Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vật Lý Thiên Văn Cho Người Vội Vã

“Neil deGrasse Tyson đã tạo ra một Big Bang với Vật lý thiên văn cho người vội vã.” -Vanity Fair Bởi ngay trong tuần phát hành đầu tiên, cuốn sách khoa học đã chiếm luôn vị trí số 1 trong bảng xếp hạng sách bán chạy của The New York Times, rồi hiên ngang trụ lại trong bảng xếp hạng này suốt 20 tuần liên tục. Một tác phẩm thông minh dí dỏm và dễ đọc, có thể cuốn hút cả những người bận rộn nhất, giúp họ chỉ tranh thủ những phút rảnh rỗi mà có được lượng kiến thức khổng lồ, thú vị về thế giới vật lý thiên văn: từ Big Bang cho đến vật chất tối, năng lượng tối; từ hệ mặt trời tới những khám phá không gian liên hành tinh; từ lý thuyết nền tảng của Einstein tới những kịch bản về tương lai vũ trụ… *** Gần đây, chưa tuần nào trôi qua mà báo chí không đăng tin về một phát kiến đáng lên trang nhất liên quan đến vũ trụ. Có thể những người gác cổng truyền thông ngày một hứng thú với vũ trụ, song mức độ phủ sóng gia tăng này dường như bắt nguồn từ sự mến chuộng của công chúng dành cho khoa học ngày càng tinh tế. Đầy rẫy những bằng chứng cho thấy điều này, từ cách chương trình truyền hình ăn khách lấy cảm hứng, thông tin từ khoa học, cho đến thành công của các phim khoa học viễn tưởng với sự tham gia của dàn diễn viên sáng giá, được nhà sản xuất và đạo diễn trứ danh đưa lên màn ảnh. Và gần đây, phim tiểu sử chiếu rạp kể về các nhà khoa học tầm cỡ dường như tự nó đã trở thành một thể loại riêng. Khắp thế giới còn có sự quan tâm phổ biến dành cho các liên hoan khoa học, ngày hội khoa học viễn tưởng, và các phim tài liệu khoa học trên truyền hình. Bộ phim đạt doanh thu cao nhất mọi thời đại được một đạo diễn nổi tiếng đặt bối cảnh câu chuyện ở một hành tinh nọ quay quanh một ngôi sao xa xăm. Trong phim một nữ diễn viên nổi tiếng đóng vai nhà sinh học thiên văn. Dù mọi nhánh khoa học đều đã vươn cao trong thời đại này, lĩnh vực vật lý thiên văn lại bền bỉ vươn đến hang cao nhất. Tôi nghĩ tôi hiểu tại sao. Vào lúc này hay lúc khác, mỗi người trong chúng ta hẳn đã nhìn lên bầu trời đêm và tự hỏi : Tất cả mọi thứ có nghĩa gì? Làm sao mọi thứ vận hành? Và, đâu là vị trí của chúng ta trong vũ trụ này? Nếu bạn quá bận rộn không thể tiếp thu các kiến thức vũ trụ qua các lớp học, sách giáo khoa, hay phim tài liệu, nhưng bạn vẫn muốn tìm một con đường dẫn nhập ngắn nhưng đầy đủ ý nghĩa vào lĩnh vực này, tôi xin gửi đến bạn cuốn Vật lý thiên văn cho người vội vã. Trong cuốn sách mỏng này, bạn sẽ thông suốt ở mức độ cơ bản mọi tư tưởng và phát kiến lớn đã thúc đẩy hiểu biết hiện đại của chúng ta về vũ trụ. Nếu tôi thành công, bạn sẽ thân quen với kiến thức trong lĩnh vực của tôi, và có thể sẽ còn khao khát muốn biết nhiều hơn nữa. Vũ trụ không có nghĩa vụ phải có nghĩa lý với bạn. Neil deGrasse Tyson *** CÂU CHUYỆN VĨ ĐẠI NHẤT TỪNG ĐƯỢC KỂ Thế giới đã tồn tại biết bao năm dài, kể từ sau một lần được sắp đặt để đi theo những chuyển động thích hợp. Mọi thứ khác đều nối gót theo sau. Lucretius, khoảng năm 50 TCN Lúc khởi đầu, gần mười bốn tỉ năm về trước, tất cả không gian, tất cả vật chất, toàn bộ năng lượng của vũ trụ mà ta biết đều được chất chứa trong một thể tích nhỏ hơn một phần nghìn tỉ kích cỡ của dấu chấm cuối câu văn này. Các điều kiện bấy giờ quá nóng, đến nỗi các lực cơ bản của tự nhiên vốn cùng miêu tả vũ trụ đã bị thống nhất thành một. Vũ trụ ra đời thế nào ta còn chưa biết, song cái vũ trụ nhỏ hơn cả đầu kim này chỉ có thể giãn nở mà thôi. Cực kỳ nhanh. Mà ngày nay ta gọi là vụ nổ lớn. Thuyết tương đối tổng quát do Einstein đề ra năm 1916 cho ta cách hiểu hiện nay về lực hấp dẫn, theo đó sự hiện diện của vật chất và năng lượng làm cong kết cấu không gian và thời gian xung quanh nó. Cuộc hôn phối thành công giữa cơ học lượng tử và điện từ học thế kỷ 20, phần nào, đã thúc đẩy cả nhà vật lý học đua nhau hòa trộn cơ học lượng tử (thuyết về cái cực nhỏ) với thuyết tương đối tổng quát (thuyết về cái cực lớn) thành một thuyết chặt chẽ và mạch lạc là thuyết hấp dẫn lượng tử. Mặc dù vẫn chưa chạm đích, chúng ta biết chính xác nơi nào có rào cản. Một trong số đó là “kỷ nguyên Planck” của vũ trụ sơ khai. Đấy là khoảng thời gian t = 0 cho đến t = 10-43 giây (một phần mười triệu ngàn-tỉ ngàn-tỉ ngàn-tỉ của một giây) sau lúc khởi đầu, và trước khi vũ trụ nở rộng đến 10-35 mét (một phần một trăm triệu tỉ ngàn-tỉ ngàn-tỉ của một mét). Các con số nhỏ không tưởng nỗi này được đặt theo tên nhà vật lý học người Đức, Max Planck, ông cũng là người đã giới thiệu ý tưởng về năng lượng bị lượng tử hóa vào năm 1900 và thường được ghi nhận là cha đẻ của cơ học lượng tử. Sự va chạm giữa trường hấp dẫn và cơ học lượng tử không gây nên vấn đề thực tiễn nào đối với vũ trụ đương đại. Các nhà vật lý thiên văn áp dụng nguyên lý, công cụ của thuyết tương đối tổng quát và của cơ học lượng tử để giải quyết các loại vấn đề rất khác nhau. Nhưng vào thời điểm bắt đầu ấy, trong kỷ nguyên Planck, cái lớn vẫn còn rất nhỏ, nên ta ngờ rằng ắt hẳn đã có một kiểu đám cưới chạy bầu giữa đôi bên. Hỡi ôi, những lời nguyện thề được trao nhau trong hôn lễ vẫn tiếp tục lảng tránh chúng ta, thế cho nên chẳng định luật vật lý nào (mà ta biết) mô tả được hành vi của vũ trụ tại thời kỳ ấy với dù chỉ một chút