Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sự Thật Vụ Mất Tích Nữ Nhà Báo Stephanie Mailer

Sau thành công của tiểu thuyết Sự thật vụ án Harry Quebert hay Chuyện nàng Nola từng được đánh giá là tác phẩm thổi bay Hỏa Ngục khỏi các bảng xếp hạng năm 2014, Joël Dicker một lần nữa tiếp tục chinh phục độc giả với tác phẩm mới nhất và vô cùng xuất sắc của mình - Sự thật vụ mất tích nữ nhà báo Stephanie Mailer. Ngày 30 tháng 7 năm 1994, vào đêm khai mạc Liên hoan sân khấu đầu tiên được tổ chức tại thành phố Orphea, thị trưởng Gordon cùng vợ con đã bị sát hại tại nhà riêng. Trước cửa nhà ông thị trưởng, thi thể của nữ thủ thư Meghan Padalin cũng nằm trong vũng máu. Điều tra viên Jesse và trung sĩ Derek là những người đầu tiên tiếp cận hiện trường và được giao phụ trách vụ án này. Bắt tay vào điều tra, cả hai gặp vô vàn khó khăn bởi lẽ không có bất kỳ nhân chứng nào cũng như không tìm thấy động cơ nào dẫn đến vụ thảm sát cả gia đình ông thị trưởng. Sau rất nhiều nỗ lực, họ đã tìm được một nghi phạm thích hợp, đó là Ted Tennenbaum, chủ một nhà hàng vốn có hiềm khích với ngài thị trưởng. Và trong một cuộc truy đuổi, Ted đã mất mạng khi lao xe xuống cầu sông. Hai mươi năm sau, vào bữa tiệc chia tay Jesse (lúc này đã là đại úy) nghỉ hưu, nữ nhà báo Stephanie Mailer bất ngờ tiết lộ với anh rằng anh và cộng sự của mình đã bị nhầm về thủ phạm của vụ án năm xưa, theo đó Ted quá cố không phải là hung thủ giết hại bốn mạng người vào năm 1994. Vài giờ sau tiết lộ chấn động đó, cô phóng viên Stephanie đột nhiên mất tích cùng với bí ẩn về thủ phạm thực sự của vụ án mạng hai mươi năm trước khiến Jesse buộc phải yêu cầu cấp trên cho mở lại vụ án. Lần theo các manh mối phát hiện được tại nhà Stephanie, Jesse và Dereck bắt đầu chạy đua với thời gian để tìm ra thủ phạm thực sự không chỉ thảm sát bốn người vào năm 1994, mà còn khiến Stephanie mất mạng cũng như còn nhiều cái chết tiếp theo. Và hai mươi năm sau, những bí ẩn cùng rất nhiều nhân chứng liên quan tới vụ án năm xưa mới dần hé lộ. Bạn đọc một lần nữa sẽ trải qua những phút giây ngộp thở bởi tài năng xây dựng tình tiết câu chuyện của Joel Dicker mà phải đến trang cuối cùng mọi bí ẩn mới được giải đáp: vẫn không gian - thời gian của một nước Mỹ “giả tưởng”, vẫn thủ pháp kể chuyện đan xen sự kiện giữa hiện tại và quá khứ, vẫn hệ nhân vật đa chiều, mỗi nhân vật lại có một câu chuyện riêng rất đáng chú ý. ***   ĐÔI LỜI VỀ CÁC SỰ KIỆN Ngày 30 tháng Bảy năm 1994 Chỉ có những người thân thuộc với vùng Hamptons thuộc bang New York mới phong thanh biết được những chuyện đã xảy ra vào ngày 30 tháng Bảy năm 1994 tại Orphea, một thành phố nhỏ phồn hoa nằm bên bờ đại dương. Tối đó, Orphea khai mạc Liên hoan sân khấu đầu tiên của thành phố, và sự kiện có quy mô toàn quốc này đã thu hút một lượng khán giả đông đảo. Ngay từ cuối buổi chiều, các du khách và cư dân địa phương đã bắt đầu tụ tập trên đường phố chính để tham dự rất nhiều hoạt động lễ hội do Tòa thị chính tổ chức. Người ta rời hết khỏi các khu dân cư, khiến những nơi này chẳng khác nào một thành phố ma: không còn người đi dạo trên vỉa hè, không còn cặp đôi dưới các mái vòm, không còn lũ trẻ trượt pa tanh trên đường phố, trong các khu vườn cũng chẳng còn một ai. Tất cả mọi người đều ở đường phố chính. Khoảng 20 giờ, trong khu phố Penfield vắng ngơ vắng ngắt, dấu vết duy nhất của sự sống chính là một chiếc xe hơi chậm rãi chạy dọc theo những con phố bị bỏ rơi. Ngồi sau tay lái, một người đàn ông chăm chăm nhìn vào các vỉa hè, trong đôi mắt ánh lên nỗi lo âu. Anh chưa từng cảm thấy cô độc đến thế trên đời. Chẳng có người nào giúp anh. Anh không còn biết phải làm gì. Anh đang tuyệt vọng đi tìm vợ: cô đã đi chạy thể dục và không trở về nữa. Samuel và Meghan Padalin thuộc số hiếm những cư dân quyết định ở lại nhà trong tối khai mạc Liên hoan sân khấu. Họ không