Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Chín Tám Tư

Một chín tám tư là tên một tiểu thuyết dystopia (phản địa đàng) phát hành năm 1949 của nhà văn người Anh George Orwell. Kể từ khi ra đời vào năm 1949, Một chín tám tư đã được xem là tác phẩm kinh điển về tư tưởng chính trị và khoa học giả tưởng. Nhiều từ vựng, khái niệm có trong tiểu thuyết như Big Brother, doublethink, thoughtcrime, Newspeak, Room 101, telescreen, 2+2=5 và memory hole đã đi vào đời sống (những người nói tiếng Anh). Tiểu thuyết cũng là nơi phổ biến tính từ Orwellian nhằm chỉ sự phủ nhận lịch sử, tung tin giả, theo dõi ngầm và tuyên truyền của nhà nước toàn trị. Năm 2005, tạp chí TIME đã đưa Một chín tám tư vào danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh xuất sắc nhất từ 1923 đến 2005. Trong danh sách "100 tiểu thuyết xuất sắc nhất của Modern Library", Một chín tám tư đứng thứ 13 do ban biên tập bình chọn và thứ 6 do người đọc bình chọn. Năm 2003, tiểu thuyết đứng vị trí thứ 8 trong "The Big Read", theo một cuộc điều tra của BBC. *** Anh Cả và tiểu thuyết ‘1984’ Hôm qua, tôi xem cuốn phim “First, they killed my father” do Angelina Jolie đạo diễn. Cuốn phim, sản xuất năm 2017, mô tả thảm cảnh của một gia đình trung lưu ở Pnom Penh sau 1975 khi Khmer Đỏ chiếm Cambodia. Trong phim, có một chữ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần là ‘Angkar‘, có nghĩa là Tổ Chức, nhưng có người dịch là ‘Anh Cả’. Khái niệm ‘Anh Cả’ làm tôi nhớ đến cuốn tiểu thuyết “1984” của văn hào George Orwell. Đối với nhiều người Việt Nam, đặc biệt là ở miền Nam, sẽ thấy cuốn phim “First, they killed my father” rất cuốn hút, vì nhiều người có thể tìm thấy mình qua những hình ảnh và nhân vật trong phim. Cuộc sống yên ấm của một gia đình trở thành đảo lộn sau khi Khmer Đỏ tiến vào ‘giải phóng’. Những gì xảy ra sau đó như tịch thu tài sản, tù cải tạo tập trung, tra tấn, giết chóc, v.v. làm cho người ta nhớ lại một thời kinh hoàng. Có những chi tiết nhỏ những đầy ý nghĩa như một cán bộ Khmer Đỏ đòi tước lấy cái đồng hồ của một người dân, vì Anh Cả cần cái đồng hồ đó, hay như chi tiết về một cựu viên chức giả vờ không biết tiếng Pháp để đóng vai người nông dân nhằm thoát bàn tay tử thần của đám cán bộ đang lăm le giết người. Thế nhưng cuối cùng thì anh ta cũng bị giết trong lúc cải tạo. Xuyên suốt cuốn phim, nhân vật vô hình “Anh Cả” được nhắc đi nhắc lại. Anh Cả biết hết. Anh Cả theo dõi mọi người. Anh Cả vĩ đại. Anh Cả bao dung và độ lượng. Nhưng trong thực tế, Anh Cả là kẻ giết người vô hình. Vô hình là vì không ai biết Anh Cả là ai. Đó chính là viễn ảnh của một xã hội được mô tả trong tiểu thuyết 1984. 1984 là một trong hai cuốn tiểu thuyết (cuốn kia là ‘Animal Farm’) nổi tiếng nhứt của văn hào George Orwell được xuất bản vào năm 1949. Trong 1984, Orwell cảnh báo thế giới về một viễn ảnh chế độ toàn trị sẽ gieo rắc lên xã hội, như hạn chế quyền tự do con người, kiểm soát hành vi, thậm chí suy nghĩ của dân chúng. Cảnh báo của Orwell thật ra đã thành hiện thực không chỉ ở các nước theo chế độ toàn trị, mà còn ngay tại những nước từng có thời tự xem là ‘Tự do & Dân chủ’ ngày nay. Khái niệm ‘Anh Cả’ / Big Brother / Angkar bàng bạc trong xã hội ngày nay. Nó không chỉ là những khẩu hiệu, biểu ngữ giăng trên đường phố, mà còn là những ‘Ứng dụng’ trong cái điện thoại động và máy tính cá nhân theo dõi từng bước đi, đếm từng hơi thở, và lắng nghe từng lời nói của chúng ta. Anh Cả ngày nay hiện diện mọi nơi. Tóm tắt ‘1984’ Câu chuyện xảy ra trong nước Oceania vào năm 1984 (nên nhớ ông viết trước đó và chỉ xuất bản vào năm 1949). Oceania là một nước theo thể chế toàn trị (totalitarian). Ngoài Oceania, còn có 2 nhà nước toàn trị khác là Eurasia và Eastasia. Oceania bị thống trị bởi một đảng gọi là Party. Party được sự lãnh đạo của một lãnh tụ ‘anh minh’ có danh xưng là Big Brother (Anh Cả). Anh Cả biến Party thành một tổ chức chuyên tẩy não dân chúng, đổi trắng thành đen, đổi đen thành trắng, làm cho người dân lẫn lộn không biết đâu là thực và đâu là giả. Mục tiêu của Party là làm cho người dân phải vâng lời lãnh tụ Big Brother một cách vô điều kiện. Nhà nước Oceania bao gồm một số bộ có tên rất … khác. Bộ Sự Thật (Ministry of Truth), Bộ Hoà Bình (Ministry of Peace), Bộ Tình Thương (Ministry of Love) và Bộ Dồi Dào (Ministry of Plenty). Những cái tên bộ hoàn toàn đi ngược lại ý nghĩa của nó. Chẳng hạn như Bộ Sự Thật chuyên trách tuyên truyền dối trá. Theo Bộ Sự Thật, 2 + 2 không phải là 4, mà là 5. Bộ Sự Thật kiểm soát tất cả báo chí, giải trí, và nghệ thuật. Trong nhà nước toàn trị, không có báo chí đối lập; tất cả phải phục vụ cho Party. Bộ Hòa Bình chuyên trách chiến tranh, lúc nào cũng sẵn sàng gây chiến với nhà nước Eurasia và Eastasia. Bộ Tình Thương là bộ đáng sợ nhứt vì nó có chức năng như là Bộ Công An, chuyên trách đàn áp và tra tấn người dân. Bộ Dồi Dào có chức năng kiểm soát nền kinh tế tập trung, kiêm luôn phân phối thực phẩm và hàng hoá cho dân. Cuốn tiểu thuyết xoay quanh 4 nhân vật: Winston Smith là