tự tin. Dẫu vậy, chúng ta cho rằng đến cuối kỷ nguyên Planck, lực hấp dẫn đã vượt thoát khỏi các lực khác, các lực tự nhiên vẫn còn được thống nhất, rồi đạt được một căn cước độc lập đang được miêu tả khá ổn bởi các lý thuyết hiện hành của chúng ta. Khi vũ trụ trải qua 10-35 giây, nó tiếp tục giãn nở, làm loãng toàn bộ mật độ năng lượng, rồi phần còn lại của các lực thống nhất đó bị phân tách thành lực “điện yếu” [electroweak] và lực hạt nhân mạnh [strong nuclear]. Sau đó nữa, lực điện yếu tách thành lực điện từ và lực “hạt nhân yếu” [weak nuclear], từ đó phô bày bốn lực riêng biệt mà ngày nay chúng ta biết đến yêu mến: lực yếu kiểm soát sự phân rã phóng xạ, lực mạnh liên kết các hạt nhân nguyên tử, và lực hấp dẫn liên kết các khối vật chất. Một phần nghìn tỉ giây đã trôi qua kể từ lúc khởi đầu. Suốt thời gian này, có sự tương tác không ngừng của vật chất dưới dạng hạ nguyên tử và của năng lượng dưới dạng photon (hạt phi khối lượng tải năng lượng ánh sáng, vừa là sóng vừa là hạt). Vũ trụ đủ nóng cho các photon tự chuyển đổi năng lượng thành các cặp hạt vật chất-phản vật chất mà ngày tức khắc sẽ hủy lẫn nhau, trả năng lượng về lại photon. Những biến hóa khôn lường này được thâu tóm trong phương trình nổi tiếng nhất của Einstein: E = mc2, công thức hai chiều để tính năng lượng có giá trị bằng bao nhiêu vật chất và vật chất giá trị bằng bao nhiêu năng lượng. Phần c2 là bình phương tốc độ ánh sáng – một con số khổng lồ mà khi nhân thêm khối lượng sẽ nhắc nhở ta nhớ rằng hoạt động này thực chất có thể sinh ra biết bao nhiêu năng lượng. Ngay trước, trong và sau khi lực mạnh và lực điện yếu giã biệt nhau, vũ trụ là nồi lẩu sục sôi các hạt quark, lepton và các anh chị em phản vật chất của chúng, cùng với boson là hạt cho phép diễn ra tương tác. Không họ hạt nào ở đây được cho rằng có thể phân thành thứ gì nhỏ hơn hay cơ bản hơn, dù rằng mỗi họ xuất hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hạt photon thông thường là thành viên thuộc họ hạt boson. Các hạt lepton quen thuộc nhất đối với dân không phải chuyên ngành vật lý chính là hạt electron và có lẽ cả neutrino; còn hạt quark quen thuộc nhất là… chà, không có hạt quark quen thuộc nào cả. Mỗi hạt trong sáu tiểu loại của quark được gán cho những cái tên trừu tượng chẳng phục vụ mục đích bác ngữ học, triết học hay sư phạm gì, ngoài trừ việc để tiện phân biệt chúng với nhau, đó là: lên và xuống, duyên và lạ, đỉnh và đáy. Mời các bạn đón đọc Vật Lý Thiên Văn Cho Người Vội Vã của tác giả Neil DeGrasse Tyson & Hồ Hồng Đăng (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuyện Kể Năm 2000 - Bùi Ngọc Tấn
N hiều người hỏi tại sao người Việt Nam đã trải qua mấy chục năm chiến tranh mà chưa có tiểu thuyết lớn nào phản ảnh toàn cảnh một dân tộc trong cuộc chiến đằng đẵng tràn ngập khổ đau đó. Nhưng trong thế kỷ 20 ở Việt Nam còn một biến cố khác cũng có kích thước lớn, tác động sâu rộng và gây nhiều đau khổ không kém chiến tranh. Ðó là việc thiết lập một chế độ độc tài toàn trị ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1950 và trên cả nước từ năm. Chiến tranh đã gây những đổ vỡ vật chất, những máu lửa, chết chóc kinh hoàng; còn một chế độ công an bao trùm khắp mặt, chặt chẽ và tinh vi, cũng để lại những hậu quả xã hội và tinh thần lớn lao không kém, mà ảnh hưởng còn sâu đậm và lâu dài hơn chiến tranh nữa. Chiến tranh tác động trực tiếp đến từng nhóm người, từng địa phương, trong một thời gian giới hạn, và khi chiến tranh qua thì người ta sẵn sàng quên đi để trở lại tiếp tục cuộc sống hàng ngày của mình. Những ngôi nhà đổ vỡ sẽ được xây lại, những nấm mồ sẽ xanh cỏ, những chiếc xe tăng sẽ han rỉ, những hố bom rồi cũng được lấp đầỵ Nhưng một chế độ chính trị thay đổi, đảo lộn tất cả đất nước, tất cả nếp sống hàng ngày, khi làm việc, khi đi chợ, các món ăn, cách chặt thịt gà lén lút, cách “phân phối” một cây kim một cuốn chỉ trong làng, các ngõ ngách phải đi qua khi đi xin việc, cho đến cách suy nghĩ, cách nói năng thưa bẩm; chế độ đó buộc chặt mọi cá nhân, mọi gia đình, mọi con người vào một guồng máy chuyên chế, soi xét và điều chỉnh từng hành vi, cử chỉ, lời nói, thậm chí đến các giấc mơ thầm kín trong đầu người ta; ảnh hưởng của một chế độ như vậy lan tỏa khắp mọi làng xã, thành thị, trên giường ngủ, trên trang báo, và nó kéo dài rất lâu, người sống trong đó cảm thấy là bất tận, sống mãi trong đó những thứ bất thường trở thành bình thường, tự nhiên. Trong lịch sử Việt Nam chẳng mấy thời không bị cảnh chiến tranh, có khi liên miên mấy chục năm, dai dẳng hàng trăm năm, từ những lần phải chống ngoại xâm cho đến những cuộc nội chiến. Nhưng việc thi hành một chế độ độc tài và toàn trị kiểu Cộng sản thì mới xảy ra lần đầu, và hy vọng là lần duy nhất. Việc thiếp lập và duy trì một chế độ rập theo khuôn mẫu của Stalin ở Nga, lại được Mao Trạch Ðông cải biến cho phù hợp với xã hội Á Ðông, trong một hai thế hệ, có thể nói còn tác hại cho dân tộc Việt Nam một cách nặng nề và sâu xa hơn cả ba chục năm chiến tranh. Có lẽ vì vậy các nhà văn Việt Nam không viết nhiều về những đau khổ thời chiến tranh nhưng họ viết rất nhiều về tình trạng xã hội đảo lộn, tan rã trong chế độ Cộng sản. Và tất nhiên những nhà văn đã sống ở miền Bắc Việt Nam thì có nhiều kinh nghiệm và chịu nhiều thất