Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Mùa Đông Ở Stockholm

Đã bao giờ trong cuộc sống này, chúng ta muốn bật ra một câu hỏi tan nát cõi lòng rằng, vì sao chúng ta không được yêu thương như tình yêu chúng ta đã cho đi? Có thể là câu hỏi ấu trĩ, ích kỷ, trẻ con, nông cạn, quá xấu hổ để thốt ra nhưng có lẽ nó thật sự tan nát cõi lòng khi buộc phải vang lên. Trong Một mùa đông ở Stockholm, Agneta Pleijel có đưa ra một trích đoạn: “NÀNG CÔNG CHÚA bị giam trên chòi cao, nàng công chúa trên quả núi thủy tinh của mình, bị vua cha yểm bùa. Không một kẻ cầu hôn nào tìm ra lời giải cho câu đố, không một ai trong số bọn họ đưa nổi con ngựa của mình tới đỉnh những thành vách trơn nhẫy. Đó là điều mà câu chuyện kể khẳng định. Nhưng có phải nàng công chúa đã bị vua cha yểm bùa hay không? Chị không nghĩ như vậy. Cha chị là một con người tốt bụng và hiểu biết lẽ phải.” Một câu chuyện cổ quen thuộc. Rapunzel? Cha? Hay là mẹ? Có lời yểm bùa nào cản ngăn hạnh phúc? Hay là chính chúng ta? Khi gấp lại trang cuối cùng của Một mùa đông ở Stockholm, tôi chợt nhận ra trong cơn xao động dữ dội của lòng mình, tôi không những không rơi nước mắt mà còn mỉm cười. Tôi đã muốn kể ngay lập tức về quyển sách này cho một số người thân quen, báo cho họ biết sự tồn tại của câu chuyện trên trang giấy, những dòng chữ bộc bạch chân thành mà một phụ nữ khác đã viết nên: một vài người chị, một vài người em gái và có lẽ cả một vài người bạn gái nữa. Bởi vì họ – tất cả những người phụ nữ dịu dàng ấy – đã bị nghiền vụn trước một thế giới mà tình yêu thương giống như “thế giới bơi trong đàn cá y như đàn cá bơi trong đại dương”. Một cuốn sách tràn đầy tính nữ. Tính nữ chảy tràn như cách Agneta Pleijei viết về nước tuyết tan tù đọng dưới những bước chân lữ khách của một mùa đông vùng cực bắc lạnh giá. Tinh khiết nhưng lần hồi bị vấy bẩn, bị khuấy lên dữ dội và tung toé nhưng chậm rãi lắng lại trong sự tĩnh lặng soi bóng bầu trời. Những người phụ nữ đã vỡ tan thành từng mảnh từ thẳm sâu đáy lòng nhưng cũng như một trò chơi xếp hình nếu nhìn quá gần hay quá xa đều không thể dễ dàng nhận ra những khớp nối hay mép viền. Mà chúng thì luôn tồn tại. Một mùa đông ở Stockholm cũng là một tác phẩm có cấu trúc phân mảnh như vậy. Cuốn này là những mảnh vỡ, giống như pha lê, như bụi lân tinh, như những cánh hoa hồng rơi rụng, như những bông tuyết trắng rất mềm rất nhẹ. Tác phẩm đa dạng đến nỗi dưới con mắt nghiên cứu người ta có thể khảo sát nó từ nhiều góc độ phê bình khác nhau, từ phân tâm với những giấc mơ tràn đầy hình ảnh, tái dựng huyền thoại với các biểu tượng kinh điển, những câu chuyện cổ tích, v.v… đến phê bình nữ quyền với quá nhiều những thăm dò tinh tế vào địa hạt của mối quan hệ về giới. Một quyển sách mỏng giống như cánh cửa nhỏ mở vào một thế giới nội tâm trùng điệp, như chiếc hang thỏ đã dẫn bước Alice đến với Wonderland. Nhưng từ một cách tiếp cận gần gũi hơn, đây là lời tự thuật của nhân vật nữ chính – một nhà trí thức, một giáo sư thành đạt ở độ tuổi trung niên – người đã ly hôn hai lần và có mối quan hệ tình ái với một người đàn ông đã có vợ. Cô kể về tất cả những gì cô có thể kể, dường như không theo một trật tự nào ngoài sự phức tạp ngẫu nhiên của hồi ức. Chính từ các dữ kiện và sự ngẫu nhiên sắc sảo ấy, Một mùa đông ở Stockholm vì vậy không chỉ là câu chuyện tuyến tính giả lập về một đời người. Nó chính là bản vẽ về nội hàm bên trong toà thành của một người phụ nữ. Hay nói cách khác, nó chính là chân dung đa chiều của một người nữ. Chúng ta sẽ không chỉ thấy Agneta Pleijei tạo nên một bức tranh sống động từ câu chữ. Thay vào đó, bà đổ xuống trang giấy một làn nước lấp lánh, uốn lượn và mềm mại như cực quang Bắc cực. Làn nước ấy vừa sâu hun hút, vừa dịu dàng, ngây thơ lại có lúc hoang dại, bén nhọn, kiến tạo nên sự sống và cũng hàm chứa sức mạnh hủy hoại chính bản thân mình. Thật hiếm có một cuốn sách nào có thể đem đến nhiều sự chia sẻ chân thành đến vậy dành cho phái nữ với những đối thoại thẳng thắn về mối quan hệ trong gia đình, về cách tìm kiếm tình yêu thương. Sự thật cay đắng nhưng sự thật cần được nói ra, để hiểu với nhau rằng, chẳng có ai đơn độc. Cũng chẳng ai là có lỗi. “MỘT TRUYỆN CỔ TÍCH Một đứa trẻ khi mới ra đời là một cái bánh xe quay tít. Khi mọi người chất lên nó những gánh nặng, đứa bé trở thành một con lạc đà. Nó đi vào sa mạc. Ở đó nó gặp sự giận dữ của nó: đó là con sư tử. Lạc đà và sư tử giao chiến với nhau. Lạc đà chiến thắng. Đúng lúc ấy, nó bị biến trở lại thành đứa bé. Và đứa bé trở thành một cái bánh xe, xoay tròn lăn đi, tự do, trong thế giới.” Tôi đã tự hỏi, nếu con sư tử chiến thắng thì