mua được vé xem vở diễn mở màn, vì trước đó quầy bán vé chẳng khác nào bị tấn công, và họ cũng không thấy thích thú gì với việc chen lấn tham gia các hoạt động lễ hội trên đường phố chính và trên bến du thuyền. Đến cuối ngày, Meghan rời khỏi nhà, giống như tất cả những ngày khác, vào khoảng 18 giờ 30 phút, để chạy bộ. Ngoại trừ Chủ nhật, ngày cô cho phép thân thể mình nghỉ ngơi một chút, tất cả các tối trong tuần cô đều rèn luyện trên cung đường đó. Cô rời khỏi nhà và chạy ngược phố Penfield, lên đến tận Penfield Crescent, một đường vòng cung bao quanh một công viên nhỏ. Cô dừng lại ở đó để thực hiện một loạt những bài tập trên cỏ - luôn là những bài tập ấy - rồi quay trở về nhà vẫn theo con đường vừa rồi. Chuyến chạy bộ của cô kéo dài đúng bốn mươi lăm phút. Đôi khi là năm mươi phút, nếu cô kéo dài thời gian tập trên cỏ. Không bao giờ lâu hơn. Đến 19 giờ 30 phút, Samuel Padalin ngạc nhiên thấy vợ anh vẫn chưa về. Đến 19 giờ 45 phút, anh bắt đầu cảm thấy lo lắng. Đến 20 giờ, anh bắt đầu đi đi lại lại trong phòng khách. Đến 20 giờ 10 phút, không thể chịu đựng nổi nữa, rốt cuộc anh lấy xe hơi để đi quanh khu phố. Dường như đối với anh, cách làm hợp lô gic nhất là lần theo đúng cung đường chạy quen thuộc của Meghan. Và anh đã làm thế. Anh rẽ vào phố Penfield, rồi lái xe ngược lên đến tận Penfield Crescent, sau đó rẽ ngoặt. Đã 20 giờ 20 phút. Chẳng có một mống người nào. Anh dừng lại một lát để quan sát công viên nhưng không nhìn thấy ai. Chỉ đến khi nổ máy trở lại anh mới nhìn thấy một hình dạng trên vỉa hè. Lúc đầu anh tưởng rằng đó là một đống quần áo. Rồi hiểu ra rằng đó là một thân người. Anh vội lao ra khỏi xe, tim đập thình thịch: chính là vợ anh. Khi làm việc với cảnh sát, Samuel Padalin sẽ nói rằng lúc đầu anh tưởng rằng vợ anh bị mệt vì nóng. Anh sợ rằng vợ anh bị nhồi máu cơ tim. Nhưng khi lại gần Meghan, anh nhìn thấy máu và lỗ thủng ở đằng sau hộp sọ cô. Anh bắt đầu gào lên, gọi người đến cứu, không biết phải ở lại bên vợ hay chạy đi gõ cửa các nhà để nhờ ai đó gọi cấp cứu. Mắt anh mờ đi, anh có cảm giác hai chân không đủ sức nâng đỡ cơ thể mình nữa. Cuối cùng, những tiếng gào hét của anh cũng đánh động được một cư dân sống ở con phố song song, ông này đã gọi cấp cứu. Vài phút sau, cảnh sát phong tỏa khu phố. Chính là một trong số những nhân viên cảnh sát đầu tiên đến hiện trường, vào thời điểm thiết lập phạm vi phong tỏa, đã nhận thấy rằng cánh cửa nhà ông thị trưởng thành phố, căn nhà nằm ngay đằng trước xác Meghan mặc quần áo thể dục chạy bộ, đang hé mở. Cảm thấy tò mò, anh lại gần. Anh nhận thấy cánh cửa đã bị phá hỏng. Anh lấy súng ra khỏi bao, nhảy lên các bậc tam cấp và cất tiếng gọi. Không có ai trả lời. Anh giơ mũi chân đẩy cánh cửa và nhìn thấy xác một người phụ nữ nằm sõng soài trong hành lang. Anh lập tức gọi người chi viện, rồi chầm chậm tiến vào trong nhà, súng lăm lăm trên tay. Ở bên tay phải, trong phòng khách nhỏ, anh kinh hoàng phát hiện ra xác một cậu bé. Rồi, trong phòng bếp, anh nhìn thấy ông thị trưởng nằm trong vũng máu, ông cũng đã bị giết chết. Cả gia đình đã bị sát hại. ***   JESSE ROSENBERG Thứ Hai ngày 23 tháng Sáu năm 2014 33 ngày trước đêm biểu diễn khai mạc của Liên hoan sân khấu lần thứ 21 tại Orphea Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi gặp Stephanie Mailer chính là khi cô thâm nhập bữa tiệc nhỏ được tổ chức để chúc mừng tôi chia tay lực lượng Cảnh sát bang New York. Ngày hôm đó, đông đảo cảnh sát thuộc đủ các bộ phận đã tụ tập trong ánh mặt trời giữa trưa, đằng trước cái bục gỗ được dựng lên vào những dịp trọng đại tại bãi đỗ xe của trung tâm vùng thuộc lực lượng cảnh sát bang. Tôi đứng trên cái bục ấy, bên cạnh cấp trên của tôi, thiếu tá McKenna, người đã dẫn dắt tôi trong suốt sự nghiệp cảnh sát của tôi, ông đang trịnh trọng vinh danh tôi. “Jesse Rosenberg là một đại úy cảnh