Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Nỗi Đau Riêng - Kenzaburo Oe

Kenzaburo Oe là nhà văn Nhật Bản thứ hai được trao giải Nobel Văn học (năm 1994). Buổi lễ mừng giải thưởng danh giá của Kenzaburo Oe là một ngày hội vô cùng đặc biệt. Các nhạc công hàng đầu của "đất nước mặt trời mọc" đã biểu diễn mười tác phẩm của nhạc sĩ trẻ Hikari Oe- người con trai tật nguyền, người đã khiến Kenzaburo Oe tìm được "lối đi" trong sáng tác văn chương và khiến ông cùng con trai như được "tái sinh"... Kenzaburo Oe thuộc lớp nhà văn hậu chiến, hiện tên tuổi đang được xếp hàng đầu trong danh sách các nhà văn Nhật Bản. Sinh ngày 31 tháng 1 năm 1935 tại đảo Shikoku, một trong bốn hòn đảo lớn nhất của Nhật Bản, cuộc đời ông đã chứng kiến và đồng hành cùng những thăng trầm của một đất nước được bao bọc bởi biển cả, với ba ngàn hòn đảo lớn nhỏ.  Năm Kenzaburo Oe lên 4 tuổi, Thế chiến thứ hai bùng nổ ở khu vực châu Âu và năm sau lan sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đất nước của ông dưới thời Nhật Hoàng Hirohito là một thành viên của trục phát xít Berlin - Roma - Tokyo, đã gây ra biết bao tội ác đối với nhân dân các nước trong khu vực châu Á. Giống như hết thảy những người Nhật Bản cùng thế hệ, những hồi ức ảm đạm về cuộc chiến tranh phi nghĩa, về sự ngã gục của nước nhà khi Thế chiến hai kết thúc luôn đè nặng trong lòng Kenzaburo Oe. Nhưng nổi lên trên hết, trong tâm hồn nhạy cảm của một người có khiếu văn chương như Kenzaburo Oe, hình ảnh của hai cột nấm khổng lồ màu vàng cùng với hàng ngàn cột lửa đỏ lựng bùng lên ở Hirosima và Nagasaki vào cái ngày mồng 8 và mồng 10 tháng 8 năm 1945 ấy hình như mỗi ngày mỗi to hơn, rộng hơn, nóng bỏng hơn, khủng khiếp hơn. Hai cột nấm ấy đã hủy diệt sinh mạng của mấy chục vạn người dân Nhật vô tội. Những cơn mưa phóng xạ khởi nguồn từ hai cột nấm ấy đã làm cho không ít người chết dần, chết mòn trong vòng vài chục năm sau đó và một số người khác, trong đó có người con trai đầu của Kenzaburo Oe, ngay từ khi mới sinh ra đã mang trong mình những căn bệnh trầm kha mà y học đến nay vẫn phải bó tay. Trong Diễn văn trao giải Nobel Văn học cho Kenzaburo Oe, Viện Hàn lâm Thụy Điển khẳng định: "Một đề tài xuyên suốt các tác phẩm của Kenzaburo Oe là bi kịch gia đình cùng tình thương và trách nhiệm đối với người con trai cả Hikari sinh ra đã bị dị tật. Kenzaburo Oe đã sáng tạo ra một thế giới tưởng tượng đầy chất thơ, đã miêu tả tình trạng đau đớn trong khổ cảnh của con người thời hiện đại bằng sự ngưng kết những ngụ ngôn và sinh hoạt hiện thực. Đồng thời ông cũng miêu tả thành công quan hệ của con người trong một thế giới hỗn độn, một thế giới mà ở đó trí thức, tình cảm, giấc mơ, dã tâm, thái độ đã hòa quyện với nhau một cách kỳ diệu"… Trong diễn văn đáp từ, Kenzaburo Oe cũng thừa nhận "Phong cách viết của tôi khởi nguồn từ những vấn đề cá nhân, sau đó gắn kết chúng với xã hội, với cuộc đời và thế giới này. Với tư cách nhà văn, tôi phải thừa nhận rằng chủ đề trung tâm của các tác phẩm trong hầu hết văn nghiệp của tôi là cái cách gia đình tôi đã học cách sống với đứa con tật nguyền…". Có thể kiểm chứng những lời phát biểu này trong "Một nỗi đau riêng", "Sự cố cá nhân", "Sổ tay Hirosima", "Nước ngập hồn tôi", "Trận bóng đá năm Vạn diên thứ nhất", "Trò chơi đương đại", "Hãy đứng lên, hỡi những chàng trai của thế hệ mới"… Kenzaburo Oe bắt đầu sáng tác khi còn là sinh viên chuyên ngành Văn