một cán bộ cấp thấp, Julia là người yêu của Smith, O’Brien là giả lãnh tụ đảng đối lập, và Emmanuel Goldstein là Anh Cả. Ngoài ra, còn có nhân vật Charrington là chủ tiệm bán đồ cổ, và ông này là một người chỉ điểm, thành viên của Cảnh sát Tư tưởng. Winston Smith là một cán bộ trong Bộ Sự Thật. Công việc của Winston là thay đổi các sự thật lịch sử sao cho phù hợp với đường lối và chánh sách của Party / Đảng. Dù làm công việc đó, nhưng Winston không thấy thoải mái vì sự gian dối của Đảng. Chẳng hạn như Đảng nói nước Oceania luôn là đồng minh của Eastasia trong cuộc chiến chống Eurasia, nhưng sự thật thì không phải vậy. Hay như Đảng cho rằng Emmanuel Goldstein (lãnh tụ của nhóm Brotherhood) là người nguy hiểm nhứt, là Kẻ Thù Của Nhân Dân, nhưng Winston thấy không phải vậy. Winston trú ngụ ở tầng 7 trong một toà nhà tồi tàn, hôi mùi cải bắp luộc, còn thang máy thì thường bị hư hỏng. Trớ trêu thay, toà nhà này được Đảng đặt tên là “Victory Mansion” (Biệt thự Thắng Lợi). Thật ra, cái tên ‘Thắng Lợi’ được dùng cho rất nhiều sản phẩm (như thuốc lá, rượu, bia, cà phê, v.v.) của nước Oceania. Orwell mô tả Smith như là một công chức nghèo, uể oải với công việc và cuộc sống. Chiều về căn hộ, anh ta được ‘chào đón’ bằng những bài ca hay chương trình giải trí mang tính ‘cách mạng’ và tẻ nhạt. Còn cái màn hình thì hình như lúc nào cũng theo dõi mỗi bước đi và hành vi của anh. Còn ra ngoài nhà thì bất cứ anh đi đến nơi nào, Party đều theo dõi anh. Đi đường anh cũng thấy sự hiện diện của Party và lãnh tụ vĩ đại qua băng rôn và khẩu hiệu. Anh phải tỏ ra là một cán bộ trung thành với Party, về nếu không thì anh ta sẽ bị trừng phạt, thậm chí giết chết. Cảnh sát Tư tưởng lúc nào cũng có mặt để bảo đảm anh ta phải trung thành, mẫn cán với Party / Đảng. Winston càng ngày càng thấy bất bình trước sự trấn áp và kiểm soát của Đảng. Đảng cấm không được suy nghĩ tự do, không có tình dục, và không có bất cứ diễn đạt mang tánh cá nhân. Do đó, anh ta bắt đầu không ưa đảng và viết nhựt kí. Nói cách khác, anh ta đang trở thành một Tội phạm Tư tưởng. Winston thương thầm nhớ trộm một cô gái đồng nghiệp tên là Julia. Nhưng Winston sợ Julia là ‘gián điệp’ được cài cắm để theo dõi những kẻ Tội phạm Tư tưởng như anh ta. Một ngày kia, Winston nhận được thư của Julia với dòng chữ ‘I love you’ (em yêu anh), và thế là họ bí mật bắt đầu một mối quan hệ tình cảm. Càng yêu Julia chừng nào, Winston càng ghét Đảng chừng nấy. Một hôm, Julia và Winston nhận được lời mời ghé thăm O’Brien, lãnh tụ của Đảng. Tuy Đảng mang danh là của giai cấp lao động, nhưng O’Brien sống trong xa hoa.  O’Brien cho biết rằng cũng như Winstin và Julia, ông rất ghét Đảng. Ông đang tham gia nhóm Brotherhood (Hội Ái Hữu) nhằm lật đổ Đảng. O’Brien mời Julia và Winston tham gia Hội Ái Hữu và được tặng cuốn sách của Emmanuel Goldstein về tuyên ngôn của Hội. Winston say sưa đọc cuốn sách cho Julia nghe trong một tiệm. Đột nhiên, lính xông vào tịct thu cuốn sách, và người báo lính bắt là chủ nhân của tiệm tên Charrington, ông này là thành viên của Cảnh sát Tư tưởng. Winston được chở tối Bộ Tình Thương, và ở đó Winston lại gặp O’Brien. Lúc bấy giờ, Winston mới biết rằng O’Brien là một gián điệp của Đảng. O’Brien chỉ giả vờ là người của Hội Ái Hữu để gài bẫy Winston. Tại Bộ Tình Thương, đích thân O’Brien tra tấn và tẩy não Winston. Winston kháng cự, và thế là bị gởi đi giam cầm trong Phòng 101, nơi kinh khủng nhứt của Bộ Tình Thương dành cho những tù nhân sừng sỏ nhứt. Cách O’Brien tra tần ở Phòng 101 là buộc một lồng đầy chuột trên đầu của Winston, và để cho chuột gặm nhấm mặt của Winston. Cuối cùng thì Winston bị suy sụp và van xin O’Brien tha thứ cho mình, và hãy dùng hình thức tra tấn này cho Julia. Winston được thả trong điều kiện sức khoẻ tinh thần bị suy sụp hoàn toàn. Ở ngoài tù, Winston gặp Julia nhưng không còn cảm tình gì với nàng. Ngược lại, Julia cũng bị suy sụp tinh thần và không còn yêu Winston nữa. Winston chấp nhận Đảng và học cách yêu thương lãnh tụ Anh Cả. Phân tích ‘1984’ Nội dung câu chuyện tôi tóm tắt có lẽ không làm cho các bạn quan tâm, vì xem quá có vẻ quá … tầm thường. Có lẽ thế, nhưng ý nghĩa đằng sau nó thì không tầm thường chút nào, vì qua câu chuyện, văn hào đã phác hoạ một xã hội toàn trị có hình thù ra sao và vận hành như thế nào. Tác phẩm còn hàm chứa một thông điệp rất quan trọng mà George Orwell muốn gởi đến độc giả, đó là các chế độ toàn trị có khả năng gieo rắc nỗi kinh hoàng đến người dân. Đó cũng là một cảnh báo mà văn hào đưa ra từ những 80 năm trước. Luận đề căn bản của 1984 là thế giới sẽ được chia thành 3 siêu nhà nước toàn trị: Oceania, tượng trưng cho chế độ Stalin; Eurasia tượng trưng cho chế độ Phát-xít; và Eastasia tượng trưng cho xã hội theo tư bản chủ nghĩa. Tuy Oceania tượng trưng cho xã hội Stalin, nhưng câu chuyện lại không lấy Moscow làm bối cảnh mà là London. Tuy nhiên, ngày nay thì chúng ta có thể thấy cái nhà nước Oceania hiện diện ở bất cứ nơi nào trên thế giới, dưới hình thức này hay hình thức khác. Nước Oceania có ba thành phần: một nhóm nhỏ gọi là Nội Đảng (Inner Party), Ngoại Đảng (Outer Party) và nhóm lớn nhứt là Proles không nằm trong Đảng.  