vọng cay đắng hơn các nhà văn sống ở miền Nam. Những tác phẩm của Dương Thu Hương, Phùng Gia Lộc, Ngô Ngọc Bội, Nguyễn Khắc Trường, v.v. đã phản ảnh nhiều bộ mặt xã hội miền Bắc dưới chế độ Cộng sản. Những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay tiểu thuyết của Phạm Thị Hoài, kịch bản của Lưu Quang Vũ, v.v… cũng cho thấy các cảnh sống tàn bạo đến phi lý làm cho con người mất cả tính người, cái ác trùm lấp cái thiện, chiếm chỗ và đội lốt, nhân danh cái thiện ố tình trạng mà nhà thơ Nguyễn Duy gọi là “Thiện ác nhập nhằng ố công lý nổi lên phênh”. Hồi ký của Vũ Thư Hiên cũng có tính chất sáng tạo, nghệ thuật, vì diễn tả một con người bị bộ máy vô hồn đè bẹp trong lao tù như thế nào. Nhưng cho đến nay chưa có tác phẩm nào có tầm cỡ như “Chuyện Kể Năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn. *** B ùi Ngọc Tấn sinh năm 1934. Quê ông ở làng Câu Tử Ngoại, xã Hợp Thành, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Ông bắt đầu viết văn, viết báo từ 1954. Bùi Ngọc Tấn có sáng tác in ở các nhà xuất bản: Văn học, Lao động, Thanh niên, Phổ thông… khi mới ngoài hai mươi tuổi. Trước khi viết văn, ông là phóng viên báo Tiền Phong ở Hà Nội, viết với bút danh Tân Sắc. Sau đó, năm 1959, ông trở về quê và thành biên tập viên báo Hải Phòng Kiến. Để có thể nuôi gia đình 6 người, ông tập trung vào viết báo. Ông có mối quan hệ thân thiết với nhà văn Nguyên Hồng và Bí thư Thành ủy Hoàng Hữu Nhân, người quan tâm đến giới văn nghệ sĩ và đã giúp đỡ ông lúc khó khăn sau này. Bùi Ngọc Tấn từng bị tập trung cải tạo 5 năm (1968-1973) theo đài RFA về tội "Xét lại, chống Đảng", mà không được xét xử. Theo ông thì người hạ lệnh bắt ông, cũng như đuổi vợ ông khỏi trường Đại học trong thời gian ông bị cải tạo, ngăn chặn ông đi làm sau khi ra tù là giám đốc công an thành phố Hải Phòng Trần Đông. Khi bị bắt giữ, ông cũng bị tịch thu hơn nghìn trang bản thảo và sau này không được trả lại. Theo nhà văn Vũ Thư Hiên viết tưởng niệm ông Tấn, thì ông ta không dính líu gì đến chính trị, nhưng bị bắt chỉ vì chơi với ông Hồng Sĩ. Từ khi được xóa án, sau hai năm thất nghiệp, Bùi Ngọc Tấn được tổng cục trưởng Tổng cục Thuỷ sản Hoàng Hữu Nhân xếp vào làm nhân viên theo dõi thi đua khen thưởng ở Liên hiệp Xí nghiệp Đánh cá Hạ Long. Trong khoảng thời gian làm công việc này từ 1974 đến 1994, ông trở thành một "người ẩn dật" với văn chương, ngừng viết trong khoảng thời gian 20 năm này. Theo đài RFA, trong thời gian đó "ông không được phép viết lách gì, ngay cả nhật ký cũng thường xuyên bị công an văn hóa xét nhà, lục lọi tịch thu..." Ông trở lại với bạn đọc qua bài "Nguyên Hồng, thời đã mất" đăng trên tạp chí Cửa biển tại Hải Phòng năm 1993. Ngày 18/12/2014 ông mất tại nhà con trai mình (anh Bùi Ngọc Hiến) ở Hải Phòng sau một thời gian bị bệnh phổi nặng. Theo con trai ông, tang lễ được tổ chức vào ngày 20 tháng 12 năm 2014. Tác phẩm chính Mùa cưới Ngày và đêm trên Vịnh Bái Tử Long, phóng sự Đêm tháng 10 Người gác đèn cửa Nam Triệu, truyện ký Nhật ký xi măng Nhằm thẳng quân thù mà bắn Thuyền trưởng, truyện vừa, cuối thập niên 1970 (Ký tên Châu Hà) Nguyên Hồng, thời đã mất, 1993 Một thời để mất, hồi ký, 1995 Một ngày dài đằng đẵng, tập truyện ngắn Những người rách việc, tập truyện ngắn, 1996 Chuyện kể năm 2000, tiểu thuyết, 2000 Rừng xưa xanh lá, ký chân dung, 2004 Kiếp chó, tập truyện ngắn, 2007 Biển và chim bói cá, tiểu thuyết, 2008 Viết về bè bạn, ký, 2012 (In gộp Rừng xưa xanh lá, Một thời để mất và phụ lục) Mời các bạn đón đọc Chuyện Kể Năm 2000 của tác giả Bùi Ngọc Tấn.
24 Giờ Lên Đỉnh - Nguyễn Thị Anh Thư
Nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư, tác giả của cuốn tiểu thuyết 24 giờ lên đỉnh, Cháy đến giọt cuối cùng, các tập truyện ngắn: Vạn liên thanh cho Hải Quỳ, Không nhan sắc, Thiếu học phí làm người, Năm thằng cao kều, Hải tặc một mắt… Khi mới gặp chị, tôi hỏi: Có gì mới không, đang viết gì? Này em làm thơ nhé (rúc rích), em làm thơ, sợ không? Thư cười trả lời tôi, rồi bấm điện thoại đọc thơ. Tôi bảo, chao ôi Tết nhất tưng bừng ngoài kia, mà hai “mụ” ngồi đọc, ngồi nghe thơ. Thơ của một nhà văn từng đoạt giải truyện ngắn hay của Tạp chí Văn nghệ Quân đội lúc 27 tuổi năm 1986, làm thơ ý tứ tỉnh như “sáo sậu”, tôi nén nghe câu thơ: Đường trần mỗi ngày mỗi tối/ loáng thôi sắp hết kiếp người. Một năm ở Nhà xuất bản Hội Nhà văn, công việc Nguyễn Thị Anh Thư biên tập hàng trăm đầu sách, thơ, văn xuôi của các nhà văn và các tác giả chuyên nghiệp, không chuyên nghiệp. Chị là bà đỡ cho rất nhiều tên sách như người mẹ đỡ đầu đứa con tinh thần vậy. Ví dụ như tên một bài thơ của cố nhà thơ Đồng Đức Bốn mới đầu lấy tên là Tân Cương, chị góp ý nên đổi là Tìm em ở bến sông Mê, tập thơ của tác giả Trần Văn Lan có tên Nghiêng 23 độ đổi thành tên Sông Ba mùa nhan sắc, hay tác giả Nguyễn Hoàng Kim Oanh có tập thơ mới đầu định đặt tên là Hồn quê chị góp ý đổi tên Khi hồng nhan hát thánh ca. Hoặc cũng tác giả này khi lần đầu tiên đến nhà xuất bản, chưa biết nên đặt tên tập thơ của mình là gì, chị đã sửa câu thơ Ngũ hành năm ngón tay hoa thành Ngũ hành năm ngón tài hoa rồi đặt tên cho tập thơ thành Nhũ ngọc tài hoa. Tác giả Thế Dũng trong tác phẩm Bên dòng sông tình sử có kể lại việc chị đã tận tình biên tập tiểu thuyết Một nửa lá số của anh