Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lỡ Yêu Gracie

Cô theo anh khắp nơi, để ý từng hành động của anh, biến cuộc sống của anh thành địa ngục trần gian suốt hai năm trời... và cô bỏ đi. Bây giờ cô trở lại. Anh nên vừa hét vừa chạy theo hướng ngược với cô, đúng không? Vậy tại sao anh ở lại để... lỡ yêu Gracie? *** "Gracie? Gracie Landon? Phải cô đó không?" Bị bắt gặp, đứng ngay giữa bãi cỏ trước nhà mẹ của cô, 1 tay cầm báo, 1 tay cầm li cà phê, Gracie Landon nhìn về phía lối thoát là cánh cửa trước của ngôi nhà với vẻ khao khát. Về lý thuyết, thì cô có thể vụt chạy thoát đi, nhưng như vậy sẽ là bất lịch sự với bà Eunice Baxter, người hàng xóm lớn tuổi. Và Gracie Landon đã được dạy dỗ đàng hoàng. Cô vén mớ tóc đã dán chặt vào mặt sau giấc ngủ qua 1 bên, lê bước đến cái hàng rào thấp bằng gỗ ngăn cách nhà Landon và nhà bà Eunice Baxter trong đôi dép Tweetie Bird của em gái cô. "Chào buổi sáng, bà Baxter," cô nói, hi vọng là giọng cô nghe vui vẻ chứ không gượng ép. "Đúng, là cháu, Gracie nè." "Trời thần, vậy là đúng rồi. Tôi không gặp cô nhiều năm rồi nhưng tôi thề là tôi có thể nhận ra cô ở bất cứ đâu. Bao lâu rồi nhỉ?" "14 năm rồi." Nửa cuộc đời cô. Cô đã rất mong là mọi người đã quên cô đi. "Chà, phải nói chứ... trông cô đẹp hẳn ra. Khi cô bỏ đi, tôi nói vầy là có ý tế nhị lắm rồi đó, cô là 1 đứa bé xấu thấy sợ luôn. Thậm chí bà má tội nghiệp của cô cứ phải lo lắng suốt là cô sẽ không trổ mã xinh đẹp ra, nhưng mà cô đã làm được. Bây giờ trông cô rạng rỡ, xinh xắn như người mẫu bìa tạp chí ấy." Gracie không thực sự muốn nhớ lại thời kỳ "vịt con xấu xí" của cô - 1 giai đoạn đã kéo dài gần sáu năm. "Cám ơn," cô nói, chân nhích dần về phía hiên nhà. Eunice vun cho phồng mái tóc với những lọn xoăn tít của bà, tay gõ gõ vào cằm." Cô biết không, tôi mới nói chuyện với bà bạn Wilma của tôi về cô. Chúng tôi đã nói rằng giới trẻ ngày nay không biết yêu là gì. Không giống như trong phim hay như cách cô đã yêu Riley Whitefield."  Ôi Trời ơi, Trời ơi. Trời ơi. Đừng nhắc chuyện Riley. Bất cứ chuyện gì trừ chuyện đó. Sau từng ấy thời gian, cái tiếng xấu cô là 1 kẻ bám đuôi ngây thơ, cuồng dại vẫn không thể ngủ yên ư? "Cháu không hẳn đã yêu anh ấy," Gracie nói, tự hỏi tại sao cô lại đồng ý trở về nhà sau từng ấy thời gian. Ồ phải. Đám cưới của em gái cô. "Cô là một minh chứng cho tình yêu chân thật," Eunice bảo cô. "Cô nên tự hào. Cô đã yêu thích cậu ta với tất cả trái tim của cô và cô không sợ thể hiện điều đó ra. Phải đặc biệt can đảm mới làm thế được."  Hoặc bị tâm thần, cô nghĩ và mỉm cười yếu ớt. Tội nghiệp Riley. Cô đã làm cho cuộc sống của anh thành một địa ngục trần gian. "Và anh bạn phóng viên đó đã viết về cô trên tờ báo địa phương để mọi người biết câu chuyện của cô," Eunice nói thêm. "Cô đã được nổi tiếng."  "Tai tiếng thì đúng hơn," Gracie lẩm bẩm, nhớ lại cảm giác xấu hổ khi đọc bài báo về tình cảm thầm kín của cô dành cho Riley trong lúc ăn sáng. "Wilma thích nhất đoạn cô đã đóng đinh giữ chặt cửa sổ và cửa chính nhà bạn gái cậu ta để cô ta không thể đi đến chỗ hẹn hò được. Vụ đó hay, nhưng tôi lại thích lần cô nằm lăn ra trước mũi xe của cậu ta ngay tại đó." Eunice chỉ phần  đường trước nhà mình.  "Tôi đã chứng kiến hết. Cô đã nói với cậu ta là cô đã yêu cậu ta quá nhiều nên không thể để cho cậu ta kết hôn với Pam và nếu cậu ta nhất quyết đính hôn, cậu ta cứ việc cán qua cô để giải thoát cô khỏi đau khổ."  Gracie cố kềm tiếng thở dài. "Phải, vụ đó hay thật."  Tại sao mọi người trên thế giới được phép quên đi sự xấu hổ của thời thơ ấu của họ, nhưng tất cả mọi người đều muốn nói về sự xấu hổ của cô?  "Cháu nghĩ có lẽ cháu còn nợ Riley một lời xin lỗi."  "Cậu ta đã quay lại thị trấn này," Eunice hớn hở nói. "Cô có biết không?"  Khi mà hầu hết mọi người cô gặp trong mấy ngày vừa qua đã cố nói cho cô hay, tất nhiên là cô biết. "Thật không?"  Bà cụ nháy mắt. "Cậu ta lại độc thân rồi. Còn cô, Gracie? Có ai đặc biệt chưa?"  “Chưa, nhưng lúc này cháu đang rất bận rộn với công việc của cháu và ..."  Eunice gật đầu ra vẻ hiểu biết. "Duyên phận đó. Đúng là duyên phận. Hai người đã được đưa về lại với nhau và được cho một cơ hội thứ hai."  Gracie biết cô thà bị treo trần truồng trên một đống kiến lửa hơn là có bất cứ điều gì dính líu với Riley Whitefield một lần nữa. Cô không muốn có thêm sự xấu hổ nào khi chuyện có liên quan đến Riley. Và ai mà biết là anh ta sẽ sẵn sàng chịu đựng những cực hình gì để tránh mấy người như cô?  "Thế thì hay quá, nhưng cháu không nghĩ rằng cháu -"  "Có thể là cậu ta vẫn thích cô,” Eunice nói.  Gracie phì cười. "Bà Baxter này, anh ta sợ cháu phát khiếp ấy chứ. Nếu bây giờ anh ta nhìn thấy cháu, anh ta vừa la hét vừa chạy theo hướng đối diện ngay." Thành thật mà nói, ai mà trách anh ấy được?  "Đôi khi đàn ông cần được nhẹ nhàng thúc đẩy."  "Đôi khi đàn ông cần được để yên một mình."  Và đó chính là dự định của cô. Không bám đuôi Riley nữa. Thực tế thì cô định sẽ tránh xa tất cả các nơi Riley có thể có mặt. Và nếu họ có tình cờ chạm mặt, cô sẽ bình thản, lịch sự và giữ kẽ. Có thể cô sẽ thậm chí không nhận ra anh ta. Bất kỳ tình cảm gì cô từng dành cho Riley trước đây đã phôi phai. Đã chết và chôn sâu. Cô đã quên hẳn anh ta rồi.  Ngoài ra, bây giờ cô đã là một người khác rồi. Duyên dáng. Trưởng thành.  Không còn là con nhỏ bám đuôi nữa. "Ai thế?" Vivian hỏi khi Gracie đi vào nhà bếp của gia đình Landon. "Bà Baxter túm chị lại nói chuyện với bà ấy hả?"  "Ừ." Gracie đặt tờ báo lên trên bàn bếp và uống một ngụm cà phê lớn. "Chị thề, cứ như là chị mới bỏ xứ mà đi vào tuần trước chứ không phải là 14 năm trước."  "Người già cảm nhận thời gian theo cách riêng của họ," Vivian nói khi cô rũ rũ mái tóc vàng lấp lánh ánh đỏ của cô ra sau lưng rồi ngáp dài. "Có điều, họ dậy sớm quá. Mẹ mình chưa 7 giờ là đã ra khỏi cửa rồi."  "Chị nghe Mẹ nói gì đó về thứ Bảy giảm giá đặc biệt ở cửa tiệm." Gracie trườn lên ngồi trên 1 chiếc ghế đặt trước bàn ăn và để ly xuống bàn. “Buổi bán hàng mà lẽ ra em đã đi phụ mẹ."  "Em biết." Vivian vươn vai. "Là lỗi của em đã chọn mua 1 chiếc áo cưới trị giá 3000 đô la. Em có hai chọn lựa: một là dồn hết tiền lo lễ cưới vô cái áo và cho khách nhịn đói, hai là trả góp." Cô nhoẻn miệng cười. "Ít nhất thì em cũng sẽ có được 1 cái bánh cưới tuyệt vời mà không mất đồng nào." "May cho em."  