Nội Đảng bao gồm một nhóm nhỏ chóp bu của Đảng, có quyền điều hành và ra chánh sách. Ngoại Đảng là nhóm lớn hơn, bao gồm những cán bộ như Winston Smith, những kẻ bị tẩy não nặng nề và chỉ biết phục vụ cho Nội Đảng một cách vô điều kiện. Proles hay thường dân là nhóm lớn nhứt, ngoài Đảng, chẳng có quyền lực gì cả, và gần như vô nghĩa. Nhóm Probes này được quản lí bởi một lực lượng gọi là Cảnh sát Tư tưởng (Thought Police). Nhóm Proles chẳng có vai trò gì, và thường được Cảnh sát Tư tưởng cho chơi thể thao và những màn giải trí vớ vẩn khác để không chất vấn những gì Nội Đảng và Ngoại Đảng làm. Mục tiêu tối hậu của Nhà nước Oceania là kiểm soát toàn bộ xã hội và kiểm soát suy nghĩ của người dân. Để thực hiện mục tiêu này, Oceania dựa vào 2 trụ cột chánh: dối trá & tẩy não, và đàn áp. Dối trá & tẩy não được thực hiện bởi Bộ Sự Thật. Đàn áp thì do Bộ Tình Thương phụ trách. Bộ Sự Thật sáng chế ra một ngôn ngữ gọi là Newspeak. Trong thực tế, Newspeak là loại ngôn ngữ mới nhằm hạn chế tự do tư tưởng và xiển dương đường lối chủ trương của Đảng. Ngôn ngữ Newspeak thay thế tiếng Anh truyền thống. Newspeak không có những chữ mang tính phản kháng. Ngay cả suy nghĩ phản kháng cũng là bất hợp pháp, và suy nghĩ phản kháng trong tâm tưởng là một ‘tội phạm tư tưởng’ (thought crime). Tội phạm tư tưởng là loại tội phạm nặng nhứt trong nhà nước Oceania. Trong Newspeak có một chương trình một cách nói gọi là ‘Doublethinking‘ (Suy Nghĩ Kép). Khẩu hiệu của Doublethinking và cũng là chủ trương của Oceania là: Chiến tranh là hoà bình (War is Peace) Tự do là nô lệ (Freedom is slavery) Dốt nát là sức mạnh (Ignorance is strength) “Chiến tranh là hoà bình” có nghĩa là đặt quốc gia trong tình trạng chiến tranh thì người ta sẽ quên đi những bất công xã hội và thối nát của chế độ để chuẩn bị chiến tranh, và qua đó mà duy trì hoà bình trong nước. Điều này giải thích tại sao các nước toàn trị lúc nào cũng doạ công chúng rằng có một kẻ thù đang đe doạ đến sự tồn vong của chế độ (dù chẳng có đe doạ nào cả) để biện minh cho sự đàn áp của họ và làm cho dân chúng lúc nào cũng bị động, không có thì giờ suy nghĩ sâu xa. “Tự do là nô lệ” có nghĩa là tự do tuyệt đối sẽ dẫn đến một cuộc sống mà người ta chỉ theo đuổi những thú vui vật chất và nhục dục. Họ không thể nào suy nghĩ đến những vấn đề lớn hơn. Do đó, họ rất dễ trở thành nô lệ cho chế độ. “Dốt nát là sức mạnh” có thể hiểu rằng dốt nát là niềm vui. Khi người ta chạy theo niềm vui để thoả mãn nhu cầu cá nhân, người ta sẽ không quan tâm đến sự thật nữa. Sự dốt nát của họ là sức mạnh của nhà nước. Doublethinking là một ‘vũ khí’ lợi hại của Đảng (Bộ Sự Thật). Với Doublethinking, người ta có thể tin vào 2 điều hoàn toàn đối nghịch nhau. Đó chính là lí do tại sao các chế độ toàn trị rất thích nói về tự do, dân chủ, hoà bình. Chế độ Oceania lúc nào cũng nói rằng tự do là quí báu, nhưng chính chế độ đó lại tước đoạt quyền tự do tư tưởng của người dân. Dân chủ là một khẩu hiệu rất phổ biến trong nước Oceania nhưng trong thực tế người dân không có quyền bầu cử. Còn hoà bình thì chỉ là khẩu hiệu, vì trong thực tế Oceania lúc nào cũng chuẩn bị chiến tranh chống các nhà nước khác. Cho đến nay, chúng ta vẫn thấy nhan nhản những thủ thuật của Bộ Sự Thật trong tuyên truyền và tẩy não người dân. Vì nhà nước Oceania kiểm soát toàn bộ báo chí và hệ thống truyền thông, nên nó có thể nói bất cứ điều gì mà không quan tâm đến phản kháng. Nó nói 2 + 2 = 5 mà không ai dám nói khác. Nó đổi đen thành trắng, và trắng thành đen cũng chẳng ai nói khác được. Dần dần, theo thời gian những ‘tiêu chuẩn’ mới này thành chân lí và người dân phải chấp nhận. Để kiểm soát tư tưởng và tẩy não dân, Đảng duy trì một hệ thống kiểm soát tư tưởng có tên là Thought Police (Cảnh sát Tư tưởng). Cảnh sát Tư tưởng có thể theo dõi công dân mỗi phút và biết họ suy nghĩ gì! Bất cứ ai trong nhà nước Oceania suy nghĩ khác với Đảng là bị bắt bỏ tù và tra tấn. Nhà nước Oceania thích dùng những cách nói thậm xưng. Họ nói về những chiến thắng vang vội, và bất kẻ thù nào cũng bị đánh bại. Tiểu thuyết bắt đầu bằng nhà nước Oceania gây chiến với Eurasia và làm hoà với Eastasia. Nhưng sau đó thì Oceania đột nhiên làm hoà với Eurasia và gây hấn Eastasia. Cứ mỗi lần như thế, Oceania tuyên bố là chiến thắng. Họ khắc cái ‘chiến thắng’ đó bằng cách đặt tên cho các sản phẩm là ‘Thắng lợi’ / Victory. Người dân tưởng đó là thật và cũng tự hào và ảo tưởng về sức mạnh của Nhà nước Oceania. Nhà nước Oceania tuy bề mặt thì tỏ ra là một chánh quyền mạnh và vững chãi, nhưng trong thâm tâm họ rất yếu. Họ rất sợ dân. Họ nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và ai cũng đáng nghi ngờ. Đó chính là lí do họ có đội quân Cảnh sát Tư tưởng. Một trong những cụm từ họ hay dùng là ‘Kẻ Thù Của Nhân Dân‘. Trong ‘1984’, Orwell mô tả các thành viên của Ngoại Đảng cứ mỗi lần họp họ dành ra 2 phút