Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ông Già và Biển Cả

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Ông Già và Biển Cả của tác giả Ernest Hemingway & Mặc Đỗ (dịch). VỀ NHỮNG NHÂN DANH, ĐỊA DANH TRONG SÁCH NÀY Để văn dịch được thật sự phổ cập và những bản dịch được hoàn toàn quốc ngữ hóa như của Trung Hoa, Nhật Bản, dịch giả đề nghị áp dụng trong bản dịch này việc phiên âm những nhân danh, địa danh. Phương pháp đề ra chưa chắc đã hoàn hảo; dù sao ta cứ bước một bước đầu. NGUYÊN TẮC CHUNG Nhân danh, địa danh của nước nào thì phải cố gắng phiên âm theo đúng âm của nước đó. Những danh từ đã quá quen thuộc nên giữ lại. Thí dụ: Anh, Pháp, Nga, Mỹ… Nhưng nếu phiên âm đúng hơn và sẽ tiện dụng hơn thì nên đổi: Pari hơn Balê. PHƯƠNG PHÁP Viết dính các âm. Viết rời nếu danh từ gốc viết rời. Cố giữ để khỏi xa với cách viết (theo mẫu tự latinh) của danh từ gốc. Thí dụ: không thay S bằng X (Sanhtơny chớ không Xanhtơny). Không phân biệt cách đọc S và X, nhưng để phiên âm vần CH (Pháp) hay SH (Anh) dùng vần SH. Thí dụ: Shinông. Chấp nhận âm S câm. Thí dụ: Côngstăngtanh, Stăngbun. Chấp nhận thêm những vần không dùng trong Việt ngữ nhưng người Việt phát âm được: Bl, Br, Cl, Cr, Đr, (đơrơ), F (phơ), F1 (phơlơ), Fr (phơrơ), J (thay cho vần GI để khi đọc khỏi lẫn, thí dụ: Anjêri dễ đọc hơn Angiêri vì có thể lầm thành Angi-êri), Kl (Cơlơ), Kr (cơrơ), Z. Cố gắng phiên âm đầy đủ các âm của danh từ gốc, nhưng tránh dùng dấu Việt ngữ để nhấn mạnh nếu không cần thiết lắm, tuy gặp danh từ gốc cố ý nhấn mạnh vẫn cần giữ cho đúng với nguyên tắc chung. Thí dụ: Odessa có thể viết Ôđesa, nhưng Madagascar phải viết Mađagátca. *** LỜI NGƯỜI DỊCH Đem kinh nghiệm bản thân gửi vào tác phẩm, chủ đích nghệ thuật đó Ernest Hemingway đã giải bày trong cuốn The Snows of Kilimanjaro: một nhà văn khi hấp hối nhớ lại những mẩu đời của mình đã toan để dành đưa vào trong truyện. Toàn thể những tác phẩm đã xuất bản của Hemingway đều là những vang bóng của những quảng thời gian mà chính tác giả đã từng sống. Thời thơ ấu ở Michigan (In Our Time), kỳ đại chiến thứ nhất trong quân đội Ý (A Farewell to Arms), huấn luyện viên võ thuật (Fifty Grend), dự đấu bò tại Tây Ban Nha (The Undefeated), sáu năm sống cuộc đời ly hương tại Montparnasse, Paris (The Sun Also Rises), tham gia nội chiến Tây Ban Nha trong hàng ngũ dân chủ (For Whom The Bells Toll), Cuốn Ông già và Biển cả (The Old Man and the Sea) chúng tôi trình bày cùng độc giả, rút ở những nhận xét tại chỗ hồi ông ở Key West, tận cùng mỏm Florida, thường đi theo dân chài ra khơi. Bằng chứng vào cuộc đời và những tác phẩm của Hemingway ta có thể nói không ngoa rằng nếu ông ở yên một chỗ ông sẽ không thể viết được. Trong một cuộc du lịch tại Phi-châu, ông và bà vợ cùng đi trên một chiếc máy bay riêng và mất tích giữa rừng rậm, báo chí thế giới đã sửa soạn bài ai điếu thì hai vợ chồng ông lại tìm về được không một chút thương tích. Tuy Hemingway sống rất nhiều, nhân vật trong tiểu thuyết của ông thường biểu lộ tâm trạng trơ trọi của con người bất phùng thời. Trơ trọi vì kiêu hãnh từ chối đầu hàng, không chịu phó mặc cho số phận. Ông lão đánh cá trong thiên truyện này là một thể hiện đặc sắc của sự trơ trọi kiểu Hemingway. Bị người