học Pháp tại Đại học Tokyo và năm 23 tuổi, với tiểu thuyết "Nuôi thù", ông đã nhận được giải thưởng Akutagawa, một giải thưởng mà các nghệ sĩ Nhật Bản hằng mong ước. Từ đó trở đi ông sáng tác đều đặn và coi viết văn là nghề mà ông trọn đời theo đuổi. Ba năm sau khi nhận giải thưởng Akutagawa, cuộc đời Kenzaburo Oe bắt đầu rẽ sang một lối khác. Sau khi kết hôn cùng Yukan, con gái của một đạo diễn điện ảnh danh tiếng,  vợ chồng Kenzaburo Oe sinh được một bé trai. Nhưng chẳng như mong đợi và kỳ vọng của đôi vợ chồng trẻ, Hikari là một dị nhân: đầu to quá mức bình thường, đôi mắt không có khả năng nhận biết ánh sáng. Cậu bé cũng không có khả năng nhận biết và nói tiếng người, chỉ có thể phát ra tiếng chiêm chiếp như loài chim. Sự chào đời của Hikari là một "cú giáng trí mạng" đối với Kenzaburo Oe. Đã có lúc ông nghĩ đến việc tự tử để trốn chạy đứa trẻ. Rồi có lần ông định giết Hikari để giải thoát cho chính mình và cho cả đứa con tội nghiệp. Cũng may mà ông đã không đủ điên rồ và gan không đủ lớn để làm cả hai việc đê hèn đó. Ông đã chọn cách chấp nhận, chấp nhận Hikari cùng những bất hạnh của số phận, đồng thời nỗ lực tìm kiếm cách làm cho đứa trẻ "tái sinh". Thường thì bậc làm cha làm mẹ chẳng bao giờ muốn nói về những khuyết tật cùng những thói hư tật xấu của con mình. Nhưng Kenzaburo Oe đã dũng cảm nói về đứa con tật nguyền của mình, không phải một lần, mà là rất nhiều lần. Ông muốn từ nỗi đau của riêng mình nói đến một điều lớn lao hơn: Cần phải học cách chấp nhận những nỗi đau của con người cùng với việc tìm kiếm những cách thức để "tái sinh" những con người bất hạnh.  Kenzaburo Oe đặt tên cho con trai đầu lòng là Hikari, tiếng Nhật có nghĩa là "ánh sáng". Quả thực, Hikari bé bỏng, luôn "cô đơn như hòn sỏi nhỏ trên đám cỏ" đã tạo ra luồng ánh sáng, những vầng hào quang rực rỡ cho những tác phẩm của người cha. Trả lời phỏng vấn một nhà báo nước ngoài, Kenzaburo đã thẳng thắn: "Năm tôi hai mươi tám tuổi, đứa con đầu của tôi chào đời. Lúc đó tôi đã là một nhà văn khá nổi tiếng và đang là sinh viên ngành văn chương Pháp. Nhưng từ khi con trai tôi ra đời với một chứng bệnh trầm kha về não, vào một đêm kia, tôi muốn tìm sự khích lệ từ cuốn sách đầu tiên. Vài ngày sau tôi nhận thấy mình không thể tìm được niềm an ủi trong quyển sách của chính mình, có nghĩa là độc giả cũng sẽ không tìm thấy sự an ủi từ tác phẩm của tôi. Tôi lâm vào tình cảnh chán nản. Nhưng sau chuyến đi thăm một bệnh viện dành cho những nạn nhân bom nguyên tử ở Hiroshima, tôi đã quyết định viết về Hikari, chia sẻ với độc giả những cảm giác của mình khi phải đối mặt với đứa con mang trên mình những di chứng của thảm họa Hiroshima...". Tất cả những gì tích tụ trong lòng từ khi Hikari chào đời được ông giãi bày trong "Một nỗi đau riêng". Kenzaburo Oe cho rằng, chỉ bằng cách ấy, ông và đứa con trai tội nghiệp mới thể "tái sinh". Cái "tầm" của "Một nỗi đau riêng" là ở chỗ, Kenzaburo Oe đã viết về thảm kịch Hiroshima theo một cách rất riêng. Đó là cái cách ông gắn hành trình "tái sinh" của đứa trẻ bị bại não với quá trình hồi sinh của dân tộc Nhật Bản sau thảm họa thất trận năm 1945. Không chỉ dừng lại ở "Một nỗi đau riêng", trong tập tiểu luận "Một gia đình tự chữa lành", Kenzaburo Oe đã miêu tả thế giới nội tâm phức tạp của nhân vật Điểu khi muốn chối bỏ đứa con tật nguyền của mình, tìm quên trong gái, rượu và những chuyến đi xa. Điểu đã muốn chấm dứt đời của đứa