Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Vượt Thời Gian

Kẻ Vượt Thời Gian (The Time Machine) là một tiểu thuyết thuộc thể loại khoa học viễn tưởng của tác giả H. G. Wells, được xuất bản vào năm 1895. Đây là một khái niệm phổ biến khi đề cập đến việc du hành thời gian, việc này có thể thực hiện được bằng một cỗ xe mà nhà du hành có thể điều khiển đến bất kì nơi nào mà họ muốn đến. Thuật ngữ "cỗ máy thời gian" lần đầu tiên được đặt ra bởi Well trong tác phẩm của ông. Tiểu thuyết Kẻ Vượt Thời Gian đã từng được chuyển thể thành 2 bộ phim điện ảnh là Cỗ Máy Thời Gian (phim 1960) và Cỗ Máy Thời Gian (phim 2002), cũng như 2 loạt phim truyền hình, và nhiều truyện tranh khác. Ý tưởng về cỗ máy thời gian cũng đã truyền cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học cũng như nhiều sản phẩm giải trí khác. Herbert George Well thôi học năm 14 tuổi để làm người trông coi cửa hàng, rồi thi đỗ đại học, và sau đó trở thành giáo viên. Sau một thời gian sống trong cảnh nghèo khổ, ông trở thành một nhà văn viễn tưởng nổi tiếng. Trong các tác phẩm của mình, H.G. Wells đã mô tả máy bay và tàu ngầm đi lại, trước khi người ta mơ hồ tin rằng những hành trình như vậy có thể thực hiện được. Là một con người đầy nghị lực H.G. Wells viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Phác thảo lịch sử (An Outline of History - 1920) và nhiều nghiên cứu về khoa học và chính trị. H.G. Wells đã phỏng vấn nhiều nhà lãnh tụ chính trị nổi tiếng và luôn có chính kiến về các sự kiện trên thế giới. Nhưng người ta lại nhớ đến một H. G. Wel1s tiểu thuyết gia hơn. Kẻ Vượt Thời Gian (The Time machine - 1895) và Người vô hình (The Inrrsible Man - 1897) đã trở nên rất gần gũi với công chúng và cũng được các nhà làm phim đặc biệt ưa thích.  Bằng trí thông minh hiếm có và chí phấn đấu mãnh liệt, mặc dù phải bận rộn vật lộn với miếng ăn ngay trong thời niên thiếu, ông vẫn đạt những bước tiến đều trên con đường học vấn. Được đại học Royal College of Science, Kensington, cấp học bổng, ông là một sinh viên ưu tú của khoa học gia nổi tiếng T.H. Huxleỵ Ra trường với ngành động vật học, ông có dự tính trở thành một giáo sự Không ngờ năm 21 tuổi, một tai nạn trên sân túc cầu phá hư một chiếc thận; ông phải nằm liệt giường một thời gian dài; con đường dạy học đành bỏ dở. Hoàn cảnh thiếu may mắn đó bắt buộc ông phải ứng biến, và tình cờ bước vào sự nghiệp văn chương. Kiến thức khoa học có sẵn cộng với óc tưởng tượng vô cùng phong phú trở thành tài sản quý báu, Wells thành công rất sớm với những truyện ngắn, xã luận, và tranh khôi hài đăng báo. "The Time Machine" là truyện dài đầu tay của ông, xuất hiện từng kỳ trên mặt báo rồi được in thành sách năm 1985. Độc giả khắp nơi thấy ngay dấu hiệu của một thiên tài, và Wells nổi tiếng nhanh chóng khắp thế giới. Trong vòng năm mươi năm, H.G. Wells cho ra đời một số lượng kinh hồn là 150 tác phẩm. Ông viết nhiều loại, nhưng thành công nhất vẫn là khoa học giả tưởng, mà ngoài "The Time Machine" còn phải kể đến "War of the Worlds" (chiến tranh liên hành tinh), "The Invisible Man" (người vô hình), "The Island of Doctor Moreau" (hòn đảo của bác sĩ Moreau). Ông mất năm 1946 giữa lúc uy tín đang suy sụp trầm trọng vì xuất bản quá nhiều tác phẩm tầm thường - nằm ngoài sở trường khoa học giả tưởng của ông - trong hơn 20 năm liền. Nhưng gần đây phong trào đọc H.G. Wells đã mạnh mẽ trở