đời rẻ rúng ông lão vẫn cương quyết đi con đường của mình cho trọn, chống trả kịch liệt cho đến thành công, rồi lại đem hết sức tàn ra đương đầu với Định Mệnh, không một lời ta oán, tin ở mình cho đến cùng. *** Tóm tắt Câu chuyện kể về Santiago, một ông già đánh cá già nua và nghèo khó, đã 84 ngày liền không bắt được con cá nào. Những người bạn đánh cá khác đã bỏ đi, chỉ còn lại Santiago tiếp tục ra biển một mình. Một ngày nọ, ông già đã câu được một con cá kiếm khổng lồ. Con cá quá lớn đến nỗi thuyền của ông già bị kéo ra xa bờ hàng trăm dặm. Santiago đã phải chiến đấu với con cá suốt ba ngày ba đêm, và cuối cùng ông đã bắt được nó. Tuy nhiên, khi con cá bị kéo lên thuyền, những con cá mập đã đến và ăn thịt nó. Khi Santiago trở về bờ, ông chỉ còn lại bộ xương của con cá. Review "Ông già và biển cả" là một câu chuyện về lòng can đảm, sự kiên trì và ý chí chiến thắng. Santiago là một người đàn ông kiên cường và bất khuất, không bao giờ bỏ cuộc trước khó khăn. Ông đã chiến đấu với con cá kiếm suốt ba ngày ba đêm, và cuối cùng đã bắt được nó. Câu chuyện cũng là một bài thơ về vẻ đẹp của biển cả và thiên nhiên. Hemingway đã miêu tả biển cả một cách sống động và chân thực, thể hiện sự tôn trọng và ngưỡng mộ của ông đối với thiên nhiên. "Ông già và biển cả" là một tác phẩm kinh điển của văn học Mỹ. Câu chuyện đã được dịch ra hơn 50 ngôn ngữ và được chuyển thể thành phim nhiều lần. Đánh giá chung "Ông già và biển cả" là một tác phẩm văn học xuất sắc, mang đến cho người đọc những cảm xúc sâu sắc và những bài học ý nghĩa. Câu chuyện là một bức tranh tuyệt đẹp về cuộc sống và sự đấu tranh của con người, và là một lời ca ngợi cho tinh thần kiên cường và ý chí chiến thắng. Những điểm nổi bật Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Nhân vật Santiago được xây dựng thành công Miêu tả thiên nhiên sống động và chân thực Mang đến những cảm xúc sâu sắc và những bài học ý nghĩa Kết luận "Ông già và biển cả" là một tác phẩm văn học đáng đọc, mang đến cho người đọc những trải nghiệm tuyệt vời. Mời các bạn mượn đọc sách Ông Già và Biển Cả của tác giả Ernest Hemingway & Mặc Đỗ (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

5 Tuần Trên Khinh Khí Cầu - Jules Verne
Jules Verne (1828 - 1905) nhà văn Pháp nổi tiếng được mệnh danh là bậc thầy về viết truyện phiêu lưu và khoa học viễn tưởng. Ông nổi tiếng ngay từ những tiểu thuyết đầu tay của mình, sách của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài, phát hành rộng rãi khắp nơi, được mọi người, nhất là giới trẻ, háo hức đón đọc. Trong những năm 1970, so với các tác giả khác thì số sách của Jules Verne được xuất bản đứng hàng thứ ba trên thế giới. Không phải ngẫu nhiên người ta gọi ông là "người đồng hành bất tử của tuổi trẻ". J. Verne vừa là nhà văn, vừa là nhà khoa học có kiến thức uyên bác, tư tưởng tiến bộ, trí tưởng tượng phong phú. Ông là người khởi xướng loại truyện khoa học viễn tưởng dựa trên sự thật khoa học. Ông còn là nhà văn kiệt xuất viết tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, đồng thời là người cố sức say sưa cho khoa học và tương lai của nó. Đến nay, nhiều dự kiến, ước mơ của ông đã trở thành hiện thực. Nhiều thế hệ bạn đọc trẻ đã được hiểu biết và giáo dục qua các