Là chị gái của cô dâu, Gracie đã tình nguyện đóng góp một trong những kiệt tác của cô cho buổi tiệc. Cô nhìn tờ lịch treo trên tường. Tính từ hôm nay thì còn đúng 5 tuần nữa là lễ cưới sẽ diễn ra. Nếu là người thông minh, cô đã tránh mặt cho đến phút cuối, rồi xuất hiện cùng với cái bánh, ăn tiệc rồi lại bỏ đi. Nhưng những cú điện thoại hốt hoảng của mẹ cô, của Vivian và Alexis, người chị cả, đã khuấy lên cảm giác tội lỗi trong cái bụng vốn đã hay bị cồn cào của Gracie làm cô đồng ý trở về nhà để giúp đỡ với kế hoạch tổ chức lễ cưới.  Và Gracie đã được tưởng thưởng bằng việc phải nướng tất cả các bánh đã được đặt hàng với cô trong 1 cái lò nướng lạ hoắc mà cô không cảm thấy tin tưởng gì mấy, và bị các cụ bà tra tấn khi họ khăng khăng nhắc lại chuyện tình cảm đầy vấn đề trong quá khứ của cô.  "Thời gian đó có gì hay đâu," Gracie lẩm bẩm với ly cà phê của mình.  Vivian cười toe toét. "Bà Baxter  có nói rằng Riley Whitefield đã trở lại thị trấn không?"  Gracie trừng mắt với em. " Em phải đi đâu mà hả?"  Vivian cười vang và chạy ra cầu thang.  Gracie nhìn em bỏ đi, rồi mở tờ báo, sẵn sàng tận hưởng 1 buổi sáng bình yên. Chiều hôm nay, cô sẽ chuyển vào ngôi nhà cô đã thuê cho sáu tuần cô ở lại thị trấn, nhưng cho đến khi đó, cô không bận gì cả, ngoại trừ -  Cánh cửa bếp bật mở.  "Ồ, tốt quá. Em dậy rồi."Alexis, chị gái lớn hơn Gracie 3 tuổi, liếc nhìn xung quanh. "Vivian đâu?" "Đang sửa soạn để chuẩn bị ra cửa hàng."  Alexis cau mày. "Chị tưởng nó đã đi rồi chứ. Không phải đợt bán hàng giảm giá bắt đầu lúc 8 giờ à?"  "Em có biết gì đâu," Gracie thừa nhận.  Cô mới về lại nhà được hai ngày và vẫn đang cố tìm cách thích nghi. Trong khi Alexis và Vivian đã lớn lên trong ngôi nhà này, thì Gracie đã bỏ đi vào mùa hè cô vừa lên mười bốn và đã không một lần trở lại.  Alexis rót cho mình một tách cà phê và ngồi lên ghế cạnh ghế của Gracie.  "Chúng ta cần nói chuyện", người chị cả khẽ nói với giọng hơi run rẩy. "Nhưng em không được kể cho Vivian. Hoặc Mẹ. Chị không muốn họ phải lo lắng, khi họ đang phải lo chuyện đám cưới."  "Được rồi," Gracie chậm rãi trả lời, biết là cô không cần phải hỏi chị là mọi chuyện có ổn không. Nếu mọi chuyện đều ổn, Alexis đã không ở đây đòi cô giữ bí mật, hoặc trông có vẻ hoảng hốt.  "Chuyện về Zeke," Alexis nói, rồi mím môi lại. "Chết tiệt, chị đã tự nhủ là sẽ không khóc rồi."  Gracie thấy căng thẳng. Zeke và Alexis đã kết hôn được năm năm, hạnh phúc về mọi mặt.  Alexis hít một hơi sâu, rồi thở ra. "Chị nghĩ anh ấy đang ngoại tình."  "Cái gì? Không thể nào. Anh ấy mê chị đắm đuối mà. "  "Chị cũng đã nghĩ vậy." Alexis đưa tay chùi mắt. "Chỉ là ..." Chị dừng lại khi cả hai nghe thấy tiếng ầm ầm ở trên lầu. "Anh ấy biến mất mỗi đêm và không về lại nhà cho đến khi ba hoặc bốn giờ sáng. Khi chị hỏi anh ấy có chuyện gì không, anh ấy nói rằng anh ấy làm việc trễ vì lo cho cuộc vận động tranh cử. Nhưng chị không tin anh ấy."  Gracie cẩn thận gấp tờ báo lại. "Vận động tranh cử gì? Không phải Zeke bán bảo hiểm sao?"  "Phải, nhưng anh ấy đang lo chiến dịch vận động để Riley Whitefield tranh chức thị trưởng.  Chị tưởng em biết rồi."  Gracie lạc hậu với thông tin hơn cô đã nghĩ. "Chuyện bắt đầu khi nào?"  "Vài tháng trước đây. Anh ta thuê Zeke vì-"  Tiếng bước chân rầm rầm ở cầu thang. Vài giây sau Vivian xông vào nhà bếp.  "Chào chị, Alexis," Vivian nói khi cô đang bím mái tóc dài của cô lại. "Hôm nay chị muốn làm ở ngoài tiệm thay em không?"  "Không hẳn."  Vivian cười toe toét. "Đâu có thiệt gì mà không hỏi. Em đi làm nô lệ để trả tiền cho chiếc váy cưới của em đây. Đừng có quậy bạo lúc em không có đây đó nha."  Cánh cửa bếp đóng sầm lại sau lưng cô. Một phút sau, tiếng máy xe khởi động, lụt phụt muốn tắt nhưng rồi lại nổ được.  Alexis đi ra phía cái cửa sổ nằm ngay trên bồn rửa chén và nhìn ra đường. "Rồi, nó đi rồi. Mình nói tới đâu rồi?"  "Chị đang kể với em là chồng của chị hiện đang làm việc cho Riley Whitefield. Sao lại thế?"  "Sau Đại học, Zeke đã làm việc cho thượng nghị sĩ bang Arizona khoảng 2 năm." Chị có vẻ nguôi bớt nỗi lo khi chị quay sang nhìn Gracie mỉm cười. "Lúc đó chị đang ở Arizona và anh ấy..." Alexis lắc đầu. "Trời ạ, chuyện lâu lắm rồi. Chị không thể tin rằng anh ấy sẽ làm điều này với chị. Chị yêu anh ấy rất nhiều và và ch… chị nghĩ ..." giọng nói của chị nghẹn ngào. "Chị phải làm gì?"  Gracie có cảm giác không thoải mái của người bị kẹt trong 1 ngôi nhà kỳ lạ. Không có gì trong nhà giống như vẻ bề ngoài của ngôi nhà, và cô tìm không được lối thoát ra. Chắc chắn rồi, Alexis và Vivian là chị em với cô. Người thân của cô. Nhìn họ đủ giống nhau để không ai có thể nhầm lẫn quan hệ máu mủ của họ, cũng mái tóc dài màu vàng - vàng nhạt cho Alexis, vàng ánh đỏ cho Vivian và vàng ánh kim cho chính cô, cũng đôi mắt xanh to tròn và thân hình cân đối vừa phải. Nhưng quan hệ chị em này đã được duy trì từ 1 khoảng cách khá xa suốt cả nửa cuộc đời cô - không được khởi động lại từ từ thì cô không biết làm sao để lại quay về với mối quan hệ đủ thân mật để có thể gửi gắm tâm sự hay cho lời khuyên. "Chị không biết chắc chắn là Zeke đang làm gì mà," Gracie nói. "Có thể là vì cuộc vận động tranh cử thật."  "Chị không biết, nhưng chị nhất định sẽ tìm hiểu cho rõ." Chị tiến lên 1 bước.  Gracie có 1 cảm giác không hay trong cái bụng đang cồn cào của cô. "Em ái ngại khi phải hỏi lắm, nhưng chị định tìm hiểu bằng cách nào?"  "Theo dõi anh ấy. Anh ấy có kế hoạch họp với Riley tối nay và chị sẽ đi đến đó."  "Không phải là ý kiến hay," Gracie nói và với lấy ly cà phê của cô. "Tin em đi, xuất phát từ kinh nghiệm bản thân, kinh nghiệm về Riley đó."  "Chị sẽ tiến hành kế hoạch này," Alexis nói, mắt chị ngân ngấn nước, "và chị cần em giúp chị." Gracie đặt ly cà phê xuống. "Không, Alexis, không. Em không thể, và chị cũng không thể làm thế. Điên quá."  Nước mắt lăn tròn trên má chị. Niềm đau làm đôi mắt chị xanh thẫm. Alexis làm cho sự đau khổ như hiển hiện và Gracie không biết làm sao để cưỡng lại. Nhưng cô vẫn cố thử. "Cách này chỉ gây thảm họa", cô khẳng định. "Em sẽ không dự phần vào đâu."  "Chị h… hiểu," Alexis nói và môi chị run rẩy.  "Tốt. Vì em sẽ không đi với chị đâu."     