để làm Nghi lễ Thù Ghét chống lại Emmanuel Goldstein, người được xem là ‘Kẻ thù của Nhân dân‘. Tuy nhiên, cái nhãn đó chỉ được dựng lên làm biểu tượng nhằm đánh lạc hướng người dân từ một kẻ thù lớn hơn là Anh Cả! Cái mô hình Oceania dĩ nhiên là có mặt trong thế giới XHCN cũ. Ở Đức, sau khi thống nhất đất nước, người ta mới biết cơ quan mật vụ khét tiếng Stasi đã theo dõi người dân như thế nào. Họ dùng những người thân như cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp làm điềm chỉ viên cho họ. Các điềm chỉ viên báo cáo rất chi tiết về người họ theo dõi, như gặp ai, nói chuyện về gì, suy nghĩ ra sao, thậm chí … ngủ với ai! Ngày nay, cái ngôn ngữ Newspeak cũng hay thấy ở những nước chuyển sang XHCN. Ở Tàu, sau cuộc ‘cách mạng’, chế độ mới thay đổi các cách nói và ngữ vựng cũ bằng những cách nói xa lạ và những từ ngữ khó hiểu. Họ cố tình tẩy não sao cho dân chúng phải đoạn tuyệt với ngôn ngữ của cha ông để lại và làm quen với một thứ ngôn ngữ mới. Ngôn ngữ Newspeak cũng có những chữ như tự do, dân chủ, hoà bình, v.v. nhưng ý nghĩa thật thì hoàn toàn ngược lại, y như Doublethinking. Trong cái nhìn của Orwell, không phải chỉ xã hội chủ nghĩa sẽ thất bại, nhưng một xã hội hiện đại (như ngày nay) và xã hội dân chủ đại chúng cũng sẽ thất bại. Trong xã hội ngày nay, những kẻ cai trị đã có trong tay những kĩ thuật và công nghệ để duy trì quyền lực và kiểm soát dân chúng. Trong xã hội Oceania, người dân tin vào những gì kẻ cai trị (Anh Cả) vì họ không thể nào nói lên những bất đồng chánh kiến, hoặc họ bị tẩy não và không nghĩ ra được một cách diễn giải khác. Có lẽ ý tưởng chánh của Orwell trong 1984 là những kẻ cai trị có khả năng ngăn chận những suy nghĩ độc lập của người dân. Lời cảnh báo đó vẫn còn tính thời sự. Dù đã gần 80 năm xuất bản, những khái niệm như Newspeak, Doublethink, Anh Cả, Tội phạm Tư tưởng, Cảnh sát Tư tưởng, v.v. vẫn còn liên quan. Ngay cả người dân ở Mĩ, Úc, Anh trong thời dịch bệnh có lẽ đều tìm thấy nhiều sự trùng hợp lạ lùng với những gì mô tả trong 1984. Chính vì thế mà mà ‘1984’ được xem là một kiệt tác, vì mức độ ảnh hưởng của nó xuyên thời gian. ___ [1] George Orwell tên thật là Eric Arthur Blair sanh năm 1903 và qua đời năm 1950, tức chỉ thọ 46 tuổi. Ông chết vì bệnh lao phổi. Ông xuất thân là một nhà báo và nhà phê bình, nhưng lại biết đến như là một nhà văn. Ông mô tả gia đình ông thuộc giai cấp trung lưu, thân phụ là công chức làm việc ở Ấn Độ (nơi ông sanh ra) và thân mẫu xuất thân từ một gia đình doanh nhân gốc Pháp. Sau một thời gian sống ở Ấn Độ, ông theo thân mẫu về Anh, nơi ông được gởi đi học tại những trường danh tiếng như Sussex và Eton. Ngay từ thuở đó cậu bé George đã biểu hiện một tư chất thông minh nhưng thụ động. Aldous Huxley là một trong những người thầy của Orwell. Tuy nhiên, ông không thích môi trường học đường. Sau trường học, ông làm cảnh sát một thời gian, nhưng ông cũng không thích nghề cảnh sát. Thật ra, ông lúc nào cũng cảm thấy xấu hổ vì đã làm cảnh sát. Sau khi bỏ nghề cảnh sát, ông lang thang ở London và Paris và sống trong một khu tồi tàn, chung nhà với những người ăn xin. Ở Paris ông làm nghề rửa chén trong nhà hàng. Có lẽ chính vì thế mà ông rất ghét chủ nghĩa đế quốc. Ông tự xem mình là một người xã hội chủ nghĩa, thậm chí là người cộng sản. Nhưng trớ trêu thay, hai tác phẩm Animal Farm và 1984 của ông lại là những cảnh báo về một viễn cảnh chế độ Nazi và Stalin áp đặt lên xã hội loài người. Mời các bạn đón đọc Một Chín Tám Tư của tác giả George Orwell & Phạm Nguyên Trường (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bà Mụ - Chris Bohjalian
Vào một đêm mùa đông bão bùng năm 1981, một ca đẻ tại nhà ở bang Vermont, miền bắc nước Mỹ, đã biến thành bi kịch. Đường dây điện thoại bị đứt, đường sá bị phong tỏa vì băng đá. Không thể đưa bệnh nhân đến bệnh viện, bà mụ Sibyl Danforth đã nỗ lực hết sức để cứu cả bà mẹ lẫn thai nhi trong lúc người học việc thiếu kinh nghiệm của bà và người chồng hoảng sợ của thai phụ chỉ biết bất lực đứng nhìn. Thai phụ đã chết nhưng đứa bé được sống nhờ quyết định vào phút chót của Sibyl: mổ lấy thai. Nhưng cơn ác mộng chỉ mới bắt đầu: người học việc một mực cho rằng thai phụ chưa chết lúc Sibyl tiến hành mổ đẻ. Trong tiểu thuyết Bà mụ, tác giả Chris Bohjalian đã tường thuật lại những sự kiện dẫn đến phiên tòa xét xử Sibyl Danforth, một bà mụ lành nghề ở thị trấn nhỏ Reddington, từng đỡ đẻ cho hơn 500 đứa trẻ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đó không đơn thuần là phiên tòa về tội bất cẩn gây chết người của Sibyl, mà còn là cuộc đối đầu giữa giới bác sĩ và bà mụ, những người luôn bị xem là cái gai trong mắt chính quyền và cộng đồng y tế. Bà mụ được kể lại qua cách nhìn của Connie, cô con gái mười bốn tuổi của Sibyl. Khi câu chuyện về điều gì đã xảy ra trong đêm mùa đông định mệnh ấy dần mở ra cũng là lúc người đọc bước vào một thế giới lạ lùng của nghề bà mụ. Ở đó có những người phụ nữ không xem việc đỡ đẻ là một “nghề nghiệp” mà là một “duyên phận” chỉ dành riêng cho