tiểu thuyết của ông. Nhiều nhà bác học, nhà phát minh, nhà du lịch đã cảm ơn J. Verne mỗi khi nhớ lại rằng, thời niên thiếu, nhờ say mê đọc sách của ông mà họ đã phát triển được năng khiếu, thậm chí đã có những phát minh quan trọng. Mùa thu năm 1862, lúc ấy J.Verne 34 tuổi, ông hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay, mang tựa đề "5 tuần lễ trên khinh khí cầu" nói về những khám phá địa lý giả tưởng ở châu Phi được thực hiện từ trên một khinh khí cầu do ông "thiết kế chế tạo" ra. Là một tác phẩm đã từng bị từ chối bởi nhiều nhà phát hành khác khi cho rằng nó quá "khoa học", 5 tuần trên khinh khí cầu đã cực kì thành công và tiếng vang của nó đã vượt ra khỏi nước Pháp. Ngoài Hai vạn dặm dưới biển (1870), nhiều tác phẩm của Jules Verne như Năm tuần trên khinh khí cầu (1863), Vòng quanh thế giới trong 80 ngày(1873)... đã chinh phục người đọc khắp năm châu, khẳng định ông là nhà văn đi tiên phong trong thể loại khoa học viễn tưởng, một lối đi riêng biệt trong văn học thế giới. Những ý tưởng thiên tài của ông về cuộc sống hiện đại cũng như các thành tựu khoa học kỹ thuật và hơn hết là khát vọng của con người mà ông đã diễn tả dường như cho đến nay vẫn còn đang thời sự. Mời các bạn đón đọc 5 Tuần Trên Khinh Khí Cầu của tác giả Jules Verne.
80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới - Jules Verne
Jules Verne sinh ngày 8-2-1828 ở thành phố cổ Năngtơ, một trong những cảng lớn nhất của nước Pháp nằm trên bờ sông Loa. Ông đã chinh phục tâm hồn người đọc không phải chỉ bằng những kiến thức của một trí tuệ thiên tài, mà bằng cả một tài năng nghệ thuật điêu luyện. Thật vậy, tài năng nghệ thuật đã làm cho những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của ông có một sức hấp dẫn đặc biệt. 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Jules Verne. Đây là một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Viễn tưởng ở chỗ nó đi trước thời gian, nó thực hiện một điều chưa thực hiện được. Bởi vì trước kia các nhà du hành phải đi vòng quanh trái đất mất 300 ngày: thời Jules Verne, với những phương tiện mới như tàu hỏa, tàu thủy... có tờ báo đã thử làm chuyện vui, tính toán các chặng đường cộng lại thành 80 ngày. Tuy nhiên đó mới chỉ là một thời gian lý thuyết, bằng những tính toán sít sao trên giấy. Trên thực tế sẽ vấp ngã phải hàng ngàn vụ bất trắc do tổ chức giao thông còn bấp bênh và những vụ cướp tàu thường xảy ra ở nhiều vùng hoang vu lạc hậu, do những tai nạn tàu xe trục trặc máy móc, do những trận giông bão và sương mù trên biển. v.v... Thế nhưng Philíat Phốc - nhân vật chính của tác phẩm - dám đánh cuộc đi vòng quanh thế giới trong thời hạn ấy. Ngoài Hai vạn dặm dưới biển (1870), nhiều tác phẩm của Jules Verne như Năm tuần trên khinh khí cầu (1863), Vòng quanh thế giới trong 80 ngày(1873)... đã chinh phục người đọc khắp năm châu, khẳng định ông là nhà văn đi tiên phong trong thể loại khoa học viễn tưởng, một lối đi riêng biệt trong văn học thế giới. Những ý tưởng thiên tài của ông về cuộc sống hiện đại cũng như các thành tựu khoa học kỹ thuật và hơn hết là khát vọng của con người mà ông đã diễn tả dường như cho đến nay vẫn còn đang thời sự. Mời các bạn đón đọc 80 Ngày Vòng Quanh Thế giới của tác giả Jules Verne.