sao? Nhưng rồi tôi đã hiểu, chiến thắng đi kèm thất bại và thất bại cũng quan trọng như chiến thắng vậy, bởi vì đó chính là kết quả. Cuộc sống này quan trọng chính vì nó sẽ có và cần có điểm kết thúc. Chúng ta, là những con lạc đà, khuân trên lưng nỗi đau của tình thương, một món nợ truyền đời, chạy qua chạy lại trên sa mạc, đánh nhau với sư tử, “dọn cho mọi người thịt của chính mình để cho họ ăn chán ăn chê”. Nhưng “nỗi đau là cá thể”. Và rốt cuộc thì, người ta phải học cách thua trước cuộc đời để được tự do. Chiễm Phong (c) ReadingCafe.wordpress.com *** Nguyên Nguyên's review Dec 09, 2016 Một quyển nhật ký, chính xác là vậy. Tôi vẫn chưa định hình hoàn toàn cảm xúc của mình sau khi đọc về cuộc đời người phụ nữ ấy.  Những câu chữ nhẹ nhàng, lơ lửng, trôi đi nhanh chóng như 1 dòng nước uốn lượn, quanh co có khi rối tung ở 1 chỗ, tưởng như phập, lụa đứt. Một mùa đông u ám ở Stockholm, cùng với 1 nỗi lòng cũng đầy rẫy những vết nứt tưởng chừng chẳng bao giờ có thể lấp lại. "Một đứa trẻ khi mới ra đời là một cái bánh xe quay tít. Khi mọi người chất lên nó những gánh nặng, đứa bé trở thành một con lạc đà. Nó đi vào sa mạc. Ở đó nó gặp sự giận dữ của nó: đó là con sư tử. Lạc đà và sư tử giao chiến với nhau. Lạc đà chiến thắng. Đúng lúc ấy, nó bị biến trở lại thành đứa bé. Và đứa bé trở thành một cái bánh xe, xoay tròn lăn đi, tự do, trong thế giới.” Đứa trẻ ấy bị đè lên vai với cảm xúc của quá nhiều người, oằn mình chịu đựng làm sao cho vừa lòng tất cả. Một gia đình tan vỡ, những vết nứt sâu không thấy đáy. Mà họ, lại đổ nỗi đau ấy lên 1 đứa bé quá đỗi tinh linh. Một đứa bé mang trong mình tình thương vô tận, để rồi nó cứ đi phân phát chỉ hi vọng cũng nhận lấy 1 chút gì đó yêu thương. Nhưng cuối cùng nhận lại, là sự phản bội, khinh thường, giận dữ, xấu xa.  Tôi lúc trước, vẫn luôn sợ hãi cái cảm giác mình cho đi quá nhiều nhưng người khác lại không thật lòng với mình. Đó là 1 sự đáng sợ, sợ hãi lòng tin bị vùi dập, sợ hãi không vừa lòng, sợ bản thân mình là 1 cái gì đó sai trái. ừ, chị ấy cũng vậy, cũng phải chịu sự đè nén tâm hồn như vậy. Tôi cứ nghĩ cái kết sẽ khác. Nhưng không, kết rẽ theo chiều hướng bất ngờ. Nhưng mà nghĩ lại, chính như thế mới đúng, tự do lòng, tự do thân thể, mới là hạnh phúc đích thực. *** Cái tên ấy nghe thật khác lạ ở miệng anh: êm ái hơn, nhẵn nhụi hơn. Lưỡi anh trượt qua những phụ âm chướng ngại, quyện các nguyên âm lại với nhau, trơn tuột như gió lùa qua các cây hạt dẻ. Sau này, khi còn một mình, chị thử lặp lại cách anh đọc tên thành phố đó mà không được. Cả cái tên lẫn thành phố làm chị sợ: SARAJEVO Xe buýt ở Stockholm phô ra ghê sợ hình ảnh những đàn ông đàn bà trong cảnh cùng quẫn, những đứa trẻ với ánh mắt tố cáo, và bên dưới là một tài khoản ngân hàng viết bằng những con số lớn, đen sẫm: đó là lời kêu gọi cứu trợ. Hai người đi sang bên kia đường; anh đưa tay che mặt. Anh bảo không thể tưởng tượng được là những hình ảnh nói lên sự khủng khiếp của nạn đói trong thế giới thứ ba kia lại là đến từ chính nước anh. Anh đã nói như vậy: “Đất nước tôi”. Tháng Mười một, tuyết trên hè tan ra bẩn thỉu, xe buýt làm bắn nước lên gấu quần, lên giày khách qua đường. Hai người đi đến chân ngôi nhà nơi anh vẫn ngồi viết, nằm trong khu Vasastan, mé thành phố mà chị rất ít khi lui tới. Gian phòng lạnh lẽo. Mùi khói thuốc phảng phất, lửng lơ, đọng lại. Bên cạnh ghế là một lò sưởi điện. Trên bàn, một chiếc máy xử lý văn bản anh mượn của ai đó, một máy in và một máy fax kiểu cổ. Trên gờ cửa sổ, một chiếc máy cát-xét nhỏ và tiếng đàn viôlôngxen. Nhạc Bach qua tiếng đàn Pablo Casals. Những cát-xét này anh mang từ nhà đến: tôi cần nghe thứ nhạc này khi suy nghĩ. Dải giấy từ chiếc máy in chạy ra. Anh đi lại trong phòng, tay đút túi, vẻ bồn chồn, chị cảm thấy thế. Vậy là chị đã khá hiểu anh để có thể cảm thấy nỗi lo âu đó. STOCKHOLM THÁNG MƯỜI MỘT: Một thành phố bắc cực trôi giạt, bầu trời xám nâu, những ngôi nhà nghiêng ngả từ từ lún xuống và mất hút dưới mặt đất. Một vầng đỏ lựng loé lên nhoáng một cái trong cái hẽm giữa mầu đen của mặt đất và mầu đen của bầu trời. Ánh đèn nê-ông nhợt nhạt bên kia cửa kính xe buýt như những lời kêu cứu bi ai. Stockholm tháng Mười một thật khó tả, một tấm khăn liệm quắng vào mùa đông. I HAVE BEEN CALLING FOR MORE THAN ANHOUR…[1] Điện thoại chắc đã đổ chuông lâu rồi chị mới nghe thấy và chạy vội đến trả lời, vấp cả vào dây cắm của chiếc máy hút bụi, rồi vào mấy thùng bìa, chồng sách, đôi ván trượt tuyết, gậy hốc-cây, những quả bóng đá, chồng đĩa hát, túi quần áo, đống báo, tất cả những thứ lỉnh kỉnh chị đã lôi ra từ trong tủ, mắc áo, ngăn kéo. Chị rủa to. Bên