Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ký Ức Lạc Ngân Hà

Editor: Tiểu Lục Đây là một tác phẩm ngôn tình được viết theo một phong cách hoàn toàn mới lạ sự kết hợp giữa ngôn tình lại khoác lên lớp áo khoa học viễn tưởng, nếm thử một lần. Sự kết hợp giữa một cô gái mang gen thuần chủng cùng với một chàng trai mang gen dị chủng. Tại ngã rẽ của tiến hóa, ai mới là quân cờ? Ai mới là kẻ đánh cắp cuộc sống của người khác? "Em yêu anh, là anh sao?" "Là tốt, là xấu; là thiện, là ác; là thực, là giả; là toàn bộ cộng lại chính là anh! em đều yêu, đều muốn có!" "Tôi yêu em, bằng tim, bằng máu, bằng cơ thể, bằng sinh mạng! Bằng im lặng, bằng nước mắt! Bằng duy nhất, bằng tận cùng! Bằng linh hồn phiêu bạt, bằng cái chết vĩnh hằng!" *** Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Tôi muốn đi đâu? Có người nói, ba câu hỏi mà triết học sự sống cuối cùng đã tự đặt ra này, từ công nguyên thiên niên kỷ của địa cầu cổ xưa đến tinh vân thiên niên kỷ của thời đại hành tinh, vẫn chưa có đáp án. Nếu chỉ dựa trên ý nghĩa chính xác của câu chữ, thì một người bình thường vẫn có thể thoải mái trả lời được ba câu hỏi này, nhưng, đối với một người mặc áo tù nhân, đứng trước vành móng ngựa của tòa án, một tội phạm quân sự như tôi đây, thì không có cách nào trả lời. Bảy ngày trước, trong một bụi cây héo úa thưa thớt lá, tôi tỉnh lại. Tôi mặc một cái váy dài bẩn thỉu, đứng trên cánh đồng hoang vu, ngơ ngác nhìn ra xa, trong đầu trống rỗng, không nghĩ được điều gì. Tôi không biết mình là ai, không biết mình từ đâu đến, càng không biết mình muốn đi đâu. "Này ——" "Có ai không ——" Tôi cố gắng kêu to hết lần này đến lần khác, nhưng ngoại trừ tiếng gió xào xạc thổi qua lùm cây, thì không còn bất kỳ âm thanh nào, giống như trên thế giới này chỉ còn lại một mình tôi. Tôi chọn bừa một phương hướng, ngơ ngác lo sợ đi về phía trước, hy vọng có thể thấy ai đó. Nhưng tôi đi đúng ba ngày ba đêm, vẫn không gặp được một người. Tôi vừa mệt vừa đói, sợ hãi nối tiếp tuyệt vọng, đột nhiên, tôi nhìn thấy ở cách đó không xa, trên sườn núi có một cây táo, thân cây khô héo, cành lá úa vàng, nhưng lại trổ ra nhưng quả táo căng tròn. Tôi lảo đảo đi tới, hái táo xuống, ăn ngấu nghiến. Ăn được nửa quả táo, trên đầu bỗng nhiên truyền đến tiếng nổ rền vang. Theo tiếng nổ nhìn lại, tôi thấy một chiếc phi thuyền đang lơ lửng giữa không trung, có vài tên lính áo giáp vũ trang đầy đủ đang chĩa súng về phía tôi. Trong miệng đang cắn nửa quả táo, trên tay đang cầm một quả táo khác, tôi liền giơ tay lên. Bởi vì tội trộm gene di truyền, tôi bị nhốt vào tù. Nghe nói, cây táo kia là giống táo có nguồn gốc từ địa cầu cổ xưa, gien cực kỳ quý hiếm. Đế quốc Ar (A Nhĩ) đã cố ý mô phỏng môi trường sinh thái giống với địa cầu cổ xưa, biến vệ tinh G9737 thành nơi nghiên cứu gene di truyền, là trọng địa nghiên cứu khoa học của quốc gia, dĩ nhiên canh phòng cực kỳ nghiêm ngặt. Xét thấy "Tang chứng vật chứng rành rành", tôi chỉ có thể nhận tội. Nếu chỉ mang tội trộm gene di truyền, thì hình phạt đại khái chỉ hơn một trăm năm, so với tuổi thọ trung bình của con người lúc bấy giờ là 300 năm, thì cũng chưa được tính là hình phạt quá nghiêm trọng. Nhưng, tôi lại là người không có thân phận. Công dân Đế Quốc Ar khi vừa sinh ra sẽ được tầm soát gene di truyền, sau khi tầm soát mỗi người sẽ được cấp một mã số, mã số này được ghi trên một thẻ chip, thẻ chip này có thể gắn với da thịt, cũng có thể được cài đặt vào thiết bị điện tử cá nhân (0.1) luôn mang theo bên mình. Học tập, làm việc, sinh hoạt, thậm chí di dân sang hành tinh khác, đều phải có thẻ chip chứng minh thân phận này, trên người của tôi lại chẳng có thứ gì có thể chứng minh thân phận. (0.1) Thiết bị điện tử cá nhân (nguyên văn terminal): thiết bị đầu cuối, chức năng như một máy tính có thể làm bất cứ việc gì từ kết nối, cung cấp thông tin, liên lạc v.v..., mình tạm dịch như vậy để dễ hiểu. Toà án ra quyết định buộc tôi đi tầm soát gene di truyền, để tìm cho ra thân phận của tôi. Cuối cùng, máy tính quốc gia cho ra kết quả là: Không tìm thấy người này. Một kẻ không tồn tại ở đất nước Ar, lại đột nhiên xuất hiện bên trong khu vực cấm địa quân sự, chính là trung tâm nghiên cứu khoa học quan trọng của quốc gia, giải thích hợp lý là gì? Thân phận của tôi từ một người không biết là công dân của nước nào liền biến thành một gián điệp nguy hiểm dùng thủ đoạn bí mật lẻn vào cấm địa nghiên cứu. Tội danh trộm gene di truyền liền biến thành tội danh gây nguy hại an toàn quốc gia. "... Căn cứ vào tội trạng, bổn tòa tuyên án, đối với tội đột nhập vào khu căn cứ bí mật quốc gia G9737 của người nữ vô danh này sẽ chấp hành theo hình phạt thứ 777, không kích động tâm lý sợ hãi, không khiến phát sinh bệnh lý, kết thúc sự sống đặc thù..." Tôi phản ứng trong chớp mắt, mới hiểu được kết quả của bản tuyên án, chính là "Tử hình êm ái". Dựa vào sự thật trước mắt, đây rõ ràng là vụ xét xử nhân đạo, đầy tính công bằng và hợp lý, nhưng một kẻ sắp bị đưa đi tử hình như tôi, lại cảm thấy vô cùng oan ức. —————— Quản ngục áp giải tôi đến một căn phòng, không phải là nhà tù tôi đã ngồi mấy ngày nay. Căn phòng có màu vàng nhạt, bốn phía đặt mấy chậu cây xanh, chính giữa là một cái bàn ăn nhỏ, trên bàn bày biện nhiều loại thức ăn nóng hổi, trông cực kỳ ấm áp. Một người đàn ông cao ráo mặc bộ y phục quân y màu trắng, lịch sự đưa tay, tỏ ý mời: "Xin chào, tôi là Bác sĩ Mục (Dr Mu), đây là bữa tối chuẩn bị cho cô, hy vọng cô thích." Tôi không nói tiếng nào, vội ngồi vào bàn, vùi đầu cố sức ăn. Nhạt nhẽo vô vị, tôi căn bản không biết được mùi vị của thức ăn. Nghĩ đến mười mấy tiếng nữa, mình phải chịu hình phạt "Tử hình êm ái", mà hiện tại ngay cả bản thân là ai cũng không biết, tôi không khỏi cảm thấy uất ức, hai hàng nước mắt không kiềm được tuôn rơi. Bác sĩ Mục đi đến, ngồi xuống phía đối diện với tôi. Trong lòng quá mức khó chịu, tôi nhịn không được nói hết ra: "Tôi thật tình là vì quá đói, chỉ muốn ăn hai quả táo, vốn không biết nó quý hiếm như vậy." "Cô biết đó là cây táo, mà không biết nó quý hiếm sao?" Bác sĩ Mục nhếch miệng mang ý cười giễu cợt. Tôi lau nước mắt, không biết phải trả lời thế nào. Suốt mấy ngày xét xử, tôi mới biết quả táo tôi đã ăn vốn không có bán trên thị trường, hiện tại chỉ có loại táo nhân tạo, mà cây của nó có hình dạng khác hoàn toàn với cây táo cổ. Theo ý nghĩa nào đó mà nói, loại táo tôi ăn trộm là một loại sinh vật cổ, nếu không phải là người nghiên cứu cổ sinh vật học thì căn bản không có khả năng nhận biết. Bác sĩ Mục nghiêng người về phía trước, ánh mắc sáng quắc nhìn tôi chằm chằm, "Cô là ai, làm sao có thể lẻn được vào khu căn cứ, mục đích là gì, tôi không quan tâm, tôi đến là muốn cùng cô làm một cuộc trao đổi." Tôi hoang mang hỏi: "Anh là ai?" Hắn mỉm cười, chậm rãi nói: "Bác sĩ Mục, phụ trách nhiệm vụ tử hình cô, bảo đảm toàn bộ quá trình không gây kích thích tâm lý sợ hãi, hay phát sinh bất kỳ bệnh lý nào cho cô." Tôi không khỏi rùng mình một cái, hỏi: "Trao đổi thế nào?" "Tôi giữ mạng cho cô, cô thay bạn gái tôi lấy vị hôn phu của cô ấy." Vị hôn phu của bạn gái hắn, không phải là hắn hay sao? Hắn muốn tôi lấy hắn? Tôi khiếp sợ nhìn Bác sĩ Mục, Bác sĩ Mục khó chịu khẽ nhíu mày. Tôi liền phản ứng kịp, vị hôn phu cũng chưa chắc là bạn trai! Đây không phải là tiết mục điển hình "Bạn gái đã kết hôn, nhưng tân lang không phải là tôi" (0.2) hay sao? (0.2) Một bài hát. "Được! Tôi đồng ý!" từ chỗ chết có được hy vọng, tôi rất sợ hắn đổi ý, nên đồng ý ngay. Bác sĩ Mục nói: "Cô không cần biết một chút gì đó rồi mới quyết định à?" Tôi khổ sở nói: "Tôi có lựa chọn sao? Một bên là đi chết, một bên chỉ là lập gia đình, mặc kệ kẻ tôi sắp lấy là cực kỳ xấu xí, hay vô cùng tàn bạo, ít ra tôi có thể giữ được mạng sống." Bác sĩ Mục phong độ đứng lên, đưa tay. Tôi lễ phép cầm tay hắn, bắt tay, "Hợp tác vui vẻ!" Vừa muốn rút tay lại, Bác sĩ Mục đã dùng lực nắm chặt tay tôi. "Nếu cô dám lừa tôi, tôi sẽ khiến cho cô chết không phải là êm ái nữa." Hắn ánh mắt sắc bén, ngữ khí đe dọa, gần như bóp gãy bàn tay tôi. Tôi cố chịu đau, nỗ lực tỏ thái độ chân thành nhất có thể nhìn hắn, "Cái gọi là hợp tác vui vẻ chính là anh tuân thủ luật chơi, tôi cũng sẽ tuân thủ luật chơi." Bác sĩ Mục sắc mặt hòa nhã trở lại, nhẹ nhàng cầm tay tôi, nói: "Hợp tác vui vẻ!" —————— Sau khi cả đêm đọc xong tài liệu của Bác sĩ Mục để lại, rốt cuộc tôi cũng hiểu rõ tình thế mình sắp phải đối mặt. Bạn gái của Bác sĩ Mục tên Lạc Lan (Lorrain), nàng là công chúa của hoàng thất Anh Tiên (Perseus) thuộc đế quốc Ar. Mấy tháng trước, trong cuộc chiến tranh giành nguồn năng lượng giữa các hành tinh, đế quốc Ar bị bại trận dưới tay liên bang Odin (Áo Đinh), nên đề nghị ngừng chiến. Liên bang Odin đồng ý ngừng chiến, đồng thời cũng đồng ý nhường một hành tinh giàu năng lượng cho đế quốc Ar, với điều kiện Ar phải gả công chúa cho một trong những công tước của liên bang Odin. Đế quốc Ar đã không còn khả năng tái chiến, chỉ có thể chấp nhận "đề nghị hợp lý" chính là "Liên bang và đế quốc hảo hữu trong thời gian tới." Liên bang Odin do bảy khu tự trị cùng với khu hành chính trung ương lập thành nước cộng hòa liên bang, tuy lịch sử kiến quốc chưa được bao lâu, nhưng cũng có uy danh hiển hách về sức mạnh quân đội, kết duyên với đế quốc Ar có bề dày lịch sử lâu đời, cũng coi như là môn đăng hộ đối. Thế nhưng, trong dải ngân hà này, liên bang Odin tồn tại rất đặc thù, toàn bộ ngân hà không ai dám tin tưởng cuộc kết duyên này thật sự là vì "Liên bang và đế quốc hữu hảo trong thời gian tới." Loài người trên địa cầu cổ xưa thời bấy giờ đã nghiên cứu được gene di truyền, sớm đã tạo ra được các loài thực vật mang gene tạp giao, có thể thu hoạch được sản lượng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn. Dần dần, nghiên cứu gene thực vật bắt đầu chuyển sang động vật, thậm chí cả con người, nhưng do đụng phải vấn đề về pháp luật và đạo đức, nên việc nghiên cứu cực kỳ hạn chế. Theo thời gian, môi trường sống của địa cầu càng chuyển biến xấu, nguồn năng lượng cạn kiệt, loài người không thể không di cư đến các hành tinh khác. Trong thời khắc sinh tử tồn vong, nghiên cứu gene di truyền được tạo cơ hội mở rộng phạm vi, loài người