lốc - hệ quả của những đợt điều trị hóa chất. Cậu kể cho Chúa nghe về căn bệnh ung thư của mình, về bà Hoa Hồng - người tình nguyện viên già luôn ở bên Oscar trong bệnh viện. Có thể nói, chính bà Hoa Hồng đã trao cho cậu bé hy vọng sống trong những ngày còn lại của cuộc đời, chi tiết bà kể với cậu bé về truyền thuyết: “Ở quê bà, Oscar ạ, có một truyền thuyết kể rằng trong 12 ngày cuối cùng của một năm, người ta có thể dự đoán được 12 tháng của năm tiếp theo sẽ như thế nào. Chỉ cần quan sát từng ngày một để có được bức tranh thu nhỏ của từng tháng… Đấy là truyền thuyết. Ta muốn bà cháu mình thử chơi trò đó, cháu và ta. Đặc biệt là cháu. Từ ngày hôm nay cháu sẽ quan sát mỗi ngày và tự nhủ là mỗi ngày tương ứng với 10 năm”. Chính truyền thuyết hư cấu này đã mang đến hy vọng sống cho cậu bé. Từ giây phút ấy, mỗi ngày trôi qua đối với cậu bé Oscar đều là một ngày tuyệt diệu. Cậu được sống trọn vẹn với ý muốn và tình cảm của mình, trải qua những năm tháng “dậy thì” đầy rắc rối với vài người bạn trong bệnh viện và biết rung động trước cô bạn gái. Hay những năm tháng “tuổi trẻ” đáng nhớ khi Oscar dũng cảm đứng ra bảo vệ người yêu, kết hôn và ở bên cạnh “vợ” của mình trong cuộc phẫu thuật quan trọng, giải quyết bất hòa với bố mẹ trong đêm Giáng Sinh… Rồi đến độ tuổi “xế chiều”, cậu trầm tư suy nghĩ về tất cả những gì đã trải qua trong đời mà không hề hối hận… Oscar sống hết mình, học cách yêu thương và nghĩ về người xung quanh, về cuộc sống nhiều hơn là cái chết. Từng là một cậu bé luôn trách bố mẹ, gọi họ là “nhát cáy” vì không dám cười nói, gần gũi với cậu như khi khỏe mạnh. Nhưng nhờ bà Hoa Hồng, Oscar đã hiểu ra nỗi đau, việc né tránh của họ khi phải chứng kiến con mình ngày càng yếu và có thể ra đi bất cứ lúc nào. Thấu được nỗi lòng cha mẹ, cậu không còn trách họ, ngược lại Oscar đã can đảm nói “Con yêu bố mẹ, hãy luôn ở bên con”. Và chính câu nói ấy đã khiến bố mẹ Oscar thức tỉnh, can đảm để dẹp nỗi sợ mất con, thay vào đó là sự yêu thương con trọn vẹn từng ngày. Đối với vị bác sĩ tận tụy Dusseldorf, Oscar đã suy nghĩ trưởng thành hơn, cậu nói: “Bác sĩ hãy sống thoải mái lên vì bác sĩ đã cố gắng chữa trị cho cháu hết sức có thể rồi, đừng coi đó là tội lỗi để mà ôm rơm nặng bụng…”. Chính câu nói ấy của Oscar đã khiến Dusseldorf mỉm cười nhẹ nhõm, suy nghĩ lạc quan, tích cực hơn để tiếp tục công việc cứu người cao cả. Chỉ vỏn vẹn hơn 100 trang sách, nhưng Schmitt đã kể cho chúng ta thấy những nỗi buồn, nỗi đau, niềm hy vọng và cả tình yêu giữa con người với con người qua cái nhìn của một cậu bé và cả cảm xúc trước khi lìa xa thế giới của rất nhiều người. Qua hình ảnh Oscar, tác giả muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng trong cuộc sống hiện tại, hàng ngàn “Oscar” đang sống những ngày tháng ngắn ngủi xung quanh chúng ta. Bạn hãy trân trọng, yêu cuộc sống này bởi không phải ai cũng có cơ hội để thực hiện điều đó. Nếu ta có tình cảm với ai đó đừng ngại bày tỏ, buồn hãy tìm người chia sẻ, muốn gì nhất định phải thực hiện ngay... Nguyên Phương - Zing.vn *** Chúa thân mến, Cháu tên là Oscar, cháu mười tuổi, cháu từng châm lửa đốt mèo, đốt chó, đốt nhà (hình như cháu đã từng rán cả mấy con cá vàng nữa) và đây là bức thư đầu tiên cháu gửi cho ông bởi vì trước đây cháu bận học nên không có thời gian. Báo trước với ông luôn, cháu ghét viết lắm. Phải bị ép thì cháu mới viết. Bởi vì viết là cái trò buộc nơ, kết hoa, tủm tỉm cười duyên, vân vân… Viết chỉ là nói dối để làm cho đẹp hơn. Đấy là trò của người lớn. Bằng chứng à? Đây nhé, đầu thư cháu viết thế này: “Cháu tên là Oscar, cháu mười tuổi. Cháu từng châm lửa đốt mèo, đốt chó, đốt nhà (hình như cháu đã từng rán cả mấy con cá vàng nữa) và đây là bức thư đầu tiên cháu gửi cho ông bởi vì cháu bận học, không có thời gian” đáng ra cháu cũng có thể viết là: “Mọi người gọi cháu là Sọ Trứng, trông cháu có vẻ mới bảy tuổi, cháu sống ở bệnh viện vì bệnh ung thư, cháu chưa bao giờ nói chuyện với ông vì cháu chẳng tin là ông có thật.” Chỉ tội cháu viết thế thì hỏng bét, ông sẽ khó để ý đến cháu hơn. Mà cháu lại cần ông để ý đến cháu. Thậm chí còn tiện cho cháu nếu ông dành thời gian giúp cháu đôi ba việc. Thế này nhé. Bệnh viện là một nơi cực-kỳ-dễ-thương, với hàng đống người lớn vui vẻ và nói to, với đầy đồ chơi và các bà áo hồng* thích chơi với trẻ con, với bọn bạn lúc nào cũng rảnh rang như Thịt Rán, Einstein hay Bỏng Ngô, tóm lại, bệnh viện thật là đỉnh nếu ông là một bệnh nhân làm người khác vui. Thế mà cháu không làm cho người khác vui nữa. Sau khi ghép tủy, cháu cảm thấy mình không làm cho người ta vui nữa. Sáng nay, ông bác sĩ Düsseldorf khám cho cháu mà chẳng vui vẻ gì, cháu làm ông ấy thất vọng. Ông ấy nhìn cháu mà chẳng nói gì, cứ y như là cháu đã làm gì sai. Mà cháu cũng cố gắng lúc phẫu thuật đấy chứ; cháu ngoan, cháu để người ta gây mê, cháu đau mà không kêu, cháu uống đủ thứ thuốc. Có những hôm cháu muốn thét lên với ông ấy, để nói với ông ấy rằng có thể chính ông ấy, bác sĩ Düsseldorf, với cặp lông mày đen sì, đã đánh hỏng vụ phẫu thuật ấy. Nhưng trông ông ấy đau khổ quá cho nên những lời xỉ vả của cháu bị nghẹn lại ở cổ họng. Bác sĩ Düsseldorf càng im lặng, ánh mắt buồn bã, cháu lại càng có mặc cảm tội lỗi. Cháu hiểu ra mình đã thành một bệnh nhân tồi, một bệnh nhân ngăn người ta tin rằng y học thật là tuyệt diệu. Ý nghĩ của bác sĩ là một thứ truyền nhiễm. Bây giờ cả tầng, tất cả các y tá, các bác sĩ nội trú và các bà lao công đều nhìn cháu như thế. Họ có vẻ buồn rầu khi cháu vui