Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đàm Phán Theo Phong Cách Trump
Cuốn sách Đàm Phán Theo Phong Cách Trump có đầy đủ các nguyên lý, nguyên tắc, mẹo và chiến thuật có thể áp dụng vào các cuộc thương lượng của riêng bạn trong công việc và đời thường... Tác giả nêu ra các chiến lược áp dụng cho các cuộc đàm phán phức tạp nhất để Donald Trump và các nhà tài phiệt bất động sản ở New York sử dụng.Bạn sẽ học được cách phát huy uy thế, hạn chế yếu điểm và tư duy một cách chiến lược để đạt được kết quả cao mà hai bên mong muốn. *** Cuốn sách “Đàm phán theo phong cách Trump - những chiến lược và chiến thuật hiệu quả nhằm đoạt được mọi hợp đồng” giới thiệu các chiến lược áp dụng cho các cuộc đàm phán phức tạp nhất. Với cách viết dễ đọc, theo kiểu kể chuyện, cuốn sách trao cho bạn 8 bí quyết thương lượng thành công. Bạn sẽ học được cách phát huy uy thế, hạn chế yếu điểm và tư duy một cách chiến lược để đạt được kết quả cao mà hai bên mong muốn. Bạn sẽ nắm được các chiến thuật để sử dụng đối với những người khó thương lượng, kiên định lập trường khi cần thiết, cách thương lượng qua điện thoại và email, sử dụng các giao ước không ràng buộc trong đàm phán. Và hơn hết, bạn sẽ nhận ra quan hệ có vai trò chủ đạo như thế nào trong bất kể giao dịch nào và thường quyết định sự thành bại của giao dịch đó. Nội dung cuốn sách chứa đựng tương đối đầy đủ các nguyên lý, nguyên tắc, mẹo và chiến thuật có thể áp dụng vào những cuộc thương lượng của riêng bạn trong công việc và trong đời thường. Cuốn sách dành cho tất cả những ai muốn tiến hành đàm phán một cách giống như người đã được thực tế chứng minh là thành công. Mời các bạn đón đọc Đàm Phán Theo Phong Cách Trump của tác giả George H. Ross.
Bí Quyết Thành Công Trong Hùng Biện Đàm Phán Và Thuyết Trình
Tài hùng biện là con đường rất tốt để những nhà kinh doanh thông minh thành công. Nói đúng ra là nếu bạn không có tài hùng biện thì tuyệt đối không thể mở được cánh của kinh doanh thành công. Một khi có tài hùng biện, đàm phán giỏi giang thì bạn sẽ kinh doanh như cá gặp nước, biến làm ăn nhỏ thành làm ăn lớn. Thương trường cạnh tranh khốc liệt nên nhà kinh doanh không thể thiếu được năng lực thể hiện xuất sắc. Nếu có người lấy hết mọi thứ giàu có của bạn và chỉ chừa lại một thứ để bạn lựa chọn thì tôi nghĩ rằng bạn sẽ chọn tài hùng biện. Vì với tài hùng biện ấy thì không lâu sau bạn sẽ có mọi sự giàu có. Nếu bạn là một nhà kinh doanh tài giỏi thì lẽ nào bạn không muốn có những lời hay ý đẹp, thông minh, lôi cuốn lòng người khi bàn luận? Lẽ nào bạn không muốn thuyết phục khách hàng có hiệu quả, mở rộng thành tích tiêu thụ như là nâng cao thu nhập của bạn? Lẽ nào bạn không muốn nâng cao trình độ lãnh đạo của mình, hoàn thiện mối quan hệ giao tiếp của mình? Lẽ nào bạn không muốn nổi bật xuất sắc, vượt qua cả đối thủ? Cho dù là trong cuộc họp hay là qua điện thoại, thậm chí là trong cuộc sống hàng ngày và trước mặt mọi người làm thế nào để có ảnh hưởng lớn và để lại ấn tượng sâu sắc đối với mọi người. Ai cũng muốn mình là một người mạnh mẽ, tự tin, tràn đầy sức sống và biết thuyết phục mọi người. Làm thế nào để bạn có thể sử dụng được mọi sức mạnh của mình? Có hai cách: Nhận thức được tính quan trọng của tài hùng biện, đồng thời nâng cao được năng lực ăn nói của bản thân. Vì vậy, có thể nói là tài hùng biện là vốn thành công của mọi người! Hiện nay, kinh doanh ngày càng cạnh tranh khốc liệt hơn, là một thương nhân, một mặt