có thể có được khí lực cường tráng hơn, sức khỏe dồi dào hơn, cơ hội sinh tồn nhiều hơn, gene của bản thân coi như đã được cải tạo triệt để. Ở thời đại địa cầu cổ xưa, phổ biến nhất là trang điểm làm đẹp; còn ở thời đại các hành tinh này, phổ biến nhất chính là cải tạo gene di truyền. Loài người lúc mới bắt đầu có chút nửa tin nửa ngờ nhưng càng về sau càng chấp nhận rộng rãi, các loại cơ cấu tu sửa gene cũng nhân cơ hội đó mà sinh sôi, khuyến khích mọi người chỉnh sửa gene từ lúc vừa sinh ra, có thể có được khuôn mặt đẹp, sức khỏe tốt, năng lượng dồi dào, thậm chí sống thọ hơn. Theo thời gian thoi đưa, các loại gene tu sửa giao tạp trộn lẫn, đời đầu sinh ra đời sau, đời sau sinh ra đời sau nữa, vấn đề tiềm tàng bên trong gene dần dần hiện rõ, loài người phát hiện gene được chỉnh sửa càng tăng cơ hội sinh tồn bao nhiêu, thì song song đó cũng sẽ càng mang lại sự hủy hoại bấy nhiêu —— tính ổn định của gene trở nên kém hơn, một người thân thể cường tráng, khỏe mạnh, không bệnh không đau đột nhiên bởi vì gene hỗn tạp mà sinh bệnh kỳ lạ; tỷ lệ giới tính giảm sút, sinh sản đời sau càng trở nên khó khăn. Loài người bắt đầu hoài niệm gene tự nhiên thuần khiết xưa kia, nên chính phủ các tinh quốc bắt đầu tiết chế nghiêm khắc, ban hành pháp lệnh, cấm giải phẫu chỉnh sửa gene di truyền. Bởi vì đã dung hợp những loại gene khác thường nên có những người có được những sức mạnh dị thường, bọn họ bị gọi là "Người mang gien dị chủng", và ngày càng bị kỳ thị nghiêm trọng. Nhất là những tộc người có hình dáng bên ngoài khác với người bình thường, bị khinh miệt là "Dị chủng", bọn họ căn bản không được loài người đối xử tốt, chỉ có thể được làm những công việc nguy hiểm nhất, hèn hạ nhất. Hơn 600 năm trước, một nhóm người không thể chịu được cái gọi là "Dị chủng", nên đã đứng lên phản kháng, bọn họ tuyên bố độc lập, thành lập chính phủ và quân đội của riêng mình, đó chính là khu hành chính trung ương liên bang Odin. Sau này, cuộc chiến phản kháng giữa các hành tinh trở thành xu thế, hơn 200 năm chiến tranh hỗn loạn, lại có thêm bảy đội quân dị chủng lớn nữa ra đời. Bởi vì đều là "dị chủng", lợi ích căn bản như nhau, nên khu hành chính liên bang đệ nhất đảm nhận chấp chính, cử ra một tuyệt thế kinh tài, gọi là Chấp Chính Quan, thủ lĩnh của bảy đội quân phản kháng tuyên thệ phục tùng chỉ huy thống nhất của Chấp Chính Quan, bảy khu tự trị cùng với khu hành chính trung ương tập hợp lại thành liên bang Odin, từ đó một đất nước "dị chủng" lớn mạnh ra đời. Trong hơn một trăm tinh quốc lớn nhỏ thuộc vũ trụ này, liên bang Odin thần bí, cường thế, không chỉ ảnh hưởng đến vận mệnh của toàn bộ các tinh quốc còn lại, mà còn ảnh hưởng tới thái độ đối đãi với các "Dị chủng", để bọn họ chí ít cũng duy trì được sự tôn trọng bên ngoài. Ngược lại, đế quốc Ar là một đất nước có bề dày lịch sử lâu đời, huyết mạch hoàng thất Anh Tiên bắt nguồn từ tộc người Đông phương trên địa cầu cổ xưa, trong giai đoạn thật dài khai thác các hành tinh, bởi vì bảo thủ và kiêu ngạo, nên bọn họ may mắn bảo tồn được gene di truyền thuần khiết. Bởi vì khan hiếm loại gene "thuần chủng tự nhiên, không ô nhiễm" này, nên toàn bộ các hành tinh đều hoan nghênh hôn phối với họ. Căn cứ vào phân tích của các chuyên gia thuộc đế quốc Ar, liên bang Odin "cầu hôn" với công chúa Ar, dĩ nhiên không phải là anh hùng muốn lấy mỹ nhân, mà hoàn toàn là vì gene của công chúa, bọn họ muốn thông qua nghiên cứu gene của công chúa để tu bổ lại gene của chính mình. Cho dù là gì, thì một phụ nữ người bình thường cũng không bao giờ muốn lấy "dị chủng", đừng nói chi đến chuyện phải làm vật thí nghiệm cho bọn quái nhân đó mổ xẻ, nhóm công chúa đế quốc Ar đã nghĩ hết mọi cách trốn tránh, có điều, công chúa Lạc Lan dịu dàng nết na kia chẳng may bị chọn trúng. Một công chúa bất hạnh nhưng lại quá may mắn chính là có được một người đàn ông tốt, nguyện vì nàng đánh đổi tất cả, bày mưu tính kế, giúp nàng thoát khỏi bất hạnh, mà tôi... cũng coi như có được chút phước đức của nàng! Dù gì đi nữa, thì làm một gốc cây táo được chăm sóc nghiên cứu, còn hơn là bị tử hình nhân đạo! —————— Sáng sớm, gác ngục đưa tôi đến phòng hành hình. Các bác sĩ mang khẩu trang bảo hộ, mặc y phục trắng, tất cả đã sẵn sàng, đang chờ đợi tôi. Tôi nhìn các loại dụng cụ hành hình bằng kim loại lạnh lẽo lóe sáng, trong lòng tràn ngập lo lắng sợ hãi. Dưới nhiều cặp mắt nhìn chăm chú như vậy, Bác sĩ Mục có cách cứu tôi sao? Gác ngục ra ý bảo tôi nằm lên giường hành hình. Cái chết ở ngay trước mắt, nhưng tôi còn nhiều thứ chưa hiểu rõ, cũng không thể cam lòng... Tôi cầu khẩn nhìn về phía Bác sĩ Mục, nằm xuống đây rồi, rốt cuộc là kết thúc, hay được tái sinh? Khẩu trang bảo hộ lạnh như băng che giấu khuôn mặt của hắn, cũng che đi nét mặt của hắn, thời khắc này, hắn giống như tử thần trong truyền thuyết gặt lấy sinh mạng của con người không chút lưu tình. "Nhờ cô phối hợp giúp, như vậy mọi người mới có thể hợp tác vui vẻ." Bác sĩ Mục nói còn cố tình nhấn mạnh bốn chữ "Hợp tác vui vẻ". Tôi từ từ trấn tĩnh lại, nằm thẳng người trên giường, nhìn chằm chằm lên nóc nhà có màu xanh da trời. Nghe nói, người sắp chết sẽ nhớ đến những chuyện của bản thân lúc còn sống, đối với tôi, trí nhớ của cả đời tôi chỉ vỏn vẹn có bảy ngày, trong lúc đang chờ đợi cái chết, trong đầu tôi vẫn vang lên tiếng chất vấn của quan tòa. "Cô là ai?" "Làm sao cô có thể lẻn vào được căn cứ G9737?" "Cô có đồng phạm không?" "..." Sau khi sau gáy có cảm giác đau giống như bị muỗi đốt, tôi hoàn toàn mất đi ý thức. ————·————·———— Mở mắt bừng tỉnh một lần nữa, tôi đã là công chúa Lạc Lan, đang ở trên phi thuyền đi đến liên bang Odin, Bác sĩ Mục là bác sĩ quân y theo hộ tống. Nghe nói, bởi vì công chúa Lạc Lan quá sợ hãi phải xuất giá, nàng đã dùng cách ấu trĩ nhất chính là tự hủy dung nhan của mình để phản kháng, hoàng đế Ar liền sai người đánh nàng ngất xỉu, sau đó trực tiếp đưa nàng lên phi thuyền. Dù sao đường đi vẫn còn xa, trước khi đến liên bang Odin, các bác sĩ sẽ chữa trị gương mặt cho nàng. Hiện tại, giải phẫu thẫm mỹ có thể làm cho tôi biến thành công chúa Lạc Lan một cách dễ dàng, nhưng Bác sĩ Mục không thích tôi và người yêu của hắn có cùng gương mặt, nên để tôi giữ lại gương mặt của mình. Bên ngoài thì tuyên bố Lạc Lan bởi vì quá đau khổ nên đã quyết tâm thay đổi khuôn mặt, phẫu thuật thẩm mỹ thành gương mặt giống như của tôi hiện giờ. Có thể thoải mái dùng gương mặt của mình giả mạo công chúa, tôi rất vui mừng. Dù sao, tôi cũng đã mất đi trí nhớ, mất luôn thân phận, bề ngoài này chính là cái duy nhất liên hệ với tôi của trước kia. "Công chúa Lạc Lan bây giờ ở đâu?" Tôi tò mò hỏi. Bác sĩ Mục nhìn tôi chằm chằm tỏ ý cảnh cáo, "Cô chính là công chúa Lạc Lan, còn chuyện... cô ấy là ai, không phải là vấn đề cô quan tâm." Tôi là công chúa Lạc Lan, tôi là công chúa Lạc Lan... Tôi im lặng tự thôi miên chính mình. Đột nhiên, tôi nghĩ đến một chuyện. Công chúa Lạc Lan có bộ gene tự nhiên thuần khiết hiếm gặp, tôi lại là người không rõ lai lịch, chỉ cần làm một cuộc kiểm tra gene đơn giản sẽ phát hiện ra ngay. Mọi người đều biết liên bang Odin bởi vì bộ gene của công chúa mới đi cầu hôn nàng, cho dù tôi có nghĩ ra tất cả biện pháp kéo dài thời gian, cũng không thể kéo dài được lâu. Tôi cẩn thận hỏi: "Liên bang Odin chính là muốn nghiên cứu bộ gene của công chúa, nếu bọn họ phát hiện tôi là kẻ giả mạo, sẽ xử lý tôi thế nào?" "Gene của cô là thuần chủng, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của bọn họ." Bác sĩ Mục ánh mắt kỳ quái, dường như cũng thật buồn bực, "Chỉ cần cô không làm gì sai, sẽ không ai nghi ngờ, nếu bọn họ cố ý kiểm tra xem cô và hoàng thất có quan hệ huyết thống hay không, thì cô vĩnh viễn vẫn là công chúa Lạc Lan." Tôi khiếp sợ nhìn hắn, hoàn toàn không ngờ bộ gene của mình cũng là gene thuần chủng, vô cùng hiếm gặp. "Nhìn qua cô thật sự hoàn toàn chẳng có chút hiểu biết gì về mình." Bác sĩ Mục cười tự giễu, "Nếu không phải gene của cô đặc biệt, tôi làm sao mạo hiểm cứu cô?" Đúng vậy! Nếu không phải gene của tôi đặc biệt, Bác sĩ Mục căn bản không nhất định phải chọn tôi, với thủ đoạn của hắn. Muốn tìm một cô gái giả mạo công chúa dễ như trở bàn tay. Bác sĩ Mục nói: "Tôi đã giữ được mạng sống cho cô." Tôi trịnh trọng bước về phía hắn hành lễ, "Cám ơn anh, ân nhân cứu mạng, tôi sẽ thực hiện đúng lời hứa của mình." ————— Tôi mang tâm trạng không tốt, trốn suốt ở trong phòng, mỗi ngày chỉ đồng ý gặp bác sĩ Mục. Nhờ sự giúp đỡ của hắn, tôi bắt đầu học trở thành một công chúa. May mắn sao Lạc Lan là một công chúa có địa vị thấp. Lúc nàng bảy tuổi, cha nàng đã qua đời, mẹ nàng cũng mất do bệnh truyền nhiễm khi nàng mới trưởng thành, hoàng đế đương thời vốn là hoàng thúc của nàng nhưng đối với nàng không chút quan tâm, nàng cũng rất ít khi xuất đầu lộ diện, chỉ thích cuộc sống lặng lẽ làm bạn với sách, ngoại trừ những tỳ nữ thân cận hầu hạ nàng, thì người ngoài ấn tượng đối với nàng cũng mơ mơ hồ hồ. Bởi vì hành động kháng hôn quá ngây thơ của Lạc Lan, hoàng đế thúc thúc sợ nàng lại làm loạn gây xấu mặt, nên không cho các tỳ nữ thân cận cùng nàng lên phi thuyền, những người hộ tống hiện thời hoàn toàn là người xa lạ, căn bản không thật sự quan tâm tới nàng. Bác sĩ Mục nói: "Chỉ cần biểu hiện của cô không thái quá, sẽ không bị phát hiện. Cho dù có người để ý đến lời nói và hành động của cô không giống với trước kia, thì cũng có thể lấy cớ vì quá kích động, dẫn đến tính tình thay đổi, tạm thời che giấu." Tôi khiêm tốn lắng nghe, tỏ vẻ hiểu được. Một tháng sau, quá trình học của tôi được bác sĩ Mục chấp nhận, xem như thành công trở thành công chúa. Bác sĩ Mục không còn đốc thúc tôi học tập nữa, thời gian rảnh rỗi của tôi đột nhiên tăng lên. Tôi cảm thấy nên nhân cơ hội này suy nghĩ nghiêm túc việc làm thế nào để đối phó với vận mệnh tương lai, nhưng trí nhớ thì trống rỗng, cái gì cũng không nghĩ ra được. Trước mắt tôi hiện lên một màn hình ảo chứa các tư liệu của liên bang Odin, tôi vô thức vẽ lên vô số dấu "?" Mỗi người đều dựa vào trí nhớ và kinh nghiệm, mới có thể đưa ra được hướng đi cho tương lai —— Tìm kiếm những gì mình thích, trốn tránh những thứ mình ghét; đến gần ấm áp, xa rời tổn thương. Nhưng