lại. Người ta khám phá rằng trong khoảng 20 tác phẩm có lẽ sẽ tồn tại vĩnh viễn với thời gian, Wells không những chỉ chứng tỏ tài nghệ văn chương mà còn có viễn quan chính xác. Những suy tưởng của ông về con người, về thế giới, về vũ trụ không còn là giả tưởng xa xôi nữa, mà càng lúc càng phản ảnh trung thực đời sống đầy bất trắc và hoang mang của chúng ta. *** Kẻ vượt thời gian (gọi hắn như vậy cho dễ nhớ) đang cố giải thích một chuyện thật lạ và khó tin. Mắt hắn rực lên nét hăng hái, và khuôn mặt thường xanh xao của hắn hồng hào, sống động. Ngọn lửa trong lò sưởi bập bùng, ánh sáng từ ngọn đèn phản chiếu lấp lánh vào những đốm bọt nhỏ li ti đang sủi chạy trong các ly rượu. Những chiếc ghế, do hắn phát minh, không chỉ là vật thụ động bị ngồi lên mà đang liên tục vuốt ve, tạo sự dễ chịu cho mọi người. Tất cả tạo thành cái không khí thoải mái sau bữa ăn tối, khi mà ý tưởng được giải phóng khỏi mọi sự kềm hãm, tha hồ bay nhảy tự do. Trong khi chúng tôi ngồi lười biếng thán phục thái độ chân thành của một người nhiều tưởng tượng (tối thiểu chúng tôi nghĩ thế lúc ấy), hắn vừa trỏ ngón tay út mảnh khảnh về phía trước để nhấn mạnh vấn đề, vừa liên tục nói say sưa: "Qúy vị phải nghe tôi thật kỹ. Tôi sẽ đi ngược lại một hoặc hai điều mà ai cũng xem là đương nhiên đúng. Môn hình học mà họ dạy quý vị trong trường, chẳng hạn, đã được đặt trên nền tảng sai lầm." "Anh bắt đầu kiểu này thì có khác gì làm khó chúng tôi?" Filby, một chàng tóc hung hay lý sự, đặt vấn đề. "Tôi không đòi quý vị phải công nhận bất cứ một điều gì mà không giải thích rõ ràng. Rồi quý vị sẽ công nhận đủ những điều tôi mong muốn. Hẳn quý vị đã biết một đường thẳng toán học, mà theo định nghĩa là không có bề dày, không thể nào hiện hữu trên đời. Họ dạy quý vị như thế phải không? Mặt phẳng toán học nữa. Tất cả chỉ là quan niệm trừu tượng." "Đúng thế!" Nhà tâm lý học nhìn nhận. "Như vậy, vì chỉ có chiều dài, chiều rộng, chiều cao, một khối thể cũng không thể nào hiện hữu được." "Tôi phản đối," Filby nói. "Dĩ nhiên một khối đặc có thể hiện hữu. Tất cả những vật thể có thật... " "Hầu hết chúng ta đều nghĩ thế. Nhưng khoan đã. Có thể nào một khối thể hiện hữu tức thời hay không?" "Tôi không hiểu anh nói gì," Filby nói. "Có thể nào một khối thể, không tồn tại trong bất cứ một khoảnh khắc ngắn ngủi nào, hiện hữu được không?" Filby bắt đầu trầm tự "Rõ ràng," kẻ vượt thời gian tiếp, "mỗi vật thể đều phải có bốn chiều: chiều dài, chiều rộng, chiều cao và chiều LÂU nữa. Nhưng vì một lý do thực tế đặc biệt mà tôi sẽ giải thích, chúng ta đã quên mất điều ấy. Ba chiều kia thường được gọi là ba mặt phẳng không gian, còn chiều thứ tư chính là THỜI GIAN. Tuy nhiên, chúng ta có khuynh hướng đặt ra một sự phân biệt sai lầm giữa ba chiều không gian và chiều thời gian, vì ý thức của chúng ta thường di chuyển bất định về đúng một phía của chiều thời gian từ lúc khởi đầu cho đến đoạn cuối cuộc đời." "Điều này," một thanh niên vừa lên tiếng vừa cố châm lại điếu xì gà bằng ngọn lửa trong chiếc đèn để bàn, "điều này... thật là rõ lắm." "Đáng ngạc nhiên là chẳng ai để ý đến điều ấy," kẻ vượt thời gian tiếp, nét vui trên mặt tăng lên một chút. "Đây chính là chiều thứ tư, mặc dù nhiều người từng nhắc tới chiều thứ tư không biết là họ muốn nói đến nó. Chiều thứ tư là một cách nhìn thời gian. Không có sự khác biệt nào giữa chiều thời gian và ba chiều không