con mang khối u não ác tính bằng một ly sữa độc. Nhưng trong một lần lái xe, khi cố tránh một con chim đã chết trên đường, Điểu ngộ ra rằng cần phải cứu đứa con trước khi quá muộn. Rốt cuộc, cái u ác tính kia chỉ là một cái u thường, sau khi cắt bỏ, đứa bé đã xuất viện bình an… Hành trình tái sinh của Điểu trong "Một nỗi đau riêng", mà thực ra là nỗi đau chung của đồng bào ông, chính là hành trình tái sinh của ông và Hikari. Trong 6 năm trời ròng rã, hai vợ chồng ông đã kiên nhẫn cho Hikari nghe đi nghe lại một cuốn băng ghi âm tiếng hót của các loài chim kèm theo lời thuyết minh về tên của từng loài chim đó. Và điều kỳ diệu đã đến sau ba năm nghe cuộn băng ấy. Khi lên sáu tuổi, Hikari đã bật nói câu đầu tiên: "Đó là chim sẻ", và sau đó là nói đến tên của từng loài chim mà cậu bé đã được nghe qua băng ghi âm trong suốt mấy năm trời. Hikari được cha mẹ đưa đến trường dành cho trẻ em thiểu năng trí tuệ. Ở đây cậu bé được nghe nhạc của Handel, Bach và đến năm 16 tuổi, Hikari trở thành một thiếu niên khỏe mạnh nhưng lại mất thị giác. Vì không thể chơi piano, Hikari đã học sáng tác dưới sự chỉ dẫn của người mẹ… Và đến độ trưởng thành, Hikari đã là một nhạc sĩ danh tiếng, cả ở Nhật và trên thế giới. Những CD nhạc của anh có mặt ở rất nhiều quốc gia, ngay cả nơi dành để bán những ấn phẩm nghệ thuật phục vụ cho lễ trao giải Nobel Văn học. Những bản nhạc của Hikari, theo lời Kenzaburo Oe, "có một nguồn năng lực chữa lành cho trái tim". Ông còn nói: "Khi ta thể hiện ra một cách rốt ráo nỗi tuyệt vọng của con người, ta sẽ chữa lành được chính mình và biết được niềm vui của sự hồi phục…". Trong lễ nhận giải Nobel, Kenzaburo Oe nói rằng, giải thưởng này đúng ra phải trao cho Hikari con trai ông. Ông cũng thông báo từ nay sẽ "gác bút" để tập trung cho Hikari tỏa sáng trên bầu trời âm nhạc. Ông cũng hy vọng âm nhạc của Hikari sẽ mãi là thứ thần dược để chữa lành nỗi đau nhân thế *** Kenzaburo Oe, sinh năm 1935 tại đảo Shikoku (Nhật Bản), đã sáng tác nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết và tiểu luận. Ông đoạt nhiều giải thưởng văn học giá trị tại Nhật như Giải Akutagawa với tác phẩm The Catch, Giải Tanizaki với Football in the First Year of Mannen, Giải Văn học Shinchosha với A Personal Matter (Một nỗi đau riêng).   Điểu, nhân vật chính trong Một nỗi đau riêng, là một thanh niên có khuynh hướng chống đối xã hội Nhật, đã có lần khi đương đầu với một vấn đề khó giải quyết, anh tự “cho mình trôi dạt trong biển rượu mạnh như một Robinson Crusoe mất phương hướng”. Nhưng chưa bao giờ anh giáp mặt với một cuộc khủng hoảng cá nhân và nghiêm trọng về viễn cảnh một đời sống tù hãm trong lồng của đứa con mới sinh mang chứng thoát vị não. Liệu anh chạy chữa cho đứa bé được sống? Anh dám giết nó không? Trước khi đi đến quyết định cuối cùng, toàn bộ quá khứ sống dậy trong lòng anh, anh đã bừng tỉnh và nhận ra đó chỉ là một cơn ác mộng của sự lừa dối chính mình. Oe đã tạo nhân vật chính của mình trong tác phẩm này trở thành một trong những khuôn mặt đáng nhớ nhất trong tiểu thuyết hiện đại Nhật Bản.   Năm 1994, Kenzaburo Oe đã được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao Giải Nobel Văn chương.  *** Điểu chăm chú nhìn tấm bản đồ châu Phi được phơi bày với vẻ thanh lịch kiêu kỳ của một chú nai rừng trong tủ hàng, anh cố nén tiếng thở dài. Các cô bán hàng không để ý đến anh. Bộ đồng phục họ mặc để lộ ra đôi cánh tay và chiếc cổ nõn nà. Đêm xuống dần. Cái nóng đầu hè, giống như nhiệt độ của một xác chết khổng lồ hạ hẳn xuống. Người ta di chuyển như đang mò mẫm từng bước trong bóng tối của tiềm thức, mong tìm lại ký ức về cái ấm áp ban trưa còn nấn ná chút hơi tàn trong da thịt: họ thốt lên tiếng thở dài mơ hồ. Tháng sáu, sáu giờ rưỡi: không một ai trong phố lại đổ mồ hôi vào lúc này. Nhưng vợ của Điểu thì nằm trần truồng trên một tấm nệm cao su, đôi mắt nhắm nghiền giống như một con gà lôi bị trúng đạn từ trên trời rơi xuống, và trong khi nàng than vãn cơn đau, bày tỏ nỗi âu lo cùng niềm mong đợi thì mồ hôi nhỏ giọt trên cơ thể nàng.   Điểu nhún vai, chăm chú vào những chi tiết của tấm bản đồ. B quanh lục địa châu Phi là màu biển xanh da trời mùa đông của buổi bình minh. Kinh độ và vĩ độ không phải là những đường nét máy móc của chiếc com-pa: những đường nét rõ ràng gợi lên sự phóng khoáng và thất thường của người vẽ. Lục địa trôi giống như chiếc sọ của một người bị treo đầu. Với đôi mắt sầu thảm, chán chường, một con người có cái đầu to tướng đang đăm đăm nhìn châu Úc, miền đất của gấu koala, thú mỏ vịt và kanguru. Bức tiểu họa châu Phi chỉ sự phân bổ dân số nằm dưới góc bản đồ, giống đầu người chết bắt đầu thối rữa. Một bức khác, hiện lên những con đường giao thông, giống đầu người bị lột da lộ ra những mao mạch đau đớn. Cả hai bản đồ châu Phi nhỏ bé này gợi lên sự chết chóc bất thường, nguyên sơ và quá tàn bạo.   “Tôi lấy tập bản đồ cho anh xem?”   “Không, đừng bận tâm,” Điểu nói. “Tôi đang tìm những tấm bản đồ chỉ đường của Tây Phi, Trung và Nam Phi do hãng Michelin in.” Cô gái cúi xuống chiếc ngăn kéo đựng đầy bản đồ Michelin và bắt đầu lăng xăng lục lọi. “Dãy số 182 và 185,” Điểu chỉ cho cô bán hàng, rõ ràng anh là một tay sành sõi về châu Phi.   Tấm bản đồ mà Điểu khao khát bấy lâu nay là một trang trong tập bản đồ bìa da, nặng ký. Một vài tuần trước, anh đã dò giá tập bản đồ và biết nó bằng năm tháng lương giáo viên của anh dạy tại một trường luyện thi. Nếu muốn có đủ tiền mua, anh có thể làm thêm công việc phiên dịch và phải mất ba tháng. Nhưng Điểu còn phải nuôi thân mình và nuôi vợ, vợ anh lại sắp sinh. Điểu là cột trụ của gia đình!   Cô bán hàng chọn hai tấm bản đồ bìa đỏ đặt lên quầy. Đôi tay nàng gầy và vấy bẩn, những ngón tay kỳ nhông bám trên cành cây. Mắt Điểu dán vào nhãn hiệu Michelin nằm dưới ngón tay nàng: một gã đàn ông hằng cao su trông giống như con cóc đang lăn cái ruột xe chạy xuống đường làm anh cảm thấy việc mua bản đồ là điều ngớ ngẩn. Nhưng đây là những tấm bản đồ mà anh muốn dùng vào mục đích quan trọng. ... Mời các bạn đón đọc Một Nỗi Đau Riêng của tác giả Kenzaburo Oe.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Tìm Thấy Mặt - Alexander Romanovich Belyaev
Alexandre Beliaev là một trong những nhà văn mở đầu và nổi tiếng nhất trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng ở Liên Xô trong thế kỷ này. Những truyện “Đầu giáo sư Dowell”, “Người cá”, “Người tìm thấy mặt” của ông được bạn đọc ở nhiều nước rất hâm mộ vì những ý tưởng táo bạo dựa trên cơ sở khoa học của ông được thể hiện bằng ngôn ngữ văn học tuyệt đẹp, song chủ yếu vì những lý tưởng nhân đạo, tiến bộ và hòa bình mà ông yêu cầu với khoa học, nhằm phục vụ con người. Trong toàn bộ sự nghiệp văn học viễn tưởng gồm hàng trăm tiểu thuyết và truyện ngắn của ông, “Người tìm thấy mặt” được sáng tác vào giai đoạn gần cuối đời, lúc tài năng