Khuya hôm đó, Gracie thấy mình theo sau chị, men theo một hàng rào cắt tỉa gọn gẽ nằm ở phía đông của một ngôi nhà cũ lớn, mà không phải là nhà ai khác, chính là biệt thự của họ Whitefield, nhà của nhiều thế hệ Whitefield giàu có và bây giờ là nơi ở của chính Riley. "Đúng là điên quá mà," Gracie thì thầm với chị khi họ lom khom cách cái cửa sổ hậu của tòa nhà vài mét. "Em đã thôi theo dõi Riley khi em mười bốn tuổi. Em không thể tin rằng em đang làm như vậy một lần nữa."  "Em không theo dõi Riley, em theo dõi Zeke. Có một sự khác biệt lớn đó."  "Em không tin Riley sẽ nghĩ thế nếu bắt gặp chúng ta.”  “Vậy thì chúng ta sẽ không bị bắt gặp. Em có đem theo máy ảnh của em chứ?"  Gracie lấy cái máy chụp hình Polaroid yêu quí (loại in hình ra ngay sau khi chụp) cô đang kẹp dưới cánh tay đưa ra. Ánh đèn đường phản chiếu cái ống kính nhỏ bé của máy sáng lấp lánh. "Hãy sẵn sàng", Alexis nói. "Sau góc này là cửa sổ thư viện. Từ vị trí đó em có thể chụp được những bức ảnh rất rõ ràng."  "Sao chị không chụp đi?" Gracie hỏi, sự sợ hãi làm chân cô nặng như chì. "Vì chị cần phải ở đây để xem có con lăng loàn nào trốn ra từ cửa sau không." "Nếu Zeke ngoại tình, sao anh ấy không đi thuê phòng ở khách sạn chứ?" Gracie hỏi. "Sao anh ấy làm vậy được, chị quản lý chuyện chi tiêu trong nhà mà. Với lại lúc tụi chị còn cặp bồ, anh ấy cũng thường cho bạn mượn nhà để đưa bạn gái về chơi. Nói cho em hay, Riley cũng đang làm như vậy cho Zeke. Có ai mà họp hành tranh cử đến tận 2 giờ sáng chứ?" Lý lẽ nghe hợp lý 1 cách kỳ cục, Gracie thầm nghĩ khi cô rón rén đi ra bên hông tòa nhà, nhất là khi mình cố tình lờ đi thực tế là mình đang lẻn vào nhà riêng của người khác để chụp hình qua cửa sổ nhà họ. "Chúng ta thậm chí không biết là họ có đang ở trong thư viện không," Gracie trầm giọng nói. "Zeke nói rằng họ luôn họp ở đó. Nếu anh ấy thực sự đang họp tranh cử thì đó là nơi họ nên có mặt."  "Hay là em nhìn qua cửa sổ rồi nói lại cho chị nghe là em đã thấy gì nha?" Gracie hỏi.  "Chị cần bằng chứng."  Còn Gracie thì cần tránh xa thật xa nơi này. Nhưng cô nhận ra vẻ ương ngạnh của Alexis và thấy ái ngại. Dù cô có muốn quay lưng không giúp chị, cô cũng không thể. Tốt nhất là chụp đại tấm hình rồi đi về hơn là cứ lom khom ở đây mà tranh cãi. "Sẵn sàng," Gracie nói khi cô tiếp tục bước ra phía hông tòa nhà. Các bụi cây quanh tòa nhà đã dày hơn lúc mới được trồng. Chúng cào xước cánh tay để trần của cô và níu kéo quần áo cô. Tệ hơn nữa, cái cửa sổ thư viện cao hơn cô, có nghĩa là cô phải cầm máy để lên trên đầu, chĩa xuống, hướng vào trong thư viện để chụp mà không biết chắc là cái gì, hay ai đang ở đó. Số cô sẽ thật may khi có ai đó nhìn ra cửa sổ ngay lúc cô chĩa máy hình vô(!) "Chỉ phí công vô ích thôi," cô làu bàu khi vươn người đứng trên đầu ngón chân và nhấn cái nút màu đỏ. Một ánh sáng chói lóa lóe lên trong màn đêm. Gracie vội ngồi sụp xuống và thầm chửi thề. Đèn flash! Sao mà cô lại quên mất cái đèn flash cơ chứ? "Bởi vì tôi sử dụng máy ảnh để chụp ảnh bánh cưới, không phải để theo dõi người ta," cô lẩm bẩm trong khi gượng đứng lên và chạy về phía Alexis đậu xe. Không thấy bóng dáng của Alexis đâu hết, và Gracie cũng không biết cô đã chụp được gì. Nhưng chuyện đó không quan trọng. Cô chỉ muốn đi khỏi chỗ này trước khi- "Đứng yên!"  Khi mệnh lệnh hùng hồn đó được đi kèm với 1 cái gì cứng cứng giống như mũi súng chĩa vào giữa xương bả vai, Gracie liền làm theo mệnh lệnh. Cô đứng yên. "Ngươi định làm cái quái gì vậy? Nếu là ăn trộm thì ngươi là một tên trộm dở tệ. Hay là ngươi luôn thông báo sự có mặt của ngươi bằng đèn flash?"  "Biết thì đã chẳng làm." Gracie nói và hít một hơi thật sâu. "Tôi xin lỗi tôi đã làm anh giật mình. Tôi có thể giải thích." Vừa nói, cô vừa quay lại và khi cô quay lại, nhìn thấy người đàn ông cầm súng và anh thấy cô… Cả hai đều nhảy ngược trở lại. Trong khi Gracie ước mặt đất mở ra và nuốt chửng lấy cô, anh ta nhìn như bị gặp ma.  "Lạy Chúa lòng lành," Riley Whitefield thở ra. "Gracie Landon, là cô?"            Chương 2 Vì mặt đất tốn quá nhiều thời gian để nuốt lấy cô nên Gracie bắt đầu ước có một con khủng long ăn thịt người khổng lồ trỗi dậy từ trong mộ và nuốt trửng lấy cô. Hoặc người ngoài hành tinh. Cô bằng lòng để người ngoài hành tinh bắt cô vào tàu du hành của họ để cô khỏi phải đứng đây và nhìn thấy gương mặt tuyệt đẹp của Riley. Cô thậm chí sẽ chịu mấy cái xét nghiệm mà không than van gì.  Cô đã không gặp anh từ mùa hè cô lên mười bốn tuổi. Anh lúc đó đã được mười tám tuổi, cái tuổi vừa con nít, vừa người lớn đáng yêu và đầy ngượng ngập. Anh giờ đã trưởng thành, cao lớn và trông hấp dẫn, nguy hiểm hơn lúc trước.Tuy nhiên, ánh mắt sững sờ của anh làm cô muốn chết ngay tại chỗ.  "Tôi có thể giải thích," cô nói, rồi tự hỏi nếu cô thực sự có thể làm được điều đó. Có từ ngữ nào có thể thuyết phục anh là cô đã không còn là con nhỏ bám đuôi điên khùng vừa mới được thả ra khỏi viện tâm thần?  "Gracie Landon?" Anh lặp lại.  Cô nhận thấy anh đã hạ súng xuống để nó không chỉa trực tiếp vào cô. Vậy cũng được. "Chuyện không phải như anh nghĩ đâu," cô nói và bước lùi một bước. Có lẽ nó sẽ tốt hơn cho cả hai người họ nếu cô tan biến vào trong màn đêm. Và chị cô đâu rồi? Làm cái quái nào mà Alexis luôn biến mất khi có chuyện rắc rối xảy ra vậy. Lúc nào chị cũng để Gracie lãnh đủ.  "Cô không phải đang rình rập bên ngoài nhà của tôi để chụp ảnh sao?" Riley hỏi.  "Ừ thì có, tôi có làm thế, nhưng không phải vì anh. Không hẳn là thế." Mắt anh có màu của đêm giông bão. Ít nhất đó là cách cô mô tả chúng khi cô còn thiếu nữ.Cô đã viết hẳn 1 bài thơ hai-ku (thể thơ Nhật) dở òm về đôi mắt và miệng của anh. Cô đã tưởng tượng anh sẽ hôn cô thế nào khi cuối cùng anh cũng đã giác ngộ và nhận ra được họ thuộc về nhau. Thậm chí cô còn làm thơ và gửi đến cho các bạn gái của anh - sau khi anh đã bỏ họ - để chia buồn cùng họ.  Phải rồi Jenny ạ, Chỉ mình tôi hiểu được Phút giây thần tiên ấy Khi anh nắm tay bạn Gracie đặt tay lên bụng khi cảm thấy nó bắt đầu cồn cào, nhộn nhạo.  Bình thường cô chẳng nhớ nổi cô đã để chìa khóa xe ở đâu, sao giờ cô lại có thể nhớ ra được mấy câu trong cái bài thơ dở òm cô đã làm từ đời thuở nào? "Chắc là mình bị trục trặc gì nặng lắm rồi," cô lẩm bẩm. "Tôi đồng ý,” Riley nói.  Cô nheo mắt nhìn anh. " Anh chẳng giúp được gì cả. Anh biết điều đó không? Tôi biết chuyện trông có vẻ tồi tệ, nhưng có tin mới nè. Tôi đến đây không phải vì anh. Anh rể tôi, Zeke lẽ ra tối nay phải ở đây với anh để giúp anh chuyện vận động tranh cử chức thị trưởng. Chuyện là vậy đó." Cô vẫy vẫy cái máy ảnh trước mặt anh.  