ngoài, trời đen kịt. Nhưng căn phòng tràn ngập ánh sáng. Thế lại tốt. Rất sáng, các ngọn đèn đều được bật lên hết. Thoạt tiên, chị không nhận ra ai gọi. Một giọng lạ. BUT IT’S ME! [2] Chị lấy chân đẩy một thùng bìa sang một bên, lấy ra từ đống lộn xộn một chiếc ghế đẩu rồi ngồi xuống. Nhận được một cuộc điện thoại của ai đó sau bao nhiêu năm trời không gặp mặt. Ai đó mà ta không còn nghĩ được nghe lại tiếng nói trên cõi đời này. Đúng thế, chị đã nói chuyện điện thoại lâu, dễ đến một tiếng đồng hồ. Sau đấy, chị cho chạy máy hút bụi. Anh làm gì ở Stockholm, anh đã nhập cư rồi ư? Anh giễu cợt sự bối rối của chị. Không đâu, anh không nhập cư vào đây. Mấy gã kiểm tra hộ chiếu đã rất cảnh giác khi anh đặt chân tới Thụy Điển, họ đã xem xét giấy tờ của anh rất kỹ và hỏi anh rất nhiều. Trong khi anh nói, chị thấy gương mặt anh hiện lên dần dần, như một bức ảnh hiện dần lên trong khay thuốc hiện hình: đôi mắt trong, có lẽ là mầu xám, chị không nhớ nữa, vành môi sắc nét, khóe miệng nhục cảm hoặc giễu cợt; chị đã sống qua một đêm với người đàn ông này, lâu lắm rồi. Từ bao nhiêu năm nay rồi? Mười một năm, anh nói thế. PHI TRƯỜNG SKOPJE. Có ai đó, một trong những người chủ trì hội nghị, đã đưa chị ra đấy, hôn lên má chị và trao cho chị một món quà kỷ niệm: một chiếc lọ gốm nhỏ quai khum khum. Qua cửa kiểm soát hộ chiếu xong, chị dựa lưng vào tường nhìn những hành khách khác, khuỷu tay tì lên lan can sắt chạy xung quanh phòng đợi. Nóng ngột ngạt. Nhiều người lao động nhập cư trở lại sau một chuyến về thăm quê hương; hành lý gồm nào là túi xách, thùng bìa, một số ngồi bệt xuống đất, ghế nào cũng có người ngồi cả rồi. Bên kia những tấm kính bụi bậm, có thể thấy cây cối khô cằn, kiệt quệ vì nóng, rễ cây khẳng khiu. Skopje đấy: chị còn nhớ những bài báo đăng sau ngày động đất năm 1963, hình ảnh những đống gạch đổ nát, những con người vô gia cư, những xác chết. Thành phố bị tàn phá trong vài giây đồng hồ. Giờ đây, người ta đã xây dựng lại rồi. Hiện đại, với những khu chung cư rẻ tiền sơn trắng kiểu trại lính. Chị đến từ Struga, nơi diễn ra hội nghị: một khách sạn rộng mênh mông; các nhà thơ từ khắp thế giới đến ngâm thơ vào ban tối, giữa quầng sáng của những ngọn đèn rọi, trên một chiếc cầu bắc ngang giữa sông. Người dân trong vùng, đàn ông lẫn đàn bà, đến nghe thơ, nằm ngồi ngoài bãi cỏ trên bờ sông cao trong đêm tối. Chị cũng vậy, ngồi trên một mảnh báo gấp lại, hai tay bó lấy gối, nghe được cả tiếng nước róc rách, để mặc cho ý nghĩ lang thang và thử nghe hiểu mấy từ tiếng nước ngoài trong lúc lời dịch song song vang lên trong loa phóng thanh. MƯỜI MỘT NĂM TRƯỚC. Tuy mọi người có hơi bị mê muội vì cái nóng và rượu vang, người ta vẫn nói chuyện không ngớt xung quanh những chiếc bàn gỗ dưới những vòm cây lớn; tiếng nói cứ rì rào, bay lên trời. Những ngôn ngữ thiểu số là những cái túi ký ức của nhân loại, một vị giáo sư ở Ljublijana đã nói vậy khi so sánh một cách bóng bẩy với đặc điểm địa lý của nơi họ đang ở, cách hồ Ohrid không xa, một trong những vùng trũng nhất thế giới, dấu vết của biển Egée từ thế mioxen muộn, với những chi lưu ngầm trong lòng đất và hệ động vật biển duy nhất của nó: một cái nôi cho những mô hình tiếp hợp nguyên thủy của tự nhiên. Một hôm, cảm thấy cần yên tĩnh, chị đã trốn đi và một mình đi xe ô tô đến tận Ohrid, một thành phố đẹp mà chị nghĩ có lẽ chị sẽ muốn trở lại sau này; những bậc thang dốc đứng bằng đá, những ngôi nhà trắng nhỏ xíu nằm giữa những bụi cây nhỏ tỏa hương từ những bông hoa đỏ và trắng, và ở mé dưới rất xa là mặt hồ xanh thẳm lặng như tờ. Chị đã đến thăm một bảo tàng sàn nhà đen xỉn, trên tường trang trí đầy tranh và tượng thánh: những con mắt u tối với cái nhìn soi mói, bàn tay giơ lên trong một động tác tiêu biểu, ngón giữa và ngón cái chạm vào nhau; có một con bướm vàng bay lạc vào giữa những bức tranh, ở mảnh sân có những chiếc bàn trống trơ, trước một bục biểu diễn bỏ không, chị đã uống một ly rượu vang trắng. Trời ngả về chiều, bóng đổ dài. Vài ba đứa trẻ chơi đá bóng, gió nhè nhẹ thổi, thật dễ chịu. ... Mời các bạn đón đọc Một Mùa Đông Ở Stockholm của tác giả Agneta Pleijel & Hoàng Cường (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hẹn Em Ngày Đó - Guillaume Musso