gian, trừ một điều là ý thức của chúng ta di chuyển theo nó. Nhưng một số người ngây thơ đã nghĩ sai về chiều thứ tự Chắc quý vị đều biết rõ quan điểm của họ?" "Tôi chưa biết," ông thị trưởng nói. "Rất đơn giản. Không gian, theo các nhà toán học, được xem là có ba chiều gọi là chiều dài, chiều rộng, chiều cao. Ba chiều ấy có thể được xác định bằng ba mặt phẳng thẳng góc với nhau. Nhưng một số triết gia đặt câu hỏi "Tại sao ba mặt phẳng, tại sao không thể có một mặt phẳng khác thẳng góc với cả ba mặt phẳng kiả" và họ cố tạo dựng khoa hình học bốn chiều. Giáo sư Simon Newcomb đã trình bày quan điểm này trước hội toán học New York mới khoảng hơn tháng trước đây. Qúy vị đều biết rằng trên một mặt phẳng (chỉ có hai chiều) chúng ta có thể biểu diễn một vật thể ba chiều mà không làm mất bất cứ đặc tính nào của nó. Tương tự, họ nghĩ rằng với ba chiều, họ có thể biểu diễn các vật thể có bốn chiều, nếu họ nắm vững mọi quy luật cần thiết." "Tôi cũng nghĩ vậy," ông thị trưởng lẩm bẩm. Đôi lông mày nhíu lại, ông chìm vào cõi suy tư, cặp môi ông di động như người đang lập đi lập lại một câu thần chú. "Phải, giờ tôi đã hiểu rồi," ông thốt lên sau một lúc lâu, với một nét vui mừng không lấy gì làm rõ ràng, chắc chắn. "Được. Tôi không ngại cho quý vị biết rằng tôi đã nghiên cứu khoa hình học bốn chiều từ khá lâu nay, và đã khám phá ra một số kết quả khá lạ lùng. Thí dụ, đây là tấm hình của một người phái nam lúc tám tuổi, tấm này lúc 15 tuổi, tấm này 17 tuổi, tấm kia 23 tuổi, v.v... Tất cả đều có thể gọi là những "thời đồ", hình biểu diễn ba chiều của một sinh vật bốn chiều, cố định và không thể biến đổi. "Giới khoa học," kẻ vượt thời gian ngưng nói một chút để chúng tôi có đủ thời giờ ghi nhận, rồi tiếp, "biết rất rõ thời gian chỉ là một loại không gian. Đây là một biểu đồ quen thuộc, biểu đồ thời tiết. Đường mà tôi đang chỉ biểu diễn những thay đổi của hàn thử biểu. Hôm qua ở mức độ cao, tối qua thấp hơn, rồi sáng nay lại tăng lên dần đến đây. Mức thủy ngân làm sao đi theo đường biểu diễn này nếu chỉ có ba chiều không gian quen thuộc? Nhưng hiển nhiên nó đã vẽ đường này, và đường này, vì vậy, phải được kết luận là đường của chiều thời gian." "Nhưng," ông bác sĩ nói, mắt đăm đăm nhìn một khối than đá trong lò sưởi," nếu thời gian chỉ là chiều thứ tư của không gian, tại sao, và tại sao từ trước đến nay vẫn thế, nó được coi là một chiều khác? Tại sao chúng ta không thể di chuyển trong thời gian như trong ba chiều kia của không gian?" Kẻ vượt thời gian mỉm cười. "Ông có chắc chúng ta có thể di chuyển tự do trong không gian không? Chúng ta có thể đi về phía trái, phía phải, phía trước, phía sau, và con người đã luôn luôn làm thế. Nhưng chiều lên xuống thì sao? Chúng ta bị ngăn cản bởi sức hút trái đất kia mà." "Không hẳn," ông bác sĩ nói. "Có khinh khí cầu." "Nhưng trước thời của khinh khí cầu, trừ những chuyện nhảy lên nhảy xuống và sự khác biệt chiều cao của mặt đất, con người không có tự do di chuyển theo chiều thẳng đứng." "Nhưng họ vẫn có thể di chuyển lên xuống chút ít, như anh đã nói." "Xuống, xuống dễ hơn lên rất nhiều." "Nhưng anh không thể di chuyển trong thời gian một chút nào hết, anh không thể thoát khỏi giây phút hiện tại." "Thưa ông bác sĩ thân kính, đó chính là điểm sai lầm của ông. Đó chính là điểm sai lầm của cả thế giới. Chúng ta luôn luôn rời xa hiện tại. Những thực thể tâm thức của