cần phải "luyện chiêu" ăn nói, mặt khác cần phải quản lý nội bộ. Tất cả những điều này đều được quyết định bởi khả năng ăn nói của bạn. Quan niệm khi kinh doanh của Mỹ là "Khả năng hùng biện trong kinh doanh trực tiếp dẫn đến thành công hay thất bại, có thể nói là tỷ lệ đạt đến 85%. Vì vậy, bàn chuyện kinh doanh với đối thủ bằng tài hùng biện "sắc bén" đã trở thành một tố chất kinh doanh của những nhà kinh doanh cần phải tăng cường rèn luyện". Có thể thấy rằng muốn thành công thì không thể thiếu được tài hùng biện. Chỉ khi có được vốn tài hùng biện thì bạn mới có thể ung dung kinh doanh trên thị trường khốc liệt, nhân viên chấp hành tốt mệnh lệnh được của bạn, khiến cho mệnh lệnh của bạn được tiến hành thuận lợi và xuất sắc. Trong nền kinh tế thị trường thì cần phải sống trong hòa bình với khách hàng, cần phải chiếm được phần lớn thị trường kinh doanh. Chỉ cần bạn làm được từng khâu này thì bạn mới có thể nói đến chuyện làm ăn lớn. Cuốn sách này giúp các bạn biết được cần phải nói gì ở cuộc họp, qua điện thoại... Bạn cũng có thể coi cuốn sách hướng dẫn ăn nói và diễn thuyết. Sách cũng có thể đề cập đến một số vấn đề mà dường như mỗi người chúng ta đều gặp phải trong xã hội hiện đại: Làm thế nào mới có thể tăng cường được tài hùng biện của mình cũng như là nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hóa và tăng thu nhập?... Nếu bạn muốn trở thành một nhà kinh doanh ăn nói giỏi giang, đứng vững trên thị trường cạnh tranh mạnh mẽ thì bạn cần phải có tài hùng biện trong kinh doanh hơn người! *** Có người đùa rằng: “Tiền của khách hàng chính là lá phiếu lựa chọn ra nhân viên bán hàng tốt nhất. Bạn kiếm được càng nhiều tiền thì tức là bạn càng giỏi”. Tuy nhiên, lấy tiền từ túi của người ta thì luôn làm cho người ta có cảm giác buốt ruột. Do vậy, nhân viên bán hàng xuất sắc luôn biết áp dụng chiến thuật tâm lý để khiến khách hàng vui vẻ tình nguyện móc hầu bao ra. Ví dụ, một đoàn khách du lịch nước ngoài ghé thăm một cửa hàng. Nhân viên của cửa hàng đã đem hết các túi da sang trọng, đắt nhất để mời chào, nhưng làm như vậy lại khiến cho khách hàng có cảm giác là mình đang bị ép phải mua. Nhân viên bán hàng càng nhiệt tình thì càng làm cho khách hàng thấy ác cảm. Những nhân viên bán hàng kiểu này luôn khiến cho khách hàng có ấn tượng xấu và chắc chắn là lần sau khách hàng sẽ không quay lại mua hàng. Do đó, cách làm này của nhân viên bán hàng đã gây ra hậu quả hoàn toàn ngược với ý muốn. Lúc này, nhân viên bán hàng và khách hàng nói chuyện với nhau cần phải tránh xa chủ đề bán túi xách. Hai bên nên nói về những chuyện liên quan đến du lịch, như đến khu du lịch chơi bao lâu? Nghỉ ở đâu? Thăm những điểm du lịch nào? Cần phải cố gắng tập trung đến câu chuyện thú vị về du lịch. Bạn có thể hỏi khách hàng là: Anh đi lúc nào? Đi bằng gì đến đây? Anh định leo núi…à? Nơi đó có nhiều đặc sản địa phương lắm vì tôi đã đi rồi. Cảnh ở đó rất đẹp, đến rồi lại muốn đến lần nữa…” Những câu nói này sẽ khiến cho hai bên nói chuyện thoải mái và nói mãi không dứt. Đó đều là những câu chuyện thú vị liên quan đến du lịch, chủ đề nhân viên gợi sự chú ý của khách hàng, còn khách hàng cũng sẽ cảm thấy vui vẻ và hưng phấn vì được nói chuyện với nhân viên bán hàng. Nhân viên bán hàng và khách hàng nói chuyện với nhau như vậy thì sẽ đạt được mục đích bán hàng của nhân viên bán hàng. Ai lại không buồn để ý đến hàng hóa của nhân viên bán hàng dễ thương, nhiệt tình cơ chứ? Nhân viên bán