Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chớ Gọi Tôi Là Người

Để rửa mối nhục thất bại của dân Trung Quốc trên đấu trường võ thuật quốc tế, một tổ chức dân gian tự xưng là Ủy ban Tổng động viên nhân dân toàn quốc, gọi tắt là Tổng hội, nỗ lực lần theo manh mối quyết tìm cho ra truyền nhân của phái Đại Mộng Quyền, tương truyền là môn phái thượng đình có thể mượn lực chế nhân, vô địch thiên hạ. Tình cờ, bọn họ nhận ra anh chàng đạp xe xích lô tên Đường Nguyên Báo ở ga Bắc Kinh chính là người thừa hưởng bí kíp võ thuật. Và thế là, vô số màn hoạt náo bi hài đã được bày ra dưới ngòi bút của ông vua "văn học lưu manh" Trung Quốc. Đầy ắp tính biểu tượng và những đặc trưng văn hóa, xã hội không kèm giải thích, cuốn sách là một thách thức với cả những độc giả đã trót say mê thế giới nghệ thuật độc đáo, kỳ dị của Vương Sóc. "Khác lạ đến mức khó chịu... Cốt truyện đơn giản, mặc dù nó đã lạc bước vào sự cường điệu hoang đường phóng túng đến độ đáng kinh ngạc..." - USA Today "Vương Sóc, được coi như 'Kerouac của Trung Quốc'... Vở hài kịch siêu thực này mang đến một kết thúc đậm tính khải huyền." - The Economist Người khác nhau ôm động cơ viết tiểu thuyết khác nhau. Đa số tiểu thuyết không cần phải nhìn nhận một cách nghiêm túc. nếu cứ khăng khăng muốn hỏi câu vì sao, chỉ càng khiến đầu óc mình rối loạn. Nói theo một ý nghĩa nào đó, tôi là người không có đầu óc, càng không phải kẻ dốc hết tâm sức, cần mẫn miệt mài. Thoạt tiên hiểu ra điểm này, mọi người mới có thể tránh việc tự mình dẳn vặt. Tôi đề nghị bạn hãy xem thứ này là một mớ càn xiên bát nháo." - Vương Sóc *** "Cuộc họp hôm nay có bốn vấn đề cần thảo luận.Vấn đề thứ nhất do đồng chí Trưởng Ban thư ký Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Quốc mở rộng Triệu Hàng Vũ trình bày về tình hình hoạt động của Ban thư ký trong giai đoạn trước với các cổ đông, vấn đề thứ hai là do trong các cổ đông có tồn tại một số ý kiến không tín nhiệm một vài lãnh đạo của Ban thư ký, để giải tỏa thắc mắc của các cổ đông, để chứng minh lần thi đấu này là thực sự cần thiết, chúng tôi đã tìm được một băng video ghi cảnh thi đấu ở Sapporo[1], sẽ phát cho các vị cổ đông xem trong thời gian giải lao. Vấn đề thứ ba có liên quan tới việc đổi tên cho Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Quốc mở rộng và cơ cấu thường trực của Ban thư ký. Vấn đề thứ tư là để công việc được tiến hành thuận lợi, chúng tôi thực hiện hoạt động nhận tiền quyên góp lần thứ ba - mong các vị cổ đông không ra về trước giờ tan họp." Đây là một nhà hát có súc chứa tới hơn nghìn người, hiện giờ các chỗ ngồi đều vắng tanh vắng ngắt. Trên sân khấu bày chiếc bàn tròn lớn, người tham dự cuộc họp ngồi chen chúc xung quanh, một luồng ánh sáng chiếu lên gương mặt người chủ trì. Đó là một thanh niên cực kỳ đẹp trai. Luồng ánh sáng chuyển động về phía người đàn ông đeo kính có gương mặt xanh xao, mái tóc bù xù đang ngồi cạnh người chủ trì, mắt kính phản quang khiến người ta gần như không thể nhìn thấy đôi mắt của ông ta. Xem cách nói gấp gáp cũng đủ nhận ra đây là người dễ bị kích động. Ông ta chính là Triệu Hàng Vũ, Trưởng Ban thư ký Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Quốc mở rộng. "Về công việc của Ban thư ký Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Hoa mở rộng, tôi xin trình bày bốn điểm. Sau khi trình bày xong mời các vị cổ đông đặt câu hỏi, hỏi trực tiếp hay đưa giấy cũng được, tôi xin lần lượt trả lời. Nếu có câu nào tôi không trả lời được thì những đồng chí khác trong Ban thư ký sẽ giải đáp. Trước tiên tôi cần phải nói rằng êkíp Ban thư ký đã làm việc rất tốt, công việc cũng có chút thành tích. Thứ hai là Ban Thư ký làm việc rất vất vả. Ở đây tôi có vài con số muốn nói cho mọi người biết, từ khi Ban thư ký bắt đầu làm việc, mọi nhân viên chúng tôi từ trên xuống dưới chưa từng được ăn ngon ngủ yên. Chặng đường đã đi vất vả như đường từ Bắc Kinh vượt qua Thái Bình Dương tới San Francisco vậy. Tổng cộng ăn hết hơn bảy nghìn gói mì tôm, hút hơn mười bốn nghìn điếu thuốc, uống tới hơn một trăm cân trà. Trong trương mục đã ghi rõ các khoản tiền, không một xu nào rơi vào túi riêng của tôi cả. Thứ ba, cá biệt có thể có đồng chí khi nấu mì đã ăn vài quả trứng chiên, khi làm đêm ngoài uống chè ra còn dùng thêm ít mật ong. Đối với những trường hợp chi vượt tiêu chuẩn như vậy, chúng tôi phát hiện một xử lý một, quyết không nương tay. Cũng xin hoan nghênh các đồng chí đã thẳng thắn phê bình. Sau đây tôi xin trình bày về tình hình công tác của Ban thư ký gần đây, cũng chính là điểm cuối cùng. Trong hội nghị cổ đông lần trước, chúng ta đã ra nghị quyết phải tìm truyền nhân của Đại Mộng quyền. Hội nghị vừa kết thúc, chúng tôi đã lập tức phái 9 đội đi khắp nơi tìm kiếm. Tính tới đêm qua đã có 8 đội trở về. 8 đội này đã đi khắp Tam Sơn Ngũ Nhạc nhưng đều trở về tay trắng. Giờ chúng ta chỉ có thể hy vọng vào đội thứ 9 mà thôi. Đội này do nữ nhân viên giỏi nhất của Ban thư ký là Bạch Độ dẫn đầu, trước lúc xuất phát tôi đã kiên quyết ra lệnh: Không tìm được truyền nhân Đại Mộng quyền thì đừng quay về gặp tôi! Tôi rất tin tưởng năng lực của đồng chí Bạch Độ, chỉ cần người đó còn sống thì dù phải đi khắp chân trời góc bể cô ấy cũng sẽ tìm được anh ta. Tuy nhiên có một sự thực khốc liệt đang bày ra trước mắt chúng ta, chúng ta không thể không nghĩ tới khả năng Đại Mộng quyền đã bị thất truyền. Nói cho cùng thì lần cuối cùng chúng ta nghe được tin tức về truyền nhân Đại Mộng quyền là hơn 90 năm trước. Chúng tôi nhận ra người tráng sĩ Nghĩa Hòa Đoàn[2] bị giải ra pháp trường trong bức ảnh năm đó chính là Chưởng môn nhân của Đại Mộng quyền." Triệu Hàng Vũ mở chiếc túi da đen đặt trên bàn, lấy ra một tấm ảnh đen trắng đã được phóng to. Trong ảnh là một đám dân đen áo quần rách rưới đang bị đội lính tuần tay cầm yêu đao giải ra pháp trường. Trong đó có một người đàn ông da đen mình trần, dáng người mập mạp, tóc tết đuôi sam quấn quanh cổ, bên cạnh có đánh dấu một mũi tên đen nho nhỏ. "Đây là do nhân viên tình báo của chúng tôi chụp lại trong điện Louvre ở Paris. Người đàn ông có mũi tên đen chỉ vào ở trong ảnh chính là Chưởng môn đương thời của Đại Mộng quyền, còn danh tính quê quán thì không có cách nào khảo cứu." Triệu Hàng Vũ đưa tắm ảnh cho người bên cạnh để mọi người truyền tay nhau xem, ai cũng nhìn đi nhìn lại người đàn ông thô kệch trong bức ảnh