một số người, và họ thực hiện nó như một nghi thức tôn giáo thiêng liêng. Những người như Sibyl Danforth luôn tin rằng “phụ nữ đẻ con hiệu quả nhất trong môi trường mà họ thông thuộc nhất và điều đó khiến họ cảm thấy thoải mái nhất; tương tự, việc chào đón một đứa trẻ đến với thế giới này trong một căn phòng ấm áp, và đỡ lấy đứa bé với đôi tay trìu mến, là điều rất quan trọng”. Ở đó có những ca đẻ tại nhà với sự cộng hưởng cảm xúc của tất cả những người có mặt khiến ta chỉ muốn “đóng chai những rung cảm trong căn phòng đó và để dành một ít cho những ca đẻ cô đơn hơn”. Bà mụ cũng có thể được xem là “duyên phận” của tác giả Chris Bohjalian khi ý tưởng viết quyển sách đến với ông như một sự sắp đặt. Chris kể rằng khoảng sáu tháng sau khi cô con gái của ông chào đời, vợ chồng ông đến dự một buổi tiệc tối tại Vermont nơi họ sinh sống, và ngồi cạnh ông là một bà mụ hành nghề độc lập ở địa phương. Nghe tin vợ chồng ông phải lặn lội lái xe hơn 50 cây số giữa đêm mới đến được bệnh viện gần nhất để sinh con, bà đã mỉm cười nói: “Nếu anh chị dùng đến tôi, thì anh chị đã có thể đẻ con trong phòng ngủ của mình và anh đã có thể đích thân đỡ lấy cháu bé rồi.” Nhà văn kể lại: “Tôi chưa bao giờ nghe người ta nói động từ “đỡ” trong bối cảnh sinh đẻ, thế là tôi lập tức cảm thấy thích thú. Ngày hôm sau, chúng tôi ăn trưa với nhau, và bà chia sẻ với tôi những quyển sách về nghề bà mụ như Trái tim và đôi tay và Nghề bà mụ thiêng liêng. Rồi bà giới thiệu tôi với những ông bố bà mẹ từng đẻ con tại nhà. Tôi đã gặp gỡ những bà mụ và bác sĩ sản phụ khoa khác, và tôi phát hiện ra rằng một câu chuyện tuyệt vời đang chờ được viết ra.” Bà mụ (xuất bản năm 1997) là tiểu thuyết thứ năm của Chris Bohjalian. Là tác giả, Chris nhớ ơn người phụ nữ đã gợi ra cho ông một đề tài sáng tác tuyệt vời. Là bạn đọc, tôi cám ơn cuộc gặp gỡ định mệnh đó, vì nó là duyên lành cho sự ra đời của một tác phẩm hé mở về thế giới ít được biết đến của những bà mụ, của một nghề đang dần mai một. Đọc Bà mụ, thấy đồng cảm với niềm tin bất biến của những người làm nghề đỡ đẻ vào sự thiêng liêng không thể thay thế của sinh đẻ tại nhà. Thấy thương hơn những vất vả “mang nặng đẻ đau” của người làm mẹ, dù ở đâu và bên cạnh ai. Rồi bất chợt nhận ra, hình như có một lúc nào đó giữa những trang sách, ta đang nghĩ về giờ phút chào đời của chính ta và thấy yêu mẹ của ta nhiều hơn một chút. Đó là khi ta chạm đến sự đồng điệu với tác giả, như ông đã tâm sự: “Bà mụ đề cập đến nhiều câu chuyện, nhưng trên hết, tôi xem quyển tiểu thuyết này như một câu chuyện về tình mẫu tử thiêng liêng.” Thi Trúc Sài Gòn, tháng 11 năm 2010   *** Chris Bohjalian đã cho ra đời mười ba tác phẩm, mới nhất là Bí mật vườn địa đàng (Secrets of Eden) xuất bản tháng 2/2010. Tiểu thuyết Bà mụ từng chiếm vị trí số 1 trong danh sách bán chạy của New York Times, đoạt giải “Quyển sách hay nhất” của Publishers Weekly và được tuyển chọn trong Câu lạc bộ sách của Oprah. Tác phẩm của Chris Bohjalian đã được dịch ra hơn 25 ngôn ngữ và xuất bản ở hai mươi mốt quốc gia. Đến nay, đã có hai tiểu thuyết của ông được dựng thành phim, gồm Bà mụ và Băng qua khán đài. Năm 2002, ông đoạt giải thưởng sách New England (New England Book Award) ở thể loại hư cấu. Ngoài sáng tác tiểu thuyết, ông còn viết bài cho nhiều tạp chí, trong đó có Cosmopolitan, Reader’s Digest, và Boston Globe Sunday Magazine, và là người phụ trách chuyên mục xã luận Chủ nhật cho báo Burlington Free Press từ năm 1992 đến nay. Hiện ông sống ở Vermont với vợ và con gái. Tiểu thuyết The double bind (Nghịch lý) Before you know kindness (Trước khi bạn biết lòng tử tế) The buffalo soldier (Chiến binh trâu) Trans-sister radio (Đài phát thanh chị em) The law of similars (Lấy độc trị độc) Midwives (Bà mụ) Water witches (Phù thủy nước) Past the bleachers (Băng qua khán đài) Hangman (Người treo cổ) A killing in the real world (Một vụ giết người trong thế giới thật) Tuyển tập tản văn Idyll Banter: Weekly excursions to a very small town (Idyll Banter: Những cuộc dạo chơi hàng tuần đến một thành phố nhỏ)   *** Lời khen tặng dành cho tiểu thuyết Bà mụ của Chris Bohjalian Giải Quyển sách hay nhất của Publishers Weekly[1] “Một Bản đồ thế giới thứ hai... xúc động... đau đớn.” Glamour “Sự kết hợp giữa cường độ kể chuyện, nhân vật và bối cảnh thuyết phục, giọng văn xuôi tinh tế và chủ đề quan trọng đủ hiếm thấy để được trân quý.” Portland Oregonian “Quyển sách phải đọc của mùa này.” Woman’s Own “Thông minh và phóng khoáng... Bà mụ còn hơn cả một quyển sách hay để đọc.” Burlington Free Press “Quyến rũ... Bohjalian chuyển tải sự nhạy cảm đáng kinh ngạc vào tác phẩm mô tả nữ giới của ông.” San Antonio Express-News “Một quyển sách hay mê hoặc... Bohjalian... là bậc thầy trong tác phẩm của ông.” Concord Sunday Monitor (New Hampshire) “Lôi cuốn, sâu lắng... Độc giả sẽ bị mê hoặc trước sức hút không thể cưỡng lại của câu chuyện.” Publishers Weekly “Một tiểu thuyết hấp dẫn, phức tạp.” Kirkus Reviews Mời các bạn đón đọc Bà Mụ của tác giả Chris Bohjalian.