hàng này sẽ biết cách nói: “ở lại hai đêm thì chiếc va li da này rất hợp với anh (chị)! Có đựng thêm vài món đồ trong va li này thì cũng không sợ nặng đâu”… Kèm theo những lời khuyên ấy là chiếc túi xách và va li cùng món quà nho nhỏ sẽ được bán ra thuận lợi, bạn cũng có thể giới thiệu thêm về hộp đựng đồ mỹ phẩm, những đồ dùng cá nhân… Nói cách khác là bạn sẽ bán được những món hàng có liên quan. Với cách làm này thì các vị Giám đốc cần cho các nhân viên bán hàng biết được khái niệm phục vụ tuyệt diệu là gì. Bạn muốn bán hàng thật nhanh thì càng không thể nói chuyện gì nhiều, thậm chí còn khiến cho khách hàng thấy ác cảm. Cứ như vậy thì những lời nói của nhân viên bán hàng sẽ khiến cho khách hàng thấy không tin tưởng. Do đó, đối với những thứ mà khách hàng không muốn thì xin đừng có mời họ mua. II. HÃY GIỮ LỜI HỨA VỚI MỖI CÂU NÓI CỦA MÌNH Bạn không nên tùy tiện hứa này hứa nọ, đã hứa thì phải biết giữ lời. Bạn cần phải cho mọi người biết bạn là người biết giữ lời hứa, như vậy thì mới bán được hàng hóa và phục vụ mới tốt được. Giữ lời hứa là một đức tính tốt đẹp, có một số người thường tùy tiện hứa lung tung, nhưng rất ít khi giữ lời hứa. Do đó, đã để lại ấn tượng xấu trong lòng người khác. Nếu bạn đã nói là mình muốn làm việc gì đó thì bạn cần phải làm được nếu bạn làm không được, thấy rằng được không bằng mất, hoặc là bạn không muốn làm thì đừng có nhận lời người khác. Bạn có thể tìm một cái cớ nào đó để từ chối nhưng tuyệt đối đừng có nói: “Tôi thử xem sao!”. Nếu bạn nói thử xem sao mà không làm được thì đối phương sẽ nghĩ là bạn đã thử làm nhưng thất bại. Chữ tín của bạn sẽ để lại ấn tượng tốt đối với khách hàng, bạn có phải là người biết giữ chữ tín hay không? Bạn có phải là người là người hay hứa hão hay không? Bạn có phải là người đáng để mọi người gửi gắm trách nhiệm hay không? Hay là bạn là người thường xuyên quên đi những việc người khác nhờ vả? Bạn đã truyền đạt sai thông tin bao nhiêu lần khi khách hàng muốn tìm hiểu về tình hình sản phẩm của Công ty? Bạn đã cung cấp bao nhiêu tài liệu không trung thực cho khách hàng khi họ muốn tìm hiểu về hàng mẫu hoặc là tài liệu tuyên truyền liên quan đến sản phẩm? Phải giữ lời hứa với cuộc hẹn, nghe sao mà đơn giản thế, nhưng làm thì vô cùng khó khăn. Bạn chỉ cần sao lãng chút thôi thì có thể sẽ không thể đến hẹn được. Nhiều khi bạn cho rằng người ta có thể không cần đến sự phục vụ của bạn, nếu để cho người ta biết được cách suy nghĩ tự an ủi này của bạn thì người ta sẽ cho rằng bạn là một kẻ lười nhác. Bạn có thể cũng có tâm lý gặp may, cho rằng khách hàng sẽ tha thứ cho mình, nhưng người ta sẽ nhìn ngay ra tâm lý lười biếng của bạn. Do đó, khi phục vụ bạn đừng có dễ dàng hứa hẹn, đã hứa rồi thì nhất định phải giữ lời. Như vậy khách hàng sẽ xúc động vì thái độ của bạn, họ sẽ cho rằng bạn là người biết giữ lời hứa, từ đó sẽ tin tưởng và dựa dẫm vào bạn. Đó cũng là một nguyên nhân khiến bạn chiến thắng tất cả trong cuộc sống. Cho dù trong cuộc sống hay trong công việc mà bạn càng trọng chữ tín thì bạn càng thúc đẩy nhanh thành công của mình. Bạn giữ lời hứa với càng nhiều khách hàng thì bạn sẽ càng làm tốt việc phục vụ, bán hàng của mình. Do vậy, bạn cần phải biết coi trọng từng câu nói của mình. Cuộc sống chỉ quan tâm tới những người nói lời phải biết giữ lời. Nuốt lời là một tật xấu. Nếu có tật xấu này bạn cần phải thay đổi khuyết điểm này của mình, như vậy bạn sẽ giới thiệu thành công mình đấy. Cho dù bạn bán