một cách hứng thú. "Giống gã đồ tể phải không?" Triệu Hàng Vũ châm điếu thuốc, hỏi người đàn ông gầy gò có dáng dấp như một vị giám đốc với mái tóc bóng mượt, mặc âu phục đeo kính gọng vàng đang chăm chú nhìn bức ảnh. "Anh nên hiểu điều này, chân nhân bất lộ tướng." "Các anh làm thế nào để biết đây là Chưởng môn của Đại Mộng quyền?" Người đàn ông gầy gò hỏi lại. "Chúng tôi có bốn bằng chứng để chứng minh điều này." Triệu Hàng Vũ gẩy gẩy tàn thuốc, chậm rãi nói. "Đầu tiên chúng tôi tra trong hồ sơ lưu trữ của nhà Thanh, và đọc một số lượng lớn ngoại truyện dã sử có ghi chép về các hoạt động chiến đấu của Nghĩa Hòa Đoàn suốt một dải từ Bắc Kinh đến Thiên Tân. Tất cả các ghi chép đều cho thấy rằng, năm đó, khi Nghĩa Hòa Đoàn hoạt động mạnh mẽ nhất, dưới quyền của Tào Phúc Điền ở huyện Tĩnh Hải thành phố Thiên Tân có viên đại tướng giỏi dùng Đại Mộng quyền, mượn lực chế nhân, súng đạn Tây dương không động đến được một sợi lông của người đó. Cuộc chiến tại tô giới Tử Trúc Lâm và giáo đường North Cathedral anh ta đều tham gia, giết chết vô số người Tây. Sau khi khu vực Bắc Kinh, Thiên Tân bị chiếm đóng, có người trong đội quân của Lưu Thập Cửu ở thôn Cao Gia còn nhìn thấy anh ta. Sau đó, vị hảo hán này cùng bị bắt với Đại Đao Vương Ngũ ở Bắc Kinh, bị chém ở Thái Thị Khẩu[3]. Đó là điểm thứ nhất. Thứ hai, thông qua bức ảnh này, chúng tôi đã tìm được con cháu của người tuần bổ dẫn đầu trong ảnh. Người lính tuần này đã tự sát vì sợ tội trong Cách mạng văn hóa, nhưng chúng tôi tìm được 'Đại Mộng quyền phổ' trong nhà ông ta. Căn cứ vào lời kể của Quế Lôi Thanh, cư dân ở số 125 ngõ Thái Lai, phố Tiểu Quách Trang, quận Hà Đông thành phố Thiên Tân, cha anh ta có được cuốn quyền phổ này khí xử trảm tù binh Nghĩa Hòa Đoàn năm đó, rốt cục là vị nào thì không thể biết được. Người của Nghĩa Hòa Đoàn bị bắt không nói rõ danh tính, chỉ luôn miệng nói: 'Sau hai mươi năm nữa lại làm một trang hảo hán'. Có một điểm có thể khẳng định, cha anh ta chỉ tham gia hành động sát hại các tráng sĩ của Nghĩa Hòa Đoàn một lần. Mà là do lính Tây bắt đi và bị chụp ảnh lại. Bởi vậy, cuốn quyền phổ này phải là của những người trong bức ảnh. Chúng tôi cũng tìm được ngài Boll Per là con cháu của vị giáo sĩ truyền giáo người Pháp Bo 11 Per - người đã chụp lại bức ảnh này, hiện nay đang làm tùy viên của Đại sứ quán Pháp tại Trung Quốc. Ngài ây đã rất nhiệt tình kê khai cho chúng tôi danh sách những người bạn của ông nội đã từng đến Trung Quốc hồi đó. Cuối cùng chúng tôi đã tìm được viên hạ sĩ quan chỉ huy quân Pháp trước kia nay ở thành phố Toulouse phía Nam nước Pháp tên là Radu, chính là người châu Âu mặc quân phục đứng cuối hàng trong bức ảnh. Ông cụ đã hơn một trăm tuổi, nhưng vẫn còn tráng kiện, ký ức về những việc đã xảy ra trong cuộc viễn chinh đến Trung Quốc vào cuối thế kỉ trước cũng còn rất rõ, đương nhiên bây giờ ông có quan hệ rất hữu hảo với nhân dân Trung Quốc. Sau khi biết ý định của chúng tôi, ông Radu đã lập tức chỉ cho chúng tôi người đàn ông mà mũi tên chỉ vào, nói anh ta chính là 'bậc kỳ nhân có thể làm thay đổi hướng bay của đạn'. Theo lời kể của Radu, ông đã từng chiến đấu với người này, khi đó một hàng người nhằm vào anh ta cùng bắn, nhưng tất cả đạn bắn ra đều bay ngược trở lại làm chết một loạt lính Tây ngay tại đó. Trong lúc hoảng loạn, ông Radu đã nhắm bắn lên trời, không ngờ phát súng lại bắn trúng vào người đó, thế là bọn họ ùa đến bắt anh ta lại, còng tay giải đi." "Đáng tiếc, đáng tiếc!" Tất cả cùng than thở. "Nhân tiện nói thêm, ông Radu cảm thấy rất hối hận về những gì mình đã làm khi còn trẻ, luôn miệng nhờ chúng tôi chuyển lời xin lỗi của mình đến nhân dân Trung Quốc." "Tôi có bốn vấn đề muốn hỏi đồng chí Trưởng Ban thư ký." Một vị chủ doanh nghiệp nông sản da mặt đen sạm, dáng vẻ thông minh hỏi Triệu Hàng Vũ: "Thứ nhất, nếu việc có hay không truyền nhân của Đại Mộng quyền còn chưa xác định được, vậy chúng ta có cần tiếp tục lãng phí tiền bạc và nhân lực để tìm kiếm hay không? Các môn phái võ lâm của nước ta đầy đủ cả, lẽ nào lại không thể sánh với Đại Mộng quyền hay sao? Anh sống chết theo đuổi cuộc tìm kiếm này phải chăng là vì một mối quan hệ cá nhân nào đó? Thứ hai, người Tây đã khôi phục lại quan hệ hữu hảo với nước ta, vì hòa bình thế giới, chúng ta có cần thiết gây chiến như vậy không? Thứ ba, nhân viên của Ban thư ký chỉ vẻn vẹn có hơn mười người, công việc cũng mới bắt đầu được một tuần, thế mà đã ăn hết bảy nghìn gói mì tôm, uống tới hơn một trăm cân trà, thực quá phí phạm. Nếu cứ tiếp tục như vậy, tôi khó lòng gánh vác được, cho dù có khó hạ thấp thêm tiêu chuẩn thì cũng nên bãi bỏ việc ăn uống quá ngon, nghiện thuốc quá nhiều đi, chung quy lại, không phải chúng tôi mời người ta đến ăn uống. Thứ tư, các anh đi Pháp điều tra, sao không sắp xếp để đại biểu cổ đông dẫn đầu?" "Tôi xin được trả lời bốn câu hỏi mà vị đại biểu này đã nêu." Triệu Hàng Vũ nghiêm túc nói. "Cũng là bốn điểm. Thứ nhất, chúng tôi không chuẩn bị để chết treo trên một cái cây là Đại Mộng quyền. Đồng thời với việc tìm kiếm truyền nhân của Đại Mộng quyền, chúng tôi cũng tiến hành liên hệ với truyền nhân của các phái như Đại Bằng quyền, Ưng Trảo Hầu quyền. Một khi chứng minh được Đại Mộng quyền đã thất truyền thì sẽ mời họ xuống núi. Ngoài ra, về hứng thú của cá nhân tôi với Đại Mộng quyền thì chỉ là muốn khống chế địch giành thắng lợi mà thôi, không hề có động cơ cá nhân nào trong đó. Đại Mộng quyền mượn lực chế nhân thực sự là tuyệt chiêu đúc kết nghìn năm tính túy của nước ta, chờ lát nữa xem video các vị sẽ biết. Nếu đem so thể lực với sự hung tợn thì những dàn tộc ăn rau quả như chúng ta khó có thể thắng được các chủng tộc ăn thịt - như bản thân tôi, nếu tính về mười đời trước thì cũng là môn đệ thư hương. Thứ hai, những người Tây già cả không phải lo, nhưng bọn Tây trẻ vẫn hung hăng sừng sộ. Nhìn thế giới ngày nay, chúng ta khó có thể tranh với người khác, đánh nhau không lấy được một cái huy chương vàng, sĩ diện của tổ tông coi như đã bị lũ con cháu hèn kém chúng ta làm cho mất hết rồi." "Cả nước cùng tiến lên rất khó," người chủ trì xen vào. "Hơn một tỷ người phục vụ một người nổi trội nhất thì còn có thể. Để tôi nói, thứ mà tổ tông để lại ngoài ăn ra thì còn có đánh nhau." "Tôi vẫn chưa nói hết." Triệu Hàng Vũ bất mãn lườm người chủ trì một cái, nói với mọi người. "Không làm như vậy không được, nỗi sỉ nhục hơn một trăm năm nay không tìm người thay chúng ta thì không thể được. Tôi bất chấp tất cả, ai có thể giúp được chúng ta, tôi sẽ móc cả trái tim mình ra trao cho người ấy. Anh chưa nghe người nước ngoài nói: 'Một người Trung Quốc là một con rồng, một nhóm người Trung Quốc là một ổ giòi."' "Đây là nói quá về chúng ta."   Mời các bạn đón đọc Chớ Gọi Tôi Là Người của tác giả Vương Sóc.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trông Lên Rất Đẹp