tôi là một người không có trí nhớ, cũng chẳng có tình cảm. Tôi không biết mình thích gì, cũng chẳng biết mình ghét gì; không biết mình yêu ai, cũng chẳng biết ai yêu mình. Một kẻ không có quá khứ, vậy làm sao lựa chọn con đường tương lai? Đang miên man suy nghĩ, đột nhiên có tiếng còi báo động vang lên, thuyền trưởng lập tức thông báo với mọi người: "Chúng ta bị hải tặc (0.3) tấn công, chuẩn bị chiến đấu! Các nhân viên không phụ trách chiến đấu lưu ý giữ bình tĩnh, ngồi đúng vị trí của mình bên trong khoan thuyền, đeo dây an toàn cẩn thận, đừng nên đi lại." (0.3) Nguyên Tinh tặc: là nhóm cướp chuyên cướp các phi thuyền đi lại trong vũ trụ, tương tự như hải tặc Hải tặc? Gặp chuyện không may sao? Tôi vừa suy nghĩ, vừa rất nhanh ngồi vào ghế, thắt đai an toàn thật cẩn thận. Phi thuyền vẫn đi tới vững vàng, không có một chút xóc nảy, xem ra chỉ là cuộc chiến đấu nhỏ. Một giờ sau, cửa khoang thuyền mở ra, tướng quân có quân hàm cao nhất trên phi thuyền Joseph (Ước Sắt) tướng quân đi đến, "Công chúa!" Tôi cởi bỏ đai an toàn, đứng lên, lễ phép chào hỏi: "Tướng quân." Tướng Joseph vẻ mặt nghiêm trang nói: "Hải tặc đã chạy thoát, nhưng bác sĩ Mục của đội chữa thương trong lúc đang cứu người, không may gặp nạn." "Những người khác thế nào?" "Những người khác đều an toàn." Sau khi Joseph tướng quân cúi chào hành lễ xong, liền vội vàng rời khỏi. Tôi đứng im lặng một lúc lâu. Bác sĩ Mục đã dẫn theo công chúa Lạc Lan rời khỏi đây, hắn biết rõ cho dù là ở đế quốc Ar hay là ở liên bang Odin, thì cũng có rất nhiều ánh mắt dòm ngó, địa điểm biến mất tốt nhất chính là con đường trung gian giữa hai bên, nơi cả hai đều có thế lực yếu. Từ nay về sau, vũ trụ lại có thêm một cặp đôi yêu đương ngọt ngào, mà tôi... Là Lạc Lan công chúa. Ánh mắt của tôi hướng ra ngoài cửa sổ. Trong biển vũ trụ này, có hàng nhìn hàng vạn ngôi sao đang lấp lánh. Tôi không biết tinh cầu nào mình đã đi qua, cũng không biết tinh cầu nào mình sẽ đi tới. Nhưng, một ngày kia, tôi hy vọng mình có thể giống như công chúa và bác sĩ Mục, cho dù là biển vũ trụ bao la, cho dù là hàng nghìn hàng vạn sao trời, vẫn có thể biết được rõ hướng đi của mình. Mời các bạn đón đọc Ký Ức Lạc Ngân Hà của tác giả Đồng Hoa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bất Cứ Điều Gì Em Muốn - Jennifer Crusie
Bất cứ điều gì em muốn của tác giả Jennifer Cruise -Tiểu thuyết gia văn học lãng mạn ăn khách nhất tại Mỹ là cuốn sách được đứng vào loại sách bán chạy nhất trong năm (Best-seller). “Bất cứ điều gì em muốn” nói về diễn biến tâm lý của một con người khi yêu. Tình yêu đánh gục bất kỳ ai, kể cả một thám tử tư vốn luôn tỉnh táo và bất cần. Kẻ giết người vì tình liệu có đáng được tha thứ? Mitch Peabody nhanh chóng nhận ra rằng cuộc đời của một thám tử tư chẳng giống những gì diễn ra trong phim ảnh. Anh đã hình dung ra một thế giới của những anh chàng thám tử ăn nói cứng rắn và những người cô nàng kiêu sa, lanh mồm lanh miệng. Thay vào đó anh gặp phải hết vụ này đến vụ khác nói về những gã chồng lừa dối, những cô vợ đáng ngờ và những cô nhân tình khờ khạo… cho đến khi cô bước qua cánh cửa. Mae Sullivan thực sự bốc lửa, kèm theo đó là một gia đình bất hạnh. Có một điều gì đó không hoàn toàn trung thực ở cô, nhưng cô đem đến một vụ án mà anh không thể chối từ…và để lại trong anh một cơn khát tình chưa từng có kể từ thời trung học. Nhưng liệu có phải Mae chỉ quan tâm đến việc bắt được kẻ lừa đảo phản bội đã giết ông bác mình… hay quý cô đó muốn bắt chính con người anh? “Hết sức mới mẻ, hài hước, tình cảm và táo bạo… Crusie là một trong những tác giả như thế”.  *** Jennifer Crusie (sinh năm 1949) là bút danh của nhà văn Jennifer Smith, một tác giả dòng tiểu thuyết lãng mạn bán chạy và dành nhiều giải thưởng. Bà đã viết được hơn 15 cuốn tiểu thuyết, đã được xuất bản ở hơn 20 nước trên thế giới. Bà đã tốt nghiệp ở trường Trung học Wapakoneta và có bằng cử nhân ngành Mỹ thuật tại trường Đại học Liên bang Bowling Green ở Bowling Green, bang Ohio. Bà có hai bằng Thạc sĩ. Bằng đầu tiên thuộc về chuyên ngành Professional Writing and Women's Literature ở Đại học Liên bang Wright, Crusie đã viết luận văn về vai trò người phụ nữ trong tác phẩm văn học kỳ bí. Bằng thạc sĩ thứ hai của bà thuộc nghành Mỹ thuật trong Tiểu thuyết của Đại học Liên bang Ohio. Vào mùa hè năm 1991, bà bắt đầu nghiên cứu cho luận văn về ảnh hưởng giới tính đối với việc tường thuật, nghiên cứu sự khác nhau của việc kể chuyện giữa phụ nữ và đàn ông. Là một phần trong quá trình nghiên cứ, bà đã dự tính đọc một trăm cuốn tiểu thuyết lãng mạn dành cho phụ nữ và một trăm cuốn tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Các tiểu thuyết lãng mạn hóa ra khá nữ quyền và quá hấp dẫn, khiến bà không bao giờ đụng đến tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Thay vào đó, bà quyết định viết tiểu thuyết, bỏ việc và dành toàn bộ thời gian để viết cũng như hoàn tất học vị tiến sĩ. Đây là một trong những bước biến chuyển vô cùng mạo hiểm vì bà đã không bán được cuốn sách đầu tiên của mình mãi cho đến tháng Tám năm 1992. Mặc dầu NXB Silhouette đã từ chối cuốn tiểu thuyết tiếp theo của Crusie, NXB Harlequin đã chấp nhận nó và xuất bản vào năm 1993 với tên gọi Săn chồng thuộc dòng sách Quyến rũ của họ. Thêm năm cuốn nữa của bà được Harlequins xuất bản, gồm Getting Rid of Bradley – đã giành được giải RWA dành cho Tiểu thuyết ngắn hiện đại hay nhất, Strange Bedpersons, What the Lady Wants, Charlie All Night, and Anyone But You. Các tác phẩm tiểu thuyết của bà tiếp tục khám phá các cuộc hành trình của những người phụ nữ, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ, tình bạn, cộng đồng, và sự sáng tạo. Bà là một phụ nữ may mắn, và bà biết điều đó. *** Các tác phẩm của Jennifer Crusie: Faking It Welcome to Temptation Fast Women Crazy For You Bet Me Maybe This Time Anyone But You What The Lady Wants (Bất cứ điều gì em muốn) Manhunting (Săn chồng) Strange Bedperson ... *** Mae Sullivan cau mày nhìn lên toà nhà cũ kỹ đầy bụi bẩn và đổi thế đứng từ bàn chân đau nhức trên chiếc giày cao gót nhọn hoắt này sang chân bên kia, cố tránh không đè lên những vết phồng rộp. Vẻ ngoài của khu dân cư này cho thấy cơ hội cô bị cướp ngày có lẽ cũng chỉ cao hơn tí chút so với khả năng toà nhà sẽ đổ sập xuống đầu cô. Chỉ có kẻ thất thế mới làm việc ở một nơi như thế này. Tốt. Chẳng dễ gì mới tìm được một tay thám tử tư bất tài bằng một mẩu quảng cáo ngắn cũn tại một thành phố ở miền trung tây như Riverbend. Nhưng giờ đã có Mitchell Peatwick. Cô có thể hình dung ra anh ta đang ngả ngớn trên chiếc ghế bành, hói đầu và béo ục ịch, quai hàm trễ xuống và đôi mắt lóe lên sự hiểm độc, trong khi não thì bé như quả nho. Anh ta sẽ chiếu cố đến cô vì cô là phụ nữ. Còn cô sẽ chơi anh ta như chơi đàn piano. Tất cả những gì cô phải làm là thuyết phục anh ta rằng anh ta đang điều tra một vụ giết người thực sự, rồi anh ta sẽ vác tấm thân phì nộn ấy đi loanh quanh, tạo nên những lời đồn đại và nỗi ngờ vực cho đến khi ai đó đã lấy cuốn nhật ký của ông bác cô sẽ buộc phải hoặc từ bỏ nó hoặc phải thủ tiêu nó vĩnh viễn nếu như kẻ đó không muốn bị bắt vì tội giết người. Phải, đó là tất cả những gì cô phải làm. Vậy thì làm thôi. Cô hít một hơi thật sâu và nhăn mặt khi cạp của chiếc váy hồng đi mượn cắt vào da. Rồi cô kéo chiếc mạng trên mũ xuống che ngang mắt và rảo bước về phía cánh cửa kính rạn nứt của toà nhà cũ kỹ, liếc nhìn bóng mình trong đó khi bước lên cầu thang. Thậm chí là qua lớp mạng màu hồng ngớ ngẩn, trông cô vẫn cực kỳ gợi cảm. Đó là điều kỳ diệu mà váy áo có thể tạo nên. Giờ nếu cô có thể tiến hành cho xong cuộc nói chuyện khỉ gió này trước khi cạp váy của June cắt cô thành hai và đôi cao gót nhọn hoắt của bà biến cô thành kẻ tàn tật suốt đời, thì cô sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề mà bọn họ đang mắc phải. Cầu trời để Mitchell Peatwick là một gã ngu như bò và yếu lòng trước phụ nữ mặc váy bó, cô thầm cầu nguyện khi bấm chuông thang máy. Cầu trời để anh ta là bất cứ thứ gì theo ý mình. Cánh cửa sổ ọp ẹp phía sau lưng anh mở toang, chiếc quạt trần trên đầu xoay xoay phả gió, và Mitch tin chắc rằng nếu như trời còn nóng hơn nữa thì anh sẽ chết. Và đúng là trời đang nóng hơn thật, anh khá chắc điều duy nhất giúp cho anh còn sống sót là vì anh không hề cử động. Nếu như anh nhúc nhích, thân nhiệt của anh sẽ tăng lên, và anh sẽ bị tan chảy ngay trên chiếc ghế bành của mình. Dù sao thì anh cũng không muốn cử động gì ráo. Anh đang chán chường đến mức chẳng buồn cựa quậy. Anh ngả lưng trên chiếc ghế da đã rạn – tay áo xắn cao, tay vắt ra sau đầu, chân gác lên chiếc bàn kim loại méo mó – và suy nghĩ về những kế hoạch mà anh đã lập ra và về cái cách mà những kế hoạch đó diễn ra. Có sự khác biệt lớn ở đây. Kỳ vọng là sự chuẩn bị tồi tệ trước thực tế. Đó là lý do vì sao anh từ bỏ những mộng tưởng của mình. Mộng tưởng không mang lại hiệu quả đặc biệt gì, cũng chẳng sinh ra chút lợi lộc nào, nhưng mộng tưởng lại dễ dàng hạ gục thực tế. Thực tế thì thật chó má. Mộng tưởng làm cho nghề thám tử tư trở thành một thứ nghề nghiệp hoành tráng. Thực tế thì tiếc thương cho nó. Anh nhắm nghiền mắt và cố hình dung lại giấc mơ đó, cái phần mà anh sẽ trở thành Sam Spade[1] của thập niên 90. Rồi tiếng dây cáp treo thang máy kêu xủng xoẻng vọng qua hành lang và Mitch biết rằng một vụ ly dị khác nữa sắp sửa tìm đến mình. Trước đây anh còn ảo tưởng chút ít về các mối quan hệ, anh ảo não nghĩ thầm, nhưng bây giờ thì tuyệt đối không. Ngay cả những kẻ chưa kết hôn cũng thuê anh điều tra xem liệu những người mà họ không kết hôn cùng có thành thật hay không. Và dĩ nhiên là những người đó không thành thật. Đó là một sự thật không thể thay đổi mà Mitch đã học được trong một năm qua, là điều duy nhất mà giờ đây anh nhận ra là mình có thể tin tưởng được. Tất cả mọi người đều nói dối. Hẳn là Sam Spade đã hiểu được phần này, nhưng anh ta sẽ phỉ nhổ vào các vụ ly dị. Mitch có một cảm giác không mấy dễ chịu là lẽ ra anh cũng nên phỉ nhổ vào công việc này thay vì dựa vào nó để sống tạm bợ. Quá là tạm bợ. Anh vẫn còn một tuần nữa trong năm, một tuần nữa để kiếm được những đồng cuối cùng trong món tiền hai mươi