mặt hàng nào, bán hàng theo cách nào, nhưng bạn luôn có trách nhiệm với mỗi lời mình nói, bạn thuyết phục khách hàng bằng chính hành động của mình, khiến cho họ tận mắt chứng kiến những gì bạn làm đều là vì lợi ích của họ. Để giữ lời hứa bạn có thể vứt bỏ những cái khác, luôn tạo cho mọi người thấy mình là một người rất đáng tin cậy. Bạn bán hàng phục vụ hay sản phẩm cần phải tuân thủ theo đức tính tốt đẹp này. Nếu trước kia bạn chưa làm như vậy thì xin đề nghị hãy bắt đầu ngay từ bây giờ, có lẽ bạn sẽ làm tốt hơn trước rất nhiều. Bán hàng cần phải, có biện pháp tuyên truyền và quảng cáo thành công, nhưng có thể làm khách hàng rung động, được khách hàng yêu thích nhất vẫn là thái độ phục vụ và phục vụ hậu mãi tin cậy, giữ chữ tín của bạn. III. HÃY GỌI ĐÚNG TÊN KHÁCH HÀNG “Hành vi của con người có một nguyên tắc vô cùng quan trọng, nếu như chúng ta tuân thủ theo đúng nguyên tắc này thì sẽ không gặp phải bất cứ rắc rối nào. Hơn nữa qua đó bạn còn có được tình bạn và niềm vui. Nguyên tắc vĩnh cửu này là: lúc nào cũng phải khiến cho người khác cảm thấy họ vô cùng quan trọng”. Có nhà tâm lý học đã nói, với những người bán hàng thì điều quan trọng là làm thế nào để người khác cảm thấy mình được tôn trọng. Ghi nhớ tên khách hàng Gọi đúng tên khách hàng là thứ âm thanh vui tai nhất trên thế giới này đối với họ. Tên là một bộ phận quan trọng của thân phận con người cũng như là tự trọng. Bản năng con người cho chúng ta biết: Người nhớ tên tôi nhất định là người tôn trọng tôi. Do đó, cách làm đơn giản nhất để cởi mở tấm lòng, quan hệ tốt với khách hàng đơn giản nhất là hãy ghi nhớ tên của họ. Mỗi khi ta tiếp xúc với khách hàng mới hoặc khách quen thì bạn cần phải tìm cách biết được tên họ, cần phải biết đúng họ tên chính xác. Như vậy họ sẽ vô cùng vui sướng. Khi nói chuyện có cơ hội thì bạn cần phải đề cập tên họ, chức vụ của người ta nhằm nhấn mạnh sự quan tâm, tôn trọng của bạn đối với người ta. Fale, người mới chỉ học hết tiểu học, trước năm 46 tuổi đã trở thành Chủ tịch Đảng Dân chủ, đồng thời đã giúp đỡ Roosevelt giành được chiếc ghế Tổng thống Mỹ. Vậy bí quyết thành công của ông là gì? “Tôi có thể nhớ được tên của 50.000 người”. Mỗi khi gặp được một người không quen biết, ông đều hỏi thăm tên tuổi, số người trong gia đình, nghề nghiệp và khuynh hướng chính trị của người đó rồi ghi nhớ lại. Lần sau nếu có gặp lại người đó, cho dù là một năm sau, ông đều có thể vỗ vai thân mật, hỏi thăm về vợ con anh ta, hỏi thăm về khu vườn sau nhà của anh ta. Chẳng trách mọi người ai cũng muốn đi theo ông! Có một cô họ Lí mới được giao phụ trách nghiệp vụ tại một khu vực. Cô đi đến thăm một khách hàng tiềm năng. Bước vào văn phòng của công ty A, cô tìm đến văn phòng của Tổng giám đốc. Cô tự tin đi về phía cô thư ký, chìa tay ra nói: “Chào cô, tôi tên là Lí x x, cô là...”. Cô thư ký không thể không chìa tay ra nói: “Tôi họ Trương, Trương x x, tôi có thể giúp gì được cho cô? “Như vậy, cô Lí đã khéo léo biết được tên đối phương, đồng thời trong quá trình đối thoại luôn nhắc đến tên đối phương, khiến cô Trương cảm thấy mình được tôn trọng. Vậy thì việc nhờ cô thông báo để xin gặp mặt ông Tổng giám đốc chẳng còn là việc gì khó khăn. Người nhân viên bán hàng muốn thiết lập được mối quan hệ tốt với người dân thì phải nhớ rằng: Trọng điểm chính là tên của đối phương! Mời các bạn đón đọc Bí Quyết Thành Công Trong Hùng Biện Đàm Phán Và Thuyết Trình của tác giả Nguyễn Gia Linh & Hoài Thu.