Anh cau mày. " Cô có gì đó với anh rể của cô à?"  "Cái gì?" Cô la lên. " Không! Ghê quá! Tất nhiên là không rồi. Chị tôi, Alexis, nhờ tôi -", cô bặm môi lại và quay đi, hướng về phía xe chị cô đã đậu - mong là Alexis đã không lái xe chạy mất sau khi đã lén lút bỏ đi. "Thôi bỏ qua đi." "Đừng có vội thế ", Riley nói và chụp lấy tay cô."Cô không thể xuất hiện như thế này, chụp ảnh, rồi bỏ đi. Làm sao tôi biết cô đã không gài bom vào xe của tôi?"  Gracie giật tay lại rồi hiên ngang ưỡn ngực ra trước khi quay lại đối mặt với anh. "Tôi chưa từng cố ý làm hại anh." Cô nói với vẻ bình tĩnh hết sức trong khi điều cô muốn làm là hét lên và chạy biến vào trong màn đêm. Thật là không công bằng mà. "Khi tôi còn thương thầm anh, tôi chỉ cố ngăn cản anh đi hẹn hò với bạn gái của anh thôi, chứ tôi chưa thực sự làm tổn thương bất cứ ai."  “Cô đã nằm lăn ra ngay trước xe của tôi và xin tôi cán qua người cô."  Mặt cô bừng bừng lên. Sao mọi người không thể để quá khứ ngủ yên? Sao tất cả các chuyện đáng xấu hổ của cô phải bị mổ xẻ nơi công cộng chứ?  "Như thế sẽ làm tôi đau, chứ không phải anh." Cô hít một hơi thật sâu. Tư tưởng hòa bình, cô tự nhắc mình. Và thuốc kháng axit (để trung hòa dịch vị bao tử). Đó là tất cả những gì cô cần. "Tôi xin lỗi đã làm phiền anh. Tôi xin lỗi đã để chị tôi thuyết phục tôi đến đây. Tôi biết đó không phải là ý kiến hay. Chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Dù vấn đề của chị ấy với Zeke là gì đi nữa, tôi cũng sẽ không dính líu vô. Không bao giờ nữa." Anh nheo mắt lại. "Zeke có chuyện gì?" "Đó là chuyện riêng tư."  "Thôi nào, cô nương, từ lúc cô bắt đầu chụp ảnh qua cửa sổ nhà tôi thì nó đã thành chuyện của tôi rồi." Anh ấy cũng có lý. Không nhiều nhưng cũng vẫn có... "Gần đây Zeke xử sự hơi kỳ lạ - về nhà trễ, không chịu nói chuyện. Anh ta nói anh ta bận rộn suốt với chiến dịch tranh cử của anh nhưng Alexis nghĩ anh ta đang ngoại tình." Riley chửi thề và lại chụp lấy tay cô. "Đủ rồi. Đi nào." "Thả tôi ra." Anh không thả tay cô ra mà bắt đầu bước đi, lôi cô theo cùng. "Chúng ta đi đâu vậy?" cô hỏi. "Vào nhà. Chúng ta cần nói chuyện. Nếu người tổ chức cuộc vận động tranh cử của tôi đang dối gạt vợ anh ta thì tôi cần được biết." "Tôi không nghĩ anh ta đang ngoại tình. Anh ta có vẻ không thuộc loại người đó. Tối nay cuộc họp của hai người kết thúc lúc nào?" Riley ngừng lại ngay trước hiên nhà. Ánh sáng từ ngọn đèn lớn trên cửa chính phản chiếu các nét hoàn hảo của gương mặt anh - đôi mắt sẫm, đôi gò má cao, và đôi môi có thể khiến một người phụ nữ bình thường luôn tỉnh táo lại khao khát làm một điều gì đó thật hư đốn. Anh vẫn đeo bông tai, nhưng chiếc khuyên bằng vàng mà cô nhớ rất kỹ nay đã được thay thế bằng 1 hạt kim cương. "Chúng tôi không có họp", anh nói thẳng. "Tôi đã không thấy Zeke ba ngày nay rồi."  Cơn nhộn nhạo trong bụng trở nên trầm trọng hơn. Gracie giằng tay khỏi tay của Riley và xoa xoa bụng. "Không hay rồi." "Tôi cũng nghĩ như thế. Vậy cô nên vô nhà đi, tôi muốn cô kể từ đầu tất cả những gì cô biết về Zeke và chuyện ngoại tình của anh ta." "Có điều, tôi thậm chí không biết anh ta có phải đang ngoại tình không. Alexis có thể đã phản ứng quá mạnh." "Cô ấy hay như vậy lắm sao?” anh hỏi, tay giữ cánh cửa mở và ra hiệu cho cô bước vô. "Tôi không nghĩ vậy. Có thể lắm. Tôi sống ở Los Angeles. Tôi không thường ở cùng chị ấy." Cô bước vô nhà và đứng sững lại ngay tiền sảnh. Bên trong thật rộng, đã cũ nhưng đẹp tuyệt với trần nhà thật cao và chạm trổ điêu luyện, nội thất và các vật trang trí cùng các tác phẩm nghệ thuật bên trong đủ để chương trình Antique Roadshow dành riêng 1 tháng phát sóng cho chúng (đây là 1 chương trình chuyên định giá (trị) của đồ cổ). "Chà, tuyệt quá," Gracie vừa nói vừa nhẹ xoay người vòng vòng. "Cả căn nhà của tôi để trong tiền sảnh này cũng vừa." "Ừ, nó rộng thật. Thư viện bên này." Một lần nữa anh lại túm tay cô lôi đi. Cô nhìn thoáng thấy phòng ăn và một phòng giải trí hay phòng khách trước khi bị anh kéo hẳn vào thư viện. Anh thả tay cô và bước đến khay rượu đặt ở bệ cửa sổ. Sau khi để cây súng lên bàn, anh rót gì đó giống như rượu Scotch vào hai cái ly. Cô đặt cái máy hình xuống. "Để tôi nói cho rõ - á, đau quá," cô vừa nói vừa xoa xoa cánh tay cô. "Hồi trước anh đâu có thô bạo với phụ nữ." Anh trừng mắt với cô rồi đưa cô li rượu. "Tôi không tin cô." "Chuyện cách đây 14 năm rồi, Riley à. Anh cần phải để quá khứ ngủ yên đi." "Tôi đã vui vẻ làm thế cho đến khi cô lại xuất hiện ở đây. Cô đã làm khổ tôi suốt 2 năm trời. Họ đã viết về chuyện đó trên báo. Họ gọi nó là "Truyền thuyết Gracie". Sự bối rối làm cô muốn ngọ nguậy. "Ừ, à, vụ đó không phải lỗi của tôi. Sao chúng ta không nói chuyện khác thích hợp hơn? Như chuyện của Zeke vậy." "Tại sao Alexis nghĩ anh ta đang ngoại tình?" Gracie nhún vai. "Anh ta hay về trễ, và không chịu nói là đã đi đâu." "Chuyện diễn ra bao lâu rồi?" "Khoảng 6 tuần. Lúc đầu Alexis nghĩ anh ta thực sự bận rộn với cuộc vận động tranh cử, nhưng anh ta ngày càng về trễ và không chịu nói là có chuyện gì đang diễn ra..." Cô ngừng lại, liếc anh. "Sao anh lại tranh chức thị trưởng? Tôi thấy anh đâu giống người thích chính trị." Riley phớt lờ câu hỏi và chỉ vào ly rượu của cô. "Cô muốn đồ uống khác không?" Gracie ngửi ngửi cái ly rồi đặt nó trở lại bàn. "Không, nó cũng được. Có điều stress làm dạ dày tôi khó chịu." Cô rút cái gì giống như 1 cây kẹo thuốc kháng axit ra và bỏ vài viên vào miệng. "Phòng này tuyệt quá." Riley dõi theo ánh mắt cô khi cô ngước nhìn dãy kệ sách cao vời vợi chứa đầy sách. Anh không buồn nói cho cô biết là trong tòa nhà này, thư viện là 1 trong vài nơi anh cảm thấy thoải mái khi ở đó. "Nói cho tôi nghe về Zeke," anh nói. "Anh nói cho tôi nghe." Cô bước đến bộ so-fa bằng da đối diện 1 lò sưởi trang nhã và ngồi ịch xuống. "Anh ta là người lo vận động tranh cử cho anh. Anh ta có phải đang ngoại tình không?" "Làm quái nào tôi biết được." Riley bước đến cạnh cái bàn làm việc và tựa vào đó. "Lúc nào anh ta cũng nhắc đến Alexis. Tôi nghĩ anh ta yêu cô ấy lắm." "Nhưng mấy cuộc họp của anh không kéo dài đến 3 giờ sáng chứ." Anh mỉm cười. "Tôi tranh chức thị trưởng, có phải chức tổng thống đâu." "Ừ, tôi cũng nghĩ thế. Chà, tôi nghĩ tôi phải nói với Alexis là Zeke không có ở đây. Chị ấy sẽ không muốn thế đâu." Riley cũng không muốn như thế. Còn 5 tuần nữa là đến ngày bỏ phiếu rồi, anh không thể để có bất kỳ rắc rối gì, nhất là khi anh đang bắt đầu được lòng các cư dân lương thiện ở thị trấn Los Lobos này. Anh đặt ly của mình xuống và giật tấm hình đang kẹp lơ lửng ở máy ảnh ra. Sau khi lột bỏ lớp bảo vệ, anh nhìn chằm chằm vào bức ảnh.  