chúng ta, vốn không có hình thể và khối lượng, di chuyển trên chiều thời gian bằng vận tốc đều từ lúc nằm nôi xuống đến mộ phần. Y hệt như trường hợp đi xuống thấp nếu chúng ta bắt đầu sự hiện hữu ở một nơi trên cao hơn mặt đất 50 dặm. "Điều khó khăn là," nhà tâm lý học ngắt lời. "Anh có thể di chuyển qua lại trong cả ba chiều của không gian, nhưng không thể làm tương tự với thời gian." "Đó chính là nguyên nhân dẫn đến phát minh lớn của tôi. Nhưng ông đã lầm khi nói rằng chúng ta không thể di chuyển trong thời gian. Thí dụ, khi tôi hồi tưởng lại từng chi tiết của một việc đã qua có nghĩa là tôi trở lại phút giây xảy ra việc đó: trạng thái lúc ấy của tôi thường được gọi là đãng trí. Dĩ nhiên, cũng như một anh mọi hoặc một con thú nhảy cao lên khỏi mặt đất rồi tức thì rơi xuống, tôi không thể lưu lại ở phút giây quá khứ, mà sẽ bị kéo về hiện tại. Nhưng chú ý rằng trong thí dụ tôi vừa đưa ra, một người văn minh hơn một anh mọi ở chỗ là người ấy có thể dùng khinh khí cầu để bay lên ngược chiều hút của trái đất. Đã thế, tại sao chúng ta - những người văn minh - không có quyền hy vọng sẽ có một lúc, chúng ta có thể dừng lại hoặc đi nhanh hơn theo chiều thời gian; và ngay cả quay đầu lại, đi ngược chiều thời gian nữa? "Chuyện này," Filby xen vào, "tất cả chỉ là... " "Tại sao không được?" Kẻ vượt thời gian hỏi. "Trái với lý lẽ," Filby nói. "Lý lẽ nào?" Kẻ vượt thời gian hỏi. "Anh có thể dùng lập luận để chứng minh rằng màu đen là màu trắng," Filby đáp, "nhưng anh sẽ chẳng bao giờ thuyết phục được tôi." "Có lẽ không," kẻ vượt thời gian nhìn nhận. "Nhưng chắc quý vị đã bắt đầu hiểu mục đích cuộc nghiên cứu của tôi về hình học bốn chiều. Từ lâu tôi đã có khái niệm mơ hồ về một cái máy... " "Để vượt thời gian!" Chàng thanh niên thốt lên. "Di chuyển trong thời gian, theo bất cứ chiều nào." Filby phá lên cười. "Nhưng những điều tôi nói đều có thí nghiệm chứng minh." Kẻ vượt thời gian nói. "Nếu làm được như anh nói thì rất tiện lợi cho các sử gia," nhà tâm lý học nhận xét. "Họ có thể lùi lại thời gian để kiểm chứng những gì đã được ghi lại về trận Hastings chẳng hạn!" "Ông không nghĩ làm như vậy là gây ra khó dễ à?" Ông bác sĩ nói. "Tổ tiên chúng ta chắc không thích những kẻ hay kể chuyện sai đâu." "Mình có thể nghe tiếng Hy Lạp ngay từ miệng Homer hoặc Plato," người thanh niên nói. "Nếu vậy người ta sẽ không để yên anh đâu. Các học giả Đức đã cải tiến tiếng Hy Lạp rất nhiều." "Và rồi còn tương lai nữa," người thanh niên lại nói. "Thử nghĩ xem! Chúng ta có thể đầu tư hết cả gia sản, để tiền lời tự sinh ra, rồi tới sớm để mà hưởng thụ!" "Khám phá một xã hội," tôi nói, "xây dựng hoàn toàn trên nền tảng cộng sản." "Nghe như một thuyết hoang đường!" nhà tâm lý học trở lại vấn đề. "Phải, chính tôi đã từng nghĩ thế," kẻ vượt thời gian trả lời, "vì vậy tôi chưa bao giờ nói chuyện này với người khác, cho tới khi... " "Có thí nghiệm chứng minh!" Tôi thốt lên. "Anh sẽ chứng minh những điều anh nói thật sao?" "Chứng minh, chứng minh!" Filby kêu thành tiếng. Hắn có vẻ hết chịu đựng nổi những lời giải thích của kẻ vượt thời gian. "Hãy cho chúng tôi nhìn tận mắt thí nghiệm của anh," nhà tâm lý học yêu cầu, "mặc dù, như anh biết, chúng tôi thấy khó tin lắm." Kẻ vượt thời gian mỉm cười đảo nhìn hết chúng tôi. Rồi, trong khi vẫn giữ nụ cười nhẹ, với hai tay đút sâu trong túi quần, hắn bước chậm ra khỏi phòng. Chúng tôi nghe tiếng dép lẹp kẹp của hắn kéo dài trên hành lang dẫn tới phòng thí nghiệm. Nhà tâm lý học nhìn chúng tôi. "Không biết hắn định làm gì đây?" ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Vượt Thời Gian của tác giả Herbert George Wells & Đẳng Sơn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vị Hạt Táo