Tử Huyệt Cảm Xúc (Sức Mạnh Thôi Miên Của Lời Nói)
Hiểu được chính mình không phải dễ, và phát hiện ra điểm mạnh cũng như điểm yếu của bản thân là cả quá trình sống, tồn tại, học hỏi và trải nghiệm. Lý trí và cảm xúc quyết định suy nghĩ và hành động. Có người sống theo lý trí, có người sống thiên về cảm xúc nội tâm, nhưng phần lớn thì đều bị cảm xúc chi phối, muốn sống theo lý trí thì phải biết làm chủ cảm xúc. Và ít người làm được điều này! Á thần Achilles trong thần thoại Hy Lạp là một vị anh hùng bách chiến bách thắng, có một thân hình thép, tưởng chứng như không thể bị đánh bại, nhưng trong cuộc chiến thành Troy lại chết tức tưởi bởi một mũi tên bắn trúng vào gót chân. Từ đó, khi nói đến điểm yếu hay tử huyệt của con người, người ta thường ví với “Gót chân Achilles”. Cảm xúc là một yếu tố vô hình, nhưng nó chi phối mọi suy nghĩ cũng như hành động của con người, mọi hỷ nộ ái ố của bản thân cũng đều bị cảm xúc dẫn dắt. Thế giới cả tỷ người, cả tỷ khuôn mặt với hàng vạn cảm xúc phía sau cả tỷ khuôn mặt đó. Cảm xúc rất khó nắm bắt, tuy không có công thức chung cho việc hiểu rõ và nắm bắt cảm xúc của con người, đi đường thẳng không được thì mình đi đường vòng, có khi còn khám phá ra những con đường tắt có thể dẫn đến nơi mình muốn. Và, Tử huyệt cảm xúc chính là con đường để tiến đến gần hơn với cảm xúc con người, để thôi miên nó như một thứ ma thuật kỳ bí. Điều mà các nhà khoa học không thể giải thích được. Nếu nắm bắt được Tử huyệt cảm xúc của bản thân, ta sẽ nắm bắt được Tử huyệt cảm xúc của người khác. Tử huyệt cảm xúc sẽ giúp ta có được tiền bạc, tình yêu cho đến sức khỏe và danh tiếng. Nhưng cũng chính Tử huyệt cảm xúc sẽ đẩy ta xuống đáy của vực thẳm bi kịch giống như Achilles vậy. Tất cả các khía cạnh của cuộc sống đều bị chi phối bởi cảm xúc, từ các mối quan hệ giữa những thành viên trong gia đình, giữa nhân viên với sếp, giữa khách hàng và người bán sản phẩm, giữa kẻ thù với nhau, giữa nhà văn và độc giả của anh ta… Các mối quan hệ này đều gắn kết với nhau bởi cảm xúc. Cảm xúc giống như một cái nhân, cái ruột của mỗi con người. Cho dù có vẻ ngoài hay vỏ bọc hoàn hảo đến đâu, nhưng cái ruột rỗng thì coi như sự tồn tại là vô nghĩa. Ta chỉ tồn tại chứ không phải sống. Tử huyệt cảm xúc giống như một chiếc chìa khóa giải mã sự phức tạp của cảm xúc, nó không phải là một dạng thuật kỳ bí nào cả, mà là sự nghiên cứu về sự giao tiếp giữa con người với người, về ngành nhân học trong suốt 17 năm của tác giả Mỹ Roy Garn. 15 chương của cuốn sách là 15 chiếc chìa khóa đưa chúng ta giải mã sự bí ẩn của cảm xúc và sức mạnh của lời nói trong việc chi phối cảm xúc của con người như thế nào. Chẳng hạn hư vầy nhé, khi muốn ai đó làm gì cho bạn, thay vì bảo họ làm điều đó, bạn hãy hỏi ý họ về điều đó. Ví dụ, thay vì: “Đưa tôi cây bút đó!” thì sử dụng lời nói ít gây khó chịu hơn như: “Tôi dùng cây bút của bạn được không?”. Đây chỉ là một ví dụ nhỏ trong hàng trăm dẫn chứng được trình bày. Các hành động của con người với hành vi và lời nói của nhau chung quy đều là những phản ứng của cảm xúc. Chỉ là chúng ta có điều khiển được nó theo lý trí hay không. Đọc Tử huyệt cảm xúc, để có một chiếc chìa khóa mở ra con đường hiểu hơn về bản thân, về tử huyệt cảm xúc của chính mình, để thành công hơn và để biết mình sống chứ không phải chỉ đang tồn tại. CHƯƠNG 1.  Thôi Miên Cảm Xúc – Bí Mật của mọi mối quan hệ thành công CHƯƠNG 2. Thuật Thôi Miên Cảm Xúc – Mẫu thức Chung và Duy Nhất của mọi cuộc giao tiếp thành công CHƯƠNG 3.  Chân dung các Tử Huyệt Cảm Xúc – Bộ Tứ khiến cho cả thế giới phải Lắng Nghe Bạn CHƯƠNG 4. Vận dụng Tử Huyệt Bản Thân trong Thuật Thôi Miên Cảm Xúc CHƯƠNG 5. Vận dụng Tử Huyệt Tiền Bạc trong các mối quan hệ CHƯƠNG 6.  Vận dụng Tử Huyệt Tình Yêu để đối nhân xử thế hiệu quả CHƯƠNG 7.  Vận dụng Tử Huyệt Danh Tiếng để gặt hái thành công CHƯƠNG 8.  Tống khứ mọi nỗi lo lắng, sợ hãi và muộn phiền của bạn bằng Thuật Thôi Miên Cảm Xúc CHƯƠNG 9.  Làm Chủ mọi tình huống giao tiếp bằng nghệ thuật đặt câu hỏi Thôi Miên Cảm Xúc CHƯƠNG 10. Chiến Thắng các cuộc tranh cãi và Hòa Giải mọi cuộc đấu khẩu bằng Thuật Thôi Miên Cảm Xúc CHƯƠNG 11. Bí Kíp để Bạn được cả thế giới Yêu Mến, Tôn Trọng và Nhớ Mặt Thuộc Tên chỉ nhờ Thôi Miên Cảm Xúc CHƯƠNG 12. Hạnh Phúc trong Hôn Nhân nhờ Thuật Thôi Miên Cảm Xúc CHƯƠNG 13. Sức Mạnh của Thuật Thôi Miên Cảm Xúc trong công sở và sự nghiệp CHƯƠNG 14.  