Tuổi Thơ Dữ Dội - Phùng Quán
Tuổi thơ dữ dội là tác phẩm dài bảy phần của Nhà văn Phùng Quán. Cuốn truyện xoay quanh cuộc sống và chiến đấu của các em thiếu niên tuổi 13, 14 trong trung đoàn Trần Cao Vân tại Huế. Từ khi đọc cuốn truyện này, nhắc đến Huế, nói đến Huế là tôi nhớ đến chợ Đông Ba, nhớ đến cây cầu nơi Tư dát mải bắn chim để Lượm bị bắt vô ngục, nơi Quỳnh sơn ca được cõng trên lưng với lời nựng "nặng như con gà con" rồi vẻ mặt đanh lại của em khi quyết không nhận quà từ gia đình gửi lên, nhà ngục nơi có Lượm lanh lẹ, nhân hậu cảm hóa Lép-sẹo rồi cánh đồng lúa rập rờn lẩn khuất bóng hình trốn chạy nhà ngục tụi Tây của Lượm, của Thúi, của Lép-sẹo... Câu chuyện xoay quanh cuộc đấu tranh tư tưởng, cách ứng xử của Mừng, Quỳnh sơn ca, Lượm, Bồng da rắn, Kim điệu, Vịnh sưa... Bao nhiêu năm rồi tôi vẫn khắc ghi câu nói trước khi chết của Mừng "Anh ơi, đừng nghi em là Việt gian nữa anh hí!" Một lời khẩn cầu của em được gửi đến Trung đội trưởng, không biết người mẹ vừa nằm xuống của em có nghe thấy câu nói đó không! Em gia nhập Vê-cu-đê, Vệ quốc đoàn là vì trong sân của khu này có cây tầm gửi có thể chữa được bệnh hen suyễn cho mẹ em. Em không dám hỏi xin, chưa dám trèo lên cây để hái lá cho mẹ! Em thật thà, ngô nghê, thương mẹ hết mực, nghe lời cấp trên hết mực nhưng tội cho em, em không biết em bị một đồng ngũ của em đã phản bội lý tưởng các em đi theo - Kim điệu - đã cài bẫy để đồng đội nghĩ em là Việt gian và đối xử với em theo cách đối xử với Việt gian. Không bị khuất phục bởi người cha tệ bạc là Việt gian dùng mơ tưởng về giàu sang, em chạy trốn. Nhưng hoàn cảnh không chiều người. Nơi kia, Kim điệu đã trở về, Kim điệu và kẻ địch đã lập mưu và trung đoàn mắc bẫy địch. Mẹ Mừng đi tìm Mừng, nghe tin con đi theo Việt gian, người mẹ đau xót quyết tâm theo kháng chiến để chuộc tội cho con mình. Em trở về. Tất cả bằng chứng chống lại em. Mẹ em giận em, không tin em. Em vẫn không khuất phục, vẫn cố hết sức để hoàn thành nhiệm vụ của một Vệ quốc đoàn. Mất mát lớn nhất trong cuộc chiến có lẽ là mẹ con em Mừng! Hai mẹ con em Mừng ra đi để lại trăn trối thiết tha "Anh ơi, đừng nghi em là Việt gian nữa anh hí!" và đỉnh đồi 96 ngày ấy được mang tên mới là núi mẹ con em Mừng. Quỳnh "sơn ca" là con trai cưng duy nhất của Phó tổng trấn Trung Kỳ, giỏi đàn piano, nhẹ nhàng như con gái. Yêu những bài hát của Vệ quốc đoàn và con người trong đó, em bỏ nhà đi theo Vệ quốc đoàn. Giẫm phải mảnh chai, bị nhiễm trùng, phải nằm Viện quân y em vẫn mang tiếng đàn của mình đi phục vụ bệnh nhân khác, vẫn sáng tác bài ca "Sông Ô Lâu kháng chiến", vẫn viết bản nhạc kịch Đi tìm thuốc cho mẹ,... em đã sống như con chim kia trong rừng - trước khi chết nó bay