như thế nào. Anh đã viết rằng: “…Nhưng rốt cuộc chương 43 đã được biên tập viên của NXB đặt tên là Vĩ thanh. Tôi đã hơn 2 lần cảm ơn nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư vì điều này…”. Anh Thư đã từng thẳng thắn góp ý cho tác giả này bớt đi vài ba chương hoặc cắt đi vài trăm trang sách, để tác phẩm hay hơn, chặt chẽ hơn. Nhưng cũng có khi chị lại đề nghị tác giả khác viết thêm để tạo đất cho nhân vật sinh động, có hồn hơn (như Quyên của Nguyễn Văn Thọ). Không chỉ có những tác giả đã kể trên mà còn rất nhiều nhà thơ, nhà văn khác, đã một lòng tin tưởng gửi tác phẩm đến cho nhà văn Anh Thư đều được chị chăm sóc nâng giấc đứa con tinh thần của họ rất kỹ càng. Và thành quả là nhiều tác phẩm đoạt giải thưởng lớn của Hội Nhà văn, như Nguyễn Quang Thân với Con ngựa Mãn Châu, Nguyễn Văn Thọ với Quyên, Nguyễn Hữu với Cõi thực… Tôi biết có những đêm dài mùa đông giá rét, chị ngồi lọ mọ cạo từng con chữ, cắt cắt, dán dán những tờ giấy can, để dùng đúng chữ như linh hồn của tác giả và tác phẩm. Ngày ngày chăm sóc đứa con tinh thần cho mọi người cầm bút, đó là công việc của cơ quan, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, thời gian còn lại cho riêng mình để sáng tác, Anh Thư chỉ còn mỗi cách cắt bớt giấc ngủ của chính mình. Tôi cũng biết thời gian để hoàn thành tiểu thuyết 24 giờ lên đỉnh, chuông đồng hồ của chị luôn để hai giờ sáng. Chị ngồi viết đến 6 giờ, ngủ đến 7 giờ, rồi dậy đi chợ, làm cơm trưa cho chồng con, chuẩn bị bữa tối sẵn, rồi mới đi làm… Vòng tròn cuộc đời tối mắt tối mũi, ngày tiếp cộng tác viên, giải quyết hàng loạt bản thảo đến 5, 6 giờ chiều. Về nhà làm tròn nghĩa vụ làm mẹ, làm vợ, rồi vừa xem phim, vừa ngủ lơ mơ đến 9, 10 giờ đêm lại lôi các tập bản thảo dày, đòi hỏi phải yên tĩnh ra biên tập. Đêm lại đêm, bật dậy ngồi viết là niềm vui của chị. Tôi nhớ năm 1993, hồi đó Nhà xuất bản Hội Nhà văn đang gặp khó khăn về kinh tế, nhà văn Nguyễn Kiên lúc ấy làm Giám đốc, chị Nguyễn Thị Anh Thư mới đi học thêm một bằng đại học thứ 2 (đại học xuất bản) về, chị tình nguyện ra ngồi bán sách ở cửa hàng giới thiệu sách. Ngày đó, tôi làm ở Báo Lao động Thủ đô gần đó hay chạy sang ngồi bán sách với chị. Có hôm hai chị em ngồi bán sách chỉ để xem một khách hàng mua sách mở hàng có may mắn không, có bán chạy sách văn học không. Có người tôi dự đoán sai, có người Thư dự đoán đúng qua cách nhìn chân tướng. Không ngờ cách quan sát trực tiếp tinh tế đã giúp chị Anh Thư viết văn ngày càng đằm thắm và tinh tế hơn. Để viết cuốn tiểu thuyết 24 giờ lên đỉnh, để viết được về số phận của đàn bà, để viết về một vấn đề kinh tế đang nóng bỏng trong cuộc sống này, Anh Thư phải học, phải nghiên cứu rất kỹ mới dám đi vào nhân vật có nghề nghiệp không hề dán mác hay sắp đặt sẵn cho họ. Cái nhìn thấu tâm can đàn bà từ những câu chuyện như Không nhan sắc, đến Món giả cầy, cái khát vọng nhất mà Anh Thư đau đáu là nhân vật người đàn ông vừa tài hoa, lịch lãm, vừa biết trân trọng phụ nữ. Nhân vật như ước mơ ấy thì chỉ có văn chương xây dựng nên. Thật khó tìm trong đời thực. Hãy để bạn đọc khát khao, hãy để bạn đọc cùng hy vọng dưới trang văn của mình, chỉ ra những cái tàn ác không nhìn thấy, không dễ thấy cũng là nhiệm vụ của nhà văn. Để bạn đọc đọc sách, ngấm, và rút ra kinh nghiệm ở đời. Gần đây những bài thơ của Anh Thư làm gửi tôi đọc, tôi thấy chị còn run rẩy trước tình người, còn phẫn nộ trước cái ác như cây đàn một dây níu giữ trầm buồn. Thơ chị viết “tỉnh” như văn xuôi, nhưng tứ thơ lại biết dồn nén, nhà văn như Nguyễn Thị Anh Thư đã cày, đã vỡ vạc đất đai, để trồng cây như bao nhà văn Việt Nam gieo mùa vàng cho tác phẩm của mình *** 03 giờ 30 phút - 20 - 06 - 2008 Sáng sập cửa, nén giận - bật khoá - giập ga. Chiếc Mercedes Benz gầm cao đen bóng rú lên, quét một luồng ánh sáng đèn pha sáng loá, cắt toang mù sương trong cái sân lát gạch bát rộng thênh thang loáng đẫm sương đêm. Anh đánh mạnh vô lăng. Chiếc ô tô liệng một nửa vòng cuồng nộ lao ra cổng. Sáng biết chắc: ông Thưởng - cha của anh - một lão nông đã bảy mươi bảy tuổi gầy gò, nhưng cao lớn và rất săn chắc, ánh mắt vẫn sáng quắc như mắt chim ưng; cứ ngồi tỉnh khô trong cái ghế đại sẽ không thèm đưa mắt nhìn theo thằng con mình. Cái ghế đại chạm trổ lộng lẫy mà cha anh trong bộ đồ lụa Thái Tuấn màu nâu tây đang ngồi oai vệ trên đó là nằm trong bộ bàn ghế và trường kỷ làm bằng gỗ nu hay còn gọi là gỗ lut. Cây nu thuộc họ gõ đỏ, và đã được Unescô liệt vào sách đỏ vì sắp tiệt chủng. Gỗ nu trở nên vô giá, vì quá hiếm. Người ta khi đã trộm được, thường hay xẻ chúng ra nâng niu đánh bóng chỉ dùng chúng làm vật liệu quý cho những bức tranh gỗ, dùng để trang trí nhà thờ hoặc làm giả những viên đá hoa cương lát nhà cho các triệu phú, tỉ phú Đô la trên thế giới ở. Loại gỗ đó không có đường vân thành thớ hoặc lượn sóng như các loại gỗ cũng rất đắt đỏ khác. Gỗ nu có vân đặc biệt quý, chúng vặn xoắn những vòng ốc nhỏ xen kẽ thành từng mảng màu rất tách biệt, chỉ nhỉnh hơn đầu ngón tay màu đỏ thắm, màu nâu sậm, mầu vàng, màu ghi... Đôi lúc, màu sắc của chúng trông như những tảng hổ phách. Mùa hè, chạm tay vào, gỗ nu lạnh mát như đá. Nhưng mùa đông, khi ngồi lên chúng, ta vẫn cảm như được ôm ấp, và đâu đó như có hơi gỗ ấm áp đang thở. Vì vậy mà gỗ nu được định giá bằng tiền