Thôi Miên Cảm Xúc bằng Giọng Nói CHƯƠNG 15. Hoàn thiện Tính Cách và Khả Năng Thuyết Phục của Bạn bằng Thuật Thôi Miên Cảm Xúc *** Chuyện tồi tệ gì sẽ xảy ra nếu người khác biết được"Gót chân Achilles" của BẠN? Quyển sách này sẽ cho bạn câu trả lời - mà bạn sẽ nhớ cả đời! Tôi đang nói đến nhân vật được chọn làm hình bìa cho quyển sách này: người anh hùng Achilles trong thần thoại Hy Lạp. Đây là một cuốn sách viết về Tử Huyệt Cảm Xúc - những "điểm yếu chết người" trong tính cách của mỗi chúng ta. Tử Huyệt Cảm Xúc có thể giúp chúng ta đạt được hạnh phúc và thành công tột đỉnh, nhưng cũng có thể khiến chúng ta... rơi vào bi kịch như Achilles! Trong thần thoại, Achilles là một á thần mình đồng da sắt vì từ nhỏ, anh được mẹ mình - nữ thần sông Thetis - dốc toàn bộ cơ thể anh nhúng vào nước thánh. Do bà mẹ cầm chân đứa con nhúng xuống nước, nên gót chân là bộ phận duy nhất của Achilles không được bảo vệ. Ngoài gót chân ra, không một loại vũ khí hay hỏa công nào có thể làm tổn thương được cơ thể của Achilles. Anh là một chiến binh võ nghệ cao cường, bách chiến bách thắng và chưa bao giờ nếm mùi thất bại. Vậy mà cuối cùng, người chiến binh dũng mãnh này chết tức tưởi chỉ vì một mũi tên bắn trúng ngay gót chân của mình trong cuộc chiến thành Troy đã được sử sách ghi lại. Câu chuyện về Achilles được lưu truyền và nổi tiếng đến nỗi cụm từ "Gót chân Achilles" trở thành một thành ngữ thông dụng với ý chỉ điểm yếu hoặc tử huyệt của con người.Chỉ vì gót chân tử huyệt của mình, Achilles mất mạng. Tương tự, một cô nàng xinh đẹp đang ngất ngây trong hạnh phúc bỗng dưng đánh mất người bạn trai quen nhiều năm của mình ngay trong lễ đính hôn chỉ vì một kẻ thứ ba xông vào "bắn trúng" Tử Huyệt Cảm Xúc của anh ta, khiến chàng trai ngay lập tức bỏ cô và chạy theo tiếng gọi của tình yêu mới. Nếu chúng ta không nhận biết và kiểm soát được Tử Huyệt Cảm Xúc của bản thân mình, chúng ta có thể đánh mất nhiều quyền lợi, cơ hội thành công, thậm chí là hạnh phúc cả cuộc đời, tất tần tật những điều tốt đẹp nhất mình đang có... chỉ trong phút chốc!TỬ HUYỆT CẢM XÚC - Ma thuật Thôi Miên Bất Kỳ Ai chỉ bằng Lời Nói - nhà sách trực tuyến Sức Mạnh Ngòi Bút. Trái lại, nếu bạn nhận diện và làm chủ đượcTử Huyệt Cảm Xúc của bản thân, bạn cũng sẽ dễ dàng nắm bắt và điều khiển được Tử Huyệt Cảm Xúc của người khác,à khi đó, bạn sẽ có thể đạt được mọi điều mình muốn trong cuộc sống,Tử tiền bạc, tình yêu, cho đến sức khỏe và danh tiếng! Như kẻ thứ ba trong câu chuyện kể trên, nhờ nắm bắt được Tử Huyệt Cảm Xúc của chàng trai mà cô dễ dàng khiến cho anh ta làm điều cô muốn ngay lập tức: bỏ vợ sắp cưới và đi theo cô! Bạn sẽ tìm thấy toàn bộ nội dung câu chuyện trong Chương Sáu của cuốn sách này.Nhờ tác động được đúng Tử Huyệt Cảm Xúc của nhà sáng lập công ty trong cuộc phỏng vấn tuyển dụng, anh chàng nọ một bước trở thành Trợ lý Tổng Giám Đốc cho một tập đoàn danh tiếng. Câu chuyện này được trình bày trong Chương Ba của cuốn sách. Chỉ nhờ nói trúng được Tử Huyệt Cảm Xúc của "vua thép" Andrew Carnegie, mà Charles M. Schwab đã thuyết phục thành công vị đại gia này đồng ý thực hiện bản hợp đồng sáp nhập các công ty thép trị giá 600 triệu đô-la vào năm 1901. Đây là thương vụ kinh doanh có giá trị lớn nhất nước Mỹ thời bấy giờ. Tử Huyệt Cảm Xúc của bạn là gì? Làm sao mà nó có quyền năng vô song đến như thế? Và làm thế nào để bạn biến nó trở thành một thứ vũ khi lợi hại, giúp bạn đạt được hạnh phúc và mọi thành công mình mong muốn trong cuộc sống? Mọi câu trả lời bạn cần đều có trong cuốn sách "Tử Huyệt Cảm Xúc - Nghệ thuật Thôi Miên Bất Kỳ Ai chỉ bằng Lời Nói" này. Hãy đọc quyển sách ngay bây giờ, và tôi tin chắc rằng, bạn sẽ ngộ ra con đường thành công cho chính mình sau khi đọc nó! Phan Nguyễn Khánh Đan Gửi đến Plum và Elsa...và hàng nghìn người đã lĩnh hội được Thuật Thôi Miên Cảm Xúc...cũng như hàng triệu người đang rất cần đến nó. Mời các bạn đón đọc Tử Huyệt Cảm Xúc (Sức Mạnh Thôi Miên Của Lời Nói) của tác giả Roy Garn.