sát trẻ tuổi, nhưng rõ ràng cậu ấy đang rất sốt ruột muốn rời khỏi ngành, thiếu tá McKenna tuyên bố khiến cử tọa cười rộ lên. Tôi không bao giờ tưởng tượng được là cậu ấy lại ra đi trước tôi. Dù sao, cuộc đời cũng thật bất công: tất cả mọi người đều muốn tôi ra đi, nhưng tôi vẫn ở đây, và tất cả mọi người đều muốn giữ Jesse ở lại, nhưng Jesse lại ra đi.” Tôi 45 tuổi và tôi rời khỏi ngành cảnh sát với tâm trạng thư thái, vui vẻ. Sau hai mươi ba năm phục vụ, tôi đã quyết định nhận khoản trợ cấp mà lúc này tôi có quyền được hưởng để thực hiện một dự án mà tôi vẫn nung nấu từ lâu. Tôi vẫn còn một tuần làm việc nữa, đến tận 30 tháng Sáu. Sau đó, có lẽ một chương mới trong cuộc đời tôi sẽ mở ra. “Tôi vẫn còn nhớ vụ án lớn đầu tiên của Jesse, thiếu tá McKenna nói tiếp. Một vụ giết người khủng khiếp với bốn nạn nhân, mà cậu ấy đã phá án xuất sắc, trong khi không có người nào trong đội cảnh sát tin rằng cậu ấy đủ khả năng làm việc đó. Khi ấy, Jeese vẫn còn là một cảnh sát trẻ măng. Kể từ thời điểm đó, tất cả mọi người đều hiểu Jesse kiên cường đến mức nào. Tất cả những người từng ở bên cậu ấy đều biết rằng cậu ấy là một điều tra viên ngoại hạng, tôi nghĩ có thể nói rằng thậm chí Jesse chính là người giỏi nhất trong số chúng tôi. Chúng tôi đã đặt biệt danh cho cậu ấy là đại úy 100% vì đã giải quyết được tất cả các vụ điều tra mà cậu ấy từng tham gia, điều này khiến Jesse trở thành điều tra viên có một không hai. Cậu ấy là cảnh sát được các đồng nghiệp ngưỡng mộ, là chuyên gia để các đồng nghiệp xin ý kiến tư vấn, là chuyên viên đào tạo thuộc Học viện cảnh sát trong suốt nhiều năm liền. Hãy để tôi nói với cậu điều này, Jesse ạ: đã hai mươi năm nay tất cả chúng tôi ghen tị với cậu!” Cử tọa lại cười rộ lên. “Chúng tôi không hiểu rõ lắm về dự án mới đang chờ đợi cậu, Jesse ạ, nhưng chúng tôi chúc cậu gặp nhiều may mắn trong dự án đó. Và hãy nhớ rằng chúng tôi sẽ rất nhớ cậu, ngành cảnh sát sẽ nhớ cậu, nhưng đặc biệt là các bà vợ của chúng tôi, những người thường ghé qua các hội chợ của ngành cảnh sát chỉ để nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống cậu.” Một tràng pháo tay vang dội tán thưởng bài diễn văn. Thiếu tá McKenna thân mật vỗ vai tôi, tôi xuống khỏi bục để đến chào tất cả những người đã thân thiện có mặt, trước khi họ lao đến chỗ bày đồ ăn tự chọn. Sau khi tôi còn lại một mình được một lát, thì một cô gái rất xinh đẹp, tuổi trạc ba mươi đi đến bên tôi, tôi không nhớ đã tùng gặp cô ta bao giờ chưa. - Vậy ra anh chính là viên đại úy 100% trứ danh đó? Cô ta hỏi tôi bằng giọng đầy quyến rũ. - Hình như thế, tôi mỉm cười trả lời. Chúng ta có quen biết nhau không? - Không. Tôi tên là Stephanie Mailer. Tôi là phóng viên làm việc cho tờ Thời báo Orphea. Chúng tôi bắt tay nhau. Stephanie liền bảo tôi: - Anh có ngại không nếu tôi gọi anh là đại úy 99%? Tôi nhíu mày: - Phải chăng cô đang muốn nói bóng gió rằng tôi đã không phá được một trong các vụ án mà tôi được giao điều tra? Thay cho toàn bộ câu trả lời, cô ta lấy từ trong túi ra bản sao một bài báo cắt từ tờ Thời báo Orphea, số ra ngày 1 tháng Tám năm 1994 rồi đưa cho tôi: ĐOẠT MẠNG BỐN NGƯỜI Ở ORPHEA: THỊ TRƯỞNG CÙNG CẢ GIA ĐÌNH BỊ SÁT HẠI Tối thứ Sáu, thị trưởng thành phố Orphea, Joseph Gordon, vợ ông cùng cậu con trai nhỏ 10 tuổi của họ đã bị sát hại tại nhà riêng. Nạn nhân thứ tư tên là Meghan Padalin, 32 tuổi. Người phụ nữ trẻ này đang chạy thể dục vào thời điểm xảy ra vụ việc, chắc hẳn cô chính là nhân chứng không may của vụ giết người. Cô đã bị bắn chết ngay giữa phố, đằng trước nhà của ông thị trưởng. Mời các bạn đón đọc Sự Thật Vụ Mất Tích Nữ Nhà Báo Stephanie Mailer của tác giả Joël Dicker & Nguyễn Thị Tươi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Buồng Khử - Jeffery Deaver