Ngoài cái trần thư viện và vài kệ sách, nó chẳng có gì khác. "Cô không giỏi vụ này lắm," anh nói. Cô đảo tròn mắt. "Tôi chẳng thèm. Dù anh nghĩ gì về tôi đi nữa thì tôi không lớn lên để thành thám tử hay kẻ chuyên bám đuôi. Tôi kiếm sống bằng nghề trang trí bánh cưới." Cô có vẻ hơi bực bội, tự ái và cả xấu hổ nữa. Mặt cô ửng hồng lên và môi cô hơi run run. Cô đã trưởng thành, trổ dáng, nhưng các nét cơ bản thì vẫn thế. Vẫn đôi mắt xanh to tròn, vẫn mái tóc dài vàng óng và vẻ cương quyết đã từng làm anh vãi hồn khi xưa. "Tôi xin lỗi. Cho chuyện này và tất cả các chuyện kia. Anh biết mà. Trước đây." "Có phải chúng ta đang nói đến chuyện bột ngứa được bỏ vào trong quần lót của tôi không?" "Ừ, thì, tôi nghĩ vậy. Chỉ là..." Cô hơi chồm người tới trước và đưa tay vẽ vòng vo trên mặt cái bàn đặt cạnh bộ so-fa. "Nhìn lại thì tôi không ngờ tôi đã làm như vậy với anh. Thật kinh khủng." "Dân quanh đây vẫn còn nói về chuyện đó."  Cô ngồi thẳng dậy và nhìn anh. "Anh còn nói. Ai cũng có thể bỏ quá khứ của họ lại sau lưng, nhưng tôi thì không được. Khônnngggg. Tôi trở thành huyền thoại. Và phải nói chứ, chuyện đó thật vớ vẩn." Anh nghĩ về liều thuốc xổ cô đã xoay sở lén bỏ vô chén canh của anh buổi trưa trước ngày lễ tốt nghiệp. "Cô rất là sáng tạo." "Tôi là một hiểm họa. Lúc đó tôi chỉ muốn..." Mặt cô lại hồng lên. "Ừ thì, cả hai chúng ta đều biết lúc đó tôi đã muốn gì." "Bây giờ có hay hẹn hò không?" "Vài lần, nhưng tôi cẩn thận không đưa họ về đây." "Cô không muốn họ nghe chuyện cô đã dụ 1 con chồn hôi vào xe của tôi, rồi nhốt nó trong đó vài giờ chứ gì?" Cô nhăn nhó. "Tôi đã chịu chi phí rửa xe rồi." "Xe của tôi không bao giờ được như cũ. Tôi đã phải bán nó. Ở 1 cuộc đấu giá." Anh nâng ly lên. "Cô đã rất cương quyết phá vỡ chuyện tôi với Pam. Bằng vào chuyện đã xảy ra thì lẽ ra tôi nên nghe lời cô." Vẻ mặt tự đắc của Gracie khiến anh nghĩ cô sẽ đồng ý với nhận xét của anh nhưng thay vì có ý kiến về chuyện đó, cô lại hỏi. "Bây giờ cần làm gì?" "Tôi sẽ tìm hiểu xem Zeke đang tính chuyện gì. Lúc này tôi không muốn có rắc rối gì. Cô có thể khuyên chị cô rút lui, chờ tôi có thông tin chắc chắn được không?" Khi thấy Gracie ngại ngần, anh trừng mắt với cô. "Cô nợ tôi." Anh nhắc nhở. Cô rùng mình. "Tôi biết. Được rồi - tôi sẽ làm hết sức với Alexis. Nhưng tôi không thể hứa là hoãn chị được hơn 2,3 ngày, vì chị ấy đã quyết rồi." "Và tất cả chúng ta đều biết chuyện gì xảy ra khi phụ nữ nhà Landon quyết làm một điều gì đó." "Chính xác." Cô đứng dậy và nhìn anh. "Tôi thành thật xin lỗi anh, Riley. Tôi biết câu xin lỗi này đã trễ 14 năm, nhưng nó là lời thật từ đáy lòng tôi. Tôi không bao giờ có ý định làm cuộc sống của anh khổ sở thế." "Tôi cảm kích điều đó." "Anh có muốn tôi để số điện thoại di động của tôi lại cho anh liên hệ với tôi về chuyện của Zeke hay anh muốn trực tiếp liên lạc với Alexis?" Giữa "quỷ sứ và ma vương" thì Riley chọn "quỷ sứ" mà anh biết. "Số của cô là được rồi." Anh đưa cho cô tập giấy, cô viết số lên rồi trả lại cho anh. "Máy ảnh của tôi?" cô nói. Anh đưa nó cho cô. Mời các bạn đón đọc Lỡ Yêu Gracie (Falling for Gracie) của tác giả Susan Mallery.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Địa Ngục hay Thiên Đường - Mark Twain
Gia đình bà góa Margaret, đứa con gái Helen, cùng hai người dì Hester và Hannah Gray luôn tôn sùng sự trung thực. Dù chỉ một lần nói dối rồi thú nhận ngay lập tức của Helen cũng đủ khiến hai người dì thấy hổ thẹn. Nhưng để Margaret khỏi chịu thêm đau khổ vì bệnh tật đau đớn, hai người dì đã nói dối Margaret về tình trạng sức khỏe của con gái bà - Helen. Và sau sự ra đi của hai mẹ con Margaret, một thiên thần đã xuất hiện hỏi tội hai người dì. Thiên đường hay địa ngục đang chờ đợi cả hai? *** Samuel Langhorne Clemens, thường được biết tới với bút danh Mark Twain (30/11/1835 – 21/4/1910) được vinh danh là nhà văn khôi hài vĩ đại nhất nước Mĩ – từ lời khuyên bỗ bã dành cho các bé gái, lập trường quái gở về sự sáng tạo và kiệt tác của ông xoay quanh vấn đề thủ dâm. Nhưng đằng sau sự hài hước đầy quyến rũ ấy là sự chiêm nghiệm sâu sắc về tinh thần con người cùng với những rối rắm của nó. Trong The Autobiography of Mark Twain: Volume 1 (tạm dịch: Cuốn tự truyện của Mark Twain: tập 1) (public library) – nơi Twain bàn về sự tương phản, kiềm hãm lẫn nhau của hai khía cạnh đạo đức và trí tuệ – ta bắt gặp câu chuyện cảm động về cách mà mẹ ông đã dạy ông về tầm quan trọng của lòng vị tha. Nếu bạn chưa từng đọc The Autobiography of Mark Twain (tạm dịch: Cuốn tự chuyện của Mark Twain), thì xin hãy cân nhắc – Twain đã dành nhiều thập kỷ để viết nó, nhưng tác phẩm chưa bao giờ được hoàn tất và ông đã cấm con cháu của mình xuất bản bản thảo cho đến 100 năm sau ngày ông mất. Một thế kỉ chờ đợi cũng đáng lắm cho một tác phẩm như vây. *** N ửa đêm, hai bà lão còn ngồi bên nhau, than khóc thì họ tưởng chừng trông thấy một thiên thần hiện ra giữa vầng hào quang chói loà. Thiên thần bảo hai bà: — Những kẻ nói dối sẽ bị đày xuống hoả ngục đời đời. Hai người hãy hối cải đi! Hai bà lão quỳ xuống dưới chân thiên thần và cúi đầu, tỏ lòng tôn kính. Nhưng lưỡi của hai bà cứng lại nên họ đành ngậm câm. — Nói đi, - thiên thần bảo, - nói lên để cho ta có thể mang lời giải đáp ra trước toà án của Thiên Chúa và mang lại cho hai người phán quyết tối hậu. Hai bà vẫn quỳ, hai mái đầu bạc vẫn cúi rập xuống, một người nói — Tội chúng tôi lớn lắm, và chúng tôi rất nhục nhã, tủi hổ. Chỉ có một sự ăn năn, hối cải triệt để mới cứu rỗi được chúng tôi. Chúng tôi là những kẻ khốn khổ đã biết rõ sự yếu đuối của loài người là vô hạn và chúng tôi biết nếu chúng tôi còn bị đẩy vào những tình thế nghiệt ngã thì chúng tôi cũng sẽ phạm tội như trước. Những người cương nghị có thể chống chọi và được cứu rỗi, còn chúng tôi, chúng tôi sẽ sa ngã và đánh mất linh hồn. Hai bà lão ngẩng đầu lên để van xin. Nhưng thiên thần đã biến mất. Trong lúc họ ngạc nhiên và than khóc, thiên thần trở lại và cúi xuống hai bà, nói nhỏ phán quyết. Mời các bạn đón đọc Địa Ngục hay Thiên Đường của tác giả Mark Twain.