nghìn đô và thắng vụ cá cược ngớ ngẩn rồi quay lại với cuộc sống bình thường của mình, nhưng để làm được điều đó cần phải có một khách hàng sẵn sàng trả cho anh hai ngàn sáu trăm chín mươi bốn đô trước ngày thứ Sáu. Chuyện đó sẽ không xảy ra. Moi tiền từ phía khách hàng là điều kém ưa thích thứ hai mà anh đã học được từ cái nghề này. Vì vậy khi nghe thấy tiếng dây cáp treo thang máy kêu xủng xoẻng ở ngoài hành lang đối diện với cửa văn phòng, anh chẳng hề sốt sắng bật dậy. Không chỉ vì nhiệt độ tăng lên sẽ giết chết anh nếu anh cử động, mà còn vì lâu lắm rồi anh đã chẳng hăng hái làm bất cứ chuyện gì, và anh cũng quên mất không biết chuyện tỏ ra nhiệt tình kiểu đó diễn ra như thế nào. Nếu mình là Sam Spade, thì đây ắt phải là Brigid O’Shaughness[2]. Chiếc quạt trần cũ kỹ kêu kẽo kẹt trên đầu Mitch, ánh mặt trời vàng vọt phủ lên người anh, và thật ngạc nhiên, anh bắt đầu cảm thấy lạc quan trở lại. Có lẽ niềm hi vọng vẫn chưa tắt hết. Có lẽ đây là một vụ Brigid dành cho anh, một người phụ nữ không hứng thú gì với hôn nhân và ràng buộc, sẵn sàng quyến rũ anh để đạt được những gì cô ta muốn. Chắc như bắp là anh sẵn lòng để bị quyến rũ. Cô ta sẽ bước vào văn phòng, lạnh lùng, thon thả, duyên dáng và bốc lửa trong một bộ vest trắng cổ rộng và một chiếc váy bó xẻ dọc đến tận hông. Cô ta sẽ có đôi chân tuyệt hảo. Và có thể cô ta sẽ đội một chiếc mũ trên mái tóc xoăn đỏ rực, một chiếc mạng tối che đi đôi mắt xanh thăm thẳm và chiếc mũi thẳng nhỏ xinh bên trên đôi môi căng mọng, ẩm ướt. Và ở giữa đôi môi và đôi chân sẽ là phần đẹp đẽ nhất. Chiếc áo vest sẽ bó chặt lấy ngực cô ta. Bộ ngực tròn. Bộ ngực căng, tròn. Bộ ngực cao, căng, tròn. Mitch cố xua hình ảnh bộ ngực kia ra khỏi đầu. Thế rồi cô ta bước vào và nói: "Tôi cần anh tìm Chim ưng xứ Manta[3]." Giọng nói của cô ta hơi khàn và nhẹ nhàng. Và từ lúc nào đó cô ta sẽ bỏ mũ xuống, và họ sẽ có một cuộc mây mưa đầy đam mê, ướt át, trơn trượt và đẫm mồ hôi… Mitch nấn ná một lúc với màn mây mưa. …và rồi anh sẽ phát hiện ra từ đầu đến cuối cô ta là kẻ có tội. "Anh sẽ không chịu tội thay cho em đâu[4], bé cưng", anh sẽ nói thế, và họ sẽ giao nộp cô ta vì tội ám sát cộng sự của anh. Thôi được rồi, anh chẳng có cộng sự nào trừ phi anh tính đến Newton, và chẳng ai từng tính đến Newton cả, thế nhưng… Chả trách mà cuốn sách đó lại là một cuốn kinh điển. Sam Spade đã tóm được cô ả mà không cần phải ràng buộc bất cứ điều gì và vẫn cảm thấy rất tuyệt về bản thân khi đá cô ta. Đầu tiên là ăn nằm với nhau cho thoả thích, rồi sau đó anh ta bỏ rơi cô ả, tự do thảnh thơi như chim trời, như một người anh hùng thay vì một tên sở khanh. Nào nào, cũng phải có tí mơ mộng chứ. Rồi cửa phòng mở ra, anh nhìn lên và cô bước vào. Tóc cô màu nâu sẫm, giống như màu mắt phía sau mạng che mặt, bộ vest màu hồng chứ không phải màu trắng, nhưng tất cả những thứ còn lại khá giống với trong tưởng tượng. Chiếc mũi, đôi môi, bộ… "Mình sẽ bị đày xuống địa ngục mất." Với nỗ lực to lớn, Mitch dứt ánh mắt khỏi bộ ngực để nhìn lên mặt cô. "Chắc vậy." Chất giọng trầm trầm của cô dội thẳng vào sống lưng anh. "Anh là Mitchell Peatwick?" "Ừ, phải." Mitch vung chân xuống sàn và đứng dậy, quẹt lòng bàn tay đẫm mồ hôi lên áo trước khi chìa tay cho cô. "Mitch Peatwick, thám tử tư. Nghe này, cô đã bao giờ đọc cuốn Chim ưng xứ Manta chưa?" "Rồi." Cô phớt lờ tay anh trong khi quan sát căn phòng bẩn thỉu, môi trề ra dè bỉu khi nhìn thấy những vết rách trên đệm ghế bọc và lớp bụi bặm. "Có thật đây là văn phòng của anh không?" Đó là cách mà cái thế giới này vận hành đấy. Sự kỳ vọng lần nào cũng làm anh vấp ngã. Giá như chỉ cần im miệng lại, cô ta sẽ rất hoàn hảo, thế nhưng không. … Mời các bạn đón đọc Bất Cứ Điều Gì Em Muốn của tác giả Jennifer Crusie.
Lụa - Alessandro Baricco
Một chuyện tình làm tan nát cõi lòng được kể dưới hình thức ngụ ngôn cổ điển. Một tấn kịch gợi tình và đầy sống động, khắc họa những dục vọng sâu kín nhất của con người. Chuyện bắt đầu với Herve Joncour – một thương gia giàu có trong ngành tơ lụa nước Pháp. Năm 1861 cả thế giới phải hứng chịu một dịch bệnh đe dọa xóa sạch việc buôn bán lụa. Đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan, Herve quyết định vượt qua những châu lục xa xôi để đến Nhật Bản, nơi sẽ có thứ trứng tằm có thể nhả ra loại tơ tuyệt vời nhất trần gian. Chàng bắt đầu một cuộc hành trình dài, vượt qua những thung lũng, núi đồi xa xôi, băng qua sa mạc và những vùng băng tuyết khắc nghiệt. Một nơi được gọi là tận cùng thế giới, một bí ẩn của phương Đông với vô số huyền thoại. Đến Nhật Bản, Herve Joncour gặp một lãnh chúa tên Hara Kei. Người này đồng ý bán cho chàng một ngàn kén trứng để mang về. Nếu mọi chuyện có thể dừng lại ở đó thì đã thực đơn giản, Herve bị ái nữ của Hara Kei “bỏ bùa”. Đó là đôi mắt của một người phụ nữ phương Đông mà không hề phương Đông, một sự hấp dẫn đầy mê hoặc. “Uống nhầm một ánh mắt, cơn say theo nửa đời” quả không sai, cái nhìn ấy như một lời nguyền bám dính lấy chàng. Herve luôn đau đáu nhớ về Nhật Bản bất chấp đại dịch kia đã tìm được thuốc chữa.Chàng quyết tâm trở lại dù nơi ấy đang trong giai đoạn chính trị rối ren. Tình yêu giữa chàng và ái nữ kia đã vô tình chớm nở, như hai kẻ đồng điệu về tâm hồn. Chuyến đi mua trứng tằm đã thay đổi tất cả… Và chỉ khi mất đi những điều yêu thương nhất Herve mới nhận ra đâu là điều thực sự trân quý ở đời. Một nghịch lý không khó bắt gặp, khi ta mải mê đuổi theo một “dải lụa” mà vô tình quên đi mất đang có một “dải lụa” khác đẹp đẽ, mềm mại, hơn rất nhiều ngay cạnh bên. Với Lụa, tên tuổi Alessandro Baricco, nhà văn người Italy sinh tại Turin năm 1958 đã trở nên lừng lẫy trên văn đàn quốc tế. Xuất bản tại quê nhà năm 1996 và tại Pháp năm 1997, Lụa nhanh chóng trở thành một trong những tác phẩm bán chạy nhất châu Âu. Sau thành công vang dội trên khắp thế giới cuốn sách đã được chuyển thể thành phim vào năm 2007. *** 1. Dù người cha đã hình dung anh sẽ có một tương lai rực rỡ trong quân đội, Hervé Joncour cuối cùng lại kiếm sống bằng một nghề khác thường, cái nghề không phải xa lạ, như một sự trớ trêu kỳ cục, với các nét sắc sảo dễ thương của tướng mạo anh, để lộ ra một sự đổi giống nữ mơ hồ. Để sống, Hervé Joncour mua và bán tằm. Ta đang ở vào năm 1861. Flaubert viết tiểu thuyết Salammbo, đèn điện còn là một giả thuyết và Abraham Lincoln, bên kia bờ Đại Dương, đang tiến hành một cuộc chiến tranh mà ông sẽ không thấy hồi kết thúc. Hervé Joncour được ba mươi hai tuổi. Anh mua, và anh bán. Những con tằm. 2. Trong thực tế, Hervé Joncour mua và bán tằm khi tằm còn là trứng bé tí xíu, màu xám hay vàng, bất động và tưởng như chết. Chỉ cần một lòng bàn tay đủ nắm hàng ngàn trứng như thế. "Đó là điều ta gọi là nắm một tài sản trong tay". Vào những ngày đầu tháng năm, trứng nở ra con sâu tằm ăn lá dâu để lớn lên thành tằm, ăn suốt ba mươi ngày, ăn rào rào, ăn bỗ bã; tằm chín thì thu mình kéo kén, hai tuần sau thì thân tằm bị tách ra khỏi kén vĩnh viễn để lại đằng sau một di sản tương đương, nếu tính bằng sợi, một ngàn thuộc tơ sống, nếu tính bằng tiền, một số lượng to tát quan Pháp: với điều kiện là mọi sự được tiến hành theo đúng phép tắc, bài bản, và phải ở một vùng miền nam nước Pháp, như trường hợp của Hervé Joncour. Lavilledieu là tên cái thị trấn nơi Hervé Joncour sinh sống. Helène, tên người vợ anh. Họ không có con. 3. Những trận dịch bệnh càng ngày càng tàn phá ngành chăn tằm ở châu Âu. Để tránh những sự tác hại, Hervé Joncour phải đi mua trứng tằm bên kia bờ Địa Trung Hải, tận Syrie và Ai Cập. Đó là khía cạnh phiêu lưu đặc thù của nghề anh. Hằng năm vào những ngày đầu tháng giêng, anh lên đường. Anh băng qua một ngàn sáu trăm dặm trên biển và tám trăm cây số trên bờ. Anh ra tay chọn trứng, trả giá, thu mua. Rồi anh quay lưng, băng qua tám trăm cây số đường bộ và một ngàn sáu trăm dặm đường biển, về đến cái thị trấn nhỏ Lavilledieu thường vào ngày chủ nhật đầu tiên của tháng tư, thường kịp giờ dự lễ ca trong nhà thờ. Anh còn làm việc suốt hai tuần nữa cho trứng vào bao bì và đem bán. Thời gian còn lại trong năm, anh nghỉ ngơi. 4. - Và châu Phi nó ra sao? - người ta hỏi anh. - Mệt mỏi. Anh có một ngôi nhà lớn nằm ngoài thị trấn một chút và một xuồng nhỏ ở trung tâm, ngay trước mặt ngôi nhà bỏ hoang của ông Jean Berbek. Jean Berbek, một ngày đẹp trời nào đó bỗng nổi hứng quyết định từ nay về sau không mở miệng nói gì nữa. Ông giữ lời hứa. Vợ và hai đứa con gái bỏ ông ra đi. Ông chết. Nhà ông chẳng ai muốn mua và như thế bây giờ thành nhà hoang. Mua và bán tằm, nội việc này thôi cũng mang lại cho Hervé Joncour hàng năm một số lợi tức đủ bảo đảm cho anh và vợ một cuộc sống tiện nghi thoải mái mà ở tỉnh lẻ người ta dễ cho là sang trọng, xa hoa. Anh hưởng thụ của cải mình một cách kín đáo, và anh thấy mình hoàn toàn lạnh nhạt trước cái viễn tưởng không xa thực tế lắm là anh có thể trở nên thực sự giàu có. Ngoài ra, anh là một trong những người thích làm khán giả trước chính cuộc đời của mình, mọi tham vọng sống cuộc đời mình được xem là không thích đáng, là lạc lầm. Ta sẽ nhận ra là những người như thế lặng ngắm số mệnh mình cùng một cách như phần lớn những người khác lặng ngắm một ngày mưa. 5. Nếu được hỏi, có lẽ trả lời rằng cuộc đời anh sẽ tiếp tục như thế mãi mãi. Tuy nhiên, vào những năm đầu thập niên sáu mươi, trận dịch bệnh tằm gai, sau khi đã làm cho số trứng tằm nuôi ở châu Âu trở thành vô dụng, lan tràn sang bên kia biển, tận châu Phi và ngay sang cả Ấn Độ, theo lời một số người. Năm 1861, Hervé Joncour trở lại quê nhà sau chuyến đi xa thường lệ, mua về một số trứng mà hai tháng sau mới biết bị nhiễm bệnh gần hết. Đối với Lavilledieu cũng như các thành phố khác đã dựa trên nền sản xuất tơ lụa mà làm giàu, năm đó tưởng như báo hiệu sự bắt đầu cho sự suy sụp, tàn cuộc. Khoa học tỏ ra bất lực trong việc tìm hiểu những nguyên nhân gây dịch bệnh. Và khắp mặt đất, tận những vùng xa xôi hẻo lánh, tưởng như bị giam hãm, đày đọa bởi cái phù phép, tai ương không lời giải thích đó. - Không phải khắp mặt đất đâu - Baldabiou nói nhẹ nhàng - không khắp đâu, và rót một chút nước lạnh vào ly rượu anizét của mình. ... Mời các bạn đón đọc Lụa của tác giả Alessandro Baricco.