Đánh Thức Con Người Phi Thường Trong Bạn
Đánh thức con người phi thường trong bạn” là cuốn sách giúp người đọc khám phá giá trị tiềm ẩn của bản thân để tạo nên những kết quả chính mình không ngờ đến. Cuốn sách được viết bởi Athony Robbins – một nhân chứng sống, một ngưỡi đã tìm được sự phi thường trong chính con người mình. Tác giả của cuốn sách, Anthony Robbins từng là một đứa trẻ sống trong cảnh cô đơn vì bố mẹ ông ly dị từ sớm, mẹ ông tái hôn 2 lần. Năm 1994, Anthony Robbins phát hiện mình có một khối u ở tuyến yên, điều đó khiến tay chân ông phát triển không bình thường. Tuy vậy, ở độ tuổi 24 Anthony Robbins đã là triệu phú, sự nghiệp của ông cũng ghi đầy dấu tích khi ông là một doanh nhân thành đạt, sáng lập, điều hành 9 công ty và là một trong những tác giả có sách bán chạy nhất toàn cầu. Ông từng cố vấn cho các chuyên viên quản trị của IBM, AT&T, American Express, McDonnell-Douglas. Đem tất cả tâm huyết và khát khao giúp người khác thay đổi, Anthony Robbins chia sẻ tất cả những gì là bí quyết thành công của mình trong cuốn sách “Đánh thức con người phi thường trong bạn”. Ông nói: “Tôi thực sự tin tưởng trong mỗi chúng ta có một con người phi thường đang say ngủ. Tôi viết quyển sách này chỉ với một nguyện vọng, mong sao nó sẽ trở thành một tiếng gọi lay tỉnh, thách thức những ai vẫn còn nhiệt tâm với cuộc sống, giúp họ khai thác nguồn sức mạnh mà tạo hóa đã ban tặng”. Để “Đánh thức con người phi thường trong bạn”, Anthony Robbins đã nghiên cứu và chia sẻ 3 nguyên tắc nền tảng tạo ra sự thay đổi bền vững. Đó là: Nâng tầm bản thân, Thay đổi niềm tin hạn hẹp về bản thân, Thay đổi chiến lược. Ông cũng chia kỹ năng cuộc sống ra làm 5 khía cạnh để người đọc có thể dễ dàng cải thiện và phát triển: Làm chủ cảm xúc, Làm chủ cơ thể, Tạo dựng và duy trì mối quan hệ, Quản lý tài chính, Làm chủ thời gian. *** Đã đến lúc bắt đầu sống cuộc đời bạn hằng mong muốn. Sau đây là những hướng dẫn ban đầu giúp bạn làm được điều đó. Anthony Robbins là bậc thầy trong lĩnh vực phát triển bản thân và nổi danh tại Mỹ nhờ sự kết hợp của năng lượng cá nhân và kỹ năng marketing. Đánh Thức Con Người Phi Thường Trong Bạn xuất bản năm 1991 và ý tưởng viết quyển sách này đến với Robbins khi ông đang ngồi trên máy bay trực thăng để đến buổi hội thảo đã cháy vé của mình. Ông nhìn xuống toà nhà mà mười năm trước ông từng làm lao công và nhớ lại anh chàng Robbins thời đó: thừa cân, không xu dính túi và cô đơn. Giờ đây, khi đã là triệu phú, có hôn nhân viên mãn và thân hình cân đối, ông nhận ra mình đang sống cuộc đời mơ ước. Robbins biết cuộc đời ông chính là cách quảng bá tốt nhất cho sản phẩm của ông. Sức mạnh của ngôn từ Lập trình Ngôn ngữ Tư duy (NLP) – nền tảng của các phương pháp mà Robbin đã áp dụng – được John Grinder và Richard Bandler khám phá ra đầu tiên và dựa trên nghiên cứu về cách ngôn ngữ, cả có lời lẫn không lời, ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Giả thuyết là chúng ta có thể kiểm soát hệ thần kinh, nên hành động của ta, dù có vẻ tự nhiên, thực chất là được lập trình. Điểm mấu chốt khác là nếu mô phỏng hành động và hành vi của người thành công, chúng ta cũng sẽ gặt hái được kết quả tương tự.   