Trông lên rất đẹp được Vương Sóc ra để tưởng niệm thời tuổi thơ của mình. Đó là câu chuyện về khoảng thời gian từ 3 tuổi đến 8 tuổi của một đứa bé trai ở một nơi rất đặc biệt.   Phương Thương Thương sinh vào năm 1960, khi mà cả đất nước Trung Quốc đang chuẩn bị cho một cuộc Cách mạng Văn hóa rầm rộ. Không có thời gian để chăm sóc con, bố mẹ cậu bé đã gửi cậu vào một trường quản dưỡng nội trú. Ở đây, trẻ em bị thiết quân luật chặt chẽ bỡi những cô giáo giáo điều và đôi khi tàn nhẫn.   Nhưng Phương Thương Thương là một trường hợp khiến họ cũng lắm lúc không khỏi đau đầu. Cậu bé sinh ra đã cứng đầu, lập dị. Những sinh hoạt hằng ngày nơi cái trại lính nhi đồng đó đã diễn ra hết sức đa dạng, bé nhỏ nhưng vô cùng sống động. Tất cả đã tương tác với tính cách của Phương Thương Thương, tạo nên những suy ngẫm trẻ thơ, những cú sốc, những vết thương. Từ đó, không khí của thời đại tiền Cách mạng Văn hóa được khắc họa sâu sắc, chất chứa những câu hỏi về sự hình thành ra nhân cách con người trong thế kìm hãm, mất tự do của bản ngã. Thêm một tác phẩm nữa từ một thế hệ nhà văn mới của Trung Quốc, những người không tin gì cả, cười nhạo tất cả…  *** Vương Sóc sinh năm 1958 tại Bắc Kinh trong một gia đình quân nhân. Năm 1976, sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, Vương Sóc đi bộ đội, làm y tá ở một đơn vị hải quân. Năm 1978 tác phẩm đầu tay “Chờ đợi” ra đời. Năm 1980 ông được điều về toà soạn tạp chí “Văn nghệ quân giải phóng”. Sau khi phục viên ông về công tác ở Công ty Dược. Năm 1984, Vương Sóc xin thôi việc, làm nhà văn tự do, chuyên viết tiểu thuyết, kịch bản phim, tuỳ bút và phê bình văn học. Năm 1992, Văn tập Vương Sóc ra đời, gồm 4 cuốn, 31 loại, 1 triệu 60 vạn chữ. Tác phẩm chủ yếu của Vương Sóc là “Cô gái hàng không”, “Mất đứt tình yêu của tôi”, “Một nửa là ngọn lửa, một nửa là nước biển”, “Nổi lên mặt biển”, “Nghiền cho đã rồi chết”, “Chúa gàn”, “Chơi nhưng mà hồi hộp”, “Tao là bố mày”, “Ðộng vật hung dữ”, “Xin chớ coi tớ là người”... Nhiều tiểu thuyết của Vương Sóc đã chuyển thành kịch bản phim như “Khát Vọng”, “Câu chuyện ở ban biên tập”, “Anh không phải là người thường”, “Yêu em không thương lượng”.... Văn của Vương Sóc hóm hỉnh, dí dỏm, phóng túng, thường hay dùng ngôn ngữ lưu hành ở đô thị, tự xưng là “tiểu thuyết mang mùi vị đô thị mới”.   Sau một thời gian bảy năm gác bút đi buôn, lập công ty làm kinh tế, tháng 3 năm 1999, Vương Sóc lại xuất hiện trên Văn đàn với tác phẩm hoàn toàn khác trước: “Trông vào đẹp lắm” có độ dài 233.000 chữ, do Nhà xuất bản Hoa Nghệ xuất bản lần đầu 200.000 cuốn. Tháng 8 năm 2000, Vương Sóc lại cho ra cuốn phê bình tiểu luận: “Người đẹp bỏ tôi thuốc bùa mê”, dài 100.000 chữ do Nhà xuất bản Văn nghệ Trường Giang xuất bản, in lần đầu 200.000 cuốn.  *** Năm 1991, viết hơn một triệu chữ cả tiểu thuyết, kịch bản phim truyện, phim truyền hình. Năm sau đã gặp báo ứng, rơi vào khủng hoảng sáng tác. Thực tình thì đó là sự khủng hoảng của tinh thần, tôi bỗng nảy sinh mối hoài nghi rất lớn trước cuộc sống sáng tác của mình lẫn tất cả những gì đã viết ra. Còn nhớ như in thời gian, địa điểm xuất hiện cảm giác lung lay đó. Một buổi trưa, mười một giờ, trước cửa hàng bán đồ ăn Tây Bá Hà bên đường vành đai ba, tôi rẽ qua đó ăn bữa cơm. Hôm đó, chớm sang hè, nắng rất đẹp, tôi đi giữa sương khói bảng lảng bỗng chân nhũn xuống, dùng giọng lưỡi thậm xưng của đám đàn bà tiểu tư sản là tôi thấy trong tôi sụp đổ. Dĩ nhiên là không ngã xuống, nằm giữa phố, mà vẫn bước đi, có điều đầu óc quay cuồng những câu hỏi ngắn vụt tới tấp: Tôi đang làm gì? Thế này coi như tôi đang sống chăng? Cái tôi cần chính là những thứ đang ở trước mắt đây?   Bỗng dưng mất sạch hứng thú trước lối viết vốn đã rất thuần thục, cảm thấy đi cùng với nó là sự đánh mất, sự mai một những ý tưởng ban đầu, thuần thục nhưng lại để vuột mất những điều cốt tủy. Đó là chỗ lung lay cực kì rõ ràng, như lỗ thủng trên bít tất, người khác không thấy nhưng chính mình rất rõ: cái lối viết mà tôi những hô hào với rêu rao kia thực chất chỉ là đơn giản hóa cuộc sống.   Ấy là nói đỡ cho. Nghiêm khắc thì là: bóp méo cuộc sống. Cuộc sống nào cũng đan xen chằng chịt trăm thứ cảm xúc, mà nào có ai giống ai, cớ sao phản ánh vào văn chương lại thành một bộ mặt sơ sài, đơn giản, chẳng hạn: mang tính chất của thể hài kịch. Dĩ nhiên, ở đây cũng bao gồm những hạn chế tự thân của văn chương - một thứ công cụ biểu đạt: câu chuyện thường vẫn có xu hướng tìm tòi một kết thúc viên mãn, sự giới hạn về số lượng chữ khiến người ta chỉ có thể tập trung vào những phát triển chính, còn bao nhiêu sự thực khác đều không ôm đồm nổi. Cũng còn bởi vấn đề của sự thú vị. Tiếng Bắc Kinh đặc trưng khi nói có xu hướng ồn ào rôm rả, nói ra rất dễ lời tiếp lời, một chuyện giản đơn mà xoay tới trở lui viết ra hàng đống giấy, khoái cảm nơi cửa miệng khiến người nói say sưa, tưởng mình thông minh, lại càng “nổ”, càng “diễn”. Nếu đơn thuần chỉ để tạo điểm khác biệt, kiếm mấy tiếng tung hô, hoặc phụ họa cho hợp thế thời, thì cũng chả gì ghê gớm. Nhưng, không giấu quý vị, tôi còn có một “tâm nguyện ban đầu” với văn học, đó chính là: “trả lại cuộc sống nguyên vẹn”. Ý tôi là đi tìm những tác nhân thực sự ảnh hưởng đến hành động nhân vật, những thứ không bị đổi thay bởi ý thức con người, những nhân tố chi phối nguyên sơ nhất, ẩn bên trong của mọi thứ biểu cảm bề ngoài.   Bởi tôi không dám tin vào phản xạ đầu tiên của mình. Bởi hành động thường đa nghĩa. Bởi tư duy quá đỗi phức tạp, bóc tách từng chút một cũng chưa chắc đã khỏi bất ngờ sao mình lại có phản xạ như thế. Ở đây liên quan đến động cơ.   Chắc gì bạn có thể hiểu và nhìn thấu nhân vật dưới ngòi bút của chính mình. Chắc gì anh ta sẽ không mới vui đã buồn, gặp yêu sinh hận - dù nguyên mẫu chính là bạn. Động cơ không nắm rõ, hành vi trượt khỏi quỹ đạo, chỉ còn lại chút tính hài được dàn xếp sẵn, chạy theo những vui buồn yêu giận “lấy ngay”, tới đâu hay đó… trông cũng “thể diện”, nhưng rốt cuộc vẫn trơ trơ một lời tự vấn thiếu hồi đáp: vốn dĩ là vậy hay sao?   