Robert Moreno, một công dân Mỹ nhưng lại bài trừ Mỹ, bị một tay súng bí ẩn mưu sát tại Bahamas từ khoảng cách không tưởng. Lincoln Rhyme - nhà khoa học hình sự xuất sắc nhất nước Mỹ - và đồng sự Amelia Sachs được mời vào cuộc. Danh tính tay súng vẫn còn là ẩn số, nhưng một người tố giác nặc danh đã tiết lộ tổ chức giật dây phía sau chính là Cục Tình báo và Chỉ huy Quốc gia. Có kẻ đã cố tình điều chỉnh số liệu tình báo để kết tội Moreno là kẻ khủng bố và ra lệnh giết anh ta. Trong khi Amelia Sachs lần theo dấu vết của nạn nhân tại Manhattan, thì Rhyme đến thẳng hiện trường tại Bahamas để truy tìm “viên đạn triệu đô”. Khi các tình tiết của vụ án bắt đầu hé mở, cặp đôi này phát hiện ra mọi chuyện không đơn giản như vẻ bề ngoài. Có kẻ lén lút bám theo họ, thậm chí còn đi trước họ một bước trong suốt cuộc điều tra. Hắn sẵn sàng dọn sạch tất cả để che giấu tội ác - bằng chứng, nhân chứng và cả điều tra viên. Trong trận đấu trí rợn người giữa Lincoln với tên sát nhân máu lạnh, chiến thắng chỉ thuộc về kẻ thông minh và liều lĩnh hơn. Liệu họ có giành được công lý mà vẫn toàn mạng trở về? *** Jeffery Deaver sinh ngày mùng 6 tháng 5 năm 1950, tại ngoại ô thành phố Chicago, bang Illinois. Ông có bằng cử nhân báo chí tại Đại học Missouri và bằng luật của trường Đại học Fordham. Ông từng là nhà báo, luật sư và ca sĩ hát nhạc dân ca. Trong sự nghiệp văn chương của mình, ông đã sáng tác hơn 30 cuốn tiểu thuyết, ba tập truyện ngắn và một cuốn sách phi hư cấu pháp luật.  Với vốn hiểu biết phong phú và kinh nghiệm sống của mình, Jeffery Deaver cũng là diễn giả thường xuyên ở hàng trăm hội nghị văn chương trên toàn thế giới, bao gồm Liên hoan sách quốc tế Edinburgh, liên hoan văn học Emirates, Hội nghị các cây viết quốc tế xuất sắc. Các tác phẩm đã được xuất bản của ông bao gồm: Kẻ tầm xương, Cái ghế trống, Lá bài thứ 12, Cây thập tự ven đường, Búp bê đang ngủ, Vũ điệu của thần chết, Giọt lệ quỷ, Dữ liệu tử thần, Sát nhân mạng, Lưới điện tử thần, Trăng lạnh, Giai điệu tử thần, Buồng khử Hang dã thú *** Ánh chớp ấy làm anh bất an. Một tia sáng, trắng hoặc vàng nhạt, ở đằng xa. Từ nước chăng? Từ mũi đất băng qua cái vịnh ngọc lam yên bình ấy chăng? Nhưng tại nơi đây, không thể có nguy hiểm. Nơi đây, anh đang ở trong một khu nghỉ dưỡng xinh đẹp và biệt lập. Nơi đây, anh thoát khỏi cái nhìn soi mói của giới truyền thông và tầm ngắm của kẻ thù. Roberto Moreno nhíu mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, mới gần tứ tuần mà mắt anh đã kém. Anh đẩy gọng kính lên sống mũi rồi lướt mắt qua khung cảnh tuyệt mĩ - khu vườn ngoài cửa sổ của dãy phòng, bờ cát hẹp trắng xóa, biển màu xanh ngọc đang vỗ nhịp. Xinh đẹp, biệt lập… và nghiêm mật. Không tàu bè nào bập bềnh trong tầm mắt. Và giả sử có một kẻ thù nào đó cầm súng trường biết anh đang ở đây rồi lén lút băng qua khu nhà máy công nghiệp trên mũi đất cách chỗ anh tận một cây số rưỡi bên kia biển, thì khoảng cách và sự ô nhiễm đến mịt mờ tầm nhìn cũng sẽ vô hiệu hóa phát súng. Không còn ánh chớp, cũng chẳng còn tia sáng. Mày đang được an toàn. Dĩ nhiên là vậy. Song Moreno vẫn thận trọng. Như Martin Luther King, như Gandhi, anh luôn trong tình cảnh nguy hiểm. Đây là lối sống của anh. Anh không sợ chết. Nhưng anh sợ chết trước khi xong việc. Và ở độ tuổi trẻ trung này, anh vẫn còn nhiều việc phải làm. Chẳng hạn, sự kiện mà anh vừa tổ chức xong cách đây khoảng một tiếng - một sự kiện trọng đại, nhất định sẽ thu hút sự chú ý của nhiều người - chỉ là một trong số cả chục kế hoạch được lên cho năm sau. Và xa hơn nữa, một tương lai dư dật đang chực chờ. Vận một bộ com lê vàng nâu nhạt kín đáo, sơ mi trắng và cà vạt màu xanh hoàng gia - đậm chất Caribê - người đàn ông phương phi rót đầy hai tách từ bình cà phê mà nhân viên phục vụ phòng vừa giao rồi trở lại chỗ đi văng. Anh trao một tách cho ông phóng viên, lúc này đang sửa soạn máy ghi âm. ... Mời các bạn đón đọc Buồng Khử của tác giả Jeffery Deaver.