Vị Tư Lệnh Mong Muốn Vĩnh Hằng - Kresley Cole
Nhân vật Nikolai Wroth trong tựa tiểu thuyết full này là vị tướng quân ma cà rồng tàn nhẫn, sẽ không để thứ gì ngáng con đường tìm kiếm Cô Dâu của anh, người phụ nữ duy nhất có thể 'trao đổi máu' cùng anh, khiến trái tim anh đập, cũng đồng thời khiến sức mạnh tràn ngập thân thể anh. Chỉ lạnh lùng hứng thú với sức mạnh mà Cô Dâu ấy có thể mang đến, anh khó thể tin khi Myst Kẻ Được Khao Khát đánh thức cơ thể - và linh hồn của anh. Nổi danh trên khắp thể giới là con Valkyrie xinh đẹp nhất, Myst đã cống hiến cuộc đời mình để bảo vệ một món nữ trang ma thuật, và để chiến đấu chống lại bọn ma cà rồng. Với Wroth, cô thấy được cơ hội tuyệt vời để hành hạ kẻ thù không đội trời chung của mình - khi mỗi nhịp đập của trái tim hắn đi kèm với khát khao tình dục chỉ cô mới có thể thỏa mãn. Từ chối hắn, cô bỏ trốn, gắng sức quên đi nụ hôn cháy bỏng, đầy tính chiếm hữu ấy của hắn. Cô trốn tránh được anh trong năm năm, nhưng cuối cùng anh đã săn cô đến tận cùng trái đất rồi đoạt mất món nữ trang ma thuật của cô, món nữ trang trao tất cả quyết định của cô về tay anh. Giờ khi mà cô đã sẵn ở đấy trước mặt anh, anh định để cô tự mình trải nghiệm qua khát khao tình dục đau đớn không có điểm dừng cô đã khiến anh chịu dụng nửa thập kỉ qua. Thế nhưng khi Nikolai nhận ra điều anh muốn từ Myst còn hơn cả thù hận rồi thả tự do cho cô, liệu cô có quay trở về bên anh? *** Tất cả mọi sinh vật hay vật thể được suy nghĩ là trong truyền thuyết … không phải như thế. Họ tất cả đều tồn tại song song với loài người và tận hưởng món quà của sự bất tử.Có đến hàng trăm các loài khác nhau: từ Ma cà rồng đến Lykae, từ Furies đến Người biến hình, từ loài Yêu tinh đến loài Valkyrie. Những người bất tử đó gọi thế giới của họ là The Lore. Bạn đã có thể có một cuộc va chạm với một trong những loài Lore rồi. Vị tỉ phú kì quặc với một sự thu hút lôi cuốn – và một sự dị ứng với ánh nắng mặt trời. Một người qua đường trông nhẹ hều với vẻ đẹp không thể có – người mà móng tay nhìn giống như là vuốt hơn. Một người Cao Nguyên với âm giọng Scotland thế kỉ mười bảy và một lực hút thú vật – người mà không thể nào được vẽ lại trong một đêm trăng tròn. Họ bước đi trong chúng ta, nhưng họ lại đấu tranh trong nội bộ mình. Mỗi phần tử có sức mạnh, điểm yếu, và những định kiến nghìn năm củ nó đối với những phần tử khác. Cứ mỗi năm trăm năm, cuộc Accession, một cuộc chiến cho sự đứng đầu, nổi lên. Thời gian đó là bây giờ … Bộ Immortals After Dark gồm có: Book 1: The Warlord Wants Forever (Vị tư lệnh mong muốn sự vĩnh hằng) Book 2: A Hunger Like No Other (Cơn khao khát không như bất cứ gì) Book 3: No Rest For The Wicked (Không có sự yên nghỉ cho kẻ đen tối) Book 4: Wicked Deeds On A Winter’s Night (Những việc đen tối trong đêm đông) Book 5: Dark Needs At Night Edge (Những nhu cầu tối tăm tại một góc bóng đêm) Book 6: Dark Desire After Dusk (Nhưng khao khát đen tối sau hoàng hôn) Book 7: Kiss Of A Demon King (Nụ hôn của một vị vua demon) Book 8: Untouchable (Không thể chạm được) Book 9: Pleasure Of A Dark Prince (Sự thỏa mãn của một vị hoàng tử đêm tối) Book 10: Demon From The Dark (Quỷ dữ từ đêm tối) Book 11: Dreams Of A Dark Warrior (Giấc mơ của một chiến binh đêm tối) Book 12: Lothaire (published day: Jan 10, 2012) *** Nguồn gốc loài Valkyrie Giữa làn tuyết đẫm máu, một chiến binh đơn độc khuỵu gối, cơ thể yếu đuối run rẩy. Tuy nhiên, cánh tay nàng vẫn giương kiếm trước binh đoàn gần đến. Chiếc áo giáp bằng sắt móp méo nuốt trọn thân hình bé nhỏ của nàng. Gió gào rú từng cơn, khiến mái tóc nàng tung bay, nhưng nàng vẫn nghe được tiếng“tưng” khi một tên nhả dây cung. Nàng cất tiếng thét trong cơn thịnh nộ; mũi tên đâm thủng chính giữa áo giáp nàng, lực đánh hất người nàng ra sau. Mũi tên ấy đã đi xuyên qua lớp kim loại, chạm hờ được đến xương ức của nàng, đủ để mỗi nhịp tim là một lần trái tim nàng chạm đến đầu nhọn mũi tên. Nhịp tim đập dũng cảm của chính nàng đang khiến nàng chết dần chết mòn. Nhưng tiếng hét của nàng đã đánh thức hai vị thần đang chìm trong giấc ngủ cùng nhau suốt một thập kỉ lạnh lẽo khắc nghiệt gần đấy. Âm thanh ấy đã khuấy động họ, khiến họ nhìn xuống người thiếu nữ, thấy ngọn lửa can đảm rực rỡ cháy trong đôi mắt nàng. Cả đời nàng là quãng thời gian tràn đầy lòng dũng cảm và quyết tâm, nhưng ánh sáng ấy mờ dần khi cái chết cận kề, và họ thương tiếc nó. Freya (*), vị nữ thần, thì thầm rằng họ nên giữ sự can đảm ấy bất diệt bởi vì nó rất quý giá. Woden (*) đồng ý, và cùng nhau họ mang tia sét xuyên qua thinh không để đánh vào người trinh nữ đang dần chết. (*) Wóden, Freya: hai vị thần cai trị tất cả các thần trong thần thoại Bắc Âu. Tia sáng ấy dữ dội, rất lâu sau mới tan đi và làm cho cả binh đoàn kia run sợ. Khi bóng tối lại phủ lên một lần nữa, nàng trinh nữ tỉnh dậy không thương tích trong một nơi lạ lẫm. Thân thể nàng lành lặn, nhân kiếp hữu hạn của nàng không thay đổi. Nhưng không lâu sau, nàng sẽ hạ sinh một đứa con gái bất tử – người con gái mà sở hữu sự dũng cảm của nàng, trí thông minh ranh mãnh của Woden với bản tính vui vẻ với vẻ đẹp yêu tinh của Freya. Dù người con này hấp thụ năng lượng của tia sét để làm nguồn dinh dưỡng, cô cũng thừa kế tính kiêu ngạo từ Woden và niềm đam mê học hỏi từ Freya – những điều chỉ khiến họ cưng chiều nàng hơn. Hai vị thần thấy thỏa mãn còn người trinh nữ yêu quý đứa con đầu lòng của mình. Thế nhưng khi một thời đại lại thoăn thoắt trôi qua, các vị thần nghe thấy tiếng kêu can đảm của một người phụ nữ khác khi nàng chết trong cuộc chiến chống lại kẻ thù đen tối. Nàng không phải thuộc về loài người, mà nàng là Furie, một loài trong The Lore – một tầng lớp xã hội gồm các giống loài thông minh đã thuyết phục con người rằng họ chỉ là tồn tại trong trí tưởng tượng. Giây phút sơ hỡ đã khiến sinh vật ấy trả giá – trong đêm tối lạnh giá, hơi thở nàng đã không còn hiện hữu. “Sảnh của chúng ta rất rộng, tuy nhiên gia đình chúng ta lại nhỏ,” Freya nói, mắt nàng lấp lánh, ánh sáng rực rỡ đến mức một thủy thủ ở phương Bắc bị chói lòa bởi các vì sao trong phút chốc mà suýt nữa lạc lối. Woden nghiêm nghị nắm lấy tay nàng, không nỡ từ chối lời đề nghị ấy. Những kẻ xung quanh con Furie đang chết dần ấy lại nhìn thấy tia sét xé toạc bầu trời một lần nữa. Và nó sẽ giáng xuống lần nữa và nữa trong những năm sau đó, tiếp tục đến khi những nữ chiến binh – dù là con người, demon, tiên cá, người biến hình hay các sinh vật dũng cảm khác trong The Lore – biết cầu nguyện chúng đến khi họ chết. Từ đó, giống loài Valkyrie ra đời. ... Mời các bạn đón đọc Vị Tư Lệnh Mong Muốn Vĩnh Hằng của tác giả Kresley Cole.