vụt lên hát một bài ca tuyệt hay rồi rơi xuống. "Mà em thì thích sông Ô Lâu, thích xê-ca, thích bạn em hơn. Còn ba thứ đồ ni - em ngẩng lên, khoát tay chỉ đống đồ lề bày ngổn ngang trên sạp nứa - vú với chị dẹp hết vô bị mang về, một viên thuốc em cũng không uống, một cái bánh em cũng không ăn mô!". Tinh thần em kiên quyết, thư em gửi về cho ba mạ em cho Phó tổng chấn Trung kỳ là tinh thần của em, là quyết tâm của em ngày đó, là "sông Ô Lâu kháng chiến". Có người nói rằng em đã uất ức vì những hành động của cha, đã vỡ tim mà chết ở tuổi 13. Còn đó Lượm, Châu - sém, Bồng da rắn... xin để các bạn đọc cùng tôi viết tiếp cảm xúc về thế hệ thiếu niên bất tử của ngày ấy! Mời các bạn đón đọc Tuổi Thơ Dữ Dội của tác giả Phùng Quán.
Tình Trong Chiến Hào - Lev Tolstoy
Trận chiến tranh Crimea diễn ra trong hai năm, từ 1854 đến 1856, nơi được nhà văn Tolstoï đến tận nơi, sống, nhìn cảm... và viết thành tác phẩm Sebastopol, là một trận chiến gây ra bởi chính sách hiếu chiến của Nga hoàng Nicholas I. Vị quân chủ Nga La Tư này là vị vua độc tài nhất trong tất cả những vị vua độc tài của lịch sử quân chủ Nga. Nga hoàng Nicholas I luôn luôn tìm cách bành trướng thế lực và biên giới nước Nga về phía biển Balkans và Bosporus. Để chống lại sự bành trướng này của Đế quốc Nga, hai nước Anh Pháp phải đồng minh với nhau và dùng quân lực ngăn cản.  Về phía Anh và Pháp, mặc dầu họ mở chiến tranh với Nga để bảo vệ những quyền lợi riêng của đất nước họ, nhưng họ vẫn gọi cuộc chiến tranh này với danh hiện cao đẹp là "cuộc chiến tranh của văn minh chống lại man dã". Như vậy một bên là quân Nga, một bên là Liên quân Anh-Pháp, bắn giết nhau ở biển Crimea. Rồi quân Nga bị vây trong thành phố hải cảng Sebastopol. Cả hai phe đều vi phạm những lỗi lầm quan trọng về chiến thuật, chiến lược. Con số tổn thất của hai phe đều lên cao. Ngưới ta ước lượng rằng sau hai năm chiến đấu trong Sebastopol bị bao vây và tấn công, quân đội Nga thiệt hại khoảng hơn 100.000 binh sĩ thương vong trong khi Liên quân Anh-Pháp mất tới 500.000 binh sĩ. Hậu quả quan trọng nhất của trận chiến tranh Crimea, là quân đội Nga bị tiêu tan huyền thoại bách chiến bách thắng, đánh đâu được đấy, đồng thời trận chiến này cũng trình bày với thế giới tình trạng lạc hậu của nền kinh tế và hành chảnh của Đế quốc Nga. Trận chiến này gây thiệt hại lớn cho chế độ quân chủ Nga La Tư. Nó làm cho những người Nga bảo thủ nhất, bảo hoàng nhất, cũng phải nghĩ rằng xã hội Nga nằm dưới chế độ quân chủ độc tài tuyệt đối của Nga Hoàng Nicholas I là một xã hội bị bóp nghẹt, chết cứng, không có tương lai và việc cần thiết phải làm ngay là việc cải tạo xã hội ấy. Phong trào đòi cải tạo xã hội nổi lên mạnh ở trong lãnh thổ Nga sau trận Sebastopol. Nga hoàng Nicholas I tuy độc tài và tàn bạo nhưng cũng phải chiều theo phong trào này. Cải cách lớn nhất của xã hội Nga sau trận Sebastopol là quyết định giải phóng nông nô Nga vào năm 1861. Tolstoï vừa đúng hai mươi lăm tuổi khi ông tới thành phố pháo đài Sebastopol bị bao vây vào tháng Mười năm 1854. Khi ấy, tuy còn trẻ nhưng Tolstoï đã là một sĩ quan nhiều kinh nghiệm chiến trường, bởi vì trước đó ông từng phục vụ trong một đơn vị pháo binh ở miền Cossack và từng lập được nhiều quân công, được thưởng nhiều huy chương. (Về sau Tolstoï lấy những kỷ niệm trong thời gian ông chiến đấu ở miền Cossack để viết thành truyện dài The Cossacks). Đầu năm 1851 Tolstoï tình nguyện gia nhập quân đội Nga đang chiến đấu với quân Thổ Nhĩ Kỳ ở mặt trận Wallachia. Rồi khi quân đội Nga phải rút lui từ những thành phố dọc theo sông Danube về nước và pháo đài Sebastopol bị địch quân bao vây, cần tiếp viện, Tolstoï lại tình nguyện đến Sebastopol. Khi đã nhận rõ sự phi lý của chiến tranh, Tolstoï bắt đầu ca ngợi sự hiền hòa của tinh thần Thiên Chúa giáo, tinh thần này ngự trị tâm hồn ông suốt từ đó cho tới phút ông nhắm mắt lìa đời. Điều đáng nói nhất về Truyện Ký Sebastopol là cách nhận xét, diễn tả chiến tranh trong truyện này của Tolstoï đã ảnh hưởng, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đến những nhà văn viết về chiến tranh hay nhất thế giới sau này như Stephen Crane và Ernest Hemingway. Và chính Tolstoï cũng bị ảnh hưởng của Stendhal, ông tự nhận rằng Stendhal đã dạy cho ông biết chiến tranh là gì và làm ông hiểu được chiến tranh. Có lần, Tolstoï nói với một người bạn văn: "Hãy đọc kỹ đoạn Stendhal tả trận Waterloo trong La Chartreuse de Parme. Trước Stendhal, làm gì có ai tả chiến tranh như thế? Tôi muốn nói là tả chiến tranh theo đúng sự thực. Bạn hãy nhớ lại cảnh anh chàng Fabrice cưỡi ngựa chạy trên chiến trường mà hoàn toàn ‘không hiểu gì cả’..." Trong những năm cuối cùng của đời ông, ông viết bản Tôi Thú Tội và quyết định từ bỏ tất cả những lạc thú ở đời, viết chúc thư chia gia sản cho người nghèo và bỏ nhà đi nằm chết lạnh lẽo trong một nhà ga vắng vẻ, tiêu điều. Nhưng giữa thời gian nhà văn sống trong thành phố Sebastopol bị bao vây và viết tập Tôi Thú Tội, còn có khoảng thời gian văn tài của ông lên tột độ khi ông viết Anna Karenina và Chiến Tranh và Hòa Bình. Tuy sống và viết, không lúc nào ông quên hoài bão thành lập một tôn giáo mới, thực tế, đem hạnh phúc đến cho con người ở ngay kiếp này đến với ông ở Sebastopol, vì tinh thần hiền hòa, yêu thương nhân loại, phản đối chiến tranh vẫn chan hòa trong hai tác phẩm lớn trên đây của ông. Mời các bạn đón đọc Tình Trong Chiến Hào của tác giả Lev Tolstoy.