Bí ẩn, nên thơ và lôi cuốn - ba từ mới hình dung về văn học Đức qua Vị Hạt Táo. Triết lý, khô khan và ảm đạm - đó là những từ thường được dùng để miêu tả nền văn học Đức. Song với Vị Hạt Táo, cuốn tiểu thuyết đầy sức hút của Katharina Hagena, người đọc có thể quên đi ấn tượng ấy. Như tựa sách, hương táo và vị táo vấn vít lấy câu chuyện về ba thế hệ nữ nhân trong một gia đình: không nồng gắt nhưng ám ảnh. Mỗi cá nhân là một thế giới nội tại mờ biệt, khó lí giải, chính vì vậy khiến ngôi nhà cũng mang vẻ u ẩn. Sau khi Bertha - bà ngoại qua đời, nhân vật xưng Tôi về lại ngôi nhà của gia đình mà nay cô được thừa kế. Từng bước khám phá điền sản này là từng bước bóc tách quá khứ lèn xếp những bí mật và nỗi đau gắn với những thế hệ trước, hoặc người đã khuất. Tôi muốn gọi lại dòng kí ức đang trườn ra khỏi vùng nhớ, để chí ít không bị đẩy xa thêm khỏi gia đình; ngược lại, kí ức cũng vẫy Tôi bằng đôi cánh miên màng của nó. Bà ngoại Bertha hiện lên trong mối quan hệ với chị gái bà - bà Anna, với ông ngoại hay ông giáo già Lexow; mẹ Tôi cùng các dì được khắc họa thông qua những suy nghĩ, xúc cảm dành cho nhau; tới lượt Tôi, một cách vô tình, tự bộc lộ mình trên nền mối liên kết với những người phụ nữ trong gia đình và bè bạn thuở ấu thơ. Tựu lại, mỗi số phận không được kể riêng mà chăng cài tạo nên lớp lang cho câu chuyện, độc giả dõi theo một nhân vật cũng là dõi theo nhiều nhân vật khác. Dĩ nhiên, bên cạnh ba thế hệ phụ nữ, cây táo xứng được coi là một “nhân vật” - nó cũng quan sát, lắng nghe, lên tiếng, nếu ta lưu tâm đến thứ hương vị đan mắc khắp tiểu thuyết. Cây táo biểu hiện căng nét nữ-tính trong lối viết của Katharina, sự nữ tính ngay cả khi tác giả mô tả cái u ám lịch sử như dòng chữ về Đức quốc xã do ai đó lén khắc lên chuồng gà nhà Tôi. Thật khó chỉ ra cho hết chất nữ tính ấy (việc lựa chọn các nhân vật nữ chỉ là điểm ban đầu), liệu có thể nói Vị Hạt Táo mang một sức nặng rất tinh nhẹ và mềm mại, sự quyết liệt lại ẩn sau vẻ lãng đãng, thậm chí nỗi đau cũng tới thật từ tốn. Katharina viết về nỗi đau nên thơ vô ngần, đồng thời có những đoạn điểm xuyết nét hóm hỉnh “đắt giá”. Nắm bắt tròn vẹn tinh thần Vị Hạt Táo ấy, thể hiện hầu như nguyên chất tính-nữ ấy (công việc vốn dĩ được chờ đợi nhiều hơn ở một nữ dịch giả), dịch giả Lê Quang, dù là một dịch giả hàng đầu của văn học Đức, vẫn gây bất ngờ với bản chuyển ngữ của ông. Và cuối cùng, sự đọc là dành cho độc giả. Không thể đoán trước những cảm xúc mà Vị Hạt Táo mang đến, song có thể dám chắc họ sẽ muốn nhớ câu chuyện mở đầu bằng lãng quên này. *** Tiểu thuyết "Vị hạt táo" của nữ nhà văn người Đức Katharina Hagena do dịch giả Lê Quang chuyển ngữ, được NXB Phụ nữ ấn hành vào quý II-2016, là bức tranh hồi tưởng về quá khứ của một gia đình ẩn giấu nhiều bí mật. Ở đó, bạn đọc cảm nhận được hương vị của tình yêu, tình cảm gia đình và cả nỗi ám ảnh. Cái chết của bà ngoại ngẫu nhiên là nguyên cớ cho quá trình tìm hiểu, làm hồi sinh miền ký ức trong người cháu gái được thừa kế căn nhà. Với tài sản thừa kế cũ kỹ, có giá trị không lớn