triệu trên từng kg, hoặc những trăm nghìn Đô trên mét khối tuỳ lúc và tuỳ thích. Tuy nhiên, vì gỗ nu quá rắn. Gỗ nu quá quánh chắc, cân lên nặng như đá thật. Nhất là khi nó được cấu tạo chỉ bằng những chỗ u gồ lên trên thân cây, cho nên thao tác mỹ nghệ trên nó cực khó. Nhưng bù lại, khi chế tác xong, đánh bóng lên, các hoa vân đặc biệt vặn xoắn dày đặc sẽ cho vật thể hoàn toàn là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ. Trông món đồ gỗ lúc ấy sẽ trong suốt như thể được cấu thành từ tổng thể các loại ngọc long lanh màu đỏ sậm, màu nâu, màu vàng hổ phách. Đặc biệt quý là khi các mảng màu ấy được tách bạch bằng những đường viền như được dát kim loại vàng lấp lánh. Và chúng phát sáng bằng chính những đường ốc vân vẩy kỳ lạ đó. Vì thế lúc đó người ta gọi loại gỗ này là hổ bì tức là da hổ. Nhưng giá cả của chúng lúc đó thì... Thôi!... Quên đi!... Cái giá trị của đẳng cấp nghệ thuật mới là vô giá! Sáng vẫn thường có khát vọng được sở hữu những gì là đỉnh nhất, nên ngay lập tức anh mê hổ bì. Anh mê nó đến điên cuồng, mê ngay khi lần đầu tiên nhìn thấy nó. Sáng cầu kỳ lặn lội đến gặp ông Vũ Văn Quý giám đốc công ty Hưng Long nổi tiếng tận làng Đồng Kỵ, Bắc Ninh yêu cầu được chính kỹ sư hoạ sĩ Nguyễn Xuân Đức dựa theo mẫu Lu- y thế kỷ 16 của Pháp thiết kế sao cho bộ trường kỷ hổ bì của anh có thêm vẻ Việt Nam. Nó phải vừa dân tộc mà vẫn hiện đại để các đời sau, con cái cháu chắt anh vẫn có thể nhảy đầm bên nó mà không lố. Sáng đã mò mẫm tìm hiểu trên Internet, trong giới đồ gỗ mỹ nghệ và được biết chỉ riêng công ty đồ gỗ Hưng Long ở làng Đồng Kỵ, Bắc Ninh mới có khả năng thu gom được đủ một số lượng lớn gỗ hổ bì để chế tác nổi một bộ đại trường kỷ. Và cũng chỉ có Công ty này mới có bí quyết nhà nghề để thớ gỗ hổ bì trở nên mềm đi trong thời gian chế tác, còn sau khi hoàn thành rồi thì nó lại trở nên quánh chắc như đá thật. Tựa như bí quyết ngâm trứng vào dấm cho mềm vỏ cứng để trứng lọt dễ dàng qua miệng chai mà vẫn không vỡ lòng đỏ. Cũng phải mất đằng đẵng gần năm trời chờ đợi Sáng mới có được một bộ độc bản đại trường kỷ cực kỳ lộng lẫy, mà chắc hẳn khó có được một bộ thứ hai giống vậy. Anh đã mang nó về cho cha anh - ông Phương Văn Thưởng ở làng Hoàng Ngôn, xã Kỳ Nguyên huyện Tĩnh Hà trưng bày trong nhà. Và lúc này, cha Sáng đã lại ngồi thu chân, chễm chệ trên chiếc ghế vô giá đó. Cha anh cũng mê thích nó. Với anh, đó là niềm vui, lẽ đương nhiên của một người con hiếu thảo. Nhưng quá sớm! Đêm còn chưa qua, ngày còn chưa rạng. Và muôn lần như một, trước mặt ông chẳng khi nào thiếu cái chén sứ đồ Giang Tây chưa bao giờ vơi một thứ nước sóng sánh màu nâu cánh gián của rượu thuốc không ngâm tay gấu thì cũng cao hổ cốt do thằng con trai út - chính là anh - Phương Quang Sáng đích tay ngâm biếu. Giờ đây, ông súc miệng bằng thứ rượu quý ấy, kê mông lên chiếc ghế hiếm ấy, tay cầm chiếc điếu cày - vật bất ly thân tự tay ông gò bằng mảnh duyra thân chiếc máy bay - chiếc máy bay Mỹ đã bị chính ông cùng đội dân quân xã đã từng được phong là Đơn vị anh hùng các lực lượng vũ trang thời xa xưa bắn rơi trên cánh đồng làng Hoàng Ngôn; rúc lên hai hơi liền giòn tan nõ điếu cho ngây ngất tâm thần - để rồi thoả sức chê bai anh - cái thằng đã rước bằng được những cái thứ quý hiếm, độc nhất vô nhị đó về dâng ông ngự thưởng. Sáng biết cha mình sẽ lại xoè mồi lửa vào nõ điếu, rít thêm một hơi thuốc lào Tiên Lãng cháy cổ, phà khói ra một cách khoái trá lần nữa, rồi ông mới liếc xéo cái ánh mắt vẫn quen lia nhanh như chớp theo hướng anh đi, vẻ vừa kinh thường vừa giận dỗi, bất cần: - Đi đi! Mang hết cả đi! Sáng thừa biết cha mình đang nghĩ gì: “...Thôi, thôi, tôi xin ông! Ông muốn hành cái phép tắc, cái luật lệ, cái nghi lễ văn hoá văn hiếc, gì gì… của ông thì ông cứ mang đi đâu đó mà hành… nhé! Còn cái làng này nó chẳng thiết, mà tôi, tôi cũng chẳng cần.… Rõ là nhiễu sự! Rõ là… là… Cứ lớn chuyện ba cái thứ lặt vặt…Đang yên đang lành thì vẽ chuyện…” Và thể nào một viên thuốc lào nữa cũng lóe lửa đóm, nảy tâng tâng trên nõ. Chiếc điếu duya ra lại rú rít lên, gay gắt, bực bội, rồi phun khói lên… thoả mãn. Trời đất! Chuyện gì cha anh cũng cho là chuyện vặt, khỏi cần phải bày vẽ cho mệt người! Cha có biết rằng chính vì ý nghĩ lúc nào cũng ngại mệt, lúc nào cũng ngả theo cái chủ nghĩa tuỳ tiện được đến đâu hay đến đấy, việc gì cũng chỉ được nửa vời, không chịu cố gắng dồn tâm, dồn huyết để đi đến tận cùng ước mơ ấy như cha anh, của bao đời người ở cái làng bãi ngang này mà đã khiến cho cái làng Hoàng Ngôn của cha con anh chìm nghỉm, chẳng làm sao mọc mũi sủi tăm lên được trong thiên hạ không? Chao ôi! Cha hãy nhìn ra những tỉnh ngoài mà xem, có biết bao nhiêu địa danh lừng lẫy tên tuổi vì bề dày lịch sử văn hoá: những đền Hùng, đền Mẫu cội nguồn dân tộc bao đời; những thành cổ Tây Sơn, thành nhà Hồ, Lam kinh; những chùa Bổ, chùa Và, chùa Mía, chùa Tây Phương... thâm nghiêm, cổ kính; những cổng làng cổ Đường Lâm, chùa Cầu Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Tháp Chàm…Kỳ lạ... đến tận cái xứ Đồng Văn xa mù hẻo lánh cũng có riêng cho mình cả một phố cổ… chưa nói tới kinh thành Huế, đến cố đô Thăng Long... Cha có biết Bái Đính, Ninh Bình họ còn muốn vật sản văn hoá của địa phương mình có thứ vươn được lên đến tầm cỡ nhất Đông Nam Á