  AudioBook Hẹn Em Ngày Đó   Tất cả chúng ta đều từng đặt ra ít nhất một lần câu hỏi này: nếu như có may mắn được quay lại, chúng ta sẽ thay đổi điều gì trong cuộc đời mình? Thông điệp ấy của Guillaume Musso dẫn dắt độc giả tìm đến những điều day dứt nằm ẩn khuất trong ngõ vắng của cảm xúc, và có lúc như đã chạm đến tầng sâu kín nhất trong mỗi con người. Bạn đang cùng bước vào một câu chuyện tình, thật đẹp nhưng nặng trĩu buồn và tưởng như đã bị chôn chặt theo thời gian. 30 năm về trước, trong lúc không thể rời giường bệnh bởi ánh mắt u buồn của một bệnh nhân, bác sĩ Elliottt đã để vuột mất người yêu sau một tai nạn giao thông. Năm 60 tuổi, dấu hiệu tuổi già và bệnh ung thư trong kỳ di căn dường như sắp sửa quật ngã ông. Và giữa khoảnh khắc mong manh ấy, Elliottt đã bật lên ước muốn lớn nhất trong cuộc đời mình: gặp lại một người, Ilena. Diễn biến phần lớn của câu chuyện khám phá giấc mơ ấy với phần sắp xếp của vô số những tình tiết ly kỳ, tạo cảm giác hồi hộp tột độ đối với độc giả. Không giấu diếm niềm khắc khoải, quãng thời gian quá ngắn còn lại buộc Elliottt phải gấp gáp trong cuộc kiếm tìm này. May mắn có được những viên thuốc màu nhiệm, ông đã trả giá đắt sau 9 chuyến đi dài về quá khứ trong những khoảnh khắc ngắn ngủi. Niềm ân hận vùi sâu bấy lâu giờ chực bật ra với hoài vọng về một mối tình mong manh đầy ám ảnh. Ông luôn cảm giác mình có lỗi. Khi còn nhỏ, Elliottt chứng kiến cảnh chà đạp của người cha nghiện rượu, bà mẹ khổ đau đã tự tử bằng cách cứa vào cổ tay. Lúc lớn lên, Elliottt không dám có con và điều tệ hại nhất là sự ra đi quá đột ngột của Ilena, khi anh chưa cảm thấy mình mang lại niềm vui thực sự nào cho cô. Hình ảnh một bản sao già cả, bệnh tật và rầu rĩ, bên một Elliottt tràn trề sinh lực của tuổi 30 gieo vào người đọc những nỗi niềm day dứt bên trong, tự giày vò chính mình. Sống vốn đã chẳng dễ dàng nhưng để quay lại, đối diện với lỗi lầm còn nặng nề gấp bội. Hai con người ấy – Elliottt 60 tuổi và Elliottt 30 tuổi - đã hợp sức cùng nhau để thay đổi quá khứ, bằng chính thôi thúc khó lý giải của con tim. Một người đánh đổi bằng tất cả sức lực yếu ớt còn lại. Một người đánh đổi bằng điều quý giá nhất trong cuộc đời mình. Tưởng mạnh mẽ nhưng mà chông chênh, tưởng như với tới niềm vui song hóa ra lại đón nhận kết cục chua chát. Nhưng không một ai muốn dừng lại, vì tình yêu, vì Ilena. *** Câu chuyện tình yêu ấy đan xen giữa thực và ảo mộng. Điều này cứ chòng chành lặp đi lặp lại trong suốt hơn 300 trang sách, vừa tạo nên sắc màu lãng mạn, vừa như chạm tới tầng sâu kín nhất trong tâm hồn. Musso khiến bạn có thể gợi nhớ đến những giấc mơ của Marc Levy (Nếu em không phải một giấc mơ, Gặp lại, Kiếp sau, Bảy ngày cho mãi mãi), nhưng anh không bị trộn lẫn trong đó. Dường như chất liệu thực tế được anh ghìm chặt hơn, bằng cách ghi chú cẩn thận trong mỗi chương sách: Ngày tháng năm, tuổi của nhân vật, mỗi lần gặp lại quá khứ. Không bắt buộc tất cả nhân vật cùng trở lại giấc mơ, với Musso, đó thực sự là nơi chỉ dành cho những ai thực sự cô đơn, thực lòng khao khát được quay về. Anh cũng không quá tô hồng sức mạnh của những giấc mơ, song lại không cưỡng lại khát vọng nhìn thấy thành quả của mình, rằng rốt cuộc con người ta phải đạt được điều gì đó mà họ đã trót để vuột mất, như hình ảnh Elliottt và Ilena gặp nhau khi cả hai đều đã già bên chiếc cầu Cổng Vàng. Người ta đã nhận định về anh với những cuốn sách đầu tiên: Skidamarik, Rồi sau đó, Cứu lấy em, Gặp em ngày đó, “Hãy ghi nhớ cái tên này, Guillaume Musso hứa hẹn một tài năng văn chương nở rộ”. Những chương sách dạt dào xúc cảm được thể hiện cô đọng, như những giấc mơ ngắn ngủi của nhân vật chính Elliottt, nhưng diễn biến thời gian được tác giả cố ý duy trì liền mạch. Có đủ cả 10 lần trở về của 10 viên thuốc. Có đủ hết những năm Elliottt lâm cảnh gà trống nuôi con, được đánh số lần lượt từ 1986 đến 2007... Có thể nói, Musso như không muốn hướng độc giả dành quá nhiều sự quan tâm trong hành trình "hẹn lại" của mình. Để tránh ấn tượng về cảm xúc viển vông, anh sắp xếp những cuộc hẹn đó lọt thỏm như chỉ là một góc nhỏ, của riêng một cá nhân, giữa một xã hội ăm ắp sự kiện: nào là tin trên CNN một học sinh vừa nã súng vào 12 bạn học khác trước khi nã súng vào mình ở trường trung học Columbine ở Litttletown, John Lennon bị ám sát ở New York bởi gã tâm thần Mark Chapman, sự kiện 11/9/2001 tại World Trade Center... Tất cả tạo nên sự dồn nén tạo nên sự hấp dẫn lôi cuốn độc giả. Tác giả Guillaume Musso sinh năm 1974 tại miền Đông nước Pháp, hiện là giáo viên chuyên ngành kinh tế. Từ một chuyến du lịch trải nghiệm tới New York năm 1993, trải qua nhiều công việc như bán kem, ở trọ cùng với người lao động đến từ các quốc gia khác nhau, anh trở về với đầy ắp những ý tưởng mới cho niềm đam mê sáng tác. Cuốn tiểu thuyết mới nhất của anh với tựa đề Bởi vì yêu đã ra mắt độc giả tháng 5/2007, hiện có mặt trên danh sách best-seller của những kênh phát hành sách lớn nhất nước Pháp. Mời các bạn đón đọc Hẹn Em Ngày Đó của tác giả Guillaume Musso.