Giữa Lòng Tăm Tối
Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Joseph Conrad (1857 - 1924) là một trong những tác gia vĩ đại nhất của nền văn học Anh quốc. Ông là bậc thầy của nghệ thuật tạo tổng thể văn xuôi, phong cách tự sự, xây dựng nhân vật và mô tả tâm lý của ông có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều cây bút khác sau này như TS Eliot, F. Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway hay George Orwell. Thế nhưng tác giả của những áng văn đầy chất thơ Shakespeare này lại là một người gốc Ba Lan tới định cư tại xứ sở sương mù, và đến tận năm hai mươi tuổi mới nói trôi chảy tiếng Anh. Là người ngoại quốc, từng trải qua những năm tháng lênh đênh trên những con tàu thương gia của Anh và Pháp, Conrad đã truyền tải được xúc cảm của những miền đất khác vào nền văn học Anh, phản ánh một thế giới hoàn toàn bị thống trị bởi người châu Âu. Giữa lòng tăm tối là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Joseph Conrad, là kiệt tác văn học mà giới mộ điệu văn chương đều đã quen thuộc. Cuốn tiểu thuyết bao trọn câu chuyện phiêu lưu hải hồ của Marlow dựa trên hành trình có thật của chính tác giả vào năm 1890. Là người của biển cả, Marlow nghe theo tiếng sóng vẫy gọi, khao khát đi tới những miền đất chưa định danh trên địa đồ - “những khoảng trống của niềm hân hoan”, “một vạt trắng cho giấc mơ huy hoàng”, dấn thân vào “vùng tăm tối vô phương thấu hiểu”, cùng với tính hiếu kỳ thản nhiên của một trí óc tế nhị và trạng thái điềm tĩnh của một con tim sắt đá. Trên một con tàu hơi nước vá víu xập xệ thiếu thốn đủ đường, cùng thủy thủ đoàn là mấy tay da đen của bộ tộc ăn thịt người lúc nào cũng bốc mùi thịt hà mã thiu, Marlow ngược dòng con sông Congo hùng vĩ, bí hiểm mà mê hoặc để hoàn thành một nhiệm vụ tưởng chừng như bất khả thi. Ông phải đi cứu Kurtz - người được ca tụng khắp nơi là “thiên tài toàn năng”, kiếm được nhiều ngà voi nhất Công ty, được cả dân da đen yêu kính hết mực và đang ốm thập tử nhất sinh ở vùng thượng nguồn - về với văn minh, trước khi gã lìa đời. Sau bao nhiêu gian khổ, hiểm nguy của chốn rừng thiêng nước độc, Marlow tới được nơi, gặp được người, nhưng chỉ trở về với một tập tài liệu và lời tuyệt mệnh: “Nỗi kinh hoàng! Nỗi kinh hoàng!” Miền hoang dã Phi châu tạo ra bao nhiêu trở ngại cho con tàu của Marlow thì Giữa lòng tăm tối cũng gây ra bấy nhiêu sóng gió trong giới văn chương thậm chí cả giới phân tâm học, hoạt động nhân quyền hay nghiên cứu châu Phi cũng nhảy vào cuộc. Người ta bàn ra tán vào, khẩu chiến rồi cả bút chiến với nhau về cách hành văn của tác giả, cấu trúc, ý nghĩa của tác phẩm và vô vàn những thứ khác. Một trong những chủ đề được tranh cãi quyết liệt nhất chính là vấn đề phân biệt chủng tộc. Chinua Achebe - nhà văn, nhà thơ người Nigeria từng chỉ trích tác phẩm này là “phân biệt chủng tộc một cách khủng khiếp” với những hình ảnh miêu tả người da đen như những kẻ mọi rợ ngu đần, như những con vật chịu đòn roi. Những tình cảnh đáng thương, những vụ tra tấn kinh hoàng đều được kể lại bằng chất giọng lạnh lùng, vô cảm. Thế nhưng những lập luận khác lại cho rằng tại thời điểm Conrad viết cuốn tiểu thuyết này, khái niệm “phân biệt chủng tộc” vẫn chưa thành hình, quan niệm về khác biệt chủng tộc vẫn còn in đậm. Đó là thời người da đen bị trưng bày như thú lạ tại những nước đế quốc, và bị đối xử như súc vật, nô lệ tại những vùng thuộc địa. Vì thế, không thể trách cứ Conrad được. Tuy vậy, chính nhà văn cũng từng khẳng định rằng Giữa lòng tăm tối ngầm ý chỉ ra “tội ác của sự kém hiệu quả và ích kỷ thuần túy khi khai hóa văn minh ở châu Phi”. Thật vậy, hãy đọc những dòng này trong truyện: “Tôi ngờ rằng với họ cai trị chỉ đơn thuần là bóp nghẹt, không hơn. Họ là kẻ chinh phục, mà chinh phục thì chỉ cần vũ lực - vốn chả có gì đáng huênh hoang, vì sức mạnh của anh chỉ là ngẫu nhiên phát sinh từ cái yếu của kẻ khác. Họ vơ vét được bao nhiêu hay bấy nhiêu, vơ vét để mà vơ vét. Đó chẳng qua là cưỡng đoạt bằng bạo lực, sát nhân có tình tiết tăng nặng trên diện rộng...” Như thế, Giữa lòng tăm tối, ở một chừng mực nào đó, có thể coi là một bản cáo trạng về lòng tham, thói ưa hủy diệt và quyền lực chuyên chế của chủ nghĩa thực dân, “một bài phân tích về sự suy nhụt nhuệ khí của người da trắng, khi anh ra thoát khỏi vòng kiềm tỏa của châu Âu, bám rễ ở miền nhiệt đới với vũ khí trang bị đến tận chân răng, để thu lợi từ tầng lớp bị trị”. Và con sông dẫn tới “trái tim của một vùng tăm tối khôn cùng” không phải là con sông Congo cuộn xoáy ở lục địa Đen mà là con sông Thames êm đềm, dưới bầu trời hôn ám của “đế chế nơi mặt trời không bao giờ lặn”. Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Bằng ngôn từ mơ hồ mà dứt khoát, huyền bí mà hữu hình, Joseph Conrad đã viết nên một áng văn đậm chất thơ, hấp dẫn, ám ảnh và đầy tính biểu tượng - một kiệt tác của của nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy, của phiêu lưu, của thiên nhiên hoang dại, hùng vĩ, và ảo tưởng của cả thời đại. *** Nellie, chiếc thuyền hai buồm, buông neo không một tiếng buồm lật phật, lặng lẽ nghỉ ngơi. Nước đã xuống, gió cơ hồ đã lặng; được buộc dưới sông, nó chỉ còn một việc là đậu đó đợi triều lên. Cửa sông Thames trải dài trước mắt chúng tôi, như khởi đầu của một thủy lộ dài bất tận. Ngoài khơi xa biển và trời liền thành một tấm áo không thấy đường may, và trong không gian lung linh này, những cánh buồm rám nắng vẫn dập dờn trên ngọn thủy triều như đứng yên thành từng cụm vải bạt đỏ chóp nhọn, lấp lánh ánh vécni từ những cột buồm. Sương lan trên những bãi bồi phẳng lì chạy dài tít tắp về phía biển. Bầu trời trên Gravesend[1] tăm tối, còn phía xa dường như vẫn ngưng tụ thành một quầng u ám thảm sầu, âm trầm bất động trùm lên đô thành lớn nhất và vĩ đại nhất trên trái đất. Tay Giám đốc Công ty là thuyền trưởng và chủ nhà của chúng tôi. Bốn người bọn tôi[2] trìu mến nhìn bóng lưng gã đứng trên mũi thuyền, nhìn về phía biển. Cả sông không có hình ảnh nào đại dương bằng nửa gã. Nhìn gã như một hoa tiêu, niềm tin của người đi biển được nhân cách hóa. Khó mà nhận ra, nghề của gã không phải ngoài kia, nơi giang khẩu lung linh, mà ở sau lưng, giữa vùng âm trầm u ám nọ. Giữa chúng tôi, như đã có lần tôi từng nói[3], có sự gắn bó của biển khơi. Ngoài việc neo đậu lòng nhau sau những quãng dài xa cách, nó còn giúp chúng tôi chịu đựng được những huyên thuyên, thậm chí là định kiến, của nhau. Tay Luật sư - loại bạn già chơi rất được - bởi tuổi cao đức trọng nhất hội, sở hữu cái đệm duy nhất trên boong, và nằm trên tấm thảm duy nhất. Tay Kế toán ôm theo hộp domino và đang lẩn mẩn xây nhà với những mảnh ngà. Marlow ngồi xếp bằng ở đuôi tàu, lưng dựa vào cột buồm lái. Má hóp, da vàng, lưng thẳng, dung mạo khắc khổ, đôi tay buông xuôi, lòng bàn tay ngửa ra trước, gã nhìn như một bức ngẫu tượng. Tay giám đốc, yên tâm là neo đã chắc, xuống đuôi tàu nhập bọn với chúng tôi. Cả bọn uể oải trò chuyện đôi lời. Rồi boong tàu chìm trong im lặng. Bởi lẽ gì đó, chúng tôi không bắt đầu ván domino ấy. Chúng tôi thấy trầm tư, chẳng có hứng làm gì ngoài tĩnh tâm quan sát. Ngày tàn dần trong cái bình lặng của ánh quang huy thanh tĩnh và tú lệ. Nước tỏa sáng một cách bình yên; vòm trời, không một gợn mây, như một khoảng mênh mông ôn nhuận ngập tràn thứ ánh sáng vô nhiễm; màn sương trên đầm lầy miền Essex[4] giống