và kinh nghiệm sống của ông đã tới đỉnh cao, và lập tức chiếm vị trí nổi bật. Đây là câu chuyện khá độc đáo về một nghệ sĩ trong xã hội tư bản, một ngôi sao điện ảnh Mỹ. Tonio Presto là một nghệ sĩ vĩ đại. Tonio Presto cũng là một người xấu xí thảm hại. Presto là một con người có tâm hồn tuyệt vời và những cảm hứng sáng tác thiên tài. Nhưng Presto lại là người chỉ thoạt nhìn đã không ai nhịn nổi cơn buồn cười đến đau cả ruột. Một thiên tài trong bộ mặt thằng ngốc, một anh hề tự nhiên bất đắc dĩ như một bi kịch suốt đời, một tâm hồn câm lặng chịu đau khổ vì không có khả năng làm cho người đời hiểu mình. Một con người xấu xí dị dạng phải chịu mang tật nguyền suốt đời ư? Bộ mặt quái thai sẽ che giấu suốt đời bộ mặt của người nghệ sĩ chân chính ư? Con người có quyền tiêu diệt sự quái dạng trên cơ thể mình, tự cải thiện mình, cứu chữa sai lầm của thiên nhiên không? Biến mình thành người bình thường, đẹp đẽ, khỏe mạnh như mọi người có vi phạm gì đạo đức và pháp luật không? Bấy nhiêu câu hỏi dằn vặt Tonio Presto và cũng là bấy nhiêu điều kiện tạo nên bi kịch đời anh, tạo nên những cái cớ cho kẻ thù tấn công và hãm hại anh. Ngay những người lao động trung thực hết sức yêu mến thần tượng của mình - nghệ sĩ hài vô song Tonio Presto - cũng không cho phép anh tước mất của họ nguồn vui vô giá là bộ mặt gây cười của anh! Tài năng của nghệ sĩ khi đã đi sâu cắm rễ trong tình yêu thương và trọng vọng của quần chúng, có còn là sở hữu riêng của nghệ sĩ hay đã thành tài sản tinh thần của cả xã hội? Vấn đề chọn đường đi không còn là chuyện riêng của Presto nữa. Với bộ mặt bình thường, anh lại phải phấn đấu cực kỳ gian khổ để giành lấy quyền mang bộ mặt mới đó và đưa nó trở lại vinh quang xưa. Câu chuyện Tonio Presto dám thay đổi mặt mình, dám đứng ra chống lại các tờ-rớt lũng đoạn ngành điện ảnh để bênh vực quyền lợi cho các diễn viên và nhân viên bình thường, về thực chất là sự tố cáo lối sống Mỹ làm cho khoa học, nghệ thuật, con người trở thành thối nát, tước bỏ của con người quyền mang bộ mặt thật của mình. Đó cũng là câu chuyện về sự hình thành tính cách con người, về cuộc đấu tranh của con người để thực hiện ước mơ của đời mình. KIM HẢI  *** Alexander Romanovich Belyaev (1884-1942), là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng người Nga. A.Beljaev được đánh giá là một trong những người đặt nền móng cho loại truyện khoa học viễn tưởng Xô-viết. Năm 30 tuổi, Belyaev bị nhiễm bệnh lao. Trong suốt thời kỳ dưỡng bệnh, ông đọc khá nhiều tác phẩm nổi tiếng của các nhà văn như Jules Verne, H. G. Wells, và Konstantin Tsiolkovsky, chúng là nguồn cảm hứng cho những sáng tác sau này của ông. Sau khi khỏi bệnh, Belyaev trở lại Matxcơva và bắt đầu viết văn. Năm 1925 cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đầu tiên của ông - Đầu Giáo Sư Dowell được xuất bản.  Những năm cuối đời, Belyaev vẫn dành phần lớn thời gian cho công việc viết lách. Belyaev chết đói ở thị trấn Pushkin của Liên Xô vào năm 1942 khi thị trấn này bị Đức Quốc Xã chiếm đóng.  Một số tác phẩm nổi tiếng của A.Belyaev có thể kể đến: Đầu Giáo Sư Dowell (1925), Chúa Tể Thế Giới (1926), Người Cá (1928), Bột Mì Vĩnh Cữu (1928), Người Bán Không Khí (1929), Ngôi Sao KEZ (1936), Người Bay Ariel (1941),...   A.Beljaev được đánh giá là "một trong những người đặt nền móng cho loại truyện khoa học viễn tưởng", với những tác phẩm như Người bay Ariel, Người cá, Bột mì vĩnh cửu, Đầu giáo sư Dowel...Các tác phẩm đặc sắc của ông đều mang một nội dung xã hội sâu sắc, trong đó có cả tính khoa học, tính hấp dẫn và tính hài hước. Tác giả đã đề cập đến những vấn đề khoa học và kỹ thuật trong tương lai, chinh phục vũ trụ, sinh vật học, sinh lý học, y học ..v..v và có những dự kiến hết sức táo bạo. Mời các bạn đón đọc Người Tìm Thấy Mặt của tác giả Alexander Romanovich Belyaev.