vẻ; họ cố rặn cười khi cháu pha trò. Đúng là bây giờ người ta cười không còn như trước nữa. Chỉ có bà Hoa Hồng là không thay đổi. Theo cháu thì bà ấy đằng nào cũng già quá rồi, không thay đổi được nữa. Với lại bà ấy Hoa Hồng quá. Cháu chẳng cần giới thiệu bà Hoa Hồng với ông đâu, Chúa nhỉ, bà ấy là một bà bạn tốt của ông mà, vì bà ấy chính là người bảo cháu viết thư cho ông. Vấn đề là ở chỗ chỉ có một mình cháu gọi bà ấy là bà Hoa Hồng. Thế nên ông phải cố gắng một tí để biết xem cháu đang nói về ai nhé: trong số các bà mặc áo bờ lu hồng đến chơi với bệnh nhân trẻ con, bà ấy là bà già nhất. – Bà Hoa Hồng ơi, bà bao nhiêu tuổi? – Cháu có nhớ được số có mười ba chữ số không, nhóc Oscar? – Ôi! Bà bốc phét! – Không. Không được để ai ở đây biết tuổi của bà đâu đấy, nếu không bà sẽ bị đuổi và bà cháu mình không được gặp nhau nữa. – Sao lại thế? – Vì bà ở đây trái phép. Có giới hạn tuổi cho các bà áo hồng. Mà bà đã vượt xa cái giới hạn ấy rồi. – Bà bị quá đát à? – Đúng rồi. – Giống như sữa chua? – Im nào! – OK! Cháu sẽ không nói gì đâu. Bà ấy thật là dũng cảm khi tiết lộ bí mật với cháu. Nhưng bà ấy gặp đúng người tốt đấy. Cháu sẽ câm như hến, mặc dù cháu cũng lấy làm lạ là với chừng ấy nếp nhăn trông như các tia nắng xung quanh mắt mà bà ấy lại không bị ai nghi ngờ gì. Một lần khác, cháu biết thêm một bí mật của bà ấy, mà nghe đến nó thì chắc chắn là ông, Chúa thân mến, sẽ nhận ra bà ấy là ai. Bà Hoa Hồng và cháu đi dạo trong hoa viên bệnh viện, và bà ấy giẫm phải một cục phân. – Tổ sư! – Bà Hoa Hồng ơi, bà nói bậy đấy. – Ranh con, để cho ta yên, ta muốn nói gì thì ta nói. – Ơ kìa, bà Hoa Hồng! – Nhấc cái mông lên. Đi dạo chứ có phải là đua ốc sên đâu. Khi đã ngồi xuống một cái ghế băng để mút kẹo, cháu mới hỏi: – Sao bà nói năng dữ tợn thế? – Bệnh nghề nghiệp đó, nhóc Oscar à. Trong nghề của bà, nói năng ỏn ẻn thì bà toi rồi. – Thế bà làm nghề gì? – Bà nói cháu cũng không tin đâu… – Cháu thề là cháu sẽ tin. – Đô vật. – Cháu không tin bà đâu! – Đô vật. Người ta đặt cho bà biệt danh là Bà bóp cổ vùng Languedoc*. Từ đó, mỗi khi cháu buồn chán, và khi bà Hoa Hồng tin chắc không có ai nghe thấy, bà lại kể cho cháu nghe về những giải đấu vật lớn mình từng tham gia: Bà bóp cổ vùng Languedoc đấu với Mụ bán thịt vùng Limousin*, cuộc đấu suốt hai mươi năm với Diabolica Sinclair, một bà người Hà Lan có vú là quả đạn cối, và nhất là trận đấu ở Cúp thế giới với Ulla-Ulla, còn gọi là Con chó ở Büchenwald*, người chưa từng thua cuộc, ngay cả khi phải đối mặt với Cặp đùi thép, hình mẫu của bà Hoa Hồng hồi còn là đô vật. Các trận đấu của bà Hoa Hồng làm cháu mơ mộng mãi, vì cháu cứ tưởng tượng cái cảnh bà bạn của mình như lúc này đang ở trên võ đài, một bà già nhỏ bé mặc áo bờ lu màu hồng, hơi