một tấm sa mỏng phát quang, rủ xuống từ những triền cao cây phủ trong nội địa, buông từng lớp trong mờ lên những bãi bồi. Chỉ riêng vùng ảm đạm phía tầy, vần vũ trên thượng lưu, là mỗi lúc một thêm u ám, như thể phẫn nộ trước sự lấn tới của mặt trời. Và cuối cùng, trong một đường lặn hình cung không thể cảm nhận được, mặt trời chìm dần, và từ màu trắng rực đổi sang sắc đỏ đục không phát quang và tỏa nhiệt, như thể sắp đột ngột tắt lịm, bị hạ sát khi chạm phải quầng u ám đang vần vũ trên một vùng người. Lập tức mặt nước bắt đầu thay đổi, và vẻ bình lặng kia bớt xán lạn nhưng lại nồng đậm hơn. Con sông lâu đời an tĩnh nghỉ ngơi giữa dòng nước mênh mang lúc ngày tàn, sau bao thuở phục vụ đắc lực chủng tộc định cư hai bên bờ, trải rộng trong vẻ tôn nghiêm bình đạm của một thủy lộ dẫn đến những chốn tận cùng trái đất. Bọn tôi quan sát dòng chảy khả kính này, không phải dưới hồng quang rực rỡ của một ngày ngắn ngủi một đến rồi đi không trở lại, mà trong ánh sáng uy nghi của ký ức trường tồn. Và quả thực, với kẻ từng, như người ta vẫn nói, “đi theo tiếng gọi biển khơi” với niềm đam mê và sùng kính, không gì dễ dàng hơn việc triệu hoán những anh linh quá khứ trên hạ lưu sông Thames. Con nước thủy triều vẫn miệt mài, tận tụy xuống lên, tràn ngập ký ức về người và thuyền từng được nó đưa về lại cố hương hoặc đem vào hải chiến. Nó từng quen biết và phục vụ tất cả những con người mà dân tộc này hằng tự hào, từ Sir Francis Drake tới Sir John Franklin, đều là Hiệp sĩ, có tước hiệu và không tước hiệu[5] - những hiệp khách giang hồ của biển cả. Nó từng vận chuyển những con tàu với cái tên lấp lánh như ngọc trong đêm tối thời gian, từ chiếc Golden Hind trở về với hai mạn tròn chất đầy châu báu và được ngự giá Nữ hoàng đến thăm, rồi từ ấy rời xa dòng chảy huyền thoại này[6], đến chiếc Erebus và Terror, theo đuổi những cuộc chinh phục khác - và không bao giờ quay lại[7]. Nó biết rõ cả hải thuyền và hải khách. Họ giong buồm từ Deptford, Greenwich và Erith[8] - kẻ phiêu lưu lẫn người lập nghiệp; tàu Hoàng gia cùng thuyền thương khách; thuyền trưởng, đô đốc, đám hắc thương[9] vùng Viễn Đông, các “tướng lĩnh tự phong của Hải đội Đông Ấn. Săn vàng hay cầu danh, ai nấy đều khởi hành theo dòng chảy ấy, mang gươm, và thường là cầm đuốc, sứ giả của quyền uy từ lục địa, hộ tống một điểm tinh hỏa từ ngọn lửa thiêng. Có sự vĩ đại nào không từng theo con nước của dòng sông ấy đến với bí ẩn của một miền đất lạ!... Giấc mơ của con người, hạt giống của thịnh vượng chung, mầm mống của đế quốc. Mặt trời lặn; hoàng hôn trùm lên dòng sông, và ánh đèn bắt đầu xuất hiện ven bờ. Hải đăng Chapman, một vật thể ba chân mọc lên từ bãi lầy, chiếu sáng rực rỡ. Ánh đèn từ những con tàu di chuyển trên thủy đạo - một dòng ngược xuôi tấp nập của những ngọn đèn. Và xa hơn về tây, trên thượng lưu, vùng trời phía trên thành phố khổng lồ kia vẫn mang dấu hiệu bất tường, một vầng âm trầm u ám trong ánh tịch dương, một tia nhìn giận dữ chói gắt dưới trời sao. “Nơi đây,” Marlow đột ngột lên tiếng, “cũng từng là một trong những chốn tối tăm trên trái đất.”[10] Gã là người duy nhất trong cả hội còn “đi theo tiếng gọi biển khơi.” Nếu có nói xấu được gã điểm gì thì đó là gã không đại diện cho tầng lớp của mình. Gã là hải khách nhưng cũng là lãng khách, trong khi phần lớn những người đi biển khác sống một cuộc đời, ta tạm gọi là, yên vị. Đầu óc họ mang tâm thức tại gia, và nhà của họ luôn đi cùng họ - con tàu; và tổ quốc của họ cũng vậy - biển cả. Tàu nào cũng giống tàu nào, và biển cả thì muôn đời vẫn thế. Trong sự bất biến của môi trường quanh họ, những duyên hải xa xôi, những mặt người xứ lạ, những bao la biến động của cuộc đời, tất cả lướt qua, được che phủ không phải bởi cảm giác huyền bí mà dưới một thái độ vô tri ít nhiều khinh thị; bởi đối với người đi biển, chẳng có gì huyền bí trừ bản thân biển cả, người tình của sự hiện tồn của y, và khó nhìn thấu như chính số mệnh. Với họ, sau giờ lao động, một cuộc dạo chơi hoặc truy hoan tùy tiện trên bờ là đủ khám phá bí mật của cả một lục địa, và nhìn chung họ thấy bí mật này chả có gì đáng biết. Chuyện của dân đi biển có một sự giản đơn trực diện, toàn bộ ý nghĩa của nó chỉ gói gọn trong một cái vỏ lạc vỡ[11]. Nhưng Marlow không phải dân đi biển điển hình (không kể xu hướng huyên thuyên ở gã), và với gã, ý nghĩa của sự kiện không nằm trong hạt lạc, mà ở ngoài, bao quanh sự tích phát sinh ra nó giống như nguồn sáng nhiệt phát sinh hồng quang, tương tự như những quầng sáng đôi khi ta vẫn quan sát thấy nhờ quang phổ của ánh trăng. Bình luận của gã không làm ai ngạc nhiên. Marlow là như thế. Phát ngôn ấy được đón nhận trong im lặng. Thậm chí chẳng ai buồn lầm bầm; và lúc này gã đang nói, rất chậm rãi... “Tôi đang nghĩ về thời xa xưa, khi quân La Mã lần đầu đặt chân đến đây, một ngàn chín trăm năm trước[12] - như mới hôm qua... Ánh sáng đã phát xuất từ dòng sông này từ... thời các Hiệp sĩ, nhỉ? Phải; nhưng nó như một lưỡi lửa chạy trên đồng cỏ, một vệt chớp giữa trùng mây. Chúng ta sống dưới ánh sáng bập bùng ấy - cầu cho nó bền lâu như vòng quay của trái đất này! Nhưng hôm qua bóng tối vẫn ở đây. Thử tưởng tượng, cảm giác của viên chỉ huy một chiếc... gọi là gì nhể? – Trireme[13] ưu tú trên Địa Trung Hải, đột nhiên bị điều lên phương bắc; vội vàng đi đường bộ băng qua Gauls; và được giao một con thuyền, loại vẫn được các quân đoàn La Mã - hẳn toàn những kẻ khéo tay ghê gớm - đóng cả trăm chiếc trong một, hai tháng, nếu những gì ta vẫn đọc là đáng tin. Thử hình dung ra gã ở đây - nơi tận cùng thế giới, biển màu chì, trời màu khói, kiểu thuyền vững chãi như cây đàn concertina[14] - bơi ngược sông đem theo quân nhu, hoặc mệnh lệnh, hoặc gì cũng được. Bờ cát, đầm lầy, rừng rú, man dân - cơ hồ không có gì vừa miệng người văn minh, không có gì để uống ngoài nước sông Thames. Ở đây chẳng có rượu Falernian[15], và cũng chẳng có chuyện lên bờ. Thi thoảng lại thấy một doanh trại thất tung trong hoang dã, như cây kim mất tích giữa đụn rơm - giá, sương, bão táp, bệnh dịch, lưu đày và chết chóc - cái chết lởn vởn trong không khí, dưới nước, trong bụi rậm. Binh sĩ chắc hẳn chết ở đây như ngả rạ. Phải rồi - gã sống sót. sống tốt là đằng khác, sống mà không nghĩ ngợi gì nhiều, có chăng chỉ đủ để sau này khoác lác về những gì đã trải qua. Họ đủ nam nhi để đối mặt với bóng tối. Mà có lẽ gã đã phấn chấn hơn khi tơ tưởng đến cơ hội được đề bạt lên hải đội ở Ravenna[16] trong ngày một ngày hai, nếu gã có bạn bè thân cận ở Rome và sống sót qua mùa lam chướng này. Hoặc hãy nghĩ tới một công dân trẻ tử tế, khoác toga - chắc hẳn cháy túi vì cờ bạc - theo gót thái thú, hoặc thuế quan, thậm chí thương gia, đến đây mong kiếm chác được chút gì. Đặt chân lên đầm lầy, cuốc bộ xuyên rừng, và khi đến dịch trạm trong nội địa, thì cảm thấy cái man di, man di cùng cực, vây bủa lấy mình, - tất cả sự sống hoang dã bí hiểm sục sôi trong rừng rậm, trong rừng già, trong tim đám man dân. Chẳng có thời gian để làm quen với những bí ẩn ấy. Gã phải sống giữa chốn vô minh, vốn dĩ là điều đáng hận. Song nó cũng tỏa ra sức dụ hoặc, tác động lên gã. Thứ dụ hoặc nảy sinh từ oán hận - hãy tưởng tượng nỗi hối hận, cơn khát khao đào tẩu, sự ghê tởm trong bất lực, tâm lý buông xuôi, cảm giác căm ghét ngày một dâng cao.” Mời các bạn đón đọc Giữa Lòng Tăm Tối của tác giả Joseph Conrad.