Từ Bỏ Thế Giới Vàng - Jack London
Nếu hỏi: “Văn chương ảnh hưởng thế nào đến một con người?”, c'u trả lời xác đáng phải là: “Vô cùng lớn lao!”. Đó là khi người đọc và nh'n vật biểu trưng cho cái tôi của nhà văn đồng cảm tuyệt đối. Điều đó thay đổi hoàn toàn cuộc đời, cái nhìn của người đọc. Tôi tìm thấy nó trong tác phẩm Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London. Mọi việc vẫn bắt đầu từ tủ sách thần thánh của ba. Đó là ngày tôi bỏ qua các cuốn tiểu thuyết của Jack London để đọc Người Đẹp Ngủ Mê của Kawabata. Ba tôi không cấm nhưng sớm cảnh báo: – Con có thể đủ sức đọc hết nhưng chưa đủ kiến thức để hiểu nội dung của nó! Ở cái tuổi đang lớn với đầu óc chứa đầy ương bướng nổi loạn, tôi kiên trì đọc Người Đẹp Ngủ Mê rồi không sao thấu nổi. Ba mới chìa cho tôi cuốn Từ Bỏ Thế Giới Vàng: – Đ'y là cuộc đời thực mà con nên đọc qua! Chất ương bướng ở tuổi mười ba đã ngấm đòn sau khi đầu hàng trước tính dục, bản ngã trong thế giới Người Đẹp Ngủ Mê của Kawabata, tôi ngoan ngoãn bước vào nơi hoàn toàn thay đổi cái nhìn, ý thức về cuộc đời. Nó ảnh hưởng đến sau, sau này và mãi mãi. Đến lúc viết những dòng này, thành một con người hoàn toàn đứng trên đôi ch'n của mình, từ bỏ được “thế giới vàng” phù phiếm của mình, tôi viết với sự biết ơn s'u sắc tác giả Jack London đã sáng tạo ra Ánh Sáng Ban Ngày, nh'n vật trung t'm của tiểu thuyết. Và hơn hết, tôi nhận ra từ phúc phần ở tủ sách thần thánh của ba mình. Từ Bỏ Thế Giới Vàng với nh'n vật trung t'm Ánh Sáng Ban Ngày. Anh ta có tên hẳn hoi là Elam Harnish, nhưng đã từ l'u không còn ai buồn nhớ chơi đến cái tên đó. Họ gọi anh là Ánh Sáng Ban Ngày, do thói quen sôi động và đem sự sôi động đến mọi người chung quanh, đặc biệt ưa giật chăn những kẻ ngủ lười với bài hát “Trời đã sáng bét ra rồi kìa, mấy ông bạn đi tìm linh cảm ở sông Stewart? Trời đã sáng bét rồi kìa! Trời đã sáng bét rồi kìa! Trời đã sáng bét rồi kìa!”. Tiểu thuyết vẽ ra thế giới những kẻ đào vàng ở miền cực. Nơi lý lẽ thuộc về kẻ mạnh và nòng súng nếu anh may mắn bóp cò nhanh hơn đối phương. Ở đó đức tin về Chúa chỉ mang tính tượng trưng, nơi quá xa xăm mà ánh sáng công lý vươn tới được, chỉ những gã đàn ông liều lĩnh, khẳng khái ưa đem mạng mình đánh cược với Mẹ Thiên Nhiên mới sống nổi. Và Ánh Sáng Ban Ngày là kẻ liều lĩnh, khẳng khái, can đảm nhất trong số đó. Anh ta lăn lộn qua mọi khó khăn, đánh liều khai phá những nơi mà mọi tay can đảm đều chần chừ. Hầu như khi đến tận cùng giới hạn, anh luôn tìm mọi cách vượt qua bằng sự khéo léo, sức mạnh cơ bắp, khối óc minh mẫn và sự liều lĩnh đã thành nết. Sau khi trúng được vố to nhất trong những năm đằng đẵng “đãi tuyết tìm vàng”, Ánh Sáng Ban Ngày quyết định từ bỏ vùng cực, quay về thế giới văn minh để làm ăn. “Một anh ngố rừng”, một “con hưu sừng tấm đầu đàn thô lậu”….và hàng loạt những từ ngữ ví von khác mà người đọc có thể nghĩ ra để ví von, Ánh Sáng Ban Ngày trúng ngay quả lừa đau đớn mất sạch cả gia tài. Anh, kẻ đến Mẹ Thiên Nhiên cũng phải chào thua để nhường đường nhất định không cam chịu bị những tay thành thị ẻo lả trong các bộ độ vét lừa lọc, đã dùng đúng cách d'n đào vàng lấy lại tất cả những gì thuộc về mình. Vố đau này khiến Ánh Sáng Ban Ngày hoàn toàn trở nên thay đổi t'm tính. Anh nhận ra những kẻ thành thị làm ăn toàn là các tay chơi bạc bịp, mà trong việc chơi bài, bịp bợm thì phải bị xử lý thích đáng kèm theo thái độ khinh khi rõ ràng. Điều này khác hẳn thế giới vùng cực hoang sơ của anh, các tay đào vàng chơi bài với sự thẳng thắn và lòng tin tuyệt đối vào nhau. Lắm lúc tiền cược lên đến vài chục ngàn đô-la nhưng ký nợ chỉ vẻn vẹn là mẫu giấy nhỏ, thậm chí chẳng hề viết tên con nợ. Nhưng chưa từng có ai quỵt nhau hay gian dối bao giờ. Ánh Sáng Ban Ngày là tay đánh bạc gan dạ và ngay thẳng. Một khi thế giới văn minh chơi bịp thì anh sẽ dùng chính lối đó để đối xử lại. Anh về San Francisco, mau chóng trở thành con cá mập hung hãn trong thế giới kinh doanh, bằng chiến thuật đơn giản là xé xác để mau chóng th'u tóm và leo lên đỉnh cao của Thế Giới Vàng Thực Sự. Thế giới hoang sơ vùng cực không làm anh chai sạn nhưng thế giới văn minh thị thành đã khiến bản chất của anh từ từ chuyển sang khô cứng, độc ác và hầu như vô cảm. May thay, một cô nàng nhỏ nhắn và mỏng manh tới mức Ánh Sáng Ban Ngày có thể dùng tay kéo dài và thắt nút đã 'm thầm, len lỏi một cách vô hình vào cuộc đời anh. Dede, người phụ nữ từ chối yêu anh chỉ vì anh quá giàu. Người phụ nữ chỉ muốn có một đức ông chồng bình thường, ngày này qua ngày khác sống bên cạnh mình để cùng chia sự nghèo khó trong hạnh phúc. Người phụ nữ ấy cứu rỗi hoàn toàn cuộc đời tưởng chừng như hoang phế của Ánh Sáng Ban Ngày, thổi bùng những bản tính tươi đẹp bị cuộc sống thị thành chôn vùi, trả lại cho “niềm tự hào của vùng cực” một gã đàn ông từng khiến Mẹ Thiên Nhiên phải nghiêng mình cúi chào. Một gã đàn ông mà nàng đã yêu say đắm từ ngày đầu tiên vì chất đàn ông luôn tràn ra bên ngoài. Ánh Sáng Ban Ngày từ bỏ cái Thế Giới Vàng tài chính của mình, cùng Dede về vùng đồi đã mua từ trước sống cuộc đời nông d'n yên bình với chăn nuôi, trồng trọt. Ngày trước chỉ cần hất tay, anh đã mua được cả San Francisco, còn b'y giờ muốn mua một bộ dụng cụ nhỏ thì anh phải canh nhặt từng quả trứng gà để tích góp, đôi khi đi sửa chữa giúp hàng xóm hòng có đủ tiền. Đ'y là giai đoạn hạnh phúc nhất trong đời Ánh Sáng Ban Ngày. Nhưng cuộc sống vẫn luôn muốn thử thách lòng tham con người, ít ra là lòng tham ở kẻ từ đỉnh cao giàu sang trở thành gã nông d'n tầm thường ở Ánh Sáng Ban Ngày. Lần nọ có một đoạn ống nước bị vỡ ở triền đồi, Ánh Sáng Ban Ngày vô tình phát hiện ra mạch vàng trong lúc sửa chữa. Bản tính một tay đào vàng khét tiếng trỗi dậy, anh lần mò, đào xới, cuối cùng thấy được vàng nổi lên tận ch'n cỏ. Đúng là một Thế Giới Vàng đích thực. Tuy nhiên, Ánh Sáng Ban Ngày đã đánh đổi quá nhiều để có được tình yêu bình dị đến tầm thường từ Dede. Và cô quan trọng với anh tới mức chẳng có Thế Giới Vàng nào đủ sức cám dỗ. Anh lặng lẽ sửa chữa đoạn ống nước, trở về và nói với người vợ yêu quý của mình rằng: “Em biết b'y giờ anh đang tính gì không? Anh vừa nảy ra một kế hoạch. Anh sẽ mua bạch đàn về trồng trên khắp bờ dốc đó. Những c'y bạch đàn sẽ giữ cho đất khỏi lở nữa. Anh sẽ trồng bạch đàn sát vào nhau như eo ấy, đến độ một con thỏ đói cũng khó lòng mà len qua được. Khi những c'y bạch đàn đã bám rễ rồi thì trời cũng không thể làm lở đất ở đó được nữa.”