không? Truyền thống văn hoá, di tích lịch sử vốn đã rất được những người dân các xứ ấy đời đời ngưỡng mộ, nâng niu, gìn giữ, vậy mà giờ đây họ vẫn chưa thoả, vẫn còn đang ra sức bồi đắp, khuếch trương rộng lớn thêm từng ngày. Nhưng, buồn thay, cha đã bao giờ chịu bước ra khỏi cái làng Hoàng Ngôn vốn chỉ là một dải đất bãi ngang hẹp như cái dải áo, kẹt giữa đôi bên bờ cát chát mặn và đầm lầy nước lợ này, để mở to mắt ra mà nhìn các làng quê rộng lớn, giàu có, khang trang, sang trọng của thiên hạ để mà kính phục họ, thèm được như họ, và buồn cho mình đâu! Sáng trút một hơi thở dài, cố xua ra khỏi người nỗi bực bội. Và anh, anh nữa - một Phương Quang Sáng - nhà doanh nghiệp về bất động sản và cổ phiếu mới phất với tài sản vài ba triệu Đô la Mỹ - một Phương Quang Sáng có bằng Thạc sĩ Quản trị kinh doanh - Du lịch, hiện đang tu thêm một bằng Thạc sĩ nữa về Đông phương học - anh sống ở đâu mà chẳng được ở trong cái thế giới trọng Mỹ kim, thèm chất xám này chứ? Vậy mà tại sao, tại sao anh vẫn không sao bỏ được cái làng Hoàng Ngôn nghèo nàn, khốn khổ này. Tại sao, tại sao chứ? Vinh danh cho quê hương! Làm sao để có thể kêu gọi được tất thảy những con người cùng sống ở cái thôn Hoàng Ngôn vốn thâm căn cố đế đã có cái tính ương ương, gàn gàn này cùng có tâm huyết biến ý chí thành hành động tôn tạo vinh danh cho nơi chôn nhau cắt rốn của mình? Vậy mà, tiếc thay - cha anh - cái người thân thiết, ruột thịt gần gũi nhất của anh thì lại dường như cũng giống tất cả những người khác trong làng, cũng như chẳng hiểu gì, chẳng quan tâm gì đến điều tâm huyết của anh. Thậm chí ông lại còn có vẻ là một trong những người cảm thấy mệt mỏi và khó chịu nhất vì những việc anh đã làm. Mời các bạn đón đọc 24 Giờ Lên Đỉnh của tác giả Nguyễn Thị Anh Thư.
Bùn Pha Sắc Xám - Anthony Grey
Cho đến khi người Anh trao miền Nam Việt Nam lại cho người Pháp đầu năm 1946, thì đã có hơn hai ngàn người Việt bị quân Anh sát hại. Tại miền Bắc, lực lượng giải giới Trung Hoa cuối cùng chịu rút khỏi Việt Nam vào tháng 3 năm 1946 qua một thỏa ước mà họ đã ký kết với Pháp, theo đó Trung Hoa nhường cho Pháp đưa một số quân vào miền Bắc Việt Nam, ngược lại người Pháp phải trả cho Trung Hoa tất cả những Tô giới mà họ đang chiếm giữ. Chính phủ Hồ Chí Minh lúc này vẫn còn yên ổn đóng tại Hà Nội, và mặc dù Paris đã chính thức công nhận chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ của Việt Minh trong Liên Hiệp Pháp, nhưng Việt Minh vẫn hết sức dè dặt chào đón sự trở lại của lực lượng Pháp. Trước đó, đã có nhiều cuộc thảo luận giữa Hồ Chí Minh và Pháp diễn ra, cho mãi đến mùa Thu năm này, nhưng Pháp vẫn ù lỳ cương quyết không chịu trao trả nền Độc Lập hoàn toàn cho Việt Nam. Cũng kể từ đó, việc xung đột giữa đôi bên không còn cách nào tránh khỏi được. Việt Nam lúc bấy giờ vẫn không được thế giới bên ngoài chú ý tới, trong khi đó Nga Xô lại nới rộng vùng ảnh hưởng của mình tại Đông Âu và Trung Âu. Tổng Thống Harry Truman của Hoa Kỳ quyết định ủng hộ nước Pháp, vì Pháp hiện đang đóng một vai trò rất quan trọng trong lãnh vực chiến tranh lạnh tại Âu Châu. Hồ Chí Minh đã nhiều lần viết thơ cho Tổng Thống Truman để xin Hoa Kỳ ủng hộ mình, nhưng tất cả thư từ đó, đều không được Hoa Kỳ phúc đáp. Việc Hoa Kỳ ủng hộ Pháp thật ra đối với bộ Ngoại Giao của quốc gia này vẫn không có gì thay đổi, nhưng vì lúc bấy giờ sự thắm thiết giữa cơ quan OSS (Cơ Quan Tình Báo Chiến Lược của Hoa Kỳ) và Việt Minh vào những ngày chót của cuộc chiến tranh thứ hai vừa qua đã làm cho nhiều nhà ngoại giao của Hoa Kỳ phải khó chịu. Washington đã bất ngờ chính thức tuyên bố là Hoa Kỳ sẽ tôn trọng chủ quyền của người Pháp tại Đông Dương và chấm dứt nhiệm vụ của OSS tại Việt Nam, đồng thời cho rút khỏi Hà Nội vào tháng 10 năm 1945. Mãi cho đến về sau này, các nhà lãnh đạọ Hoa Kỳ mới thấy tiếc rẻ là họ đã bỏ mất một cơ hội bằng vàng để có thể biến Hồ Chí Minh thành một Tito của Á Châu thân Tây Phương. Trong thời gian lên cầm quyền, Hồ Chí Minh đã nắm vững tình hình của dân chúng và khi cuộc chiến tranh với Pháp bộc phát trở lại trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào ngày 19 tháng 11 năm 1946, Hồ Chí Minh lại một lần nữa rút vào các hang núi đá vôi miền thượng du Bắc Việt, nơi mà cách đây mười sáu tháng trước ông ta đã bỏ nơi này để nhảy ra cướp chính quyền. Trong khoảng thời gian ngắn đó, chính phủ Hồ Chí Minh đã khắc phục được nạn đói tại miền Bắc bằng cách vận động toàn dân tức tốc trồng trọt trên bất cứ khoảnh đất trống nào, và chính phủ của ông ta đã thắng được dễ dàng cuộc bầu cử tại Nam và Trung phần. Ưu thế của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội đã khiến cho Việt Minh không ngần ngại cho áp dụng các chiến thuật khủng bố đối với những người Quốc Gia chống đối với họ. Cộng Sản đã mưu sát hầu hết các lãnh tụ thù nghịch nổi tiếng của họ vào những ngày đầu của cuộc hỗn loạn này. Điều rõ ràng nhứt là Việt Minh đã được đại đa số quần chúng chấp nhận, cho nên sau khi chiến tranh với Pháp bộc khởi trở lại, người Pháp đã thấy rằng dù với một trăm năm chục ngàn quân có mặt tại đây, thì họ cũng chỉ có thể kiểm soát được các vùng trung tâm thị tứ và các trục giao thông chính mà thôi, trong khi đó Việt Minh đặt thế lực của họ tại các làng mạc hẻo lánh, các đồng ruộng và các vùng rừng rú. Sau khi Pháp thắng được vài trận trên các chiến trường thì tình hình quân sự của Pháp được nới rộng hơn và kéo dài cho đến tháng 10 năm 1949, khi mà Cộng Sản Mao Trạch Đông thắng thế tại Trung Hoa thì người ta thấy cục diện thế giới có nhiều thay đổi. Chỉ trong vòng một đêm, bỗng dưng lãnh thổ của Trung Hoa đã trở thành căn cứ an toàn cho Hồ Chí Minh ém quân và là nơi huấn luyện lý tưởng cho các binh sĩ dưới quyền của Tướng Võ Nguyên Giáp. Chỉ trong vòng vài tháng, lực lượng của Việt Minh bành trướng thành một quân đội được trang bị với đại bác tối tân của Hoa Kỳ do Cộng Sản Trung Hoa tịch thu được của tàn quân Tưởng Giới Thạch. Cũng từ đó trở đi, việc Pháp có thể chiến thắng Việt Minh trên các chiến trường đã trở nên không còn cách nào thực hiện được nữa. Cuối năm 1950, Việt Minh tung bốn mươi ba Tiểu Đoàn mới vừa thành lập vượt biên giới Trung Hoa và Việt Nam, đánh thốc vào các tiền đồn yếu ớt của Pháp, gây nên một sự thất bại nhục nhã cho Pháp chưa từng thấy kể từ khi Tướng Montcalm của Pháp bị bại trận và bị giết dưới tay quân Anh ở Québec vào năm 1795. Sáu ngàn quân Pháp bị giết và một số lớn quân xa, vũ khí bị lọt vào tay quân đội Việt Minh. Từ đó, dưới sự ủng hộ của Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh, Việt Minh kiểm soát được một khu vực từ biên giới Hoa Việt cho tới gần một trăm dặm chung quanh Sài Gòn, chỉ trừ một vài vùng tại châu thổ sông Hồng và Hà Nội là quân Pháp còn giữ được mà thôi. Lúc bấy giờ thế giới bên ngoài, ai nấy đều lo ngại trước cuộc chiến thắng của Mao Trạch Đông và lo sợ cuộc chiến thắng này sẽ ảnh hưởng đến chủ nghĩa Cộng Sản hiện đang trên đà bành trướng mạnh trên thế giới, cho nên cuộc chiến tranh ở Đông Dương mà từ trước đến giờ hầu như không làm một ai chú ý tới, nhưng trước đà thuận lợi cho Cộng Sản hiện tại ở Đông Dương đã khiến cho một số các quốc gia tư bản khác trên thế giới phải để tâm vào. Tháng Giêng năm 1950, Nga Sô và Trung Cộng thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh lúc này đang có mặt tại các căn cứ địa của họ trên vùng thượng du Bắc Việt, và chính điều này đã làm cho Hoa Kỳ vội vã lên tiếng công nhận một chính phủ Việt Nam do Pháp đỡ đầu và do Bảo Đại lãnh đạo. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Ancherson cho biết là Nga Sô và Bắc Kinh đã kéo lá bài chót để đưa ra cái ảo ảnh giả vờ của Hồ Chí Minh trong tư thế quốc gia, cho thấy y là một kẻ thù không đội trời chung của Hoa Kỳ, để từ đó Hoa Kỳ bắt đầu ồ ạt viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam cũng như các quốc gia khác tại Đông Dương nhằm giúp Pháp ngăn chặn sự bành trướng của Cộng Sản. Kể từ đó, Pháp biến cuộc chiến tranh Thuộc Địa của mình thành một cuộc chiến tranh với sứ mạng ngăn chặn Cộng Sản bành trướng tại Á Châu. Đầu tháng 6 năm 1950, thế giới Tây Phương bắt đầu chú ý đến phần đất này nhiều hơn khi Bắc Hàn xua quân tấn chiếm Nam Hàn, và các lực lượng Tây Phương đã cùng chung nhau phục vụ dưới cờ Liên Hiệp Quốc nhảy vào vòng chiến đối đầu với quân Cộng Sản gồm Bắc Hàn và Trung Cộng. Song song với nhiệm vụ này, Tổng Thống Truman bắt đầu gửi một phái bộ quân sự từ Washington qua Sài Gòn vào mùa hè năm đó để sát cánh với Pháp, và chính hành động này đã đưa tới sự liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sau này: Dưới hĩnh thức viện trợ kiểu lăn banh tuyết, tính cho đến năm 1954 thì Hoa Kỳ đã đổ vào cho Pháp ba tỷ mỹ kim để Pháp tự đào lỗ chôn mình tại Đông Dương. Năm 1953, cuộc ngưng bắn tại Đại Hàn làm cho Cộng Sản rảnh tay tập trung hết nỗ lực quân sự vào Đông Dương với sự viện trợ hùng hậu của Nga và Trung Cộng cho lực lượng của Võ Nguyên Giáp. Để đáp ứng với tình thế hiện tại, chính quyền thứ 19 tại Pháp, sau chín năm đầy khủng hoảng tại Paris, họ đã đưa ra nỗ lực cuối cùng để cứu vãn danh dự của mình, hầu thoát được cuộc chiến tranh đầy vô vọng này. Pháp đã chấp thuận một kế hoạch do các tay lãnh đạo quân sự đưa ra, theo đó Pháp sẽ dụ lực lượng chính quy của Võ Nguyên Giáp vào một trận chiến quyết liệt bên sau phòng tuyến của Việt Minh tại lòng chảo Điện Biên Phủ hoang vu, hẻo lánh ở Bắc phần, nơi mà Pháp nghĩ rằng với ưu thế thượng phong của Không Quân và uy thế về sức mạnh quân sự của họ, họ có thể tiêu diệt dễ dàng địch quân khi Cộng Sản không có khả năng gì về chiến xa và Không quân hết cả, ngoại trừ một số ít quân dụng vận tải mà thôi. Trước khi lâm trận tại Điện Biên Phủ, Pháp đã đưa ra một đòn nhử bằng cách cho thả dù binh lính xuống một lòng chảo bên sau tuyến của Việt Minh ở Na Sản. Võ Nguyên Giáp không chuẩn bị kịp cho cuộc tấn công này nên đã nướng trọn một Tiểu đoàn giữa các bãi mìn và hàng rào kẽm gai tại đây, vì vậy Pháp vô cùng tự tin là một trận đánh tương tự trong tương lai cũng sẽ đưa tới kết quả tốt đẹp như thế này. Nhưng điều hy vọng đó đã không thành công dễ dàng như người Pháp đã trù định. Và Điện Biên Phủ đã đưa họ tới một sự thất bại chua cay nhất trong lịch sử giữa Đông và Tây. *** Bộ sách SàiGòn gồm có: Sài Gòn Một Nơi Để Nhớ Một Chốn Để Thương Sài Gòn Bùn Pha Sắc Xám Sài Gòn Hai Trăm Năm Cũ *** Anthony Grey là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, trong đó có một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. Mời các bạn đón đọc Bùn Pha Sắc Xám của tác giả Anthony Grey.