Siêu Quậy Trường Ss (Super Star) - Ngọc Nhi (nhingok)
  AudioBook Siêu Quậy Trường SS   Bạn đang đọc truyện Siêu Quậy Trường SS (Super Star) của tác giả Ngọc Nhi (nhingok) trên website đọc truyện online. - Nó: Hoàng Lê Hương Giang (17t - Windy) rất xinh đẹp và cute, nghịch ngợm ko kém phần lạnh lùng, là người đứng đầu nhóm tứ đại công chúa Angel (4 người đều xinh đẹp và nó là bang chủ bang Angel), con của ông trùm Mafia nổi tiếng khắp thế giới. Nhà nó vừa là trùm Mafia vừa là 1 tập đoàn đứng đầu thế giới về các ngành (trang sức, xe hơi, bất động sản, thời trang,.....) - tập đoàn Hoàng Lê. Papa nó quản lí Mafia, mama nó quản lí tập đoàn. Tuy là con gái nhưng nó rất giỏi võ, biết sử dụng tất cả các loại vũ khí. Tương lai nó thừa kế chiếc ghế trùm Mafia, tập đoàn Hoàng Lê do anh trai song sinh của nó quản lí. IQ: 300/300  - Bạn thân thứ nhất của nó: Trần Nguyễn Thiên Thanh (17t - Sandy), xinh đẹp 1 cách sắc xảo, cũng nằm trong tứ đại công chúa Angel (bang phó bang Angel_, papa Sandy đứng đầu FBI, mama Sandy quản lí tập đoàn Trần Nguyễn - tập đoàn đứng thứ 2 trên thế giới về các ngành, nghịch cực kì nhưng ko lạnh lùng như nó. Sandy giỏi võ giống Windy và tương lai sẽ thay papa đứng đầu FBI, tập đoàn do em gái của Sandy quản lí. IQ: 300/300  - Bạn thân thứ hai của nó: Triệu Minh Bảo Ngọc (17t - Mindy), rất xinh đẹp, xinh đẹp kiểu quyến rũ, nằm trong tứ đại công chúa (bang phó bang Angel), nghịch chẳng kém 2 bà bạn thân, con của người đứng đầu CIA, sau này Mindy sẽ thay papa quản lí CIA, còn tập đoàn Triệu Minh - tập đoàn đứng thứ 3 trên thế giới về các ngành là do em trai Mindy quản lí. hai chị em nó giỏi võ lắm. IQ: 300/300  - Bạn thân thứ ba của nó: Trịnh Lâm Thùy Chi (17t - Candy) xinh đẹp nghịch ngơm vô đối, là thành viên cuối cùng trong tứ đại công chúa (bang phó bang Angel). Papa nó là ông trùm thế giới đêm, mama quản lí tập đoàn Trịnh Lâm - tập đoàn đứng thứ 4 trên thế giới về các ngành. Tương lai Candy phải quản lí cả thế giới đêm và tập đoàn Trịnh Lâm (khó nhưng Candy thông minh mà). tính cách rất cởi mở, nhí nhảnh, và điều quan trọng là giỏi võ. IQ: 300/300  .........Mặc dù mọi người nghĩ Mafia, FBI, CIA là kẻ thù nhưng ko đúng đâu. 3 tổ chức này cùng giúp đỡ nhau phát triển, rất thân thiết nên tứ đại ông chúa Angel thành lập. Ai mà động đến 1 trong 4 người này, nhất là Windy thì toi đời luôn..........  - Hắn: Huỳnh Nhật Bảo (17t - Ken) đẹp trai vô cùng, con gái yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên (trừ tứ đại công chúa), bang chủ bang Devil, con của tập đoàn Huỳnh Thị - tập đoàn đứng thứ nhất Châu Á về xe hơi (cũng có tiếng nhưng chưa bằng nó đc). Hắn giỏi võ ngang nó, là người thừa kế tập đoàn Huỳnh Thị, tính cách cởi mở với tất cả con gái (có thể nói là lăng nhăng). IQ: 300/300  - Bạn thân thứ nhất của hắn: Hoàng Lê Thiên Minh (17t - Kin) anh trai song sinh với nó, bang phó bang Devil hotboy nhưng vô cùng lạnh lùng với tất cả con gái, trừ tứ đại công chúa và mama iu dấu. Võ cũng khá, sau này thừa kế tập đoàn Hoàng Lê. IQ: 300/300  - Bạn thân thứ 2 của hắn: Vũ Hoàng Phong (17t - Kevin), hotboy giống 2 ông bạn, bang phó bang Devil, con của tập đoàn chuyên nghề bất động sản đứng đầu Châu Á, thừa kế tập đoàn Vũ Hoàng, nhí nhảnh dễ thương (nhưng chưa bít iu thật lòng) Và Kevin cũng cực kì giỏi võ. IQ 290/300 (thua 2 ông bạn chút)  - Bạn thân thứ ba của hắn: Lê Quang Long (17t - Key), hotboy nổi tiếng, bang phó bang Devil, rất ga lăng.....nhăng, đã từng cặp với vô số người. Tương lai sẽ thừa kế tập đoàn Lê thị - tập đoàn đứng đầu Châu Á về trang sức. Võ thì chỉ kém hơn bọn nó 1 chút nhưng cũng khá nổi tiếng, có cô em gái xinh xắn, cute (thua bọn nó ít). IQ của Key: 290/300  ..........4 người này là 4 hotboy đình đám, đầy quyền lực của trường cấp ba SS, chưa ai dám động vào, nhưng tứ đại công chúa Angel thì hoàn toàn sai. Hãy chờ xem 4 nàng nhà ta xử lí 4 hotboy như thế nào nhé! Mời các bạn đón đọc Siêu Quậy Trường Ss (Super Star) của tác giả Ngọc Nhi (nhingok).