. Đúng, anh đã chôn, đã chối bỏ Thế Giới Vàng đó để giữ những điều bình dị bên cạnh mình. ….. Tôi đã sống thời tuổi trẻ sôi động như Ánh Sáng Ban Ngày, điên cuồng khám phá cuộc sống thực tại nghiệt ngã giống như anh, đạp lên những kẻ muốn đạp mình xuống bằng sức mạnh của cơ bắp lẫn trí óc của một thằng đàn ông đúng nghĩa. Tuy chưa đến được đỉnh Thế Giới Vàng như Ánh Sáng Ban Ngày nhưng nhờ có anh, tôi sớm nhận ra những thứ phù phiếm. Ở tuổi ba mươi, chưa đủ già nhưng không quá trẻ, tôi chọn cái kết cuộc đời của mình như Ánh Sáng Ban Ngày, từ bỏ mọi thế giới vàng cám dỗ để làm một anh nông d'n tầm thường. Với tôi, Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London không đơn thuần là một cuốn tiểu thuyết. Ở đó, tôi đọc được những bài học, cách hành xử của một người đàn ông ch'n chính với cuộc đời. Ở đó, có tình yêu bao la, có sự thức tỉnh hòng chối bỏ. Và ở đó, là cuộc đời tôi muốn sống và đang sống với niềm hạnh phúc vô bờ bến dù thiếu một nàng Dede mỏng manh và nhỏ bé đến tầm thường. Xin gởi cho những t'm hồn yêu sách ch'n chính. Nếu bạn muốn tìm một quyển sách có đủ chất phiêu lưu, biến chuyển t'm lý, hiện thực xã hội, tình yêu ch'n thành, giác ngộ và thức tỉnh, Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London nhất định không làm bạn thất vọng. Và nếu bạn muốn biết đoạn đời sau của Ánh Sáng Ban Ngày sẽ hạnh phúc như thế nào, hãy lên với rừng núi của tôi, tôi luôn dành cho bạn chiếc ghế trang trọng nhất, và sẵn sàng kể cho bạn nghe Ánh Sáng Ban Ngày đã Sống-Yêu-Từ Bỏ như thế nào. *** Quán Tivoli đêm nay thật lặng lẽ. Có khoảng năm, sáu người đang tụ tập tại chiếc quầy rượu chạy dọc một bên căn phòng lớn làm bằng những thân gỗ ghép không được kín lắm. Phía bên kia căn phòng là một dãy bàn cờ bạc. Bàn tài xỉu không có ai cả. Ở bàn faro chỉ có độc một người đang chơi. Ở bàn rulet, con quay chẳng buồn hoạt động bởi vì anh chàng hồ lì đứng bên chiếc lò sưởi rực lửa đang mải tán gẫu với một thiếu nữ mắt đen, thân hình và vẻ mặt rất ưa nhìn, được mọi người tử Juneau đến Fort Yukon quen gọi la Mộng Trinh(1). Ở bàn xì phé có được ba người, nhưng họ chỉ chơi cò con vì hình như không có hứng. Trên sàn nhảy ở phía sau căn phòng lớn này chỉ có ba cặp đang nhảy một cách uể oải theo tiếng rền rĩ của chiếc dương cầm và chiếc vĩ cầm. Thật ra thị trấn Vùng Cực này không phải bị bỏ hoang, mà cư dân ở đây thì cũng chẳng phải nghèo tiền bạc. Những người đào vàng ở Lạch Da Hươu cũng như ở các vùng khác về phía tây đều đã trở về đây. Công việc đãi vàng trong mùa hạ vừa qua rất có kết quả, nên túi của họ đều nặng trĩu vừa vàng cục vừa vàng bụi. Vào thời gian này, người ta chưa biết đến sông Klondike(2), và những người thợ mỏ ở dọc theo sông Yukon(3) chưa biết cách đốt lửa cho đất mềm ra cho dễ đào. Bởi thế, về mùa đông, đám thợ mỏ nghỉ việc, quay về trú đông ở các trại lớn như thị trấn Vùng Cực này cho qua đêm dài Bắc Cực. Thì giờ rỗi rãi, túi lại rủng rinh tiền, nên họ thường đến các quán rượu tìm vui. Ấy thế mà đêm nay, quán Tivoli cứ như bị bỏ hoang. Ðứng bên lò sưởi, Mộng Trinh ngáp dài không thèm đưa tay che miệng, và nói với Charley Bates: - Nếu cứ cái điệu này mãi thì đến phải đi ngủ mất thôi. Mà có chuyện gì với cái trại này vậy nhỉ? Bộ mọi người chết hết rồi à? Bates chẳng buồn mở miệng trả lời, cứ lặng lẽ cuốn thuốc. Dan McDonald, chủ quán Tivoli kiêm chủ các sòng bạc ở đây, rầu rĩ băng ngang căn phòng trống trải, đến nhập bọn với hai người đang đứng bên lò sưởi. Mộng Trinh quay sang hỏi hắn: - Bộ có ai chết hay sao vậy? - Hình như thế. - Vậy thì có lẽ cả cái trại này chết hết rồi cũng nên. - cô gái nói với vẻ dứt khoát rồi lại ngáp dài. McDonald nhe răng cười, gật đầu, và mở miệng định nói thì cánh cửa cửa trước bỗng mở tung và một người chợt hiện ra trong ánh đèn. Ðưa tay lấy cây chổi con móc trong cửa, người mới đến phủi tuyết bám trên đôi giày da đanh kiểu thổ dân Bắc Mỹ và trên đôi vớ cao kiểu Ðức. Hẳn là anh ta trông cũng cao lớn nếu như ngay lúc đó không có anh chàng khổng lồ người Gia Nã Đại gốc Pháp từ phía quầy rượu bước lại nắm chặt lấy anh ta. - Kìa Ánh Sáng Ban Ngày! Lạy chúa, bọn này mong cậu đến mòn con mắt! - À, Louis, xin chào. Các cậu về lúc nào vậy? - Người mới đến đáp lại. - Nào, ta đi làm một ly đi, rồi cậu kể cho tớ nghe toàn bộ câu chuyện ở Lạc Khúc Xương nhé. Chà, quỷ tha ma bắt cậu đi, bắt tay cái nữa nào. Cái anh bạn đi với cậu đâu rồi? Tớ đang tìm hắn đây. Một người khổng lồ nữa từ phía quầy rượu cũng bước lại đưa tay ra bắt tay người mới đến. Anh chàng này tên Olaf Henderson, cũng là dân đào vàng chung với French Louis ở Lạch Khúc Xương. Cả hai đều là người to lớn nhất vùng, và mặc dù họ chỉ cao hơn người mới đến khoảng nửa cái đầu thôi, thế mà đứng giữa họ anh ta trong loắt choắt hẳn đi. - Ôi chào Olaf, tớ tìm cậu mãi đấy, hiểu không? - Người được gọi là Ánh Sáng Ban Ngày nói. - Ngày mai là sinh nhật của tớ, và tớ sẽ quật cho cậu ngã ngửa ra đấy, hiểu không? Cả Louis nữa, tớ cũng sẽ quật cho cậu ngã ngửa ra đấy, hiểu không? Cả Louis nữa, tớ cũng sẽ quật cho cậu ngã ngửa luôn, hiểu không? Nào, bây giờ đi uống với tớ một ly cái đã, rồi tớ sẽ cho các cậu biết. Người mới đến dường như đem theo cả hơi ấm tràn ngập căn phòng. Mộng Trinh kêu lên: - Ðúng là Ánh Sáng Ban Ngày rồi! Nàng là người đầu tiên nhận ra anh ngay khi anh vừa bước vào vùng sáng của căn phòng. Sự xuất hiện của Ánh Sáng Ban Ngày làm cho cả căn phòng hình như bỗng sáng và vui tươi hơn hẳn. Những người phục vụ trong quán tíu tít hẳn lên. Người ta cất cao giọng hát hơn. Có kẻ còn bật cười nữa. Nhịp luân vũ nhanh hẳn lên, và những cặp đang khiêu vũ, như lấy phải cái nhộn nhịp chung, cũng bắt đầu quay tít như thể họ đang bốc hứng. Ðã từ lâu mọi người đều biết rằng hễ ở đâu có Ánh Sáng Ban Ngày là ở đó không thể buồn nản được. Tại quầy rượu Ánh Sáng Ban Ngày xoay người lại thì thấy Mộng Trinh đứng cạnh lò sưởi đang nhìn anh với vẻ đón chào nồng nhiệt. - Kìa, Mộng Trinh, cô bạn cũ, - anh gọi. - Kìa, cả Charley nữa. Chuyện gì thế? Sao mặt mày lại ủ ê như người chết không có đất chôn vậy? Lại đây uống cái gì đi nào. Tất cả lại đây nào, hỡi những kẻ chết chưa có đất chôn kia, muốn uống gì thì cứ việc gọi. Nào, mọi người. Ðêm nay là đêm của tớ, và tớ sẽ làm chủ nó. Ngày mai tớ đã ba mươi tuổi, thế là già mất rồi. Ðây là giây phút cuối cùng của tuổi trẻ. Tất cả đã sẵn sàng cả rồi chứ? Nào, vô nào, vô. - Khoan đứng lên đã, Davis, - anh quay qua gọi với người chào faro, lúc này đang đẩy ghế ra sau dợm đứng lên. - Tớ muốn chơi với cậu một ván để xem tớ hoặc cậu ai sẽ phải trả tiền rượu cho mọi người ở đây nào. Móc trong túi áo khoác ra một gói vàng bụi nặng trịch, anh đặt nó vào số lớn. - Tớ đặt năm mươi đô-la trị giá bằng vàng bụi đây! - anh nói. Nhà cái bàn faro chia hai lá. Số lớn ăn. Nhà cái nguệch ngoạc số tiền thắng vào một mảnh giấy trong lúc người chung tiền cân một dúm vàng bụi tương đương với năm mươi đô là rồi trút nó vào bao của Ánh Sáng Ban Ngày. Lúc này điệu luân vũ đã chấm dứt. Ba cặp nhảy lúc nãy cùng với anh chàng nhạc công kéo vĩ cầm và anh chàng nhạc công chơi dương cầm theo nhau bước ra khỏi phòng rượu đúng lúc Ánh Sáng Ban Ngày quay lại và nhìn thấy họ. - Lại đây uống nào, mấy ông bạn, - anh ta kêu lên, - lại đây uống nào, và muốn kêu gì thì kêu. Ðêm nay là đêm của tớ, không phải lúc nào cũng có được Lại. đây uống nào, máy ông bạn cố tri, tớ nói thật đấy, vì đêm nay chính là đêm của tớ. - Một đêm chó đẻ - Charley Bates nói xen vào. - Ðúng đấy, con ạ - Ánh Sáng Ban Ngày vẫn cứ vui như không, - Một đêm chó đẻ, nhưng nó là đêm của ta, bởi vì ta là con sói đực già. Nghe ta tru đây này. Và anh cất tiếng tru thật to giống hệt như một con sói rừng xám cô độc đến nỗi Mộng Trinh phát run lên vội đưa hai ngón tay nút chặt lấy tai. Ngay lập tức Ánh Sáng Ban Ngày bế bổng nàng lên đưa vào sàn nhảy. Ba cặp nhảy lúc nãy cũng theo họ vào, rồi tất cả cùng quay cuồng theo điệu vũ xoay tròn ầm ĩ, của vùng Virginia. Ánh Sáng Ban Ngày là trung tâm của sự náo nhiệt ấy, là ngọn lửa hừng hực, đến đâu là châm chọc, cười đùa ầm ĩ đến đó, nên giúp họ thoát khỏi cái vùng lầy ủ ê đã dìm họ trước khi anh đến. Rất ít người biết rằng Ánh Sáng Ban Ngày tên thật là Elam Harnish, bởi lẽ ngay từ những ngày đầu tiên đi mở đất, người ta đã gọi anh bằng biệt hiệu đó vì thấy anh có thói quen vừa lôi bạn bè mình ra khỏi chăn êm nệm ấm vừa làu bàu là trời đã sáng bét ra rồi. Trong số những người tiên phong tiến vào vùng đất hoang ở vùng Bắc Cực xa xôi này thì anh được liệt vào hạng cố cựu nhất. Mặc