Khổ sở không chỉ mỗi điều đó. Chính bởi chưa tới được gốc gác nguồn ngọn, tự túm tóc phiêu diêu giữa lưng chừng, đã có người lôi xuống, thay mình tổng kết ra bộ ra hệ ra phương pháp nọ kia, nói mình chính là thế này thế này, lại còn được số đông chấp nhận. Tôi không nói những kẻ chê mắng tôi, quan hệ giữa tôi với bọn họ rất đơn giản, lập trường khác biệt, tình cảm, suy nghĩ tất thảy đều khác, những điều bọn họ chê tôi đại khái cũng không sai lệch, thỉnh thoảng có lạc sang tận nhà bà ngoại cũng chẳng ảnh hưởng gì. Tôi muốn nói đến những người yêu quý tôi, muốn gặp tôi, coi những thứ của tôi kia là của quý. Trước khi nói ra những lời dưới đây, tôi phải thanh minh trước: ở đây tôi nói sự việc, không nhắm vào người nào hết, tôi chỉ muốn làm rõ một số hiểu lầm từ bấy lâu nay, muốn tháo gỡ những thứ vốn không liên quan đến nhau, có thể là không công bằng, nhưng hoàn toàn không phải mượn dịp để hạ thấp ai đó, cố ý làm xấu ai đó, xin được độc giả chứng giám, xin người trong cuộc bỏ quá cho.   Tôi muốn nói tới những hình tượng nhân vật đã được điển hình hóa qua các phim ảnh chuyển thể từ tiểu thuyết của tôi, hoặc do chính tôi viết kịch bản. Diễn viên rất thành công, được khán giả quan tâm yêu thích, tôi cũng thích thế, cũng như thích những nhân vật khác trong các vở kịch vui khác đã khiến tôi bật cười. Nếu bảo loại hình tượng đó xuất phát từ những sáng tác của tôi, một cách độc đáo, thực tình chẳng dám. Như thế là ốc mò cò xơi, cướp vinh quang của người ta; bất quá như kiểu khôn ngoan của loại người: nhờ người mang thai hộ.   Họ thuộc một dạng người Bắc Kinh khác. Nói thế nào nhỉ? Chắc cũng lương thiện thật, có chút ranh ma, cực kì biết lắng (lấy) phần trong, gạn (bỏ) phần đục, vốn liếng to nhất là đầy một miệng “thấu hiểu” với “cảm thông”, sống “cặm cụi” kĩ càng, không bỏ lỡ cái gì bao giờ, bàn tính gảy rào rào trong bụng người ngoài cũng nghe thấy, một chút xúc cảm đã ngỡ là sâu sắc.   Người tốt! Người có tính như thế, trong cuộc sống này chỉ có lợi, không hại, ra trước công chúng phần lớn đều được cưng chiều, nhưng xuất hiện trong tác phẩm của tôi lại thành lầm lẫn. Toàn thể hiện sai. Chính là kết quả của sự sáng tạo lại của nghệ thuật điện ảnh.   Khác biệt giữa điện ảnh với tiểu thuyết đại để ở chỗ cho ra sản phẩm của ý chí tập thể, rất nhiều người tham gia lao động, cuối cùng đều nêu ý kiến, đều “gửi gắm” những phẩm chất ưa thích của mình vào trong nhân vật, rốt cuộc trả về cho anh một con người hoàn toàn xa lạ. Đương nhiên, điện ảnh ngày nay trước tiên phải là lợi nhuận, được ưa chuộng tức là thành công, hỏi tôi về ý tưởng trong nguyên tác, tôi nào có định như thế, viết hàng lô lốc những thứ dớ dẩn kia chỉ để dựng cho quần chúng một con người tốt. Đúng như lời người phê bình, tôi toàn viết những thứ “láo lếu”. Những lời nói có vẻ đầy nhiệt tình kia thật ra là trêu chọc. Cái thú trêu chọc người khác bắt nguồn từ cảm giác thâm căn cố đế: hơn người. Đúng vậy, tự nghĩ mình “siêu”, có sức nhào nhồi, có tài lập thân lập ngôn, rơi xuống đáy của xã hội mà không hay biết, thịt nát xương tan cái miệng vẫn còn, cho nên nói năng tự cao tự đại, như sống trong mơ, không hòa đồng cũng chẳng hòa tan. Là dạng thích ra oai, là lưu manh giả trượng nghĩa, không cam tâm sống đời hiu quạnh, nhưng rồi chẳng qua vẫn chỉ là hạng cười gắng nói gượng vô danh tiểu tốt.   Hồi nhỏ, tôi là đứa bé hư, quen nhận từ xung quanh những trách mắng và “lừ mắt”, như thế mới cảm thấy mình là mình. Bỗng một ngày, tiếng vỗ tay vang lên, lại còn có người đi theo, tôi hoang mang mất phương hướng, cảm giác đó thật lạ lẫm, đột ngột, vừa dễ chịu vừa không thoải mái, cùng lúc với dễ chịu thường là không tự nhiên, hay đó là sa ngã?   Còn nhớ năm ấy đọc được bài phê phán đầu tiên dành cho mình (trước đó cũng đã có, tôi muốn nói loạt mới khi tôi bắt đầu để mắt tới). Bài do một kẻ nhàn rỗi viết ra, đăng trên Nhật báo Bắc Kinh số cuối tuần. Nội dung phê phán không nhớ nữa, cũng chẳng quan trọng, tóm lại là nói tôi không tốt, chẳng có chỗ nào được, cũng chẳng sao, quan trọng là bài phê bình khiến cảm giác của tôi thay đổi, có thể miêu tả là “cả trái tim rơi tọt xuống ổ bụng”. So với những động viên, khen ngợi từ sau lưng, những công kích, chửi mắng vỗ ngang trước mặt càng khiến tôi nhìn rõ mình đang ở đâu, mình là cái thứ gì, nhờ vậy càng giữ được bản chất - ý tôi là: tính ăn miếng trả miếng của chó sói. Làm sói thực ra tôi không ham, thành chó tôi cũng chẳng thích, so sánh hơn thiệt phải chọn cái đỡ thiệt hơn. Đây chính là cái lợi và sự cần thiết của kẻ thù. Tôi nghĩ tôi cần kẻ thù còn hơn cần bạn bè chiến hữu. Dĩ nhiên, tôi không muốn nói người phê phán tôi đều là loại kẻ thù vác súng bắn, đó chỉ là phép tu từ, nếu nói thế không ổn, tôi rất vui lòng gọi đó là những người sáng suốt, ra roi chỉ lối.   Đó là lời nói thật, tôi cảm ơn những người phê phán tôi. Chính những phê phán “buốt tai” đó giúp tôi nhìn rõ hơn những thứ bị “trông gà hóa quốc”. Tôi nghĩ trước thực tại đó mình cũng không nên quá tiêu cực, nói cách khác là cự tuyệt với nó. Bị hiểu lầm vốn là cái nghiệp của người diễn đạt, cũng chẳng nên coi tất cả những người đó là ngu dốt hết thuốc chữa hoặc nhận định có âm mưu này khác. Một phần nguyên nhân chắc chắn là ở bản thân, chính mình diễn đạt có chỗ mâu thuẫn, để người khác túm được gáy. Tôi nghĩ có một lối viết truyện có thể đem cuộc sống mà tôi nhìn thấy - cái diện mạo vốn có của nó - lột tả một cách chân thực. Kể cũng khá thú vị, đối mặt với những phê phán và mô phỏng chế giễu, tôi lại cảm thấy tư liệu cuộc sống của mình đầy đủ và tròn trịa, vẫn giữ được sự mới lạ khi chưa bị người ta khám phá, nhận biết, giữ được hương vị hoang dã, trinh nguyên. Điều đó quả thực không gì sánh nổi, cho một người viết lách ngót chục năm mà vẫn còn rất ham muốn sáng tác. Nó cũng có nghĩa là tôi vẫn còn cơ hội xây dựng một diện mạo mới mẻ, bước lên một bậc cao hơn, hoặc nói cách khác là lại tìm thấy chốn đào nguyên trong văn học.   Có thể chỉ là tôi đang quan trọng hóa mình quá mức, quá bận tâm với chính mình, không đủ thoải mái ung dung, làm hỏng mất tác phong của kiểu người như chúng tôi. Thế thì đã sao nhỉ? Thì coi như tôi còn thiển cận đi.   Mời các bạn đón đọc Trông Lên Rất Đẹp của tác giả Vương Sóc.