Lâu Đài Huyền Bí - Alain Fournier
Trong văn học, được ghi nhận là "người của một cuốn sách" là một vinh hạnh lớn. Văn học Pháp chỉ có vài trường hợp, hay có lẽ chỉ có hai. Đó là Saclơ Bođơle với tập thơ "Những bông oa của cái xấu" và Alain Fournier với tiểu thuyết "Meaulnes cao kều". Vừa ra đời, "Meaulnes cao kều" đã gần như được mọi người, độc giả và nhà phê bình, mọi khuynh hướng văn học, cổ điển và hiện đại, đạo đức và tôn giáo, đồng thanh thừa nhận là một tác phẩm lớn. Cho đến nay, nó vẫn được tái bản liên tiếp, được coi là một trong những cuốn tiểu thuyết Pháp hay nhất. Tạp chí văn học "Châu Âu", một tạp chí tiến bộ có uy tín trong văn đan thế giới, đã dành hẳn một số cho nó và Alain Fournier. Nó được đánh giá cao ở Liên Xô và được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài. Nó cũng đã được nhiều nhà làm phim của Pháp và các nước khác đưa lên màn ảnh. Cuốn tiểu thuyết như một bài thơ trữ tình dài, một bài ca thiết tha ngợi ca tuổi thơ và tuổi trẻ. Những nét đặc trưng nhất của lứa tuổi này đều được thể hiện thật chính xác. Lãng mạn, phiêu lưu, liều lĩnh nhưng mà chân thực, thủy chung, tự trọng. Non nớt, ngây thơ đấy, mà cũng vững vàng, chín chắn làm sao. Cái chín của chất người không gì làm hoen ố hay khuất phục được. Lầm lẫn, phải trả giá, nhưng biết vươn lên, biết ăn năn và sửa lỗi. Cuối cùng, qua bao vấp váp, có thể nói là hy sinh nữa, khát vọng cái đẹp - gồm tình bạn, tình yêu, hạnh phúc - đã chiến thắng, nói khác đi, chất người chỉ càng thêm hùng mạnh và nên thơ. Đây chẳng phải là một chân lý trên cõi thế này?... Các nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết đều là thanh niên mới lớn, người nào cũng cao quý, tuy không phải là không có nhược điểm, tinh bạn và tình yêu sao àm đẹp đẽ, mặn nồng. Nhân vật Meaulnes đầy cá tính, là một điển hình đạt đến độ cổ điển. Những hình ảnh, đặc biệt là thiên nhiên và làng quê, được khắc họa thật khúc chiết, đầy cảm xúc, gợi lên sự hật dễ lay động lòng người và chất thơ làm trào dâng những tư tưởng sâu xa và cao đẹp. Ấn tượng về sự thật của cuộc đời và tình người do tác phẩm gây nên không phải là không sâu sắc. các đẹp hơi buồn do toàn bộ tiểu thuyết gây nên - nhân vật, phong cảnh, cấu trúc, ngôn ngữ... đúng là hiện thân của tuổi xuân mà bản chất là đẹp. Mặc dù đây đó còn những chỗ có phần quá "văn chương", Meaulnes cao kều thực sự chinh phục đươc bạn đọc, và là cần thiết cho tất cả, nhất là các bạn trẻ sắp bước vào đời. Có lẽ vì vậy, nó được gần như hết thảy các cây bút hiện đại của văn học Pháp yêu quý và học tập. Nó rất cần được chuyển đến như một tặng phẩm có giá trị cho mọi bạn trẻ vừa từ giã tuổi thơ hay đang sống tuổi thanh niên. Nó cũng là một gợi ý tốt cho các nhà văn, nhất là các nhà văn đang tự đào tạo, sắp được công nhận hay sắp vào nghề. Mối liên hệ giữa tác giả và tác phẩm trong "Meaulnes cao kều" là một trường hợp điển hình cho làm thế nào để sáng tác thành công. NGUYỄN VĂN QUANG Mời các bạn đón đọc Lâu Đài Huyền Bí của tác giả Alain Fournier.