Robbins đã làm rất tốt việc cải tiến và quảng bá NLP đến công chúng. Quyển sách này khơi gợi trí tưởng tượng người đọc bằng cách đặt ra những câu hỏi và vẽ ra những khả năng trong tâm trí của họ, đồng thời đưa ra các bước thực tế để đạt mục tiêu.  Nguyên tắc nỗi đau và niềm vui Robbins xem nỗi đau và niềm vui như những động lực chủ chốt giúp định hình cuộc sống. Chúng ta có thể để nó kiểm soát mình hoặc thấu hiểu nó nhằm mang lại lợi ích cho bản thân. Việc liên kết nỗi đau hoặc niềm vui với một hoạt động hoặc suy nghĩ có thể giúp chúng ta thay đổi con người mình. Không phải sự việc mà chính niềm tin về ý nghĩa của sự việc đó mới là yếu tố định hình cuộc sống chúng ta. Cách ta nhìn nhận thế giới, một khi được thay đổi, có thể thay đổi gần như toàn bộ cuộc sống chúng ta. Mọi sự tiến bộ của loài người xảy ra thông qua việc đặt câu hỏi chất vấn giới hạn hiện tại. Câu hỏi chất lượng sẽ mang đến cho bạn câu trả lời chất lượng. Hãy sử dụng sức mạnh ngôn từ để thay đổi suy nghĩ và hành động. Hiểu rằng “các lãnh đạo thường đọc sách” và đọc sách giúp chúng ta nhận ra những khác biệt quan trọng dựa trên kinh nghiệm của người khác. Hãy xác định và viết ra thành tựu bạn muốn đạt được và vẽ nên một tương lai đẹp đẽ đến mức bạn buộc phải hiện thực hóa nó. Bạn phải tập trung vào đích đến, thay vì nỗi sợ. Hãy đưa ra quyết định và hành động, thay vì chỉ ngồi đó mơ ước. Tìm hiểu các nguyên tắc hiện tại và đặt ra những nguyên tắc mới giúp bạn sống cuộc đời mình muốn. Vượt qua nỗi hoài nghi hợp lý Thông điệp của Robbins có sức hấp dẫn to lớn vì ta đều tin rằng chúng ta có nhiều khả năng hơn người khác nghĩ. Mọi người thường bác bỏ và cho rằng ý tưởng của chúng ta vô lý và thiếu thực tế. Chúng ta được dạy rằng ta không thể làm điều trái tim mách bảo, và rồi ta xem điều đó là một thực tế. Tuy nhiên, Robbins cho rằng người thành công thật sự sẽ không chấp nhận làm người an phận.  Đánh Thức Con Người Phi Thường Trong Bạn được mệnh danh là “ca phẫu thuật thẩm mỹ cho tâm trí”, nghĩa là nếu bạn không hạnh phúc với bản thân thì hãy thay đổi. Ý tưởng đó nghe có vẻ xa vời hoặc thậm chí là khó chịu đối với một số người, nhưng cũng có thể là phao cứu sinh cho những người khác.  Đừng quên làm mới là nền tảng của văn hoá Mỹ và Đánh Thức Con Người Phi Thường Trong Bạn có lẽ không thể tồn tại ở bất kỳ nơi nào khác. Hãy xem quyển sách như một “Nữ thần Tự do” trong ngôn từ.  *** Anthony Robbins sinh năm 1960 và lớn lên ở vùng ngoại ô nghèo Los Angeles. Năm 17 tuổi, ông bị mẹ đuổi khỏi nhà vì quá “mạnh mẽ”. Là người từng đọc hơn 700 quyển sách về phát triển bản thân, ông biết đến Lập trình Ngôn ngữ Tư duy (NLP) vào năm 1983 và bắt đầu con đường quảng bá thương hiệu của mình về phương pháp này. Ông trở thành triệu phú năm 24 tuổi, sau đó bị trắng tay và cuối cùng gầy dựng lại tất cả. Robbins hiện là chuyên gia tư vấn kỹ năng hàng đầu nước Mỹ. Ông từng tư vấn cho Bill Clinton, Andre Agassi, Mikhail Gorbachev và Công nương Diana. Công ty của ông tổ chức các buổi hội thảo trên toàn thế giới và tổ chức của ông hỗ trợ người trẻ, người lớn tuổi và người vô gia cư.  Mời các bạn đón đọc Đánh Thức Con Người Phi Thường Trong Bạn của tác giả Anthony Robbins.