dù cũng có những người đã đến vùng đất này sớm hơn anh như Ai May hoặc Jack Mc Question chẳng hạn, nhưng thường thì họ đến đây từ vùng Vịnh Hudson về phía đông băng ngang qua rặng Thạch Sơn. Còn anh đã dám vượt qua vùng đèo Chilcoot và Chilcat. Vào mùa xuân năm 1883, cách đây mười hai năm, dù lúc đó mới chỉ có mười tám tuổi anh đã cùng với năm người bạn của mình vượt qua đèo Chilcoot. Ðến mùa thu thì anh trở về, năm người bạn trước kia nay chỉ còn có một. Bốn người kia đã bỏ mạng trong cái bất trắc của vùng đất bát ngát lạnh lẽo chưa được ghi lên bản đồ ấy. Từ đó cho đến suốt mười hai năm sau, Elam Harnish vẫn tiếp tục mò mẫm tìm vàng trong cảnh tối tăm của vùng Bắc Cực. Thật chưa có ai mò mẫm tìm vàng một cách kiên trì và bướng bỉnh như anh. Anh đã lớn lên với vùng đất này và chẳng biết đến vùng đất nào khác nữa. Ðối với anh, nền văn minh cũng chỉ giống như một giấc mơ đã qua lâu lắm rồi, và những trại Bốn Mươi Dặm hoặc trại thị trấn Vùng Cực thực sự là những đô thị lớn. Không phải anh chỉ lớn lên với vùng đất này mà thôi, mà còn giúp xây dựng nó nữa, dù rằng hiện giờ nó cũng vẫn còn hoang sơ lắm. Anh đã tạo nên lịch sử và địa dư của vùng đất; những kẻ đến sau anh chỉ cần viết về những chuyến đi của anh và vẽ lại những con đường mòn mà chính chân anh đã vạch ra là đủ. Thường thì anh hùng ít sùng bái anh hùng, vậy mà những con người sinh sống ở vùng đất mới này vẫn xem anh là một anh hùng già dặn, mặc dù anh vẫn còn rất trẻ. Về thời gian, anh đã đến đây trước họ. Về công việc, anh đã làm nhiều hơn họ. Về sức dẻo dai bền bỉ, mọi người đều công nhận là anh có thể giết chết được cả những tay sừng sỏ nhất. Hơn nữa, họ còn coi anh như một kẻ táo gan, ngay thẳng và thuộc giống người da trắng. Ở bất cứ vùng đất nào mà cuộc đời chỉ là một trò may rủi không đáng bận tâm thì con người thường tự nhiên quay sang cờ bạc để tiêu khiển và nghỉ ngơi. Ở dọc sông Yukon, bọn đàn ông đặt cả cuộc đời họ vào canh bạc ăn vàng. Rồi những ai lấy được vàng từ lòng đất lại đem vàng ra đánh bạc với nhau. Elam Harnish cũng không phải là một ngoại lệ bởi vì anh đáng mặt đàn ông nhất trong bọn đàn ông, và trong người anh, cái bản năng thôi thúc chơi canh bạc của cuộc đời rất mạnh mẽ. Chính môi trường sống của anh đã quyết định hình thức của canh bạc ấy. Anh sinh ra trong một nông trại ở Iowa, sau theo bố di cư đến Ðông Oregon và sống suốt qua ng đời niên thiếu ở cái vùng mà người ta kéo tới tìm vàng đó. Bởi vậy, anh đã chẳng học được gì ngoài cách chịu đấm ăn xôi. Trong canh bạc này dĩ nhiên lòng can đảm và sức bền bỉ là cần thiết, nhưng các con bài lại do Thần Số Mệnh chia. Cứ từ tốn mà đánh thì cũng kiếm được chút đỉnh, nhưng chút đỉnh thì lại chẳng bỏ công. Bởi vậy người ta thường đánh lớn. Elam Harnish thích đánh tất cả để có thể thắng được tất cả và một khi đã không thắng được tất cả thì dù có thắng lớn đến đâu chăng nữa anh cũng vẫn tự coi mình là người thua cuộc. Trong suốt mười hai năm đào vàng vừa qua trên vùng Sông Yukon, Elam Harnish tự coi mình là người thất bại. Thật ra chỉ mới mùa hè trước đây thôi, ở Lạch Da Hươu anh đã đào được hai mươi ngàn đô-la, chưa kể con số tương đương như vậy vẫn còn nằm trong lòng đất. Nhưng anh như anh đã tuyên bố, đó cũng chỉ như gỡ lại tiền đặt cuộc trước mà thôi. Anh đã đặt cuộc cuộc đời mình trong mười hai năm trời, và cái số bốn mươi ngàn đô-la vừa gỡ được đó chẳng đủ để đền bù. Nó chỉ đủ để trả một chầu nhậu và nhảy nhót ở quán Tivoli, vi rút chút đỉnh cho qua mùa đông ở trại thị trấn Vùng Cực và mua lương thực dự trữ cho năm tới là sạch bách. Sau khi điệu vũ xoay tròn chấm dứt, Elam Harnish lại hò hét mời mọi người ra uống rượu. Cứ mỗi ly rượu là một đô-la. Một ounce(4) vàng đổi được mươi sáu đô-la. Trong phòng có ba chục người tất cả đều nhận lời mời uống rượu của Elam Harnish, và cứ sau một bản nhạc họ lại được mời uống. Ðêm nay là đêm của anh, nên anh không cho phép ai trả tiền cho bất kỳ món gì. Thật ra Elam Harnish không phải là một kẻ ưa rượu. Ðối với anh Whisky chẳng có ý nghĩa gì cả. Anh quá mạnh mẽ, quá tràn trề sinh lực; con người anh, trí óc anh hoàn toàn không có tâm sự nặng nề gì để buộc anh phải trở thành con sâu rượu. Anh có thể đi cả năm trời không uống một giọt cà phê rồi đấy. Chỉ có điều là anh thích sống hợp quần, mà ở khu vực sông Yukon cách duy nhất để biểu lộ tính hợp quần của mình là kéo nhau vào quán uống rượu, nên Elam Harnish cũng đành phải làm như vậy. Ngay từ khi anh còn là một thanh niên sống ở các vùng mỏ vàng miền Tây, người ta đã làm như thế, nên bây giờ anh cho đó là cách đúng đắn nhất để thể hiện tính hợp quần của mình. Thật ra ngoài cách đó anh chẳng còn biết cách nào nữa cả. Dù quần áo cũng chẳng có gì khác với những người chung quanh, trông anh vẫn nổi bật hẳn lên. Chân đi giày da hươu mềm có đính hạt theo kiểu thổ dân, quần yếm bình thường, áo khoác may bằng vỏ chăn. Anh đeo găng tay da dài hở ngón trong có lót len, và bên hông lủng lẳng một đai da quàng qua eo và vài theo kiểu dân miền sông Yukon. Ðầu đội nón lông thú, vành nón cuộn lên để hở những dây cột nón lòng thòng. Gương mặt xương xương, hơi dài, má hóp làm lưỡng quyền nhô hẳn lên trông giống gương mặt của thổ dân trong vùng. Người ta lại càng có lên tưởng ấy khi nhìn vào làn da cháy nắng và đôi mắt đen láy tinh tường của anh, mặc dù rõ ràng là cái màu da đồng ấy và đôi mắt ấy chỉ người da trắng mới có. Anh trông già hơn tuổi ba mươi. Thế nhưng nếu anh không có những vết nhăn và cạo râu sạch sẽ thì trông anh không có những vết nhăn và cạo râu sạch sẽ thì trông anh lại rất "trẻ con". Bởi vậy, nếu chỉ căn cứ vào nét mặt mà thôi thì khó có thể nói được tại sao trông anh lại già trước tuổi như vậy. Thực ra cái vẻ già trước tuổi như vậy. Thực ra cái vẻ già trước tuổi ấy toát ra từ toàn bộ con người anh. Từ những điều anh đã phải chu đựng để sinh tồn, và nó vượt quá sức chịu đựng của một con người. Anh đã sống một cuộc đời trần trụi và mã anh liệt, và người ta có thể thấy được phần nào cái cuộc đời ấy âm ỉ trong cặp mắt, vang lên trong giọng nói hoặc như thủ thỉ thốt lên từ đôi môi anh. Mà môi anh thì mỏng, lúc nào cũng mím chặt che khuất hàm răng trắng đều. Tuy nhiên đôi môi trông cũng đỡ khe khắt hơn nhờ ở hai bên mép cong lên làm cho chúng có một vẻ dịu dàng, cũng giống hệt như những nếp nhăn ở hai bên khoé mắt đã làm cho khuôn mặt anh lúc nào trông cũng có vẻ như đang cười cợt. Những nét duyên dáng ấy đã giúp anh thoát được vẻ cay độc, kết quả tất yếu của một đời sống man dã. Mũi anh gầy, cánh mũi nở thanh trông rất hợp với khuôn mặt. Trán anh hẹp nhưng cao và đều đặn. Mái tóc anh cũng giống như tóc thổ dân, bởi vì nó thẳng và đen nhánh, óng ánh cái màu tóc mà chỉ những con người khó mạnh mới có được. - Ánh Sáng Ban Ngày bộ tính đốt sáng cả đêm nay chắc? - McDonald nói rồi cười to giữa những tiếng la ó hò reo của đám người đang nhảy nhót. Olaf Henderson nói thêm: - Mà nó cũng dám làm như thế đấy, Louis nhỉ? Nói có chúa, chắc chắn là nó làm như thế đấy - French Louis đáp - Ðúng là một cậu con trai làm bằng vàng ròng. McDonald nói chen vào: - Rồi khi đến Ngày Ðãi Vàng cuối cùng, lúc Ðức chúa Trời xúc một xẻng cát bỏ vào trong nồi đãi, hẳn là sẽ thấy có cả nó lẫn ở trong ấy đấy. - Nói nghe hay lắm - Olaf Henderson vừa lẩm bẩm vừa nhìn tay chủ sòng bài một cách thán phục… - Ừ, hay thật - French Louis cũng khẳng định - cũng xứng đáng để chúng ta uống mừng một ly, phải không. ... Mời các bạn đón đọc Từ Bỏ Thế Giới Vàng của tác giả Jack London.