Seoul Ngọt Ngào - Jung Yi Hyun
Cuốn sách đưa người đọc vào thế giới nội tâm của một cô gái Hàn Quốc hiện đại trước ngưỡng của tuổi ba mươi với biết bao trăn trở về tình yêu, đường đời và cuộc sống. "Seoul ngọt ngào" là chuyện đời của Oh Eun Shu - một phụ nữ bước sang tuổi ba mươi với cuộc đời hết sức bình thường tại thành phố Seoul náo nhiệt, nhưng các vấn đề tiền bạc và tình duyên đã hợp thành một thách thức to lớn, khác thường mà cô phải đối mặt.   Giọng văn của Jung Yi Hyun hài hước, nhẹ nhàng nhưng không kém phần cuốn hút. Chị dẫn dắt người đọc đến với một thế hệ U30 của thành phố Seoul hiện đại náo nhiệt, nơi có những cô gái hối hả tìm kiếm hạnh phúc riêng cho mình, đấu tranh để có được tự do cá nhân trong thời đại mới và thỏa hiệp với những truyền thống cũ. "Trong mỗi cuộc đời bình thường luôn đầy ắp những điều khác thường và đặc biệt" đó là điều mà nữ nhà văn xứ Hàn gửi gắm trong cuốn tiểu thuyết đầu tay này. Tiểu thuyết này giúp Jung Yi Hyun nhận giải thưởng văn học Lee Sang, giải thưởng văn học Lee Hyo Seok (Hàn Quốc). Độc giả Hàn đã đón nhận Seoul ngọt ngào rất nồng nhiệt và nó mau chóng trở thành tiểu thuyết ăn khách tại Hàn Quốc. Tác phẩm cũng đã được chuyển thể thành phim truyền hình. *** Nhà văn Jung Yi Hyun sinh năm 1972 tại Seoul. Truyện ngắn đầu tay Tình yêu lãng mạn và xã hội nhận được giải thưởng nhà văn trẻ của giải thưởng Văn học và xã hội lần 1, giúp chị có mặt trong văn đàn. Tiếp theo, truyện ngắn Sự cô độc của người khác của chị được giải thưởng văn học Lee Hyo Seok năm 2004, truyện ngắn Trung tâm thương mại Sam Pung đoạt giải thưởng văn học hiện đại lần thứ 51 (2006). *** Vào ngày kết hôn của người yêu cũ, người ta thường làm gì nhỉ? Có thể sẽ bỏ đi du lịch một mình. Nằm dài bên bờ biển Nam Thái Bình Dương, vừa nhâm nhi cocktail vừa tận hưởng cảm giác mát mẻ, đằng nào chuyện cũng thế rồi thì hãy cầu cho bọn họ được hạnh phúc vậy. Cũng có thể chất đầy một ba lô đá cuội leo lên núi Bắc Hàn, hoặc đi bộ qua cầu ngầm Jamsu. Và vừa xuống núi vừa ném từng hòn đá cuội, hoặc đứng lặng nhìn sóng nhấp nhô trên sông rồi đột nhiên òa lên nức nở, thế cũng chẳng sao cả. Vậy còn tôi thì sao? Tôi đã đi làm. Vào sáng thứ tư, như tất cả những nhân viên công ty khác trên đời. Kì nghỉ phép của năm nay tôi đã dùng hết từ mùa hè năm ngoái, vả lại chiều nay có một buổi thuyết trình quan trọng nên tôi không thể đến nói rằng “Sếp, cho em nghỉ một ngày để em lên núi Bắc Hàn nhé!”. Và cũng không thể điện thoại cho chú rể để chất vấn tại sao anh lại cưới vào đúng ngày thứ tư mà không phải là ngày cuối tuần. Không biết là may mắn hay bất hạnh, nhưng tôi không phải là người làm quá tới mức ấy. Thành thật mà nói cho đến tận trưa, tôi đã quên béng mất hôm nay là ngày cưới của anh ta cho đến khi dịch vụ báo tin của điện thoại réo lên báo hiệu ngày kỉ niệm. Khoảnh khắc từ 11g59 sáng chuyển sang 12g00 trưa, tôi đang nghĩ xem nên ra phở Hòa ăn phở Việt hay tới Dong Chung Hung để ăn mì đen thì chuông điện thoại réo vang. Màn hình điện thoại hiện ra dòng chữ “Tin buồn, Gorilla thiệt mạng!”. Gorilla[1], cái biệt danh mà anh ta không hề muốn công nhận nó. Gorilla, nếu tôi có lỡ miệng nói ra cái từ “kết hôn” thì kiểu gì anh ta cũng run lên bần bật. — Con gái gì mà không biết suy nghĩ sâu xa. Em không biết ở xã hội Hàn Quốc này, kết hôn cũng giống như cái cương ngựa ghìm chân người ta hay sao? Khoảnh khắc làm lễ cưới, đó chính là lúc người ta bước chân vào trong mộ mà nằm. Chính miệng anh ta đã phát ra từ “mộ”, vậy thì đúng 12g00 trưa, tại một nhà hàng tiệc cưới nào đó ở Kangnam, anh ta chắc chắn sẽ thở hắt ra cho mà coi. Mới ngày nào còn ngon ngọt rằng đừng trói buộc nhau bởi cái cách kết hợp vô nghĩa và đầy hình thức ấy, hãy sống và yêu nhau mãi mãi một cách tự do. Mới chia tay với tôi chưa đầy sáu tháng, anh ta đã gửi thiệp cưới tới. Cùng với tấm thiệp cưới là mảnh giấy nhỏ với dòng chữ “Eun Shu thân mến! Chúng ta đã thật sự như người nhà đúng không nào? Với em thì anh tin rằng em sẽ thực lòng chúc mừng cho anh. Chúc em mạnh khỏe”. Kiểu viết gà bới vẫn không hề thay đổi. Tôi, sau khi lần lượt xé nhỏ tấm thiệp cưới và mảnh giấy vứt vào thùng rác bèn mở máy điện thoại, vào menu dịch vụ báo ngày kỉ niệm, nhập ngày cưới của anh ta vào với suy nghĩ đến ngày đó, sau khi hướng về phía Nam chắp tay thành tâm vái, tôi sẽ ném một bông hoa cúc xuống sàn và dẫm nát nó bằng gót giày cao gót. Điện thoại báo cho tôi biết ngày này, giờ chỉ cần bùng lên cơn phẫn nộ đã kìm nén bấy