ấy, cô gái đã nghĩ rằng mình sẽ không ở lại nơi này. Nhưng rồi, có điều gì đó đã khơi gợi, níu kéo cô trong những buổi sáng đầu tiên ở trong ngôi nhà ấy với tư cách là một người chủ mới, nó khiến cô nghĩ đến việc mở dần những cánh cửa quá khứ... Rồi, câu chuyện xưa được chắp nối, có khi thông qua những đồ vật còn lại trong nhà và ngày hôm qua của những người thân bỗng hiện lên, sống động lạ thường. Theo mạch tình cảm ấy, kỷ niệm về những năm tháng ấu thơ ùa về. Quá đỗi xúc động, cô gái đã quyết định ở lại căn nhà cũ và tìm thấy hạnh phúc trong không gian đầy ắp kỷ niệm. Không gợi liên tưởng về những chuyển rung lớn của thời cuộc, không có khủng hoảng, biến cố, mưu toan, câu chuyện của các nhân vật diễn ra chủ yếu trên những con đường nhỏ, bên hồ nước ven rừng, trong khu vườn bao quanh ngôi nhà đã là nơi dung thân của vài thế hệ. Những người, vật, việc được nhắc đến, quá đỗi đời thường. Nhưng sự thu hẹp không gian và cái cách bình thường hóa mọi thứ ấy hóa ra lại là tấm màn ngụy trang, là xuất phát điểm cho những trang viết giàu tính bất ngờ, cuốn hút người đọc với cách truyền tải tinh tế về xúc cảm và đời sống nội tâm phức tạp của các nhân vật.  Cô cháu gái ở trong ngôi nhà thừa kế, ngày nọ bỗng được biết người dì của mình có thể không phải là con của ông, bà ngoại như cô thường nghĩ. Đó có thể là kết quả của một cuộc tình "chớp nhoáng" chưa hẳn đã xuất phát bởi tình yêu. Xúc cảm đưa cô chủ mới trở lại những ngày tháng xa xôi, dõi theo mối tình mà bà ngoại và người chị gái yểu mệnh cùng dành cho một thầy giáo trẻ mới được nhận về dạy ở địa phương. Tình yêu thoắt hiện thoắt ẩn, như dấu nhấn vào ba thế hệ phụ nữ của một dòng họ. Những rung động ở tuổi vị thành niên, những thấp thỏm, lo lắng, sợ hãi nhưng đầy háo hức và nỗi niềm dâng hiến...  Tác giả truyền tải nội dung câu chuyện bằng khả năng miêu tả tỉ mỉ, tinh tế. Đồng thời, với cách dẫn giải tưởng như chuyên chú vào hiện thực, nữ nhà văn đã tạo dấu nối hiện thực và dĩ vãng một cách tự nhiên, như thể một ý nghĩ vụt đến. Cuộc trở lại với quá vãng càng cho cô gái thấy rõ hơn chân dung của những người thân yêu. Hóa ra, không phải điều gì cũng như ta tưởng, mà mỗi hồ sơ của một con người có thể ẩn chứa nhiều điều phức tạp. Ta hiểu điều đó để thấy yêu thương họ hơn, cho đời sống hôm nay thêm hương vị tình yêu, thêm xúc cảm.  Một câu chuyện đầy yêu thương, vỗ về ký ức. Có cả nỗi hoang mang, hoảng sợ và sự cằn cỗi khi ký ức bị đánh mất. Câu chuyện gia đình nhỏ, nhưng dường như phản chiếu cả ý thức hệ thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Có nhiều điều để soi chiếu và cũng có thể liên tưởng để nghĩ về chính quá khứ của mình, gia đình mình qua cuốn tiểu thuyết này.   Katharina Hagena sinh năm 1967, là nữ nhà văn người Đức. Tiểu thuyết "Vị hạt táo" được đánh giá là cuốn sách tạo sự đột phá trong văn nghiệp của bà. Tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Một số bài báo quốc tế dành cho tác phẩm sự đánh giá cao: "Hagena viết theo lối văn xuôi giàu chất thơ, mang tới một màu sắc cổ tích cho câu chuyện Gothic về những dối gạt và bí mật gia đình", "Mọi từ ngữ đều tải nặng ký ức", "Không lạ khi cuốn tiểu thuyết saga (tiểu thuyết về dòng họ) đầy mê hoặc này nằm trong danh sách bestseller của Đức suốt 2 năm liền"... Lưu Nguyễn - hanoimoi.com.vn Mời các bạn đón đọc Vị Hạt Táo của tác giả Katharina Hagena & Lê Quang (dịch).