Người Bị Buộc Tội - Noelle Loriot
Người bị buộc tội là một trong những cuốn tiểu thuyết hình sự nổi tiếng của Noelle Loriot: Được đưa vào Bệnh viện vì viêm ruột thừa, cô gái An Menxphin, mười tám tuổi, chết trên bàn mổ. ít lâu sau, bố dượng cô bị giết bằng một con dao mổ. Say rượu trong lúc mổ, bác sĩ phẫu thuật Ê- ma- nuy-en Fo là kẻ khả nghi chính.  Một cuộc thẩm cứu đầy sóng gió, nổi bật ở nhân cách lạ lùng của bà thẩm phán thẩm cứu còn rất trẻ là Florǎngxơ Lariơ; một tình tiết lôi cuốn trong những môi trường thật khép kín của y học và công lý: nhà nữ tiểu thuyết trong cuốn truyện này đua tranh với những cây bút xuất sắc của loại tiểu thuyết hình sự ǎng-glo Xắc- xông.  *** Noelle Loriot sinh tại Pari, theo học tại các trường trung học Gian-đa (Jeanne d’Arc) và La-mac-tin (Lamartine) rồi IDHEC. Một thời gian dài sống ở Nam Mỹ với chồng là một nhà điện ảnh. Bà là nhà báo của tờ Nu-vô Căngđiđơ (Nouveau Candide) trước khi trở thành biên tập viên cho Nhà xuất bản Đơ-nô-en (Denoel) và phê bình văn học cho tờ Etxpret (Exprès). Bà là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết, nhất là “Tiếng thét” được đưa lên màn ảnh dưới tên “Bác sĩ Frăngxoadơ Gayăng”, “Lời thề Hipôkrat” viết về tiểu sử nhà nữ bác học Iren Giôliô Quyri. Dưới bút danh Lorăngxơ Orion, bà đã cho xuất bản nhiều tiểu thuyết trinh thám ở Nhà xuất bản Đơ-nô-en, trong đó cuốn “Sinh viên Y khoa nội trú trực” được giải thưởng lớn về văn học trinh thám, và ở Nhà xuất bản Anbanh Mixen như các cuốn “Kẻ giết người ở trong số chúng ta” và “Sản nghiệp của ông hoàng”. Nhà xuất bản Công an Nhân dân xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuốn tiểu thuyết Người Bị Buộc Tội của Noelle Loriot. *** Luật sư Gre của Matinđơ Buyxông mới bốn mươi tuổi nhưng trông đã khó coi với cái đầu hói sớm và béo mập, nhưng có giọng nói dễ thương và nụ cười hiền. Ông không còn thuộc văn phòng luật sư Buyxông đã đào tạo ông nữa. Matinđơ lộ vẻ như một con chó bị đánh và tôi không thể tự hào về việc này. — Cô trở về Pari từ khi nào? — Bốn hoặc năm ngày. — Bốn hay năm? — Có quan trọng gì chứ? Giọng nói cô ta có vẻ khiêu khích, hai con mắt như hai viên đại bác. Đột nhiên tôi nhớ một thiếu nữ có thân hình khó coi, bị mê hoặc bởi người anh cả; thật sự lệ thuộc vào sự mê hoặc ấy nên cô ta có những phản ứng của con mèo cái trong cơn giận dữ khi người ta cho cô nhận xét đó. Cô ta khiêu khích Fabrixơ, chọc tức anh, làm anh phẫn nộ với mục đích duy nhất là có được tầm quan trọng dưới mắt anh. Đó là một cảnh kỳ lạ mà tôi được dự hai hoặc ba lần. — Chúng ta hãy trở lại từ đầu - Tôi nói - Trong những lời khai cung đầu tiên của cô, cô khẳng định không quen biết Patric Parăng… — Tôi nói dối. — Cô gặp ông ta lần đầu khi nào? — Tháng chín năm ngoái. Tôi đã thực hiện vài vụ kinh doanh lớn và tôi đã hỏi ông Parăng rằng có phải ông ấy có những căn hộ muốn bán mà tôi có thể quan tâm không. Ông ta đã giới thiệu cho tôi một căn hộ mà ông ta trình bày như một “vụ làm ăn”, nhưng tôi hiểu ngay là giả dối. Ông ta thử lừa tôi. Tôi nói toạc với ông ta việc này và ông ta cười. Thái độ đó làm tôi thích và tôi nhận lời đi uống một cốc nước với ông ta. — Ông ta có biết cô là con gái luật sư Buyxông không? — Có. Tôi đã ngu ngốc nói điều này với ông ta ngay từ đầu, tưởng rằng như vậy để cảnh báo ông ta nếu ông ta định tìm cách lừa tôi. Nhưng ông ta rất dễ thương làm tôi mất cảnh giác rất nhanh. — Tóm lại, cô sớm trở thành người tình của ông ta. — Đúng thế. — Hai người gặp nhau ở đâu? — Trong một khách sạn kín đáo, dưới những cái tên giả. — Khi nào ông ta bắt đầu vay tiền cô? — Khi ông ta hiểu tôi yêu ông ta say đắm. Con người này là một kẻ vô lại nhưng biết cách hành động. Ông bắt đầu mượn những món tiền nhỏ mà tôi không thể từ chối không cho ông ta vay. Ông ta nói với tôi là người hùn vốn với ông ta là kẻ máu mê cờ bạc và Rôlăng Giecboa ấy đã tiêu lạm vào quỹ quá đáng làm ông ta không biết cứu vãn thế nào. Tôi khuyên ông ta tách người hùn vốn ra nhưng ông ta khéo léo nêu những lý lẽ tình cảm để phản đối. Tôi đã tin ông ta. — Cho tới ngày ông ta trở nên quá tham lam phải không? - Tôi gợi ý. — Cho tới ngày mà tôi hiểu ông ta không ngừng lừa dối tôi; con gái ghẻ của ông ta và nhiều người đàn bà khác. — Thế nào mà cô biết chắc được những chuyện ấy? — Tôi đã theo dõi ông ta, vì tôi có những nghi ngờ. Vì ông ta nói dối tôi. — Cô có nói với ông ta chuyện này không? ... Mời các bạn đón đọc Người Bị Buộc Tội của tác giả Noelle Loriot.