Sống Chung Với Mẹ Chồng - Phù Thủy Dưới Đáy Biển
Diệp Hy Lôi, cô con dâu 8X, xinh đẹp, thông minh nhưng lại lười biếng và ham hư vinh, đối mặt với mẹ chồng, cô không thể nào hoàn thành tốt vai trò một người con dâu của mình. Phương Xảo Trân, mẹ chồng 5X, hiền hậu, đảm đang, có tài nấu các món ăn rất phong phú, có thể nhận ra mẹ Hứa Bân đã làm người phụ nữ của gia đình nhiều năm, tay nghề nấu ăn rất giỏi, mùi vị và hình thức đều rất tuyệt. Bà chăm chỉ nhưng cũng vô cùng cổ quái, là mẹ chồng, bà không thể xử lý tốt mối quan hệ với con dâu. Hứa Vũ, cậu con trai 8X, đứng giữa người vợ thương yêu và người mẹ nuôi mình khôn lớn, đứng giữa tình yêu và tình thân, cuối cùng anh đã đánh mất đi tình yêu, chính tay hủy hoại cuộc hôn nhân của mình. Về nhà chồng, Hy Lôi phải làm quen dần với việc: “tối rửa bát xong, lúc tìm đồ lót, Hy Lôi phát hiện ra quần áo của mình ở trong tủ đã bị sắp xếp lại, nó không có vẻ bừa bộn như trước mà được sắp xếp rất gọn gàng. Quyển sách mình đã đọc xong tiện tay để ở đầu giường cũng được đặt lên giá sách. Những điều này đều là mẹ chồng cô làm lúc dọn dẹp phòng sau khi họ đã đi làm”. Dần dần, mọi thói quen và cuộc sống riêng tư của hai vợ chồng cô đều bị đảo lộn tất thảy, và nó thực sự trở thành một “địa ngục” đối với những đôi vợ chồng trẻ như cô. Một bà mẹ chồng kỹ tính và hay soi mói, một ông chồng thô lỗ và chưa trưởng thành, cùng với một bản thân nông nổi và bướng bỉnh, mâu thuẫn của ba người khi đã lên đến đỉnh điểm thì liệu có còn níu giữ được? Đây là một trận chiến giữa mẹ chồng và nàng dâu, một sự lựa chọn khó khăn giữa tình yêu và tình thân, ở đó có sự bất lực vô cùng, có niềm vui vô tận. Những bà mẹ chồng tương lai, hãy đọc cuốn sách này, nó sẽ giúp bạn có cái nhìn cởi mở hơn; những nàng dâu mới, hãy đọc cuốn sách này, nó sẽ cho bạn nhiều kinh nghiệm quý giá; những người đàn ông phải đứng giữa mẹ và vợ, cũng nên đọc cuốn sách này, nó giúp bạn biết rằng, trong hôn nhân, tình yêu đứng sau, trí tuệ đi trước. *** Phù thủy dưới đáy biển, tên thật là Giả Hiểu, thường dùng bút danh là Thanh Dương Uyển Hề, là một cô gái thuộc thế hệ 8X, thích đọc Hồng Lâu Mộng, tính tình giản dị, nhạy cảm, thích văn chương. Rất tin vào tình yêu sét đánh, vào những mối tình lãng mạn. Đầu năm 09 từng có truyện ngắn tình yêu được đăng trên các báo và tạp chí nổi tiếng như “Người tình”, “Thế giới phụ nữ”, “Thế giới người tình”… Mời các bạn đón đọc Sống Chung Với Mẹ Chồng của tác giả Phù Thủy Dưới Đáy Biển.