Cuộc Chiến Bí Mật Chống Hà Nội - Richard H. Shultz Jr
Cuộc  chiến tranh Việt Nam - theo cách gọi của người  Mỹ - đã lùi xa hơn một phần tư thế kỷ, nhưng thất bại của Mỹ và những hậu quả kèm theo - được khái quát bằng cụm từ " Hội chứng Việt Nam" - vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi. Câu hỏi: Tại sao V iệt Nam? Vẫn còn đó và tiếp tục thách thức các nhà nghiên cứu Mỹ tìm ra câu trả lời thoả đáng. Cuốn sách " Cuộc chiến tranh bí mật chống Hà Nội" xuất bản năm 1999, của nhà nghiên cứu Mỹ, giáo sư  Richard H. Shultz Jr mà các bạn đang có trong tay là một trong những nỗ lực giải đáp câu hỏi đó: Như tên gọi, cuốn sách đề cập đến một khía cạnh rất đặc biệt và bí mật của cuộc chiến tranh. Nhưng khác với một số ít cuốn sách đã viết về đề tài này,  Cuộc chiến tranh bí mật chống Hà Nội không khai thác những yếu tố bí mật, đặc biệt để lôi kéo độc giả. Ngược lại, với các nguồn tài liệu tuyệt mật của CIA, Bộ Quốc phòng và Nhà Trắng mới được công bố, và đặc biệt là các cuộc phỏng vấn những người trực tiếp chỉ đạo, điều hành và thực hiện cuộc chiến tranh bí mật, cuốn sách đi sâu phân tích tư tưởng chỉ đạo, dựng lại quá trình hoạt động, phân tích các nguyên nhân thất bại và trên cơ sở đó rút ra những bài học cần thiết cho nước Mỹ. Có thể nói cuốn sách là một tổng kết khá đầy đủ của các nhà nghiên cứu Mỹ về các hoạt động bí mật chống phá miền Bắc trong cuộc chiến tranh  Việt Nam. Theo cuốn sách, từ năm 1951 đến 1972, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và CIA, Mỹ đã thành lập một tổ chức cực kỳ bí mật để tung gián điệp biệt kích ra miền Bắc, điều hành hoạt động tuyên truyền tâm lý chiến, tiến hành các hoạt động phá hoại trên biển và ngăn chặn đường mòn Hồ Chí Minh. Tác giả đã làm rõ vai trò của giới lãnh đạo cao cấp nhất ở Washington và những toan tính của họ trong quyết định tiến hành các hoạt động bí mật chống miền Bắc. Họ là Tổng thống Kenedy, Johnson và Nixon; là Bộ trưởng Quốc phòng Mc.Namara, Giám đốc Cục tình báo Trung ương Mỹ Colby, Cố vấn an ninh Tổng thống Bundy, Bộ trưởng Tư pháp Robert Kenedy và nhiều quan chức dân sự, quân sự cao cấp khác. Đồng thời, qua những trang sách, các phương thức hoạt động, kể cả những thủ đoạn "bẩn thỉu" mà Mỹ sử dụng trong hoạt động bí mật cũng được mô tả chi tiết. Mặc dù được tập trung chỉ đạo, sử dụng một số lượng lớn nguồn nhân lực và vật lực trong một thời gian dài, cuốn sách kết luận Mỹ đã thất bại. Hầu hết số gián điệp biệt kích tung ra Bắc đều bị bắt giữ hoặc tiêu diệt, chiến tranh tâm lý bị phá sản, con đường Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển vẫn tiếp tục hoạt động. Như cuốn sách thừa nhận, Việt Nam là đối thủ quá khó chơi đối với Mỹ. Tuy nhiên, thay vì tìm nguyên nhân thất bại trong sai lầm chiến lược của giới cầm quyền Mỹ như Mc.Namara đã từng chỉ ra, tác giả mới chỉ dừng lại ở những nguyên nhân về tổ chức, năng lực và phối hợp của phía Mỹ. Với những nội dung và cách đặt vấn đề trong cuốn sách, có thể thấy tác giả đã cố gắng có cách nhìn tương đối khách quan về cuộc chiến tranh bí mật của Mỹ ở Việt Nam. Mặc dù một số đánh giá nhận định của tác giả mang tính phiến diện một chiều, do đó còn có những hạn chế nhất định, cuốn sách đã góp phần làm sáng tỏ một khía cạnh còn ít được nghiên cứu của cuộc chiến tranh Việt Nam. Với mong muốn giúp bạn đọc quan tâm đến vấn đề này hiểu thêm cách nhìn nhận đánh giá từ phía học giả Mỹ và qua đó cảm nhận đầy đủ hơn về chiến thắng vĩ đại của chúng ta, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin xin trân trọng giới thiệu cuốn sách: Cuộc chiến tranh bí mật chống Hà Nội như một tài liệu để chúng ta cùng tham khảo. Mời các bạn đón đọc  Cuộc Chiến Bí Mật Chống Hà Nội của tác giả  Richard H. Shultz Jr.