Mafia - Tên Gọi Đầy Bí Ẩn - V. P. Borovicka
Nghe đến Mafia, người ta thường nghĩ ngay tới những vụ giết người rùng rợn, những trận đấu súng đẫm máu, những vụ cướp nhà băng ly kỳ... Nhưng ai biết Mafia ngày nay còn là một chính phủ vô hình với quyền lực vô hạn, gồm những chủ ngân hàng giàu sụ, những giám đốc công ty kếch xù, những chính khách bệ vệ, chẳng những đã từng ăn cánh với CIA (Cục tình báo trung ương Mỹ) nhúng tay vào nhiều vụ đảo chính khủng bố tày đình, mà còn có thế lực lớn, thừa sức đưa lên hay hạ bệ được cả tổng thống Hoa Kỳ. Vậy tổ chức này xuất phát từ đâu và vì sao nó mang tên Mafia? Hầu hết các nhà nghiên cứu đều nhất trí quê hương của Mafia là Sicilie, một hòn đảo lớn phía nam nước Ý, nằm ở đường giao nhau giữa các châu Âu, Á, Phi. Trong quá khứ cũng như hiện tại, Sicilie vẫn là một vị trí chiến lược quan trọng, nơi giành giật giữa các thế lực đối lập. Những mỏm đá trên đảo đã từng in dấu vó ngựa của các danh tướng như Caesar, Alexandros Đại đế, Hannibal... Trong chiến tranh thế giới thứ hai, đây là nơi đổ bộ của quân Anh, Mỹ, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng dẫn đến chiến thắng hoàn toàn của phe Đồng minh, ở một vị trí lịch sử như vậy, nhưng Sicilie lại phải chịu một khí hậu vô cùng khắc nghiệt, đất đai lại quá ư cằn cỗi. Đời này qua đời khác, gió và sóng biển bào đi hết những gì màu mỡ, chỉ để lại những mỏm đá hình thù quái dị. Dưới nước thì toàn những bạch tuộc và mực đen, trên bờ thì đầy rẫy những tổ chim xơ xác như muốn điểm thêm vẻ hoang vu trên đảo. Người dân ở đây sống trong những ngôi nhà nhỏ bằng đá dựng và chìm lấp trong đá. Mùa đông lạnh buốt xương mùa hè lại như rang trong chảo. Cuộc đời quá vất vả không cho phép họ có thì giờ nghĩ đến ngày mai. Phải chăng vì thế mà động từ trong tiếng Sicilie không có thì tương lai? Sicilie miền đất vô hy vọng? Cùng cực và đói rách, nhưng người dân Sicilie vẫn yêu tha thiết bầu trời trong xanh của mình. Khi gót giày quân viễn chinh Pháp đặt lên đảo, họ đã vùng lên chống cự quyết liệt. Vì độc lập dân tộc, các chiến sĩ ngã xuống trong tiếng hô cảm tử: Morta Alla Francia Italia Anela (Giết giặc Pháp, tự do cho nước Ý). Phải chăng Mafia là tên gọi tắt gồm những chữ đầu trong khẩu hiệu trên? Có giả thiết cho rằng tổ chức Mafia xuất hiện sớm hơn từ năm 1670. Lúc đó ở Palermo nảy sinh tổ chức Beati Paoli, thường gọi là “Hội những quý tộc văn minh”. Những cuộc họp bí mật của hội thường được triệu tập trong các hang đá. Từ những thế kỷ trước, Mafia là tên gọi các mỏm đá ở gần Trapani thuộc Sicilie. Tên gọi Mafia bắt nguồn từ đây chăng? Các nhà ngôn ngữ học cũng đã đưa ra một số giả thiết. Mafia trong ngôn ngữ Toskana nghĩa là đói khổ. Mauvais trong tiếng Pháp có nghĩa là xấu, tồi. Còn trong tiếng Ả Rập Mahias là thằng lừa đảo, Magtaa là hang động. Cũng trong tiếng Ả Rập, Mufah còn có nghĩa là sức mạnh tự vệ. Buổi đầu, Mafia là tổ chức tự vệ của những người nghèo chống lại áp bức, bất công. Vậy tên gọi Mafia có liên quan gì đến các từ trên hay không? Dẫu từng ra đời như một tổ chức chính nghĩa nhằm bảo vệ quyền lợi của dân nghèo đi nữa, thì ngày nay Mafia đã hoàn toàn biến chất và trở thành một hội kín khổng lồ, chuyên gây tội ác, có quyền lực vô bờ, có nguồn thu nhập lớn có thể sánh với các tổ hợp tư bản kếch xù như General Motors, Standard Oil, IBM, Texaco, General Electric, Chrysler và Ford. Nó có mặt trong hầu hết các lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp, du lịch, nghệ thuật... Nó nhúng tay vào chính trị, hợp tác với CIA, tổ chức ám sát Tổng Thống, mua chuộc quốc hội... Vậy mảnh đất và không khí nào đã nuôi dưỡng ”cây Mafia xanh tươi” như vậy? Cuốn sách bạn đang cầm trong tay sẽ giúp bạn trả lời câu hỏi đó. Là một nhà nghiên cứu nghiêm túc, tác giả đã từng đến tận các mỏm đá Sicilie tìm hiểu cội nguồn Mafia, từng vượt qua sa mạc nóng bỏng tìm đến thủ đô Mafia Las Vegas để tận mắt chứng kiến bao thủ đoạn kinh doanh của các “bố già”. Bằng ngòi bút sinh động, hấp dẫn, ông đã vẽ nên một bức tranh chân thật về “thế giới ngầm Hoa Kỳ”; từ những thủ đoạn giết người tàn bạo đến các mánh khoé kinh doanh tinh vi, từ sự cấu kết bí mật với CIA trong các hành động lật đổ, ám sát, bắt cóc đến sự liên minh ma quỷ với giới chính khách Hoa Kỳ, từ những cuộc tình kim tiền với các nghệ sĩ danh tiếng đến các phi vụ béo bở với những cha cố trong tòa thánh Vatican, từ vụ ám sát anh em Kennedy