Tôi Với Người Chung Một Trái Tim - Du Tử Lê
Du Tử Lê (sinh 1942) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ Việt Nam đang định cư ở nước ngoài. Ông sinh năm 1942 tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, miền Bắc Việt Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai. Du Tử Lê từng là sĩ quan thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu phóng viên chiến trường, thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa), và là giáo sư dạy giờ cho một số trường trung học Sài Gòn. Năm 1973 tại Sài Gòn, ông được trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Du Tử Lê cùng với Mai Thảo và Phạm Duy bị kết án tử hình vắng mặt trên đài phát thanh của Mặt trận giải phóng Miền Nam vì có thái độ chống đối cộng sản quyết liệt. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông sang tỵ nạn bên Hoa Kỳ. Hiện ông đang sống ở miền Nam California, tiếp tục nghề viết, và là nhân viên khế ước của đài tiếng nói Hoa Kỳ từ năm 1996. Ông cũng từng là chủ nhiệm các báo Việt ngữ Nhân chứng, Tay Phải, và Văn nghệ ở Hoa Kỳ. *** “Nó nhỏ tí thua mọi thứ hạt giống, nhưng khi nó đã lớn lên thì nó to hơn rau cỏ mà thành một cây đến đổi chim trời đến nương náu trên cành nó.” Mt. 13. 22. Hai tuần lễ trôi qua như một chớp mắt. Mười bốn ngày tôi không ra khỏi nhà. Mười bốn ngày, chàng cũng chỉ ra khỏi nhà trong những lúc thật cần thiết. Thức ăn được dự trữ. Văn phòng giao cho người khác. Trước cửa nhà, chúng tôi treo tấm bảng “đi vắng”. Mỗi một ngày đi qua, tôi một bước gần hơn tới chiếc mộ huyệt chôn sống đời mình. Mỗi một ngày đi qua, Cảo không ngớt rót vào tai tôi “nếu thực sự thương anh, Thiện nên lấy Phong.” Hay chàng bảo “Lấy Phong, là Thiện yêu anh vậy.” Tôi nghĩ chàng không sung sướng khi nói câu này. Tôi biết chàng phải vận dụng tất cả sự cao thượng, hy sinh để trước sau chỉ nói với tôi, một câu như vậy. Tôi hiểu mình phải quyết định, Quyết định để cứu nhau. Quyết định để còn chàng, còn tôi nữa, trong tình yêu của chàng. Trở về Seattle, tôi đồng ý đề nghị làm đám cưới thật gấp của Phong. Ba tôi điện thoại thông báo mọi chuyện với Cảo. Gia đình tôi muốn chàng hiện diện trong ngày cử hành hôn lễ. Tôi cũng vậy. Tôi bảo “đến với Thiện, lần cuối”. Cảo không hứa. Chàng nói, chàng chỉ xin lúc Cha làm thủ tục hỏi có phải tôi tự ý bằng lòng lấy Phong hay không thì tôi sẽ nhìn xuống cuối nhà thờ. “Có thể Thiện sẽ tìm thấy anh nơi sát cửa.” ... Mời các bạn đón đọc Tôi Với Người Chung Một Trái Tim của tác giả Du Tử Lê.
Thư Gửi Về Trung Quốc Xa Xưa - Herbert Rosendorfer
Cao Đài, một vị quan tứ phẩm đời nhà Tống đã quyết định du hành vào tương lai 1000 năm sau, mục đích muốn xem đất nước Trung Hoa và con cháu ngàn đời của họ sống như thế nào. Nhưng không ngờ nơi ông đến lại là nước Đức thế kỷ 20 mà không phải là Trung Quốc. Từ đó, biết bao nhiêu thứ mới lạ mở ra trước mắt ông. Cuốn sách này là tập hợp những bức thư Cao Đài viết cho bạn mình là Di Ngô, những lá thư từ Đức gửi về Trung Hoa đời nhà Tống, qua đó Cao Đài đã kể cho bạn nghe những việc xảy ra với ông và những điều lạ lùng ở thế giới xa xôi này. *** Nguyên tác “Thư gửi về Trung Quốc xa xưa” của Herbert Rosendorfer xuất bản lần đầu tiên năm 1983 và được tác giả chỉnh sửa năm 1991 (ấn bản thứ 15). Năm 2008, nghĩa là chỉ trong vòng hai mươi lăm năm, tác phẩm này đã được tái bản tới lần thứ 37! Một con số rất ấn tượng và đầy thuyết phục! Nhưng sao không phải “xa xăm” mà “xa xưa”? Tất nhiên có xa xăm, vì những bức thư này được viết ở Đức và gửi về Trung Quốc. Song “xa xưa” chính vì Cao Đài – một quan tứ phẩm đầu thời Tống (thế kỷ 10) ở Trung Hoa – do hiếu kỳ đã dùng “la bàn-thời gian” du hành một nghìn năm vào tương lai và nơi đáp xuống không phải đế đô Khai Phong như đã tính toán mà là thành phố Min-chen ở Đức. Vì phải chờ tám tháng sau mới tới ngày có thể đáp “la bàn-thời gian” trở về cố hương, Cao Đài buộc phải sống ở Đức và đã viết thư kể cho bạn là Di Ngô về chuyến phiêu lưu cùng nhận xét của mình về con người, phong tục, cuộc sống, lịch sử, chính trị, tôn giáo và văn học của “bọn mũi lõ” vào cuối thế kỷ 20. Tất nhiên Cao Đài không phát âm được chính xác tên người, đất nước, đồ vật trong tiếng Đức nên người dịch mạn phép chua thêm, trong ngoặc, cách phát âm để độc giả nào xa lạ với ngôn ngữ này có thể cảm nhận dễ dàng hơn nét trào lộng của một tác phẩm ý nhị. Và, vì Cao Đài không thể biết được những thuật ngữ hiện đại của chúng ta như đĩa hát, máy truyền hình (hay TV), giáo hoàng... nên đã sáng tạo ra những từ lạ tai và ngộ nghĩnh như... bạn đọc sẽ thấy. Cuối cùng, để có thể chuyển được phần nào không khí cổ văn trong ba mươi bảy bức thư của Cao Đài, người dịch mạnh dạn dùng một số từ học lóm từ truyện kiếm hiệp Trung Hoa: đệ, huynh, tại hạ, túc hạ, tiểu nhị, tửu bảo... chỗ nào không thích hợp, rất mong được bạn đọc thể tất. Tháng 11 năm 2013 Lê Chu Cầu *** Lưu ý của tác giả Những ngày tháng, theo lịch cổ Trung Quốc, trong các thư của viên quan Cao Đài gửi người bạn Di Ngô đã được chuyển sang lịch Âu châu. Trong phong cách viết thư của người Trung Quốc xưa, những thể thức chào hỏi cuối thư hết sức phức tạp và cầu kỳ nên đã được đơn giản hóa và chỉ dịch theo nghĩa. Trong thư gốc, Cao Đài gọi bạn bằng tên húy và ký bằng tên hiệu, thỉnh thoảng bằng húy danh, song để giản tiện tất cả được thay bằng tên họ. ... Mời các bạn đón đọc Thư Gửi Về Trung Quốc Xa Xưa của tác giả Herbert Rosendorfer.