lập cập, đang ra tay xay ra cám mấy con quỷ cái mặc may ô. Cháu có cảm giác như đấy chính là mình. Cháu trở thành kẻ mạnh nhất. Cháu đi trả thù. Đấy, với chừng ấy chỉ dẫn, bà Hoa Hồng hay Bà bóp cổ vùng Languedoc, mà ông không phát hiện ra bà Hoa Hồng là ai thì Chúa ạ, ông phải thôi làm Chúa và nên về hưu là vừa. Cháu nghĩ là mình đã nói rõ rồi đấy nhỉ? Quay về chuyện của cháu nhé. Tóm lại là vụ ghép tủy của cháu làm mọi người ở đây thất vọng. Vụ hóa trị cũng đã gây thất vọng rồi nhưng không nghiêm trọng bằng, vì người ta còn hy vọng vào việc ghép tủy. Bây giờ cháu có cảm giác là mấy ông lang kia chẳng biết đề xuất gì nữa, đến là đáng thương. Bác sĩ Düsseldorf, người mà mẹ cháu cứ bảo là đẹp trai, dù cháu thì thấy lông mày hơi rậm, ông ấy tỏ vẻ chán nản hệt như một ông già Noel hết sạch quà trong túi. Không khí tồi tệ dần. Cháu nói chuyện với thằng bạn Thịt Rán. Thực ra nó không phải tên là Thịt Rán, mà là Yves, nhưng chúng cháu gọi nó là Thịt Rán vì tên ấy hợp với nó hơn, vì nó bị bỏng nặng. – Thịt Rán này, tớ có cảm giác là các bác sĩ không thích tớ nữa, tớ làm họ thấy tuyệt vọng. – Cậu đùa à, Sọ Trứng! Các bác sĩ ấy, họ không biết mệt mỏi đâu. Lúc nào họ cũng có đầy ý tưởng phẫu thuật cho cậu. Tớ đếm rồi, họ đã hứa thế với tớ ít nhất là sáu lần. – Có lẽ là câu tạo cảm hứng cho họ. – Chắc thế. *** Éric-Emmanuel Schmitt thu hút người đọc trước hết bởi giọng văn mượt mà, ấm áp và các cốt truyện mang tính giáo dục, nhân văn cao cả. Ông từng chia sẻ: "Tôi không viết để thuyết giáo. Ngược lại, tôi thích làm người đọc suy nghĩ bằng cách kể một câu chuyện hay". Có lẽ chính vì suy nghĩ này của tác giả mà truyện và kịch của ông đã được đưa vào giảng dạy tại các trường trung học tại Pháp và Đức như những tác giả đương đại kinh điển. Người ta đã viết về các tác phẩm của ông: Đề cập đến những vấn đề phức tạp bằng ngôn từ đơn giản, bằng tiếng nói từ trái tim và làm người ta suy nghĩ đến ý nghĩa thực sự của sự việc đó. Các tác phẩm của Schmitt đặt ra những câu hỏi lớn như : Nếu không có chiến tranh và xung đột các tôn giáo sẽ nói gì với nhau, sẽ tồn tại như thế nào? Nên nhìn sự sống và cái chết như thế nào ? Yêu thương, sự tôn trọng, thù hận, cô đơn, chủng tộc, màu da, đức tin, trẻ em, người già, xã hội, tệ nạn... người ta đã đang và sẽ nhìn nhận những cảm xúc và thực tại đó như thế nào ? 6 tác phẩm của Éric-Emmanuel Schmitt đã được dịch sang tiếng Việt: 1.     Nửa kia của Hitler (giải thưởng văn học dịch của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2008). 2.     Con của Noé. 3.     Một mối tình ở điện Élysée. 4.     Một ngày mưa đẹp trời. 5.     Chàng Sumo không thể béo. 6.     Oscar và bà áo hồng. Mời các bạn đón đọc Oscar Và Bà Áo Hồng của tác giả Éric-Emmanuel Schmitt.