Gia Đình
Khái Hưng là một nhà văn lớn, một nhà tiểu thuyết tài ba, một trong những cây bút chủ đạo của nhóm Tự lực văn đoàn. Với số lượng tác phẩm và thể loại đa dạng như: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, khảo cứu, phê bình… trong bất kì thể loại nào ông cũng đạt được những thành công nhất định. Ông đặc biệt thành công ở mảng tiểu thuyết và đã góp phần không nhỏ vào tiến trình hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1932-1945. Tìm hiểu tiểu thuyết của Khái Hưng mang lại rất nhiều ý nghĩa.  Một trong những thành công tiêu biểu của Khái Hưng ở mảng tiểu thuyết là tác phẩm Gia đình được tác giả viết vào năm 1936. Từ tác phẩm đầu tay Hồn bướm mơ tiên đến Gia đình đã khẳng định sự phát triển tiến bộ của Khái Hưng trên cả hai phương diện: nội dung và hình thức. Tác phẩm đã tố cáo mạnh mẽ chế độ đại gia đình phong kiến và đồng thời thể hiện được được tài năng của Khái Hưng trong thể loại tiểu thuyết. Với ngôn ngữ đa dạng, phong phú, độc đáo và đặc sắc, ông đã tái hiện thành công cuộc sống sinh hoạt của nhiều giai tầng cũng như bức tranh phong tục tập quán trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng.  *** Khái Hưng (1896 - 1947) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh, ông là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn. Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư. Bút danh Khái Hưng của ông được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Giư. Ông sinh năm 1896, xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Một số tài liệu ghi ông sinh năm 1897.[1]. Cha ông giữ chức Tuần phủ. Cha vợ ông là Lê Văn Đinh cũng giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh. Em ruột ông là nhà văn Trần Tiêu. Khái Hưng đi học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở đại lý bán dầu hỏa. Được một thời gian Khái Hưng lên Hà Nội dạy ở trường Tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất Linh từ Pháp về nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở thành một cặp tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người bước vào văn đàn sau nên được gọi Nhị Linh. Khái Hưng tham gia Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này bắt đầu xuất hiện công khai từ 1932, và đến đầu năm 1933 thì tuyên bố chính thức thành lập với ba thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo. Tác phẩm Tiểu thuyết: Hồn bướm mơ tiên (1933) Đời mưa gió (cùng Nhất Linh, 1933) Nửa chừng xuân (1934) Gánh hàng hoa (cùng Nhất Linh, 1934) Trống mái (1936) Gia đình (1936) Tiêu Sơn tráng sĩ (1937) Thoát ly (1938) Hạnh (1938) Đẹp (1940) Thanh Đức (1942) Băn khoăn Tập truyện ngắn: Anh phải sống (cùng Nhất Linh, 1934) Tiếng suối reo (1935) Đợi chờ (1940) Cái ve (1944)   Mời các bạn đón đọc Gia Đình của tác giả Khái Hưng.