99 Phờ - Răng
 Khi cả một cuộc đời giá chỉ có 99 Phờ-răng       Tại sao lại là “99 Phờ-răng”? 99 phờ-răng là giá tiền của cuốn sách bán trong các cửa hàng ở Pháp và sau khi Liên minh châu Âu dùng đồng tiền chung thì tên cuốn sách được đổi thành 14,99 euro. Trong “99 Phờ-răng” là một cuộc đời, cuộc đời của Octave - nhân vật chính và được coi là hình bóng của chính tác giả Frederic Beigbeder.    “99 Phờ-răng” là cuốn tiểu thuyết viết về thế giới quảng cáo – thế giới mà chúng ta đang sống trong đó, thế giới của những câu slogan ấn tượng, những clip quảng cáo gây nhiều tranh cãi, thế giới của những con người thông minh, sáng tạo với mức lương cao chót vót. Nhưng đằng sau thế giới đầy hào quang đó là những trăn trở, dằn vặt, là sự sám hối của một chuyên gia quảng cáo thành đạt nhưng bất ổn trong tâm hồn. Octave là một mẫu người trẻ tuổi sành điệu nhưng bế tắc, cô đơn trong cuộc sống, tình yêu và đặc biệt ác cảm với chính nghề nghiệp của mình - một nghề đầy uy lực, ma thuật nhưng lại rất trơ trẽn, bịp bợm.   Trong con người Octave là sự giằng xé giữa hai mặt của nghề, với một bên là ánh hào quang, các giải thưởng, sự thăng tiến và một bên là sự cắn rứt của lương tâm trước sự giả dối, khắc nghiệt và tàn nhẫn của nghề quảng cáo. Octave cảm thấy day dứt vì đã gia nhập vào đội quân những kẻ dối lừa người tiêu dùng. Anh ta nhận thức rất rõ rằng, “quảng cáo như con bạch tuộc bám chặt tất cả và sở hữu thế giới. Khởi đầu như trò đùa, giờ đây quảng cáo điều khiển cuộc sống của chúng ta: quảng cáo tài trợ cho truyền hình, chỉ huy báo chí, ra lệnh cho thể thao (không phải Pháp hòa Brazin ở trận chung kết World Cup mà là Adidas thắng Nike!)” Hàng năm đầu tư quảng cáo trên thể giới đạt mức nhiều tỷ đô la. “Và có thể cam đoan rằng, với khoản tiền như thế thì mọi thứ đều có thể đem bán được hết - đặc biệt là linh hồn của bạn.” Octave mệt mỏi trong cái trạng thái bất ổn đó và luôn tự đặt cho mình câu hỏi: “Vì cái gì mà người ta lại biến tôi thành Vị Chúa tể Thế gian? Ðã từ lâu, tôi muốn nhận rõ bí mật: bằng cách nào mà quảng cáo lại trở thành là Chúa tể và trị vì trên đỉnh cao của thời đại chúng ta? Chưa bao giờ trong lịch sử hai nghìn năm nay, một kẻ đần độn như tôi lại có được sức mạnh như vậy.”   Octave là đại diện cho một lớp người trẻ tuổi, thông minh, thành đạt nhưng đã mất hết niềm tin vào cuộc sống, vào tình yêu để rồi đắm mình vào thế giới của ma túy và thác loạn, để rồi đau đớn nhận ra rằng mình đang vô cùng cô độc. Thế giới của những công dân cổ cồn trắng như Octave gắn với những trò ăn chơi thác loạn trong nhà thổ, nơi chỉ có đám gái làng chơi dâm dật “mới có thể đánh thức chức năng đàn ông” trong con người anh ta, bởi anh ta không tin vào tình yêu mà mình từng có. Ðó cũng là thế giới của những gã đồng nghiệp khệnh khạng, suốt ngày dán mắt vào màn hình vi tinh chỉ để tải các bộ phim khiêu dâm, thế giới của những quý bà giám đốc béo ú như khúc giò và một đám nhân viên sáng tạo đang ra sức cười hô hô với khát khao được trông giống như các chuyên gia sáng tạo thực thụ”. Octave muốn thoát ra khỏi cái thế giới trơ trẽn đó và mong ước được cấp trên sa thải. Và cũng chính vì mục đích đó mà anh ta đã phơi bày hết chuyện bếp núc của quảng cáo. “99 Phờ-răng” là một cuốn sách châm biếm, mỉa mai ngành công nghiệp quảng cáo, trong đó tác giả bộc lộ cái nhìn không khoan nhượng về thế giới điên cuồng và đầy nghịch lý, nơi tất cả mọi người khinh bỉ nhau và tiêu phí những giá trị tốt đẹp của con người. “99 Phờ-răng” là cái tát đối với xã hội phương Tây hiện đại, là sự giễu cợt xã hội tiêu thụ với một trong những cái lò xo chính của nó là quảng cáo.   Frederic Beigbeder viết “99 Phờ-răng” như thể để trả thù những năm tháng dối lừa mà anh đã cống hiến cho xã hội tiêu dùng. Năm 2000, sau khi “99 Phờ-răng” được xuất bản lần đầu tiên tại Pháp và trở thành cuốn sách bán chạy nhất trong năm, Frederic Beigbeder đã buộc phải giã từ nghề quảng cáo để rối dấn thân vào một nghề đầy thú vị nhưng cũng đầy thách thức: viết tiểu thuyết. Anh là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy tại Pháp và châu Âu như “Kỳ nghỉ trong hôn mê”, “Tình yêu chỉ sống ba năm” hay “Cửa sổ trên tháp đôi”.   “99 Phờ-răng” đã được đạo diễn Jan Kounen dựng thành phim và chỉ trong mấy tháng từ khi công chiếu ở châu Âu ngày 26/9/2007, bộ phim đã thu được 12 triệu đô la tiền bán vé.   Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách thú vị này tới tất cả những ai muốn khám phá mặt trái của xã hội phương Tây, khám phá mặt trái của nghề quảng cáo - một nghề đang thịnh hành và đang là sự lựa chọn của nhiều bạn trẻ hiện nay. Hy vọng rằng, “99 Phờ-răng” sẽ làm bạn đọc hài lòng khi khám phá ra nhiều điều thú vị về cái thế giới kín cổng cao tường đó.   TP. Hồ Chí Minh, tháng 12/2007   PHAN AN *** Frédéric Beigbeder là nhà văn Pháp, người sáng lập ra giải thưởng Café de Flore, trao vào tháng 9 hàng năm tại Saint-Germain-des-Prés. Ông là tác giả của tác phẩm "Kẻ ích kỉ lãng mạn". Sinh năm 1965 trong một gia đình khá giả, Frédéric Beigbeder theo học tại hai trường trung học nổi tiếng rồi vào Học viện nghiên cứu chính trị Paris, tiếp đó là Trường nghiên cứu khoa học thông tin và truyền thông.   Năm 24 tuổi, Frédéric tốt nghiệp với tấm bằng cao học về marketing - quảng cáo và bắt đầu sự nghiệp khá lừng lẫy của một người đa tài: làm quảng cáo, nhà văn, phê bình văn học, làm chương trình thời luận...    Frédéric Beigbeder đã từng làm cho nhiều tạp chí như Elle, Paris Match, Voici, VSD… và làm trong nhóm phê bình văn học cho một số chương trình trên kênh Paris Première, Canal +, sau đó anh làm riêng chương trình Des livres et moi (Sách và tôi) trên kênh Paris Première. Frédéric Beigbeder cũng từng là biên tập viên cho nhà xuất bản Flammarion.   Là một người đam mê văn học thực sự, song song với những công việc trên, Frédéric Beigbeder không từ bỏ việc viết sách. Năm 1990, anh xuất bản tiểu thuyết đầu tay Mémoire d'un jeune homme dérangé (Hồi ký của một thanh niên bị quấy rầy). Năm 1994, tiểu thuyết thứ hai ra đời Vacances dans le coma (Kỳ nghỉ trong cơn hôn mê) và tiếp theo vào năm 1997 là Tình yêu kéo dài ba năm, kết thúc bộ ba tiểu thuyết về Marc Marronnier.    Tiếp sau đó, các tiểu thuyết của Frédéric Beigbeder đều giành được thành công vang dội như 99 francs - bán được 380 000 bản, được chuyển thể thành phim; hay Windows on the world - bán được 100 000 bản, giành giải Prix Interallié, bản dịch tiếng Anh được nhận giải Independent Foreign Fiction Award.    Ngoài tiểu thuyết, anh còn viết truyện ngắn, tiểu luận, truyện tranh. Frédéric Beigbeder là người sáng lập ra giải thưởng Prix de Flore vào năm 1994, giải thưởng này đã từng vinh danh những cây bút nổi tiếng như Michel Houellebecq, Amélie Nothomb, Virginie Despentes,...   Năm 2009, Frédéric Beigbeder giành Giải Renaudot với cuốn tiểu thuyết Un roman françai.   Mời các bạn đón đọc 99 Phờ - Răng của tác giả Frédéric Beigbeder.