đến kế hoạch mưu sát Fidel Castro... Phải chăng chính phủ vô hình Mafia là anh em sinh đôi với chính phủ phản động, hiếu chiến Hoa Kỳ, và xã hội “thế giới ngầm” là hình ảnh thu nhỏ cửa thế giới tư bản, nơi thịnh hành quy luật: Catch as catch can (cướp giật đến mức tối đa), bất chấp mọi đạo lý, tình người? Sinh ngày 8-9-1920 ở Praha, V.P Borovicka trải qua thời thơ ấu ở Praha và Trencin, nơi ông học tiểu học và trung học phổ thông. Tốt nghiệp trung học năm 1938, ông học đại học thương nghiệp ở Praha cho tới khi trường bị bọn phát xít đóng cửa. Từ năm 1939 đến năm 1941, ông làm việc trong một hiệu thuốc, nhưng sau đó ông bị bắt sang Đức lao động khổ sai cho tới hết chiến tranh trở về Tổ quốc, chàng trai Borovicka hăm hở cùng mọi người góp sức hàn gắn vết thương chiến tranh và góp phần xây dựng xã hội mới trên đất nước Tiệp Khắc (cộng hòa Czech) tươi đẹp. Từ năm 1962 đến năm 1964, ông làm biên tập viên cho nhật báo “Dân chủ nhân dân”. Từ năm 1964 trở đi, ông hoàn toàn chuyên tâm viết văn. Ông du lịch khắp năm châu và đặc biệt lưu tâm đến việc thu nhập tư liệu cho các cuốn sách của mình. Tác phẩm đầu tay của ông là “Kết thúc đảo Oscar”, thuộc thể loại khoa học viễn tưởng, xuất bản năm 1959, đã cho thấy lĩnh vực quan tâm của tác giả. Các đề tài chính trị, thời sự được thể hiện dưới dạng tiểu thuyết viễn tưởng, tiểu thuyết trinh thám, trung thành với lịch sử nhưng không kém phần hấp dẫn. Ông quan tâm trước hết đến các hoạt động tình báo và loại chiến tranh vô hình này (Các bậc thầy tình báo những vụ ám sát xoay chuyển thế giới Watergate). Ông còn viết các tiểu thuyết tâm lý như “Tôi, anh hay Juan”, “Người yêu từ đỉnh núi Cáo”. Trí tưởng tượng phong phú đã được ông sử dụng trong các sách viết cho trẻ em. Trước hết phải kể đến tiểu thuyết viễn tưởng nổi tiếng “Cô bé từ trên trời rơi xuống”, kể về cuộc du lịch của một em bé từ hành tinh xa đến và thành phố kỳ diệu, nói về một xã hội lý tưởng. Theo hai cuốn sách này, tác giả đã viết kịch bản cho một bộ phim cùng tên mà truyền hình Việt Nam đã cho phát nhiều lần. Hai truyện thiếu nhi khác là “Cái bớt” và “Safari” cũng được quay thành phim vô tuyến truyền hình, gồm 7 và 13 tập. Borovicka còn là tác giả kịch bản “Anh tôi có người em tuyệt vời”, đạt huy chương bạc trong đại hội liên hoan phim lần thứ 5 ở Moskva. Phim này cũng đã ra mắt khán giả Việt Nam (Tác phẩm của V.P.Borovicka gồm có: Kết thúc đảo Oscar (1959), Cô bé từ trên trời rơi xuống (1968), Thành phố kỳ diệu (1964), Tôi, anh hay Juan (1964), Vụ giết nhà tiên tri Hanissen (1968), Các bậc thầy tình báo (1969-1974-1984), Các nữ tình báo thế kỷ (1970-1973), Bí mật tình báo (1969), Những phát súng phục kích (1976), Watergate (1976), Người yêu từ đỉnh núi Cáo (1973), Thám tử từ Tel Aviv (1979), Mật mã tuyệt mật (1980), Mafia (1985), Thế kỷ chó sói (1985). ***   Họ xả hơi đến hai giờ khuya. Sau đó họ quay về apartment đợi ở khách sạn Palace. Họ đang vui vẻ nên tài xế taxi được một khoản puốc boa quá mức tưởng tượng và bác thường trực được họ mời một chiếc bánh kem loại một, không dưới năm dollar. Họ cởi áo vét, tháo cravat, cởi giày. Người cao lớn trẻ và gầy hơn đổ rượu Whisky Chivas Regal ra tay. − Có phải bia đâu? - người nhiều tuổi hơn mỉm cười ngạc nhiên hỏi. − Whisky là thứ nước đa năng. Đặc biệt loại Chivas Regal cất cách đây 5 năm. Thứ này bác sĩ cho phép xài cả vào những ngày ăn chay. Một cú áp phe, mà có lẽ ngay cả đại bố già Mafia cũng chỉ gặp một lần trong đời đang chờ họ, Lucky Luciano không dám mơ tới một cơ hội như vậy, còn Vito Genovese thì không thể tưởng tượng ra một mánh siêu đến thế. Người kế vị chúng là Matteo di Lorenzo, biệt hiệu “bác Matty”, đang có cơ hội trong tầm tay. Y uống cạn cốc, nhấm nháp miệng và bằng một cử chỉ điệu bộ đặt cốc xuống bàn. − Những một tỉ dollar. Winnie! - y sung sướng như thể đang cầm các xấp bạc trong tay. − Không đúng, bác Matty. Bác đừng có phóng đại. Chính xác là 950 triệu. − Thôi mà. Winnie! - bố già di Lorenzo cười. - Cũng du di 50 triệu chứ. Y cúi xuống rót rượu và châm thuốc, sau đó nhìn lên trần nhà và như thể đọc những tên gọi trong ánh lấp lánh của chiếc đèn chùm phalê, y chậm rãi nói: − Occidental Petroleum Corporation, Pan American World Airways, American Telephone and Telegraph Company... − Bác đừng quên General Electric Corporation, National Aviation, Unishops, California Computer Corporation, Coca Cola Bottling, tóm lại