Thiền Của Tôi - Vệ Tuệ
Coco sinh sớm trong một ngôi chùa nhỏ yên tĩnh và xinh đẹp, có pháp danh là “Trí Tuệ”. Coco khôn lớn rất mạnh khỏe, vui vẻ, xinh đẹp, thông minh và rất được cưng chiều.  Lớn lên cô trở thành một đứa trẻ ngỗ ngược, sống bản năng và cũng tài năng không kém, một “người đẹp nhà văn theo hình thái lãng mạn”... Vệ Tuệ đã vẽ lên một Coco thành công, nổi tiếng, yêu cuộc sống tự do và bản lĩnh tuyệt vời. Coco sống và yêu ở New York, Muju đã giúp cô đủ nghị lực để cai rượu, cai thuốc lá và thuốc ngủ. Anh còn dạy Coco cách ngồi thiền. Hai người chung hưởng những “giấc mộng dưới ánh trăng lạnh lẽo, yêu thương nhau trong ánh dương và phong ba, cùng cãi nhau, cười lớn, kêu gào”;  “Tình dục trên người anh vẫn là một thứ mang hình thức tôn giáo, một niềm tin vốn có trong tôn giáo phương Đông, thuần khiết và mê hồn, mang cả đặc trưng mỹ học của chủ nghĩa thần bí. Nhưng đối với tôi, sáng tác và giao tiếp xã hội có thể giúp tôi cảm nhận được sự tồn tại của mình khi làm người. Tình dục, nhất là tình dục kết hợp với tình yêu có thể khiến tôi cảm nhận được sự tồn tại khi làm phụ nữ."  Rồi Coco bị cuốn hút bởi vẻ đào hoa và những mật ngọt của Nick. Coco chia tay cả Nick và Muju, về lại Thượng Hải. Thượng Hải xa hoa và nỗi cô đơn đẩy cô rơi vào những thói quen xấu cũ nhưng cô vẫn thấy bềnh bồng vô định vì thiếu Muju. Cô tìm lại ngôi chùa nơi mình sinh ra để tìm hiểu về cuộc sống và học “Thiền”. *** Chu Vệ Tuệ (chữ Hán: 周卫慧; thường được biết đến với cái tên Vệ Tuệ; sinh năm 1973 tại Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang) là một nhà văn người Trung Quốc, cô thuộc dòng văn học lánh loại (另类, lìnglèi ), sở trường là viết truyện ngắn. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngôn ngữ và Văn học của trường Đại học Phúc Đán vào năm 1995, cô lại làm một công việc khác chuyên ngành, là một nhà báo và biên tập trong truyền hình. Nhưng cô vẫn thường xuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Vệ Tuệ đã từng gây chấn động văn đàn Trung Quốc về đề tài tính dục vào những năm thập kỷ 90. Cuốn "Cục cưng Thượng Hải" của cô từng bị báo chí Trung Quốc lên án và bị cấm lưu hành trong cả nước vì nội dung đồi trụy, trụy lạc (theo nhận định của cơ quan quản lý sách báo Trung Quốc). Cô đã từng tự sự:"...Tôi thường ngồi viết trong tiếng hát rất hay nhưng mang tính hủy diệt của Kurt Cobain, viết những chữ hay, rất hay, để tôi và bạn bè của tôi phân biệt với những người tương tự tôi, viết những chữ như đóa hoa bí ẩn, là đóa hoa bí ẩn...". Tác phẩm của Vệ Tuệ là những câu chuyện không hẳn là chuyện mà là một cách nhìn, một cách sống, một tuyên ngôn mới cho một lớp trẻ mới, mà tác giả là đại diện. Truyện của cô chỉ xoay quanh một chủ đề, đó là tính dục, với những nhân vật có những cuộc tình không có tình yêu mà gần như chỉ bằng sự nổi loạn của thân xác. Tuy nhiên, so với các nhà văn cùng thời, Vệ Tuệ được báo giới đánh giá cao qua các truyện ngắn với tính nghệ thuật, ngôn từ và lối hành văn chuyên nghiệp. Tác phẩm "Thượng Hải bảo bối", một cuốn tiểu thuyết viết theo lối bán tự truyện, sẽ được dựng thành phim và đây lại là một thành công nữa của cô sau những tác phẩm được phát hành bằng 30 thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm chính: Điên cuồng như Vệ Tuệ. Baby Thượng Hải Thiền Của Tôi Cục cưng Thượng Hải (hay "Thượng Hải bảo bối"). Ngải Hạ Thiền trong tôi Tiếng kêu của bươm bướm Linh hồn lạc lối Gia Đình Ngọt Ngào Của Tôi Truyện Ngắn Vệ Tuệ ... Mời các bạn đón đọc Thiền Của Tôi của tác giả Vệ Tuệ.