lâu nay là được! Nhưng thật lạ! Máu không trào ngược lên, ngực không hồi hộp và tim cũng chẳng đập thình thình. Cũng không hề cảm giác bị phản bội, ghen tuông hay thương hại mình nữa. Chỉ thấy bụng đói dã man vào giữa trưa như bao nhiêu ngày khác. Tôi gọi một tô mì Jajangmyeon lớn và vét sạch sành sanh. Ăn xong chỉ ợ lên một tiếng vì no chứ không hề cảm thấy một tí tình cảm mãnh liệt nào. Thay cho ly cocktail của resort bên bờ Nam Thái Bình Dương là ly cà phê Mocha giá 3.800 won trong quán Starbucks. Trong lúc cầm ly cà phê và quay trở lại văn phòng, đầu tôi mông lung với suy nghĩ lạ lùng. Tôi đã yêu anh ta. Anh ta cũng đã yêu tôi. Chắc chắn là như vậy. Tôi đã nghĩ như vậy. Nhưng tại sao tôi lại không hề có cảm giác gì nhỉ? Hay tại máu tôi đã trở nên nguội ngắt rồi? Và sau này sẽ dần dần trở nên lạnh giá? Đột nhiên tôi cảm thấy sợ. Cứ như thế này, biết đâu lại già đi và đông cứng như cá đông lạnh để trong tủ đông. Có nghĩa là trở thành một con người vô cảm mãi mãi. Ngụm cà phê Mocha, mặc dù đã đổ đầy siro sao vẫn đắng ngắt trong miệng. Điều này không phải là vì kí ức còn lại với người yêu cũ. Nghĩ tới tương lai u ám, mờ đục giống như mắt cá đông lạnh khiến sống mũi tôi cay xè. Tôi nhìn đồng hồ. Chỉ còn hai tiếng nữa, tôi sẽ phải thực hiện một bài thuyết trình vô cùng quan trọng. Nếu để cho mascara nhòe đi sẽ thật nguy hiểm. Thay vì đóng cửa toilet lại để nức nở, tôi xì mũi một cái thật mạnh. Vào ngày cưới của người yêu cũ, tôi đã không nhỏ một giọt nước mắt. Chỉ thấy rằng mình đã trở thành người lớn. Sau khi lau sạch mũi, vừa bước vào văn phòng đã nghe văng vẳng tiếng ông Hwang trưởng phòng: — Các cô cũng chuẩn bị nhanh lên, trang điểm lại đi. — Sao ạ? Hai cô bé sinh viên mới vào thực tập cách đây mấy ngày, mắt tròn mắt dẹt. — Các cô cũng cùng tới công ty khách hàng luôn. Khi thuyết trình mà bối cảnh nhạt nhẽo quá cũng không được. Thêm các cô cho có không khí chứ, chỉ có mấy cái mặt nặng trình trịch của tôi và cô Eun Shu kia thì hỏng việc. Có thêm mấy khuôn mặt trắng trẻo như của các cô đây cho người ta ngắm cũng sẽ đỡ buồn hơn. Mời các bạn đón đọc Seoul Ngọt Ngào của tác giả Jung Yi Hyun.
Ngày 210 - Natsume Soseki
"Ngày 210" được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1096 tại Nhật Bản. Một cuốn sách nhỏ, dày chưa đến 100 trang, nhưng lại chứa đựng trong đó sức nặng ghê gớm. Tiểu thuyết thể nghiệm một lối kể chuyện qua hình thức đối đáp kéo dài giữa hai chàng thanh niên khác nhau về tính cách là Kei và Roku khi họ cố sức leo lên đỉnh Aso đang rền rĩ như muốn bùng nổ phun trào dung nham. Và họ phải đối mặt với ngày 210, theo âm lịch là ngày bão tố. Những trường đoạn đối đáp của họ không chỉ thể hiện không khí căng thẳng khốc liệt của thiên nhiên vào ngày núi lửa và bão tố hoành hành mà còn cho thấy những xung đột xã hội gay gắt âm u. Hành trình leo núi đầy ám ảnh của họ liệu có thành không, tác giả để mở cho trí tưởng tượng của người đọc. Tiểu thuyết còn là một phối hợp thú vị giữa thể nhật ký văn chương rất Nhật có truyền thống lâu đời và thể tự truyện pha hư cấu của phương Tây. Tác phẩm dựa trên một hành trình thật sự của Soseki đến Kyushu năm 1899 cùng với người bạn thân là Yamakawa Shinjiro. Hai người gặp bão tố ngày 210 khi thực hiện cuộc leo lên đỉnh Aso. Núi lửa phun trào, văn hóa cũ suy tàn, bão tố ập về… Và những người trẻ tuổi vẫn đi lên với những bước chân đầy trầm tư, khát vọng. Soseki vốn được xem là “một con tắc kè hoa” trong văn hóa, tức là luôn luôn biến đổi chứ không bao giờ chịu đóng khung mình trong những hình thức lặp lại. Người mới đọc Soseki hẳn sẽ có chút ngỡ ngàng nếu biết rằng một Gối đầu lên cỏ mong manh đẹp đẽ như hư ảo, và một Tôi là con mèo sắc sảo, hài hước, giễu nhại lại đều do một Soseki tạo nên. Ngày 210 có lẽ là cuốn sách thể hiện sự đổi mới quyết liệt nhất trong suốt thời gian sáng tác của Soseki. Với lối viết thể nghiệm mới, khi sáng tác cả một tiểu thuyết chỉ bằng những trường đoạn đối thoại dài liên tục, Soseki không những tạo được sự mới mẻ, mà còn đề cập được rất nhiều vấn đề sâu sắc về con người, thời cuộc của xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ. Kết thúc cuốn sách, người đọc không hề biết rằng Kei và Roku rốt cuộc có tiếp tục đi đến đỉnh của ngọn núi lửa Aso ấy không. Chỉ có một cõi bụi mù thẫm sương mở ra trước mắt. Ấy cũng là một cái kết rộng mở như dư âm đọng lại trong những bài thơ haiku rất ngắn trong văn học Nhật. Mời các bạn đón đọc Ngày 210 của tác giả Natsume Soseki.