Quê Hương Tan Rã - Chinua Achebe
Được xuất bản lần đầu cách nay hơn nửa thế kỷ (1958), “Quê hương tan rã” được dịch ra nhiều thứ tiếng và được đánh giá là tiểu thuyết thể hiện sâu sắc sự lụi tàn của nền văn hóa truyền thống châu Phi trước sức công phá của những thế lực văn minh hiện đại - mà cụ thể là sự xâm lấn của thực dân phương Tây hồi cuối thế kỷ XIX. Tác giả đã chọn chương 13 - con số rủi ro theo quan niệm của người phương Tây - để kết thúc những mô tả về những bản sắc văn hóa của bộ tộc Ibo rồi sau đó bắt đầu kể về những mất mát khôn lường mà bộ tộc ấy phải gánh chịu kể từ khi người da trắng dùng phương tiện tôn giáo như là những bước dò dẫm đầu tiên trên hành trình đô hộ.   Nội dung chương 13 ấy kể: Do một lỗi không cố ý, Okonkwo, nhân vật chính được tác giả dựng lên như một biểu tượng cho tính cách con người ở lục địa đen, theo luật tục, đã phải rời bỏ quê nhà đi lánh nạn. Bảy năm sau, khi được trở về, Okonkwo đau đớn nhận ra hình ảnh quê hương bản quán mà từ lâu mình đau đáu đã không còn nguyên vẹn như xưa: người da trắng đã đem tín ngưỡng và luật pháp của họ áp đặt lên mảnh đất Ibo thiêng liêng và lôi cuốn những người đồng hương, trong đó có đứa con đầu của Okonkwo, báng bổ lại những điều mà bộ tộc ông hằng tin tưởng. Thiên truyện kết thúc bằng cái chết treo cổ của nhân vật chính sau khi giết một tên lính người Anh. Cái chết tất yếu bởi Okonkwo nhận ra không thể lôi cuốn được đồng bào mình cùng đứng lên cứu lấy quê hương đang trên đà tan rã. Bằng bút pháp giản dị mà sống động, Chinua Achebe đã dẫn dắt người đọc đến tận cội nguồn bản sắc văn hóa châu Phi qua những chi tiết về phong tục hết sức đặc trưng: chuyện đám cưới, đám tang; chuyện vợ chồng, chuyện sinh nở, bệnh tật; chuyện cầu cúng, kiêng kỵ…  Trong mỗi câu chuyện ấy, người đọc nhận ra một tính cách cộng đồng mạnh mẽ, một cách sống đậm nét nhân văn, một đời sống tín ngưỡng mà trong đó thế giới thần linh trở thành mối dây liên hệ thiêng liêng cố kết con người Ibo, giúp họ vượt qua bao khắc nghiệt của thiên nhiên để tồn tại và bảo vệ các giá trị tinh thần được cả cộng đồng công nhận. Không mô tả bằng định kiến và đầy cảm tính như nhiều tác giả viết về đề tài thực dân ở châu Phi, “Quê hương tan rã” đã thể hiện một cách lý giải khách quan và hết sức công bằng của Chinua Achebe về quá trình lụi tàn của những nền văn hóa các bộ tộc Phi châu trước sự thâm nhập vừa cưỡng bức vừa tinh vi của người phương Tây trên bước đường chinh phục thuộc địa. Qua những trang viết ấy của ông, bạn đọc của các nước từng sống trong hoàn cảnh thuộc địa như các xứ châu Phi càng thêm thấm thía. Đời sống người châu Phi hôm nay chắc chắn khác rất nhiều thời của nhân vật Okonkwo; nhưng, trên một vài phương diện nào đó, những bài học xung đột mà Chinua Achebe mô tả vẫn còn nguyên tính thời sự. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà những người dịch tác phẩm này (Nguyễn Hiến Lê và Hoài Khanh) đã giới thiệu như sau trong lời Tựa “… tác phẩm giúp ta hiểu về châu Phi hơn các bộ sách nghiên cứu về châu đó”. *** Cho tới cuối Thế chiến vừa rồi, nhờ những hình trong các sách giáo khoa về địa lý, nhờ các phim chiếu trên màn ảnh và nhờ ít cuốn du ký hay thám ký, chúng ta có được một số ấn tượng rõ rệt về châu Phi Da Đen: cảnh rừng già âm u, cảnh đồng cỏ mênh mông với sư tử, tê ngưu, cá sấu, với những cây baobab khổng lồ cả chục người ôm, những thổ dân đen bóng như than mỏ Hồng Gai bị chứng bụng ỏng hoặc da voi, những cuộc săn đầu người rùng rợn, những cuộc vũ ngoáy mông trong tiếng trống thùng thùng trước một dãy chòi như hình nón úp, những ông thực dân da trắng đội nón “cát” đi “ghệt”, nghễu nghện trên lưng lạc đà hoặc voi, phía sau là một đoàn dài nô lệ da đen khiêng các rương hành lý và các thùng quân nhu, đạn dược... Chúng ta thỏa mãn về những ấn tượng đó, tự cho là có ý niệm đúng về châu Phi Da Đen rồi, chẳng cần tìm hiểu tâm lý, phong tục thổ dân ra sao, tin chắc rằng họ không có một nền văn minh, chỉ là một giống người “ở ngoài lề”, không đáng cho mình quan tâm tới. Vì tình nhân loại, chúng ta coi họ là những con người, chứ không phải là người như chúng ta, mặc dầu ta với họ đều ở trong một hoàn cảnh như nhau: dưới ách thực dân da trắng. Lỗi đó không về ta, mà về thực dân: chính họ chiếm đất của người da đen, bóc lột dân da đen mà khinh bỉ người da đen, không tìm hiểu người da đen. Chúng ta học lại họ, nên cũng ngu xuẩn như họ. Nhưng hai chục năm nay, từ khi các dân tộc châu Phi lần lần được giải phóng - mới gần hết chứ chưa hết - thì tình cảnh đảo ngược lại. Không kể các chính khách hoạt động luôn luôn vị lợi, chúng ta đã thấy nhiều học giả Âu, Mỹ nghiên cứu về các dân tộc Da Đen như G. Balandier, G. Padmore, Mannoni, Jean-Paul Sartre, nhất là W. E. B. Du Bois, tác giả cuốn Âmes noires đã được tái bản lần thứ hai mươi lăm... Các nhà đó đều nhận rằng có một nền văn minh da đen độc đáo, một thời đã rực rỡ, thời đó cách đây bốn ngàn năm miền Sahara còn phì nhiêu, xanh tốt, chưa thành một sa mạc - mà trước kia người phương Tây không biết; và người da đen chỉ khác chúng ta ở màu da chứ tâm lý và trí tuệ cũng như chúng ta, không thể bảo họ là một giống người thấp kém được. Đồng thời, từ khi được độc lập, không bị thực dân áp chế, cấm đoán nữa, vô số học giả, văn nhân, thi sĩ da đen, viết về văn minh, phong tục, đời sống của họ, cất lên tiếng kêu ai oán để khóc những đau khổ, tủi nhục cùng hi vọng của họ như T. Olawale Elias, Engelbert, Mveng, Dominique Traoré, Amas Tutuola, Mongo Beti, Léopold Séder Sanghor, Aimé Cesaire (tác giả tập thơ Return to my Native land, rất nổi danh), C. A. Diop (tác giả các cuốn l Unite culturelle de l Afrique noire, Nations negrest et culture), và Chinua Achebe mà hôm nay chúng tôi xin giới thiệu với độc giả. Achebe sinh năm 1930 ở Ogidi, một làng lớn miền Tây Phi, xa biển và cách con sông Niger khoảng sáu bảy cây số. Tổ tiên ông thuộc bộ lạc Ibo sống trên vùng hạ lưu sông Niger. Khi những nhà truyền giáo Anh bắt đầu tới trong miền (khoảng 1870) thì ông nội ông niềm nở đón tiếp họ, cho một người con trai theo học họ, người con này năm 1904 thành một trong những nhà giáo Ibo đầu tiên, kết hôn với một thiếu nữ gia đình thợ rèn - nghề này rất được dân chúng trọng vì tin rằng có bùa phép - và sanh ra Chinua Achebe. Achebe học ở trường Trung học Umuahia, sau lên đại học Ibadan, là một trong những người đầu tiên lập thân từ đại học này. Năm 1924 ông làm ở đài Phát thanh Nigeria, tám năm sau lên chức Giám đốc. Vừa làm việc ông vừa viết tiểu thuyết, viết khá mạnh: cuốn đầu tay Things fall apart (Quê hương tan rã) xuất bản năm 1958, hai năm sau ra cuốn No longer at ease (Không còn được yên ổn nữa), tiếp theo là cuốn Arrow of God (Mũi tên của Thượng đế). Ông thành công ngay từ bước đầu: Quê hương tan rã được các nhà phê bình Phi, Âu, và Mỹ hoan nghênh nhiệt liệt, coi là tiểu thuyết phong phú nhất, chính xác nhất, bố cục khéo léo nhất, mà bình tĩnh nhất của một người Phi châu viết về Phi châu Da Đen từ sau thế chiến tới nay. Tác phẩm đã được dịch ra các tiếng Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Đức, bán được nửa triệu bản và hiện nay được dùng trong nhiều trường dạy Anh ngữ ở châu Phi, như một tác phẩm cổ điển vậy. Người ta khen ông nhất là mới hai mươi tám tuổi mà đã có một bút pháp già dặn, có tinh thần khách quan, công bình, tưởng tượng dồi dào mà vẫn trọng sự thực, chỉ vẽ lại đúng xã hội Ibo ở hậu bán thế kỷ trước, khi người da trắng chưa tới rồi bắt đầu tới, không vì óc bài ngoại, tự ái mà đề cao đồng bào mình, mạt sát người da trắng, nhờ vậy tác phẩm có giá trị rất lớn về phương diện nghệ thuật và tài liệu. Ông không giảng giải, thuyết phục cũng không mạt sát nữa mà chúng ta vẫn thấm thía cái bi kịch của một dân tộc chất phác bị một tụi thực dân quỷ quyệt lừa gạt, chà đạp, bóc lột, làm cho nòi giống chia rẽ, quê hương tan nát, bi kịch đó là bi kịch chung của người da đen, da vàng thế kỷ trước, và tuy nói là đã chấm dứt sau thế chiến vừa rồi mà sự thực hiện vẫn còn kéo dài dưới một hình thức mới mẻ hơn, và cũng thâm hiểm hơn. Cho nên đọc tác phẩm, người Việt chúng ta không thể nào không liên tưởng tới thời bọn truyền giáo, thương nhân và quân đội Pháp xâm nhập nước ta dưới triều Nguyễn. Truyện kể lại đời một anh hùng Obi tên là Okonkwo, vì thâm oán cảnh bần cùng do người cha vô tài, nhu nhược gây nên, mà can đảm, cương quyết tự lập thân, sau nhiều năm chiến đấu gay go, tạo được sự nghiệp và danh vọng trong thị tộc, rồi chẳng may vô ý phạm một tội nặng, phải bỏ cả nhà cửa, ruộng đất, dắt vợ con qua ở nhờ bên nhà ngoại bảy năm. Nhờ được một người bạn thân và bà con bên ngoại giúp, ông ta tính hết hạn bị lưu đày, sẽ trở về quê cha gây dựng lại dinh cơ đồ sộ hơn trước nữa, nhưng ông đã thất vọng chua chát vì trong bảy năm đó quê hương ông đã thay đổi hẳn: người da trắng đã tới. Mới đầu chỉ là một vài nhà truyền giáo. Dân trong làng cho đạo Ki Tô là kì cục, nhưng không kì thị màu da, cũng không kì thị tôn giáo, mà còn khoan dung và hiếu khách, cho họ cất giáo đường và thuyết giáo, không hề ngăn cấm con em theo đạo. Nhưng ngoài giáo đường ra, người Anh còn lập một chính phủ nữa, dựng một tòa án, đem lính tráng, súng ống lại để xử tội người da đen theo luật da trắng. Rồi họ mở các tiệm buôn, vơ vét các sản phẩm địa phương, sau cùng cất dưỡng đường và trường học để dụ dỗ dân làng. Dân Ibo theo mỗi ngày một đông, mới đầu là những kẻ nghèo nàn đê tiện, sau đó cả một số người khá giả, có chức vị trong làng. Đau đớn cho Okonkwo là đứa con trai lớn của ông Nwoye, là một trong những kẻ đầu tiên theo tôn giáo mới, từ bỏ cha mình. Thế là có sự chia rẽ trầm trọng trong gia đình và bộ lạc Ibo. Okonkwo vốn là một chiến sĩ, có tinh thần dân tộc, trọng cổ tục, thấy nguy cơ tan rã của quê hương, muốn hô hào mọi người chống lại người Anh, nhưng ngay người bạn thân nhất của ông, Obierika cũng thấy là vô vọng, thở dài bảo ông: “Anh nghĩ coi, làm sao chúng ta có thể chiến đấu được khi mà chính anh em chúng ta cũng chống lại chúng ta? Thằng da trắng quỷ quyệt lắm. Nó lặng lẽ, ôn hòa đem tôn giáo của nó lại đây. Chúng ta (...) cho phép nó ở. Bây giờ nó đã chinh phục được anh em của chúng ta và thị tộc không còn đoàn kết như một người để hành động nữa. Nó đã cắt những dây kết chặt chúng ta với nhau và chúng ta đã tan rã.” Sau vì có tinh thần hiệp sĩ mà chất phác, Okonkwo và năm hào mục khác trong làng bị tên Ủy viên Anh lừa gạt: trong khi hai bên thương thuyết, hắn dùng một tụi tay sai da đen đập bọn Okonkwo, nhốt khám, cạo trọc đầu, làm nhục, bắt phải nộp tiền chuộc mạng. Được thả ra, Okonkwo uất quá, nhất định tự mình trả thù: ông chặt đầu tên sếp Kotma (tức mã tà) Anh, thấy dân chúng, bà con, anh em của ông sợ sệt, không dám cùng ông nổi dậy đánh đuổi người da trắng, ông tự treo cổ lên cây, tự nhận một cái chết mà người Obi cho là ghê tởm, ai oán nhất. Truyệt kết thúc ở đó. Thế là một bộ lạc nổi tiếng là hào hùng chỉ vì bị ngoại nhân chia rẽ mà phải khuất phục; một nền văn minh vững bền hằng bao thế kỷ, có những cổ tục rất đẹp (tình cha con, tình vợ chồng, tình họ hàng, tình bạn bè rất thắm thiết) bị tiêu diệt; một xã hội tổ chức chặt chẽ, đoàn kết mà có trật tự, chỉ trong có mươi năm sụp đổ tan tành! Tác giả chép lại sự biến chuyển đó một cách trung thực, không hề thốt một lời phê bình hay than thở mà làm cho chúng ta lúc thì bùi ngùi, lúc thì căm phẫn. Ở Phi hay ở Á, thời xưa cũng như thời nay, chính sách thực dân bao giờ cũng vậy: đem lợi để nhử, dùng thuật chia rẽ để dễ trị, và chính vì có những kẻ bán nước nên nước mới mất. Truyện đọc rất hấp dẫn vì tác giả tả nhiều phong tục lạ châu Phi, có những tục chúng ta cho là quái đản mà chắc hiện nay cũng đã gần mất rồi. Vì vậy có nhà phê bình cho rằng tác phẩm giúp ta hiểu châu Phi hơn các bộ nghiên cứu về châu đó. Riêng chúng tôi thấy chương XXI tả một người vợ của Okonkwo suốt đêm lén theo một bà cốt đã bắt đứa con gái độc nhất của mình, đáng coi là bất hủ trong văn học châu Phi: sức tưởng tượng của tác giả thật phong phú: không khí tác giả gây nên thật lạnh lẽo, rùng rợn; mà phần nhân bản cũng rất đẹp: tình mẹ con, tình vợ chồng, cả tình của bà cốt đối với đứa bé thật cảm động. Để giữ mãi màu sắc địa phương, chúng tôi đã lựa chọn giải pháp là trực dịch, sát chừng nào hay chừng nấy, nhất là trong các đoạn đối thoại, vì hễ thay đổi lời nói thì phong tục, tín ngưỡng cũng thay đổi. Trong truyện dùng nhiều danh từ Ibo, in ngả, mà bản tiếng Anh và tiếng Pháp đều không chú thích. Chúng tôi đoán nghĩa - có thể nhiều nghĩa đoán không đúng lắm - rồi gom lại thành một bản ở cuối sách để giúp độc giả dễ tra mỗi khi thấy bỡ ngỡ. Sài Gòn, ngày 15 tháng Bảy năm 1970 Mời các bạn đón đọc Quê Hương Tan Rã của tác giả Chinua Achebe.