Người Dịch Bệnh - Jhumpa Lahiri
Jhumpa Lahiri sinh tại London, cha mẹ cô là người Băng-gan. Cô lớn lên tại Rhode Island, Mỹ. Hiện cô sinh sống tại New York. Các Truyện ngắn của cô xuất hiện nhiều trên những tạp chí của Mỹ. Tập truyện “Người dịch bệnh”, tác phẩm in của cô giành giải thưởng Pulitzer năm 2000 cho thể loại truyện hư cấu, giải thưởng cuốn sách đầu tay hay nhất của New York và giải thưởng PEN/Hemingway.   Những câu chuyện tuyệt vời của Jhumpa Lahiri kể về cuộc sống của những người Ấn Độ tha hương, về những người đang loay hoay giữa những phong tục nghiêm ngặt mà họ thừa hưởng và một thế giới mới đầy trở ngại mà họ phải đối đầu hàng ngày. Dù bối cảnh ở Boston hay ở Băng-gan, những câu chuyện tràn đầy tính hài hước và những yếu tố huyền ảo này không chỉ gần gũi với người xa xứ mà còn gần gũi với rất nhiều đối tượng khác.   Bạn sẽ thấy tác phẩm của Jhumpa Lahiri gắn liền với mọi mặt thường gặp của cuộc sống và cách nhìn các chi tiết rất tinh tế, sắc bén là một điểm nổi bật của cô. Cô viết về một người hướng dẫn du lịch có trái tim nồng ấm trong “Người dịch bệnh”, về một đôi vợ chồng gắng hiểu nhau sau ngày cưới trong “Ngôi nhà được ban phước”, về một mối quan hệ tay ba, người đàn ông ích kỷ, vô tình trong “Gợi tình”. Dường như cô đã thổi vào mỗi trang sách một cuộc sông bất ngờ và người đọc khi kết thúc mỗi câu chuyện càng cảm thấy bị quyến rũ hơn, mong được đi cùng những nhân vật của nó đến tận cùng.   Mời các bạn đón đọc Người Dịch Bệnh của tác giả Jhumpa Lahiri.
Gió Đông, Gió Tây - Pearl S. Buck
Gió Đông, Gió Tây, East Wind: West Wind, là tiểu thuyết đầu tay của Pearl S. Buck, được xuất bản năm 1930. Tác phẩm mô tả Quế Lan, một phụ nữ Trung Quốc, và những thay đổi mà cô và gia đình đã trải qua. Gió Đông gió Tây là tác phẩm được Pearl Buck viết khi bà đã ngoài ba mươi tuổi và có những năm tháng dài hòa mình vào cuộc sống ở Trung Hoa. Như hầu hết các tác phẩm khác của nhà văn này, cuốn sách thể hiện sự giao thoa văn hóa rõ rệt , thậm chí ngay từ tiêu đề.  Vào bối cảnh lúc bấy giờ ,sự thông hiểu lẫn nhau giữa các nền văn minh vẫn là điều mờ mịt như màn đêm mù sương, chỉ thấp thoáng những hình thù không rõ nét và tràn ngập những bất đồng, thì Pearl Buck đã may mắn có được một vị thế thuận lợi để quan sát và tái hiện sự va chạm ấy. *** Quế Lan phải lấy chồng qua một cuộc hôn nhân sắp đặt, nhưng chồng của cô không phải là người như cô mong đợi. Họ ra ở riêng chứ không sống cùng cha mẹ chồng. Chồng Quế Lan là một bác sĩ, đi học ở phương Tây về và dường như không có cảm hứng với cô cho đến khi cô yêu cầu anh gỡ bỏ bó chân cho mình. Sau đó, họ có với nhau một con trai. Quế Lan có một người anh trai sống ở Mỹ được vài năm. Một ngày nọ, bạn của anh viết thư về cho gia đình anh, thông báo rằng anh đã cưới một phụ nữ Mỹ. Anh trai của Quế Lan và vợ là Mary trở về Trung Quốc để xem liệu họ có thể thuyết phục gia đình chấp nhận Mary hay không. Tuy nhiên gia đình không chấp nhận một con dâu ngoại quốc và bảo anh cho cô tiền rồi cho cô về Mỹ. Anh trai Quế Lan không theo lời. Một thời gian ngắn sau đó Mary mang thai đứa con trai đầu lòng. Đỉnh điểm của câu chuyện là lúc mẹ Quế Lan qua đời. Gia đình yêu cầu người anh trai phải buộc Mary trở về Mỹ và cưới cô gái gia đình đã chọn, nếu không anh sẽ bị tước thừa kế. Người anh trai từ chối, rời khỏi khu nhà của gia đình, sống tại một ngôi nhà gần nhà Quế Lan. Đứa trẻ được sinh ra, gắn kết bố mẹ cậu bé với nhau và cả hai nền văn hoá. Mời các bạn đón đọc Gió Đông, Gió Tây của tác giả Pearl S. Buck.