là tất cả những gì tên tuổi, những gì đó có giá. Nhưng, thưa bác Matty ai đã đưa quả này cho bác? Winnie! Gã trẻ hơn đứng dậy, nhảy lên xiêu vẹo sau mười cốc rượu trắng bavor và hai ly Whisky, gã vỗ ngực kêu to như kẻ truyền đạo. − Nếu bác không biết, bác Matty, thì hãy nghe đây. Winnie là cả kho báu. Winnie kiếm cho bác bạch phiến, súng lục, bazoka và thuốc nổ đủ loại, xe tăng ca nông và con ma, tên lửa điều khiển, tất cả đều do một tay Winnie lo liệu, và dollar giả, cổ phần giả, giấy quý giả, bác muốn bao nhiêu cũng có. Đây, chỉ để bác biết, bác đã chọn một người đồng sự như thế nào thưa sếp. Winnie trẻ hơn, khoảng 48 tuổi, có tên Ý là Wincent Rizzo và gã cũng có điệu bộ như dân Ý. Rizzo mặc đồ mốt mới nhất, may ở nhà may mốt nhất, gã chỉ đeo có một chiếc nhẫn duy nhất, cố gắng nhũn nhặn như một viên chức bình thường. Mới thấy gã không ai nghĩ đây là một gangster ranh ma quỷ quyệt, từ nhỏ đã là thành viên Mafia New York, thuộc hạ của bố già di Lorenzo. Gã lớn lên trên đường phố Lower East Side ở New York và thành thục nghề gangster vào loại số một. Bây giờ gã ngồi trên xa lông đệm trong apartment sang nhất của khách sạn Palace ở Muenchen [101], vươn vai dạng cẳng trước sếp và nghĩ rằng trên đời không ai hơn gã. Rizzo không mảy may biết rằng ở phòng bên cạnh, vài cảnh sát Muenchen và hai thám tử từ New York đang nghe và ghi âm từng lời ba hoa của gã, bởi vì các phương tiện nghe lén đã được cài đặt giữa các lá pha lê lấp lánh của chiếc đèn chùm Czech từ hôm trước. Cảnh sát Muenchen được thanh tra cảnh sát Joe Coffey từ New York thông báo về hai tên Mafia ranh ma đang chuẩn bị một cú hattrik [102] trong đời. Khác với các đồng nghiệp Đức, Coffey đã theo dõi hai thầy tớ Mafia từ lâu và biết rõ địch thủ của mình. Giờ đây Coffey đang chăm chú nghe trong tư thế nửa ngồi nửa nằm, còn hai tên Mafia thì chắc chắn rằng không ai biết chúng đang mưu đồ gì. Mafia thay đổi và các bố già cũng thay đổi. Trong những năm 70 và 80, nó không còn là “Hội những kẻ giết người chuyên nghiệp” mà là một trust quốc tế tổ chức cao với doanh thu hàng năm 120 tỉ dollar và có lĩnh vực kinh doanh rộng lớn. Các trò chơi sát phạt trong các casino trên toàn thế giới, buôn bán ma túy ngày một phát triển, mua bán các cổ phiếu giả và ăn trộm, đó là các lĩnh vực kinh doanh chính của tổ chức tội ác, có trụ sở ở khắp nơi trên thế giới. Các siêu Monopole thế giới, các ngân hàng quốc tế, các con xóc tư bản, các hiệp hội công nghiệp chiến tranh, cả thẩy đều thay đổi chiến thuật và cả phương tiện. Để thu được lợi nhuận cao nhất, các chủ tịch những hiệp hội thế giới này không từ bất kỳ thủ đoạn nào. Mafia có thể thích ứng dễ dàng với luật chơi mới. Các con bạc ở đây ăn thua những món tiền khổng lồ và nhiều khi cả tính mạng đối phương hay kẻ cạnh tranh. ... Mời các bạn đón đọc Mafia - Tên Gọi Đầy Bí Ẩn của tác giả V. P. Borovicka.
Khắc Khoải Đợi Chờ - Dorothy Eden
Tính nhẹ dạ của Willa Bedford đôi lúc đã đưa nàng đến những phiền toái trong cuộc sống. Tuy nhiên nàng thoát ra khỏi tình trạng đó dễ dàng cũng như khi nàng chuốc lấy nó vậy. Một ngày kia không ngờ cuộc phiêu lưu lý thú bỗng trở thành một cơn ác mộng. Trong trạng thái thất vọng, nàng đã viết thư cầu cứu đến người chị họ của nàng, Grace Atherton. Nhưng khi Grace đến, Willa đã biến mất. Trong lúc tìm cách phá tan sự bí mật quanh việc mất tích của Willa, Grace đã rơi vào một thế giới hung hãn và lạ lùng, nơi đó sự tai tiếng là một vũ khí nguy hiểm và sự thật là điều không ai dám nói đến. *** Grace kể cho cảnh sát nghe về những gì cô y tá đã cho nàng biết. Nghe xong, một người cảnh sát liền nhấc máy điện thoại gắn trong xe nói gì với ai đó. Grace không hiểu là anh nói chuyện gì, ngoài tiếng Goteborg mà Grace nghĩ là nơi Polsen đang có mặt, nhưng họ trả lời là không phải. Một chuyện quan trọng khác. Giờ này những đám mây đen chùng xuống, khu rừng trông âm u hơn lúc nào hết. Ngôi nhà tranh quen thuộc thoảng một mùi gì khó chịu. Lò sưởi được dọn dẹp sạch sẽ nhưng một đống gì đấy được vun lại cẩn thận, trên phủ một tờ báo. Một chiếc va-li bỏ giữa sàn nhà. Một người cảnh sát mở chiếc va-li và Grace hoảng hốt đưa tay che miệng để khỏi thốt lên tiếng kêu sợ hãi. Cho dù nàng không nhận ra được chiếc áo sọc màu be Willa hay mặc chăng nữa, tin nàng cũng nhận ra ngay ai là chủ nhân những bộ quần áo kia. ... Mời các bạn đón đọc Khắc Khoải Đợi Chờ của tác giả Dorothy Eden.