Người Chưa Bao Giờ Thấy Biển - Jean-Marie Gustave Le Clézio
Daniel hầu như ko nói chuyện với ai và cũng ko có bạn bè. Người ta thấy nó thường mơ mộng với đôi mắt mở to. Nó có dáng vẻ như đến từ nơi khác. Đáng lẽ nên gọi nó là thuyền trưởng Sinbad, bởi nó đọc nhiều những chuyện phiêu lưu ấy, và đó là cuốn sách duy nhất nó thuộc nằm lòng: mắt nó sáng rỡ chỉ khi nói chuyện về biển cả và việc du hành. Nhưng, nó chưa bao giờ nhìn thấy biển. Rồi một ngày tháng mười một, chẳng bảo ai, nó ra đi và không bao giờ trở lại… *** Jean-Marie Gustave Le Clézio, một trong những nhà văn lọt vào danh sách để xét giải Nobel văn học năm 1999, đã thành danh từ khá sớm. Những năm 60 của văn học Pháp là những năm khó khăn với các cuộc tìm tòi thí nghiệm, những quan niệm mới và những khuynh hướng mới. Chính vào thời kỳ ấy, cụ thể là vào năm 1963, “một chàng trai trẻ, cao lớn, đẹp trai, có mái tóc vàng”, ít nói, đã "trình làng" với cuốn tiểu thuyết Biên bản (Le Procès - verbal), in tại Gallimard, một nhà xuất bản lớn hàng đầu, có uy tín ở Pháp. Cuốn tiểu thuyết lập tức thu hút sự chú ý của bạn đọc cũng như giới phê bình không những vì nó đoạt giải thưởng Renaudot, mà chủ yếu vì nó đã đặt ra nhiều vấn đề lý thú cho thể loại tiểu thuyết dường như đang ngắc ngoải. Thế là, mặc dầu anh còn quá trẻ (23 tuổi) để thành tên tuổi, người ta vẫn cứ “xếp hạng” và anh “có chỗ” trong làng văn Pháp đương đại đang khá là nhốn nháo. Tính đến nay, cầm bút được hơn 30 năm, Le Clézio đã có 47 đầu sách gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận và dịch thuật, trong đó có 4 cuốn viết chung. Ðó là chưa kể đến rất nhiều bài viết ông đăng trên các tạp chí, các báo... và hoạt động giảng dạy của ông ở các trường đại học tại Pháp, Mỹ, Mexique, Thái Lan.   Bảo vệ xuất sắc khoá luận cao học về H.Michaux vào năm 1964, sau đó Le Clézio bảo vệ luận án tiến sĩ về Lautréamont. Le Clézio và những tác phẩm của ông đã là đề tài nghiên cứu của 21 cuốn sách và 29 luận án cao học và tiến sĩ (riêng ở Nice, thành phố quê hương ông có 7 luận án). Năm ông 49 tuổi (1989) tạp chí Sud đã ra số chuyên san về sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1994, tạp chí Lire mở cuộc điều tra xã hội học với câu hỏi “Ai là nhà văn Pháp ngữ lớn nhất trong số hiện đang còn sống?” đã có 13% độc giả trả lời đó là Le Clézio.   Cùng một số nhà văn khác, Le Clézio đã làm cho bức tranh toàn cảnh của văn học Pháp thế kỷ XX đỡ màu ảm đạm: “Suốt cả thế kỷ, người ta nói đến “cái chết của văn học”, bị giết bởi báo chí, điện ảnh, truyền hình, những trò giải trí đại chúng v.v… Vậy mà, nó không chết. Người ta viết và công bố nhiều hơn. Thành công của những tác phẩm cách tân, những tác phẩm hay và có giá trị (chúng đa dạng biết bao) của Claude Simon hay Marguerite Duras, của Jean-Marie Gustave Le Clézio hay Georges Perec đã làm cho chúng ta trở nên lạc quan”.   Thói quen của các ngòi bút phê bình nghiên cứu hay dẫn chúng ta đến việc “xếp loại” “sắp đặt” các nhà văn ngồi chỗ này, chỗ kia... hoặc thuộc trường phái này, khuynh hướng nọ... Đối với Le Clézio và các sáng tác của ông, việc này quả là không dễ dàng (có thể nói là không thể). Bởi vì, hình như ông thuộc về nhiều trường phái và hình như cũng chẳng thuộc về khuynh hướng nào cả.   Cuốn tiếu thuyết đầu tay xuất hiện khi ông còn rất trẻ đã khiến người ta xếp ông vào “chủ nghĩa hiện thực mới”. Có lẽ đó là một cách nói để làm rõ vấn đề và để đối sánh với các khuynh hướng “Tiểu thuyết Mới” “Phê bình mới” đang rất rầm rộ lúc đương thời. Vậy thì “Chủ nghĩa hiện thực mới” của Le Clézio không phải như chủ nghĩa hiện thực thời Balzac. Muốn hiểu cho rõ ngọn ngành vấn đề này, ta không thể nói trong phạm vi một hoặc vài trang giấy. Để tham khảo, chúng tôi chỉ xin nêu ở đây ý kiến của các tác giả trong cuốn Văn học Pháp từ 1945 đến 1968. Khi viết về Le Clézio họ đã dùng một cái tít lạ thường “Cách viết địa chấn học” (Une écriture sismographique). Đó là cách viết tuân theo quy luật tự nhiên, ghi theo kiểu máy đo độ rung của trái đất, ghi lại “những độ rung nhỏ nhất của những điều nhạy cảm, đem lại sự sống náo nhiệt của thế giới”. Bởi vì theo Le Clézio, thế giới vô cũng sống động. Trong tiểu luận Thế giới sống động ông đã viết: “Đây chính là điều cần phải làm: đi về nông thôn, như một họa sĩ đi vào ngày chủ nhật, cùng với một tờ giấy lớn và bút chì. Hãy chọn một nơi thanh vắng, một thung lũng xung quanh là đồi núi, ngồi trên mỏm đá và ngắm nhìn thật lâu xung quanh mình. Và rồi, khi đã nhìn thật kỹ, cầm lấy giấy, và miêu tả bằng chữ những gì ta đã thấy”. Đó là đoạn mở đầu tác phẩm. Đọc tiếp những câu cuối, ta có cảm giác như là “nghệ thuật thơ ca” của Le Clézio, một quan niệm thật giản dị: “Đó. Thế giới sống động như thế, trong những tiếng động nhỏ xíu, những cú trượt, tiếng rả rích của dòng nước. Trong những lùm cây, trong hang động, trong đám cây cối chằng chịt, rối rắm, thế giới hát ca, cùng ánh sáng hoặc bóng tối, nó sống một cuộc sống nổ tung, không ngừng nghỉ, đầy tai biến và chết chóc. Cần phải sống cùng nó, như thế, hàng ngày, nằm áp má xuống đất, tai nghe ngóng, sẵn sàng lắng nghe tất cả những tiếng ồn ào và tất cả những tiếng thì thầm. Dây thần kinh cắm sâu vào đất như rễ cây và tự nuôi dưỡng bằng sức mạnh quật khởi khó mà hiểu nổi; cần phải uống thật lâu ở suối nguồn của sự sống và cái chết, rồi sẽ trở thành vô địch không ai thắng nổi”.   