Trong Ánh Lửa Thù - Uyên Thao
Nhà văn Uyên Thao tên thật là Vũ Quốc Châu, sinh năm 1933 tại Hà Nội, bắt đầu viết văn từ năm 1952. Vào Saigon năm 1953, ông cộng tác với nhiều tờ báo cũng như những tập san văn học nghệ thuật. Sở trường của ông là sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật. Tác phẩm của nhà văn Uyên Thao gồm đủ thể loại trong đó có những tác phẩm đã in trên báo và xuất bản như hai cuốn tiểu thuyết “Những Con Cọp Cháy Móng” đăng trên Tạp chí Sinh Lực-Sài Gòn từ năm 1959 đến 1961, “Trống Trận” đăng trên Nhật báo Tin Sáng vào năm 1964 và cuốn dã sử tiểu thuyết “Trong Ánh Lửa Thù” đăng trên Nhật báo Người Việt California từ năm 1996 đến 1997, và tập thơ viết trong tù “Không Tên” 1992. Ông cũng là nhà phê bình văn học với hai tác phẩm “Thơ Việt Hiện Đại 1900-1960” gồm 6 tập do Nhà Xuất Bản Hồng Lĩnh ấn hành tại Sài Gòn năm 1970 và “Các Nhà Văn Nữ Việt Nam 1900-1970” do Nhà Xuất Bản Nhân Chủ ấn hành tại Saigon năm 1973. Ông cũng sáng lập và điều hành nhật báo Sóng Thần từ năm 1970 đến 1974. Ngay từ khi đặt chân lên đất Mỹ vào cuối năm 1999, nhà văn Uyên Thao đã nghĩ đến chuyện thành lập Tủ Sách Tiếng Quê Hương. Nhà văn Uyên Thao cho biết thêm là Tủ Sách Tiếng Quê Hương nhận được sự cộng tác của rất nhiều bạn bè ngay từ khi ông khởi xướng việc này. “Tôi sang đây hơi trễ nhưng ngay khi mình nghĩ tới tủ sách này thì tôi viết thư cho tất cả những người bạn cũ tôi có được địa chỉ thì hầu như ai cũng sẵn sàng tiếp tay, ai cũng sẵn sàng ủng hộ. Chính vì vậy mình mới có thể thành lập được tủ sách.” Tủ Sách Tiếng Quê Hương được thành hình vào đầu năm 2000 vài tháng sau khi nhà văn Uyên Thao đặt chân lên nước Mỹ và tác phẩm đầu tiên được phát hành vào tháng 9 cùng năm là tập truyện ngắn “Thân Phận Ma Trơi” của Nguyễn Thụy Long. *** S áu năm sau đêm Trung Chính đẫm nước mắt cầm kiếm lệnh phóng ngựa như điên rời Thăng Long, đại quân Thát Đát tràn qua bắc thùy. Giữa mùa đông năm Tỵ, Ngột Lương xua quân từ Quí Châu, Vân Nam tiến vào đất Đại Việt. Kỵ binh Thát Đát xoài vó dọc dẫy Tượng Sơn theo tả ngạn sông Thao ào ạt tiến về xuôi. Các cứ điểm phòng thủ của quân Đại Việt từ Ngã Ba Hạc tới Phù Lỗ bị tràn ngập mau chóng trước sức tấn cônc) như vũ bão. Cuộc chiến đấu giữ nước được chuẩn bị gần mười năm vẫn không ngăn nổi quân Thát Đát tiến thẳng về Thăng Long. Triều đình bỏ kinh thành cho Thát Đát chiếm đóng. Thế nước chông chênh như bánh xe đang lăn trên bờ vực. Nhà vua băn khoăn hỏi Quốc Sư Thủ Độ: - Tình thế này liệu còn cách nào vượt khỏi nguy vong chăng? Vị lão thần nghiêng mái đầu bạc trắng về phía nhà vua. Cặp mắt trĩu ưu tư của ông quắc lên. Giọng ông trầm trầm nhưng quyết liệt, nhấn rõ từng lời: - Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo! Hơn một tháng sau, quân Đại Việt từ các lộ Hông, Khoái, Trường An, Thiên Trường dồn về phản công địch tại Đông Bộ Đầu, khôi phục kinh thành. Ngột Lương chuyển quân qua hữu ngạn sông Thao, gom lực lượng tại Qui Hoá, chuẩn bị mở đợt tấn công thử nhì về Thăng Long. Các thám tử Thát Đát trong vùng được lệnh cấp tốc về gặp chủ tướng Ngột Lương để tường trình về địa thế và quân tình Đại Việt. Cùng lúc Ngột Lương cho dựng trại chờ hội quân, chủ quán Quốc Oai khách điếm một mình một ngựa băng rừng tiến sâu vào miền tây bắc Qui Hoá, hướng về căn cứ Khau Pho. Hai ngày sau đó, kỵ binh Thát Đát nhận chịu một cuộc tấn công chưa hề gặp trên khắp các chiến trường từng in dấu chân ngựa của họ. Trong lúc cánh quân triều đình của viên tướng trẻ Trần Quốc Tuấn từ lộ Quốc Oai vượt Trung Ha tiến lên, nghĩa binh lộ Qui Hoá dưới sự dắt dẫn của thủ lãnh Lý Trung Chính xuất hiện như tiếng sét bất ngờ nổ giữa trời trong, cắt nát kỵ binh Thát Đát thành từng toán nhỏ. Cuộc phối hợp giữa quân triều đình và nghĩa binh Qui Hoá dồn lực lượng Thát Đát vào thế bị động hoàn toàn từ phút khởi đầu trận đánh. Lần đầu tiên đoàn kỵ binh bách thắng khắp hoang mạc Bắc Á vừa xéo nát đế quốc Ba Tư và chinh phục Đại Lý lâm cảnh tan vỡ kinh hoàng. Những chiến sĩ áo chàm chập chờn biến hiện như những bóng ma và dũng mạnh như một bầy sư tử. Ngột Lương phải ra lệnh mở đường máu thoát thân, cuốn vó chạy dài về phương bắc dưới sự truy sát bén gót của quân Đại Việt. Những ngày cuối cùng của mùa đông năm Tỵ cũng là những ngày cuối cùng của ba vạn chiến binh Thát Đát vừa hung hăng vượt bắc thùy Đại Việt ít ngày trước đó. Ngột Lương chỉ còn vài chục thân tùy cắm đầu chạy không kịp thở, cố tránh thật xa đoàn quân áo chàm của chàng trai có cặp mắt như bốc lửa và cánh tay gươm không hề mệt mỏi. Vào lúc chờ nghĩa binh thu dọn chiến trường để tập hợp về xuôi, Lý Trung Chính trầm ngâm trên yên ngựa nhớ lại những người từng sát cánh bên chàng. Chàng nhớ tới người chú họ Lý Bảo Tuấn hầu như không lúc nào rời chàng nửa bước. Với tuổi già bảy chục, ông vẫn giữ nguyên khí phách của viên tướng trẻ lừng danh Trung Dũng Hầu thuở trước. Luôn luôn xông xáo trên đầu các hàng quân, ông chỉ chịu ngưng khi nhận một mũi tên Thát Đát cắm suốt qua tim. Trung Chính thở dài nhủ thầm: - Dù sao thì chú cũng hài lòng vì đã dự phần làm sống lại trận Như Nguyệt ngày xưa. Mời các bạn đón đọc Trong Ánh Lửa Thù của tác giả Uyên Thao.