Ba Ngày Ở Nhà Mẹ
Kết cấu Ba ngày tại nhà mẹ tôi (Giải Goncourt 2005) thật đặc biệt. Thoạt tiên là sáu "chương" (từ đầu đến trang 160) tuy tác giả không ghi là chương mà chỉ đánh số từ 1 đến 6. Người kể chuyện xưng "tôi", tự giới thiệu mình là François Weyergraf, vợ là Delphine, hai con gái là Zoé và Woglinde. "Tôi" đã gần sáu mươi, đã xuất bản mười tiểu thuyết và dựng năm bộ phim. Mẹ "tôi" thì đã tám mươi tám tuổi. "Tôi" bắt tay vào một cuốn tiểu thuyết mới, "… tôi đã tìm ra nhan đề trước khi bắt đầu viết, đó là "Ba ngày tại nhà mẹ tôi". Tôi cần phải sáng tạo một nhân vật phụ nữ đã nhiều tuổi, một bà mẹ hư cấu, bà sẽ là mẹ của người kể chuyện chứ không phải mẹ tôi […] Trong tiểu thuyết của tôi, bà mẹ goá chồng" (Trois jours..., tr.75). "Tôi" chọn người kể chuyện là một nhà văn, như thế dễ viết hơn là chọn một kẻ sát nhân, một nhà phẫu thuật hay một bộ trưởng. "Người kể chuyện trong cuốn sách sắp tới của tôi đêm đêm giam mình trong một căn phòng để làm việc [...] Tôi chấp thuận cho phép ông ta thỉnh thoảng rời căn phòng […] Đi đây đi đó, làm tình, viết văn, thật là một tam vị nhất thể tuyệt vời!" (Trois jours..., tr.95, 99, 101). Nhưng rồi việc viết lách chậm như rùa. Vợ "tôi" hỏi: "Cuốn tiểu thuyết của anh đến đâu rồi?". Mẹ "tôi" sống ở Provence, miền Nam, lần gần đây nhất lên Paris, hỏi: "- Con đưa cho mẹ xem cuốn tiểu thuyết của con chứ? Nó đâu? - Bà muốn nói là bản thảo […] Tôi đã trả lời mẹ: - Con chưa viết xong được - Thế ít ra con đã bắt đầu viết chưa?” (Trois jours..., tr.156, 157).   Từ trang 163 đến trang 234, tiếp theo sáu "chương" ấy là trang bìa, trình bày hết cả trang, như một trang bìa thật, cuốn tiểu thuyết của "tôi", với đầy đủ tên tác giả là François Weyergraf, nhan đề cuốn tiểu thuyết là "Ba ngày tại nhà mẹ tôi"… Sau trang bìa là ba chương đã hoàn thành, ghi rõ chương 1, chương 2 và chương 3. Phương thức tự sự chuyển sang ngôi thứ ba, lời kể của người trần thuật: François Graffenberg là một nhà văn; ông đã gần sáu mươi tuổi, vợ là Daphné, hai con gái là Chloé và Sieglinde. Ông định viết một cuốn tiểu thuyết lấy nhan đề là "Ba ngày tại nhà mẹ tôi", nhân vật chính, người kể chuyện trong đó tên là François Weyerstein, cũng là một nhà văn, dự định viết "Ba ngày tại nhà mẹ tôi", nhưng mãi chưa xong vì những chuyện gặp gỡ, hẹn hò. Ông quyết định gác lại tất cả, về nhà mẹ ở mấy ngày để nghỉ ngơi đôi chút và hoàn thành tác phẩm.   Cuốn Ba ngày tại nhà mẹ tôi của François Weyergraf mới được ba chương và dừng ở đây. Ba mươi trang cuối (tr.235-263) tiểu thuyết Ba ngày tại nhà mẹ tôi của François Weyergans được đánh số 7, nối tiếp với 6 "chương" mở đầu tác phẩm và trở về với phương thức tự sự ở ngôi thứ nhất. "Tôi" được tin mẹ "tôi" ở Provence bị ngã chẳng ai biết, nên một mình nằm ngoài vườn, nay đang điều trị ở bệnh viện. "Tôi" liền về Provence. "Thế là tôi về sống ba ngày, ba ngày ấy tại nhà mẹ tôi. Tại nhà mẹ tôi mà không có mẹ tôi". Tiểu thuyết kết thúc bằng mấy dòng: "Tối nay tôi rất muốn gửi cho mẹ tôi một bản fax, tôi rất muốn viết báo tin cho mẹ là tôi vừa đặt dấu chấm hết cho quyển sách mà tôi đã quyết định hoàn thành, sau khi mẹ ngã, tôi về ở ba ngày tại nhà mẹ tôi” (Trois jours..., tr.255, 263).   Nhà văn có thật François Weyergans viết cuốn tiểu thuyết với nhân vật trung tâm là nhà văn hư cấu François Weyergraf (tạm gọi là cuốn A); nhà văn hư cấu này lại viết cuốn tiểu thuyết với nhân vật trung tâm hư cấu là François Graffenberg cũng là một nhà văn (tạm gọi là cuốn B). Đến lượt François Graffenberg lại viết cuốn tiểu thuyết với người kể chuyện là François Weyerstein vẫn là một nhà văn (tạm gọi là cuốn C) và nhà văn ấy đang loay hoay viết "Ba ngày tại nhà mẹ tôi" (tạm gọi là cuốn D). Các tiểu thuyết ấy đều lấy cùng một nhan đề và triển khai cùng một nội dung. Một dạng tiểu thuyết trong tiểu thuyết và theo kỹ thuật "lồng gương" đến mấy tầng. Hai cuốn C và D mới chỉ là những dự định. Cuốn B của François Weyergraf đã xong được ba chương, Cuốn A, tiểu thuyết "có thật" của tác giả "có thật" François Weyergans thì gồm bảy "chương" đánh số từ 1 đến 7 và cả ba chương chen ngang của tác giả cuốn B kia.   Xét về một phương diện khác, cuốn D mới chỉ được nhắc đến, chưa có tên nhân vật và cũng chưa biết là theo phương thức tự sự nào. Cuốn C theo phương thức tự sự ở ngôi thứ nhất, căn cứ vào câu: "Người kể chuyện trong tiểu thuyết của ông (tức François Graffenberg - P.V.T thêm) tên là Weyerstein" (Trois jours..., tr.201). Cuốn B theo phương thức tự sự ở ngôi thứ ba. Đọc cuốn tiểu thuyết hoàn chỉnh, “thật sự" của F. Weyergans, ngôn từ kể chuyện dường như cũng luân phiên thay đổi theo kiểu "lồng gương", từ ngôi thứ nhất (cuốn A) ở 7 “chương”, sang người trần thuật ở ba chương (cuốn B) và sẽ lại trở về với ngôi thứ nhất (cuốn C)...   