Xét về mặt nội dung các tiểu thuyết của Le Clézio đều có thể kể được, có nhân vật, cùng với các “phụ tùng” của nó: Adam Polo trong cuốn Biên bản (1963), Franois Besson trong Cơn hồng thủy (Le déluge, 1966), cô gái Lalla trong tiểu thuyết Sa mạc (Désert, 1980), tác phẩm đoạt Giải Lớn Paul Morand, Alexis trong Người tìm vàng (Le chercheur d'or, 1997) v.v... Có vẻ như những lời tuyên ngôn hùng hồn của N. Sarraute trong tác phẩm nổi tiếng Thời đại hoài nghi cùng các quan điểm cách tân táo bạo của Tiểu thuyết Mới hầu như chẳng thấy có khúc xạ nào qua sáng tác của Le Clézio.   Chính bản thân ông từng kể lại: “Khi tôi đưa bản thảo tiểu thuyết đầu tay của tôi đến Nhà xuất bản Gallimard, tôi đã nói rõ rằng tôi không có quan hệ gì với Tiểu thuyết Mới”. Thế nhưng, không phải hoàn toàn không có những điểm tương đồng nào đó giữa ông và các nhà Tiểu thuyết Mới. Thậm chí người ta còn tìm thấy sự tiếp nhận những tư tưởng từ Roland Barthes trong Lời tựa cho cuốn sách thứ hai của ông có tên là Cơn Sốt.   Trong một cuộc phỏng vấn P.Lhoste có nói với Le Clézio về những từ được lặp đi lặp lại trong các tác phẩm của ông. Nhà văn đồng ý với nhận định đó và cho rằng đó “là những điểm mốc” để có thể khẳng định là mỗi người đều có một “huyền thoại cá nhân” (mythologie personelle). Ðề cập đến vấn đề này có thể Le Clézio có liên hệ gì đó với khái “huyền thoại cá nhân” (mythe personnel) của Ch.Mauron, nhà phê bình phân tâm học đã nhấn mạnh đến việc nghiên cứu quá trình vô thức trong sáng tạo của nhà văn.   Cũng trong cuộc nói chuyện ấy, Le Clézio đã gợi lên sự hàn gắn giữa nhà văn và thầy phù thủy. Cả hai đều có một “thao tác ma thuật”, có một “mã” (code) và những ký hiệu để “hành nghề”, tất nhiên là những ký hiệu khác nhau, thầy phù thuỷ với những ký hiệu của cây lá, của rắn... nhà văn với “những ký hiệu chính xác của từ ngữ gắn bó với các hình ảnh đặc biệt sẽ cho phép độc giả thực hiện thao tác có tính chuyển đổi thành một hiện thực khác, cao hơn”. Nghe đến những “ký hiệu”, đến “mã”, chúng ta có cảm giác như lại sắp bước sang một lĩnh vực khác…   Là một người đọc rất nhiều, ngay từ đầu Le Clézio đã quan tâm đến những vấn đề thuộc lý luận văn học. Ở Lời tựa với hình thức như một bức thư nho nhỏ gửi đến bạn đọc trong tiểu thuyết Biên bản, nhà văn đã dành nhiều dòng cho độc giả, một nhân tố tạo thành quan trọng được chú ý đặc biệt ở văn học thế kỷ XX với tư cách là người tiếp nhận. Ngay cách viết Lời tựa với hình thức hoàn toàn như một bức thư gửi đến bạn đọc có lẽ cũng là một cách để nói rõ thêm quan điểm này của nhà văn.   Như vậy có thể thấy một quan niệm mở của Le Clézio, chấp nhận cùng lúc mọi lối biểu hiện của thực tiễn sáng tác văn học đa dạng và phong phú. Đó là xét về mặt lý luận, còn trong sáng tác, nhà văn đã thể hiện điều đó, trước hết trong tiểu thuyết. Về mặt hình thức được trình bày trên trang giấy, bản thân các tiểu thuyết của ông không phải toàn các con chữ bình thường theo lối viết xưa nay. Văn bản được gài xen vào đủ thứ: từ các bức họa, các công thức toán, lý, hoá, các con số, các đoạn thơ, nhật ký, các mẩu quảng cáo, các mẩu báo chí (có khi được in ở giữa những trang đầu hoặc cuối), có cả những đoạn chữ bị xóa vẫn còn nguyên dấu gạch chéo X… Với cách đó, dường như ông đã thu hẹp lại khoảng cách giữa hư cấu và hiện thực. Hiện thực tràn vào trang giấy bằng của bản thân nó, chứ không phải bởi uy quyền tối cao và độc đoán của nhà văn. Các sáng tác của Clézio vào những năm đầu thể hiện rõ điều này; Biên bản (1963), Cơn hồng thủy (1966), Những người khổng lồ (Les géants, 1973)... Thậm chí có những đoạn tác giả còn để nguyên tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc xen lẫn giữa toàn bộ văn bản bằng tiếng Pháp. Những tiếng vọng đến từ xa được thể hiện thành nhiều con chữ trên mặt giấy: i i i i i i i i i i i…, woou woou woou…, hom! hom!, hom!, hom!, hom!, v.v…   Ðọc tiểu thuyết của Le Clézio chúng ta thấy ông một mặt vẫn ràng buộc với tiểu thuyết truyền thống qua những đặc điểm cơ bản nhất, mặt khác, ông đã tạo ra một lối của riêng mình. Điều đó được thể hiện không chỉ ở việc làm “vỡ tung" văn bản, thay đổi hình thức trình bày của nó, mà chủ yếu là “việc xâm nhập các thể loại trong tác phẩm” của ông, Trong tiểu thuyết của ông có cả thơ, có tiểu luận, có sử thi, huyền thoại cả cổ tích. ... Mời các bạn đón đọc Người Chưa Bao Giờ Thấy Biển của tác giả Jean-Marie Gustave Le Clézio.