Một cuốn tiểu thuyết về sáng tác tiểu thuyết của một nhà văn có dự định trong đầu mà cứ trì hoãn mãi viết không xong. Cái gọi là cốt truyện theo nghĩa truyền thống hầu như chẳng có. Ba ngày tại nhà mẹ tôi lôi cuốn hứng thú của bạn đọc về phía kỹ thuật biến hoá chủ thể tự sự trong tác phẩm. Ngoài ra, có những dấu hiệu khiến ai cũng phải băn khoăn: các nhân vật nhà văn trong tác phẩm đều có tên là François như tác giả, còn các họ Weyergraf, Graffenberg, Weyerstein đều na ná dắt dây nhau và gợi nghĩ đến Weyergans. Cũng có mối liên hệ tương tự giữa tên vợ (Delphine - Daphné) và tên hai con gái (Zoé - Chloé; Woglinde - Sieglinde) của Weyergraf và Graffenberg. Dù sao, đó vẫn chỉ là những nhân vật hư cấu; các chủ thể xưng "tôi" và người trần thuật trong tác phẩm vẫn không thể đồng nhất với nhà văn. Trong tiểu thuyết này, chủ thể "tôi" có đầy đủ cả họ tên, tuổi tác, lại có vẻ gắn với những mối quan hệ xã hội, vợ con, mẹ, tình nhân, nhà xuất bản... Nhưng các tên họ dắt dây nhau, nhoà vào nhau, các sự kiện lại rất mờ nhạt, cả cuốn tiểu thuyết chỉ quanh quẩn ý chính là mãi chẳng hoàn thành. Thật không dễ dàng hình dung để phân tích "tôi" như một nhân vật theo lối mòn trước đây..."   GS. Phùng Văn Tửu   Khoa Ngữ văn - Đại học Sư phạm Hà Nội  *** François Weyergans sinh năm 1941 ở Bỉ, mẹ là người Pháp và bố là người Bỉ, nhưng chủ yếu sống ở Paris. Ông xuất thân là một nhà làm phim, tốt nghiệp IDHEC (Trường Điện ảnh quốc gia), đạo diễn cuốn phim ăn khách một thời Je t'aime, tu danses (Anh yêu em, còn em thì nhảy múa).   Dầu vậy, Weyergans được thiên hạ biết tiếng nhiều nhờ sự nghiệp văn chương hơn là nhờ mấy tác phẩm điện ảnh lẻ tẻ.   Ông bắt đầu nổi danh với tư cách là nhà văn vào năm 1973 qua cuốn Le pitre (Thằng hề). Trong số các tác phẩm đáng chú ý khác của ông còn có Le radeau de la Méduse (Chiếc bè Méduse), La vie d'un bébé (Hài nhi), Je suis écruvain (Tôi viết văn), La démence d'un boxeur (Võ sĩ điên rồ, giải Renaudot 1992), Franz et François (Franz và François).   Năm 2005 này, ông cùng lúc cho ra mắt hai cuốn Trois jours chez ma mère vừa trúng giải Goncourt và cuốn Salomé (Salomé, tác phẩm đầu tay, khởi thảo năm 1968).     Tác phẩm đoạt giải:   "Có thể rồi một ngày nào đó tôi cũng sẽ trách mình, không phải vì ít trò chuyện với mẹ, bởi hầu như chiều nào tôi cũng nói chuyện qua điện thoại với bà, mà là vì ít đến thăm bà, nhất là mấy năm sau này. Đã thượng thọ, vậy mà người mẹ yêu quý của tôi vẫn còn tỏ ra rạch ròi hơn tôi nhiều. Trong điện thoại, bà không ngớt tóm gọn tình thế: "Tóm lại, mẹ thật ít có dịp trông thấy con trên đời"".   Chính vì vậy mà, thay mặt tác giả, nhân vật François Weyergraf mong muốn được "ba ngày về với mẹ" cho phải đạo làm con.   Đây là một cuốn tiểu thuyết có cấu trúc phức tạp. Người kể chuyện François Weyergraf "bịa" ra một tác giả tên là François Graffenberg, ông Graffenberg này lại "bịa" ra một nhân vật là François Weyerstein; mỗi François lại truyền cho François khác cái xung năng sáng tạo của mình.   Ngay từ đầu, độc giả đã gặp lại nhân vật có họ na ná với họ Weyergans trong cuốn Franz et François xuất bản 8 năm trước. François Weyergraf là nhà làm phim và nhà văn (hệt như tác giả), 60 tuổi, luôn luôn thao thức, trăn trở, bất an trong lòng, nhưng rất ư uyên bác, chẳng khác gì nhà văn Bỉ danh tiếng Franz Weyergans, cha của tác giả.   Nếu như qua Franz et François, tác giả đã tỏ lời vừa kính phục vừa ganh ghét cha mình, thì cuốn Trois jours chez ma mère như một bức thư bày tỏ tình cảm gửi tới mẹ già.     Mẹ và con   Bà nay 91 rồi, nhưng vẫn minh mẫn và còn sung sức. Qua điện thoại, bà không ngớt thăm hỏi, chăm sóc đứa con trai ở tuổi 60 như nó còn bé dại. Bà dặn nó phải viết nhiều hơn, bớt hút thuốc, không thì phổi bị thủng lỗ chỗ. Một nhân vật kỳ diệu.   Nhớ tới thời bà... chưa già, vừa góa chồng là bà cặp kê ngay với một ông láng giềng chủ một xí nghiệp có vợ con. Bà cũng chẳng ngại la cà trong các quán bar, nhảy nhót với những kẻ lạ mặt. Vóc dáng, cử chỉ, lời ăn tiếng nói của bà lúc nào cũng trẻ trung, sống động, khiến cho nhiều người tưởng bà với con mình là vợ chồng chung gối với nhau.   Thế nên Francois Weyergraf/Weyergans hết mực yêu quý, tôn sùng mẹ mình. Chúng ta nghe rõ đằng sau chữ "maman" (má, mẹ, u...) mỗi khi tác giả thốt lên trên trang giấy từng cung bậc rung động của ngòi bút.   Ông khao khát được ôm mẹ vào lòng, về ở với mẹ dầu chỉ "ba ngày" vậy mà cứ mải miết bận rộn. Lại nữa, cứ mong mang về dâng tặng mẹ cuốn sách viết về cuộc đời của bà, nhưng vì nó vẫn còn trong trứng nước nên tác giả ngần ngại không dám bước chân. Mà cũng có thể vì tác giả e rằng một khi đã phơi bày cuộc đời của mẹ mình trên trang sách, biết đâu bà lại chẳng bất thần trút hơi thở cuối cùng.   Rốt cuộc, "ba ngày về với mẹ" chỉ là một giấc mơ.     Mượn cớ   Hay chỉ là cái cớ cho phép tác giả nhẩn nha "tùy bút" trên 270 trang sách, một cách hấp dẫn, lôi cuốn, nhờ ở một văn phong điêu luyện, nhưng không kiểu cách. Thành quả của bảy năm ròng miệt mài với ngôn từ, chữ nghĩa, với tư duy, suy luận.   Viện Hàn lâm Goncourt đã đúng đắn khi trao tặng Goncourt, giải quan trọng nhất của văn học tiếng Pháp, cho tác phẩm Trois jours chez ma mère của Francois Weyergans. Trong số các nhà văn từng đoạt giải này có Marcel Proust, Simone de Beauvoir, Marguerite Duras...   TRẦN THIỆN ĐẠO (Paris)    Mời các bạn đón đọc Ba Ngày Ở Nhà Mẹ của tác giả Francois Weyergans.
Người Khuyết Tật - Barabbas
Barabbas (1950) là một tiểu thuyết của văn hào Pär Lagerkvist, người đoạt Giải Nobel Văn chương năm 1951. Tác phẩm thuật lại câu chuyện về cuộc đời của Barabbas, người mà Thánh Kinh cho biết đã được tha thay vì Chúa Giê-xu. Barabbas đã dùng suốt cuộc đời còn lại của mình để tìm hiểu lý do vì sao mình được chọn để sống. Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên đồi Golgotha. Bên lề đám đông, Barabbas đứng đó. Vốn là một người bạo lực, sống ngoài vòng luật pháp và nổi loạn, Barabbas không thể nào có chút kính trọng với một người không biết phản kháng, dầu người đó đã chết thay chỗ của mình. Barabbas cũng hoài nghi về thần tánh của Chúa Giê-xu. Dầu vậy, ông cũng bị lôi cuốn về sự hy sinh của Chúa. Ông tìm gặp nhiều môn đệ khác nhau của Chúa để tìm hiểu. Tuy nhiên, những quan điểm tôn cao Chúa của họ không phù hợp với sự quan sát cụ thể của ông về Chúa. Quan trọng hơn nữa, vì Barabbas chưa bao giờ kinh nghiệm được tình yêu - vốn là nền tảng của niềm tin Cơ-đốc - nên Barabbas thấy rằng ông không thể nào hiểu được tình yêu, và do đó không thể nào hiểu được đức tin Cơ-đốc. Barabbas nói rằng ông "muốn tin," nhưng đối với Barabbas, hiểu biết là điều kiện tiên quyết để tin, do đó ông không thể tin. Sau nhiều thử thách gian truân, cuối cùng Barabbas đến Rome, nơi ông hiểu lầm cuộc hỏa hoạn tại Rome là khởi đầu của Thiên Đàng mới, do đó ông hăng hái giúp đám cháy lan rộng. Kết quả, ông bị bắt và bị đóng đinh cùng với những Cơ-đốc nhân khác như là những người tử đạo về một đức tin mà ông vẫn chưa hiểu. *** Pär Lagerkvist được trao giải vì những tác phẩm mang sức mạnh nghệ thuật và sự tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi muôn đời vẫn đặt ra trước loài người. Tiểu thuyết Barabbas là tuyệt tác của P. Lagerkvist về nỗ lực của con người tìm kiếm đức tin, đề cập đến những vấn đề cấp thiết nhất của tồn tại con người một cách hết sức xác thực và dũng cảm.   PÄR LAGERKVIST (23/5/1891 - 11/7/1974) Giải Nobel Văn chương 1951 * Nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch Thụy Điển * Nơi sinh: Vaxjo (Thụy Điển) * Nơi mất: Stockholm (Thụy Điển) Pär Lagerkvist là con một công nhân đường sắt. Ông học ngữ văn và lịch sử nghệ thuật, yêu thích văn chương và có định hướng trở thành nhà văn ngay từ thời niên thiếu. Năm 1912 P. Lagerkvist bắt đầu in thơ và truyện dài Những con người, viết báo và phê bình sân khấu. Năm 1913 ông đến Paris và chịu ảnh hưởng rất nhiều của trường phái ấn tượng, đặc biệt trong hội họa. Do ảnh hưởng của Thế chiến I nên các sáng tác thời kì đầu của P. Lagerkvist phản ánh tâm trạng lo âu, hoang mang, cô đơn và bất lực của con người trong thời kì đế quốc chủ nghĩa (Nỗi buồn, 1916). Những năm sau đó ông viết thơ, kịch, truyện, phê bình sân khấu. Năm 1925, ông cho ra đời cuốn tự truyện Vị khách của thực tại mang quan điểm nhân đạo, có tính chiến đấu, được viết bằng ngôn ngữ giản dị nhưng mang tính nghệ thuật rất cao. Cho tới năm 1930 P. Lagerkvist định cư chủ yếu tại Pháp và Ý, và sau khi trở về Thụy Điển, ông vẫn thường xuyên trở lại vùng Địa Trung Hải này. Năm 1940 ông được bầu vào Viện Hàn lâm Thụy Điển. Tiểu thuyết Barabbas (1950) là đỉnh cao sáng tác của P. Lagerkvist, kể lại cốt truyện của kinh Phúc Âm một cách chân thực và đầy sức thuyết phục, ngay lập tức được dịch sang 9 thứ tiếng và dựng thành phim. Năm sau, nhà văn nhận giải Nobel. Cho đến cuối đời ông tiếp tục viết thơ, sáng tác 5 cuốn tiểu thuyết. P. Lagerkvist có hai đời vợ. Ông mất năm 1974, thọ 83 tuổi. * Tác phẩm: - Những con người (Manniskor, 1912), truyện dài. - Nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật họa hình (Ordkonst och bildkonst, 1913), tùy bút [Verbal art and pictorial art]. - Sắt và người (Jam och manniskor, 1915), tập truyện. - Nỗi buồn (Angest, 1916), thơ [Anguish]. - Người cuối cùng (Den sista manniskan, 1917), kịch. - Sân khấu (Teater, 1918), tiểu luận. - Hỗn loạn (Kaos, 1919), tập thơ. - Thời khắc khó khăn I, II, III (Den svara stunden, 1918), kịch [The difficult hour I,II,III]. - Bí mật thiên đường (Himlens hemlighet, 1919), kịch [The secret of heaven]. - Những motiv (Motivs, 1919), thơ và văn xuôi. - Nụ cười vĩnh cửu (Det eviga bendet, 1920), truyện dài. - Con đường của người hạnh phúc (Den lyckliges vag, 1921), thơ. - Người vô hình (Den osynlige, 1923), kịch. - Những truyền thuyết anh hùng đáng sợ (Onda sagor, 1924), tập truyện ngắn. - Vị khách của thực tại (Gaest hos verkligheten, 1925), tự truyện [Guest of reality]. - Bài ca trái tim (Hjartats sanger, 1926), thơ [Songs from the heart]. - Cuộc sống bị chinh phục (Det besegrade livet, 1927), tự truyện [The conquered life]. - Người đã sống hết cuộc đời (Han som fick leva om sitt liv, 1928), kịch [He who lived his life over again]. - Huyền thoại loài người (Myten on manniskorna, khoảng 1930, chơa in). - Bên đống lửa (Vid legeraldem, 1932), tập thơ. - Vua (Konungen, 1932), kịch. - Tên đao phủ (Bödeln, 1933), kịch [The hangman]. - Người không có tâm hồn (Mannen utan sjal, 1936), kịch [The man without a soul]. - Chiến thắng trong bóng tối (Seger i mörker, 1939), kịch [The victory in the darkness]. - Thơ và cuộc chiến (Song och strid, 1940), tập thơ. - Thằng lùn (Dvọrgen, 1944), tiểu thuyết. - Hãy để mọi người được sống (Lat manniskam leva, 1949), kịch. - Barabbas (1950), tiểu thuyết. - Đất hoàng hôn (Aftonland, 1953), tập thơ. - Sibyllan (1956), tiểu thuyết. - Cái chết của Ahasverus (Ahasverus dod, 1960), tiểu thuyết. - Người hành hương trên biển (Pilgrim pa havet, 1962), tiểu thuyết. - Mariamne (1967), tiểu thuyết.   * Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt : - Người khuyết tật, gồm 2 tiểu thuyết Người khuyết tật (Dvọrgen), Nguyễn Thái Hà dịch và Barabbas, Dương Cầm dịch, NXB Hội Nhà Văn, 2002. - Bố và tôi, Chiếc thang máy xuống địa ngục, Nhật Chiêu dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1997. - Cha và tôi, Hàn Thủy Giang dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1998. - Chiếc thang máy xuống địa ngục, Ngô Bích Thu dịch, in trong Đôi mắt lụa, NXB Văn Học, 1998; Truyện ngắn tình yêu hiện đại thế giới, NXB Văn hóa - Thông tin, 2003. - Cuộc phiêu lưu, Cốt thiêng, Tình yêu và cái chết, Chợ đồ cũ, Hà Việt Anh dịch, in trong tập Tọa độ tình yêu, NXB Hội Nhà Văn, 2004. ©  Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây